Read more
Osho kính yêu,
Hai thức tỉnh
Ngày xưa tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu
Châu, "Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?"
Châu nói, "Buông xuống đi."
Nghiêm Dương nói, "Vì không một vật nào được đem tới, buông cái gì xuống?"
Châu nói, "Nếu ông không thể buông nó xuống, nhặt nó lên." Với những
lời này, Nghiêm Dương đại ngộ.
Lại nữa: Một sư hỏi cổ đức, "Khi học
trò không thể đối phó được thì nó giống cái gì?" Cổ đức nói, "Ta cũng
giống điều này." Sư nói, "Thầy ơi, sao thầy cũng không thể đối phó được?"
Cổ đức nói, "Nếu ta có thể đối phó được, ta có thể lấy đi cái không có khả
năng đối phó này của ông." Với những lời này, sư đại ngộ.
Chứng ngộ của hai sư này là chính xác ở chỗ
ông bị mất đi; khi ông có hoài nghi là đích xác chỗ hai sư này hỏi câu hỏi của
họ. "Hiện tượng được sinh ra từ phân biệt và cũng tàn lụi đi qua phân biệt.
Quét sạch mọi hiện tượng phân biệt - pháp này không sinh không diệt."
Thiền là đặc biệt theo nhiều
cách so với các truyền thống khác của các nhà huyền bí. Nhưng một điều nổi bật,
rất duy nhất, là những đối thoại nhỏ, kì lạ này: chỉ đọc chúng bạn không thể thấy
được làm sao những đối thoại nhỏ đó có thể đem tới chứng ngộ cho ai đó.
Thứ hai, bản thân Thiền không
cho giải thích. Đó là một trong các lí do truyền thống chứng ngộ sống đã không
xảy ra cho toàn thế giới. Tôi muốn bạn hiểu những đối thoại nhỏ này, điều rõ
ràng không ngụ ý cái gì, nhưng trong hoàn cảnh nào đó, đã được tạo ra bởi các
phương pháp Thiền khác, có thể mang tới thức tỉnh. Các đối thoại này được ghi
nhớ suốt nhiều thế kỉ; và những người trên con đường của Thiền thích thú chúng
vô cùng. Nhưng với người ngoài chúng vẫn còn là đáng ghét, vì ngữ cảnh không
bao giờ được kể; hoàn cảnh nào mà việc thức tỉnh đã xảy ra không bao giờ được
thảo luận.
Đằng sau những đối thoại nhỏ
này có kỉ luật thiền, việc hiểu dài lâu - có thể là nhiều năm làm việc. Nhưng
chỉ đối thoại này được biết tới cho thế giới bên ngoài. Bạn không biết những
người đang thảo luận với nhau; họ không phải là người thường. Việc thức tỉnh là
có thể chỉ nếu họ có bối cảnh mà có thể làm ra mảnh đối thoại nhỏ - điều bản
thân nó không là gì cả - có tầm quan trọng mênh mông.
Nhưng khi bạn đọc chúng, bạn
không thể tin được làm sao những đối thoại này có thể làm cho ai đó chứng ngộ -
vì bạn đang đọc chúng và bạn không trở nên chứng ngộ! Cái gì đó bị thiếu trong
cảnh quan của bạn.
Nỗ lực của tôi sẽ là cho bạn
toàn thể hoàn cảnh, và để giải thích không chỉ lời của đối thoại mà còn cả các
cá nhân tham gia vào trong những đối thoại nhỏ này. Chỉ thế thì bạn sẽ thấy rằng
chúng không phải là điều nhỏ bé, chúng là chính cái tốt nhất. Những người đã đạt
tới điểm cuối cùng; những đối thoại này chỉ là cú đẩy nhỏ. Họ gần như đã sẵn
sàng... có thể nói rằng thậm chí không có những đối thoại này họ vẫn trở nên chứng
ngộ, có thể chậm hơn một tuần. Những đối thoại này đã cắt đi không nhiều hơn một
tuần từ việc được chứng ngộ của họ.
Bây giờ Thiền đã trở thành thời
thượng trên khắp thế giới, có nhiều thứ được viết ra về nó. Nhưng tôi đã không
bắt gặp bất kì ai mãi cho tới nay... và tôi đã thấy gần như mọi thứ đã được viết
về Thiền bởi những người không có chứng ngộ nào, nhưng lại bị ấn tượng bởi những
người đã từng theo Thiền. Họ đã nhặt nhạnh những thứ không tạo ra nghĩa, gần
như vô nghĩa, và họ không có năng lực để cho bạn bối cảnh.
Nhớ lấy, mọi thứ tuỳ thuộc vào
bối cảnh: nhiều năm dài chuẩn bị có đó, nhiều năm dài chờ đợi, khao khát, nhiều
năm dài của kiên nhẫn im lặng, thiền. Đối thoại này tới ở ngọn, tại chính chỗ
cuối cùng. Nếu bạn có thể hiểu toàn thể quá trình này, thế thì cách đối thoại
này có thể đem tới chứng ngộ cho ai đó sẽ được giải thích cho bạn.
Không biết toàn thể quá trình,
Thiền sẽ vẫn còn chỉ là giải trí cho thế giới. Điều là chứng ngộ với Thiền nhân
rơi xuống thành trạng thái giải trí. Những đối thoại này không phải là toàn thể
quá trình. Nó giống như núi băng trôi: một mảnh nhỏ nổi lên trên biển - một phần
mười của toàn thể núi băng - và chín phần mười là bên dưới. Chừng nào bạn chưa
hiểu chín phần mười đó, một phần mười này sẽ không cho bạn bất kì cái nhìn sâu
nào.
Ngày xưa, Đại Huệ nói, tôn giả
Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu, "Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?"
Châu nói, "Buông xuống
đi." Nghiêm Dương nói, "Vì không một vật nào được đem tới, buông cái
gì xuống?" Châu nói, "Nếu ông không thể buông nó xuống, nhặt nó
lên." Với những lời này, Nghiêm Dương đại ngộ.
Bây giờ, nếu bạn vẫn còn bị giới
hạn trong giai thoại nhỏ này, bạn không thể giải thích được làm sao nó đem tới
đại ngộ. Thứ nhất, trong hoàn cảnh của toàn thể cách tiếp cận Thiền: trong con
mắt của Phật Gautam, Bồ đề đạt ma, Đại Huệ, thế giới không là gì ngoài trống rỗng.
Và khi họ dùng từ 'trống rỗng', họ có nghĩa riêng của họ; nó không phải là
nghĩa thường mà bạn có thể tìm thấy trong từ điển.
Nếu mọi thứ bị bỏ đi khỏi phòng
của bạn - mọi đồ đạc, ảnh treo trên tường, đèn treo nhiều ngọn và mọi thứ - và
không cái gì bị bỏ lại sau, bất kì người nào cũng sẽ nói, "Căn phòng này
là trống rỗng." Đây là nghĩa bình thường của từ này. Nhưng từ cảnh quan của
Phật Gautam, căn phòng này là trống rỗng đồ vật nhưng đầy không gian. Thực ra,
khi mọi thứ có đó, chúng cản trở không gian. Chính từ 'phòng' nghĩa là không
gian. Cho nên nó được ngập tràn bây giờ bằng không gian, không cái gì cản trở,
không cái gì ngăn cản và làm chướng ngại không gian.
Không gian không phải là thứ phủ
định như từ trống rỗng ngụ ý. Mọi thứ trong thế giới đã bắt nguồn từ không gian
và mọi thứ biến mất vào trong không gian. Không gian dường như là kho chứa cho
mọi thứ có đó....
Bây giờ, các nhà khoa học nói họ
đã phát hiện ra, vài năm trước đây, lỗ đen trong không gian. Nó là câu chuyện
đáng ngạc nhiên nhất mà khoa học phải nói. Bản thân họ cảm thấy bối rối, nhưng
họ có thể làm gì được? Họ đã bắt gặp vài chỗ trong không gian... khoảnh khắc bất
kì ngôi sao nào, ngay cả ngôi sao lớn nhất, đi vào khu vực đó, bạn không còn có
thể thấy được nó: nó đã trở thành hư không thuần khiết. Sức kéo của vài chỗ này
lớn khủng khiếp đến mức bất kì cái gì tới gần chúng đều lập tức bị kéo vào
trong lỗ đen, và biến mất khỏi thế giới. Mọi ngày, nhiều ngôi sao liên tục biến
mất vào trong lỗ đen; đó là ý tưởng cơ bản.
Nhưng thế rồi, chắc chắn, các
nhà khoa học bắt đầu nghĩ: nếu có lỗ đen, phải có lỗ trắng nữa chứ. Nếu mọi thứ
liên tục biến mất trong lỗ đen, một ngày nào đó mọi thứ sẽ biến mất. Nhưng mọi
ngày các ngôi sao mới được sinh ra - chúng tới từ đâu vậy? Nó vẫn còn là giả định,
giả thuyết, rằng từ bất kì chỗ nào chúng tới, chỗ đó phải được gọi là lỗ trắng.
Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ
lỗ đen và lỗ trắng chỉ là hai mặt của cùng một hiện tượng; chúng không tách rời.
Nó cũng giống như cánh cửa: bạn có thể đi vào, bạn có thể đi ra. Một phía của cửa
được viết "Đẩy"; và phía bên kia được viết "Kéo." Lỗ đen
hoá giải sáng tạo; nó là cái chết.
Không chỉ bạn bị mệt và già,
bây giờ họ nói ngay cả kim loại cũng bị mệt; ngay cả máy móc, làm việc hai mươi
bốn giờ một ngày là không đúng. Bạn đang tạo ra quá nhiều căng thẳng trong kim
loại. Nó cần nghỉ ngơi chút ít để phục hồi bản thân nó; bằng không, nó sẽ sớm
không vận hành thêm nữa. Ngay cả máy cũng trở nên già, hệt như người vậy.
Sao trở nên già, cũng giống như
bất kì cái gì khác. Khi ngôi sao hay hành tinh đã trở nên quá già và không thể
giữ bản thân nó cụm lại thêm nữa, nó biến mất vào trong lỗ đen. Cái chết của nó
đã tới. Đó là việc hoá giải sáng tạo. Chức năng của lỗ đen là giải tán mọi
thành tố của hành tinh hay ngôi sao - chúng trở về dạng nguyên thuỷ của chúng.
Dạng nguyên thuỷ chỉ là điện,
chỉ là năng lượng, cho nên vật chất tan chảy thành năng lượng. Năng lượng không
thể thấy được, bạn không thể thấy nó được. Bạn có bao giờ thấy điện không? Bạn
đã thấy sản phẩm phụ của điện, như bóng đèn của bạn, nhưng bạn đã không thấy bản
thân điện. Khi nó đi qua dây, bạn có thấy gì không? Và nếu bóng đèn bị bỏ đi, điện
vẫn có đó - nhưng bạn có thấy nó không?
Không năng lượng nào có thể được
thấy. Không năng lượng nào là thấy được, cho nên khi toàn thể khối lượng của
ngôi sao bao la hay hành tinh rơi lại vào trong cội nguồn nguyên thuỷ, nó trở
thành năng lượng thuần khiết. Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy được nó:
nó đã biến mất. Có lẽ đó là lúc cho nghỉ ngơi lâu dài. Và một khi nó được nghỉ
ngơi, thế thì các thành tố cơ bản có thể lại tới cùng nhau, có thể lại hình
thành nên thân thể mới và đi vào trong vũ trụ từ phía bên kia của lỗ đen - đó
là lỗ trắng.
Điều này là rất có ý nghĩa ngày
nay trong tâm trí các nhà vật lí. Nó có nghĩa vũ trụ liên tục làm mới bản thân
nó theo cùng cách như mọi cá nhân được sinh ra, trở nên già đi, chết và thế rồi
ở đâu đó khác được sinh ra trong dạng mới, tươi tắn, trẻ trung. Đây là quá
trình làm trẻ lại.
Bản thân sự tồn tại đầy không
gian. Không gian có vẻ trống rỗng với chúng ta - nhưng nó không trống rỗng, nó
là tiềm năng cho mọi thứ xảy ra. Mọi thứ đã đi ra từ nó - do đó, làm sao bạn có
thể gọi nó là trống rỗng được? Bạn có thể gọi bụng mẹ là trống rỗng được không?
Nó có tiềm năng cho sinh ra sự sống. Nó rõ ràng trống rỗng, vì tiềm năng của nó
đã không được biến đổi thành thực tại.
Phật Gautam là người đầu tiên
dùng từ 'trống rỗng' theo nghĩa của tính không gian, không gian vô hạn. Mọi thứ
chỉ là hình dạng và cái tạo ra hình dạng là vô hình. Chỉ hình dạng là thấy được,
nhưng năng lượng làm ra nó là vô hình.
Đệ tử Thiền này liên tục thiền
về trống rỗng của sự tồn tại, về tính không gian của sự tồn tại. Mọi dạng đều
trống rỗng, không dạng nào có cái ngã. Duy nhất sự tồn tại có cái ngã. Mọi thứ
khác chỉ là mơ kéo dài trong vài năm - và trong vĩnh hằng của thời gian, vài
năm chẳng là mấy để mà ba hoa, chúng không thành vấn đề chút nào. Thiền nhân
liên tục thiền và nhận ra bản chất và hương vị của hư không.
Ngày người đó hiểu ra rằng mọi
thứ đều có tính chất hiện tượng, cái xuất hiện sẽ biến mất... hôm nay nó có,
ngày mai nó có thể mất đi - nó không là cái gì vĩnh hằng. Và chừng nào cái gì
đó không là vĩnh hằng, nó không là thật.
Đi sâu vào trong thiền này sẽ
làm thay đổi toàn thể cuộc sống của bạn. Giận tới và bạn biết rằng nó chỉ là dạng
năng lượng; bạn không chú ý tới người mà bạn đang giận. Thiền nhân đặt toàn thể
chú ý của người đó vào bản thân cơn giận. Hình dạng biến mất, và năng lượng được
chứa trong hình dạng được hấp thu bởi thiền nhân.
Khi mọi thứ liên tục biến mất -
buồn, căng thẳng, bất hạnh, khổ - bạn liên tục trở nên ngày một mạnh hơn, vì mọi
thứ đang rơi trở lại trong dạng năng lượng. Trong trạng thái này, cố hiểu giai
thoại thứ nhất.
Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu,
"Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?" Nó chỉ là theo phong tục. Cả
hai đều là người tinh thông - một người đã trở nên chứng ngộ, người kia ở ngay
trên bờ - và chính sự kính trọng đem tới cái gì đó như món quà cho thầy.
Nhưng Nghiêm Dương hỏi,
"Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?" Ông ấy đã không mang bất kì
món quà nào tới cho thầy, và ông ấy hỏi bản thân thầy, "Nó giống cái gì,
nó cảm thấy thế nào, khi thầy tới người thầy mà không có một thứ gì làm
quà?" Châu nói, "Buông xuống đi."
Về logic điều đó là câu trả lời
tuyệt đối ngớ ngẩn. Khi bạn đã không mang cái gì tới, cái gì có đó mà buông xuống?
Nhưng có cái gì đó, và nó không ngớ ngẩn. Nghiêm Dương đã hỏi, "Nó giống
cái gì, nó cảm thấy thế nào, khi không một vật nào được đem tới?" Và khi
Châu nói "Buông xuống đi," ông ấy đang nói buông xuống bất kì cái gì
nó cảm thấy thích. Ông ấy không nói buông bất kì cái gì xuống; chừng ấy là được
hiểu giữa hai người này. Làm sao bạn có thể buông xuống cái gì đó mà bạn đã
không mang? Nhưng bạn đang cảm thấy cái gì đó - buông cảm giác đó xuống, loại bỏ
nó đi.
Vì mọi thứ là hình dạng trống rỗng,
bạn không bao giờ mang bất kì cái gì, dù bạn mang chúng hay không. Nó bao giờ cũng
là hư không - hoặc hư không tiềm năng hoặc hư không thực tại, nhưng nó là hư
không. Cho nên đừng bận tâm về nó. Dù cảm giác của bạn là bất kì cái gì, không
cần thảo luận về nó; bạn chỉ buông nó xuống, được tự do với nó.
Nghiêm Dương nói, "Vì
không một vật nào được đem tới, buông cái gì xuống?" Không phải là ông ấy
đã không hiểu; nó không phải là loại câu hỏi của bạn mà ông ấy hỏi. Ông ấy là
con người của thiền, và ông ấy hiểu đích xác điều Châu ngụ ý khi ông này nói,
"Buông nó xuống." Nhưng ông ấy đang đùa thầy; ông ấy muốn thầy nói
cái gì đó không đúng, để cho ông ấy có thể bắt giữ nơi cổ thầy.
Ông ấy đã nêu ra một câu hỏi mà
bất kì ai cũng có thể bị bắt. Đây là vui đùa cổ theo truyền thống Thiền. Vì
không một thứ gì được đem tới, buông cái gì xuống? Ông ấy đang làm ra một phát
biểu logic, biết hoàn toàn rõ điều thầy ngụ ý khi thầy nói, "Buông nó xuống."
Nhưng bạn không thể đánh bại thầy được.
Châu nói, "Nếu ông không
thể buông nó xuống, nhặt nó lên." - nhưng ông ấy vẫn còn trong trạng thái
hư không thuần khiết. Ông ấy không chuyển động chút xíu nào. Mặc dầu đệ tử đang
cố di chuyển ông ấy nói cái gì đó sai, người chứng ngộ, tâm thức thức tỉnh
không thể bị lừa vào bất kì cái gì. Bạn có thể thử điều đó từ mọi góc - và có
hàng nghìn câu chuyện trong đó đệ tử đã từng cố kéo chân thầy. Nhưng không người
nào đã bao giờ thành công. Nếu ai đó thành công, điều đó có nghĩa là thầy chưa
phải là thầy, thầy là người giả vờ.
Cho nên khi ông ấy hỏi,
"Buông cái gì xuống?" ông ấy đang làm một phát biểu logic, và ông ấy
đang thử chứng minh rằng điều thầy nói là ngớ ngẩn. Nhưng thầy không thể bị
chuyển ra khỏi trạng thái hiện hữu của thầy. Thầy nói, "Được, nếu ông
không thể buông được nó xuống, nhặt nó lên đi."
Tình huống vẫn còn như cũ. Cùng
câu hỏi đó có thể được hỏi lại: "Nếu tôi đã không mang tới cái gì, làm sao
tôi có thể nhặt được nó lên?" Nhưng Nghiêm Dương đã hiểu điều đó là đủ. Bạn
không thể lừa thầy vào làm ra một phát biểu mà không tương ứng với kinh nghiệm
của thầy về hư không. Không có gì để nhặt lên và không có gì để buông xuống,
ngoài cảm giác mà ông đang mang. Hoặc buông nó xuống... hoặc, nếu bạn không thể
buông nó xuống được, thế thì nhặt nó lên. Cái gì khác có thể được nói?
Phát biểu ngớ ngẩn này, mà có vẻ
ngớ ngẩn cho bất kì người ngoài nào, đột nhiên lẩy cò trong đệ tử người ở ngay
bên bờ chứng ngộ, cùng ánh sáng đó, cùng hiểu biết rằng không cái gì để mang,
không cái gì để buông xuống, không cái gì để nhặt lên, cùng ánh sáng đó, cùng
hiểu biết rằng không có cái gì để mang, không cái gì để buông, không cái gì để
nhặt - rằng bạn chỉ là nhận biết thuần khiết trong đại dương của hư không.
Lắng nghe nó từ thầy Châu, nó
đi thẳng như mũi tên vào bản thể ông ấy. Với những lời này, Nghiêm Dương đại ngộ.
Tôi muốn cho bạn ví dụ khác rõ
ràng hơn và sẽ giúp bạn hiểu ví dụ này.
Một nhà vua lớn, Prasenjita,
người đương đại với Phật Gautam, đi đón Phật Gautam bên ngoài cổng chính của
thành phố. Ông ấy có một viên kim cương rất quí mà là duy nhất; mọi vua của nước
này đều ghen tị về viên kim cương này. Cho nên ông ấy nghĩ, "Cái gì sẽ là
quà tặng thích hợp cho việc Phật tới thành phố của ta? Ta sẽ đem viên kim cương
này..."
Vợ ông ấy đã là người theo Phật
Gautam từ lâu, thậm chí từ trước khi lấy Prasenjita. Thực ra, Prasenjita chỉ đi
bởi vì vợ ông ấy cứ nài nỉ, "Đó là khoảnh khắc quí giá, đừng bỏ lỡ
nó." Sâu bên dưới ông ấy muốn chứng tỏ cho thế giới sự hào phóng của ông ấy,
bản ngã của ông ấy, bằng việc cúng dường viên kim cương lớn này.
Trên bề mặt đó là một điều: ông
ấy lịch sự, tốt bụng, khiêm tốn tới mức ông ấy đã mang món quà lớn lao nhất,
giá trị nhất. Nhưng sâu bên dưới trong vô thức của ông ấy nó là cái gì đó khác:
Hàng nghìn sư sẽ có đó - mười nghìn sư thường di chuyển cùng Phật Gautam, bất
kì chỗ nào ông ấy đi - và cả kinh thành sẽ có đó để đón Phật. Cho nên đó sẽ là
cơ hội tốt để biểu lộ giầu có của ông ấy, quyền lực của ông ấy, hào phóng của
ông ấy.
Vợ ông ấy có thể thấy điều đó
trong mắt ông ấy. Cô ấy nói, "Anh này, với Phật Gautam đây chỉ là hòn đá;
đừng nghĩ rằng ông ấy sẽ bị ấn tượng bởi nó. Cảm giác của em là, trong ao trong
cung điện của chúng ta, có một đoá sen đẹp - anh nên mang cái đó. Cái đó sẽ có
nghĩa nhiều với ông ấy hơn là hòn đá chết."
Ông ấy nói, "Ta sẽ đem cả
hai, và ta sẽ xem liệu em đúng hay ta đúng."
Ông ấy đi tới đó cùng vợ. Và
ông ấy là vua, cho nên tất nhiên ông ấy đứng đầu cả cả đám đông những người đã
tới đón Phật. Ông ấy mang viên kim cương ra trước Phật, và nói, "Tôi không
giầu gì mấy, và tôi cúng dường nó cho thầy."
Phật nói, "Buông nó
đi."
Ông ấy không thể tin được điều
đó, nhưng trước cả nghìn người, khi Phật nói, "Buông nó đi," ông ấy
thậm chí không thể cưỡng lại hay nói không. Ông ấy phải buông rơi nó. Ông ấy
nghĩ rằng có lẽ vợ mình đúng: với Phật nó chỉ là hòn đá; với bạn nó là thứ rất
quí giá.
Thế rồi ông ấy đưa ra đoá sen bằng
tay kia, và Phật nói, "Buông nó đi."
Ông ấy nói, "Trời, vợ mình
cũng sai!" - thế là ông ấy buông rơi đoá sen.
Bây giờ chẳng có gì để tặng. Chỉ
bàn tay trống rỗng ông ấy đang đứng đó.... và Phật lại nói, "Buông nó
đi!" Bây giờ, điều này là quá thể! Khi chẳng cái gì còn lại, ông ấy có thể
bỏ cái gì?
Và Mahakashyapa bắt đầu cười.
Mahakashyapa là khởi tổ của Thiền. Ông ấy thực sự là người sáng lập, nhưng vì
ông ấy không bao giờ nói, mọi điều được nhắc tới chỉ thỉnh thoảng là tiếng cười
của ông ấy.
Prasenjita nhìn Mahakashyapa. Bản
thân ông này là con trai của một vị vua lớn đã từ bỏ vương quốc và đi theo Phật
Gautam. Prasenjita nói, "Mahakashyap, sao ông cười?"
Ông này nói, "Tôi cười vì
ông không hiểu điều Phật nói. Để hiểu ông ấy, kinh nghiệm sâu về thiền được cần
tới. Ông ấy không nói buông kim cương, hay buông hoa sen; chúng chỉ là cái giả.
Buông bản thân ông đi! Chừng nào ông chưa buông bản thân ông, ông không buông
cái gì cả. Sụp xuống dưới chân ông ấy đi!"
Điều này là quá thể. Prasenjita
đã không nghĩ về điều đó. Ông ấy đã mang quà tới... ông ấy không phải là người
đi theo, vợ ông ấy mới là người đi theo. Nhưng bây giờ, trước nhiều người thế,
không cúi mình xuống thật là thô thiển.
Ông ấy chạm chân Phật Gautam bằng
đầu, và lần này Phật Gautam cười. Phật nói, "Ông đang giả vờ buông, nhưng
không buông! Không cần giả vờ ở đây. Hoặc là đích thực, hoặc không làm điều đó.
Bây giờ nhặt kim cương và hoa sen của ông lên và biến đi. Nếu ông không thể
buông được bản thân ông, không có quà tặng khác mà ông có thể đem tới cho ta.
"Chừng nào ông chưa là bản
thân quà tặng, không quà tặng nào là được chấp nhận. Chỉ yêu mới có thể là quà
tặng. Chỉ buông bỏ sâu sắc mới có thể là quà tặng. Chỉ hội nhập với người đã đạt
tới mới có thể là quà tặng. Mọi quà tặng chỉ là bình thường: ngay cả đem chúng
tới là chứng tỏ ngu xuẩn của ông."
Nghe Phật, nhìn Phật - đột
nhiên ông ấy thấy Phật lần đầu tiên. Cảm thấy trường năng lượng quanh Phật...
ông ấy chưa bao giờ im lặng, và bây giờ lần đầu tiên ông ấy cảm thấy im lặng -
và hàng nghìn người đã hoàn toàn im lặng, dường như không có người nào khác.
Prasenjita chạm chân Phật
Gautam lần thứ hai, và Phật Gautam nói, "Bây giờ điều đó là đúng, nó tới từ
chính tâm ông. Bây giờ ta có thể chấp nhận quà tặng của ông." Với người
bình thường, câu hỏi sẽ là, "Quà tặng gì?" vì kim cương đã bị bác bỏ,
hoa sen đã bị bác bỏ... và Phật chấp nhận quà tặng bây giờ. Với tâm trí bình
thường, không cái gì được chuyển trao thêm nữa; nhưng với cảm nhận của người chứng
ngộ, mọi thứ đã xảy ra.
Prasenjita không còn là cùng
con người cũ. Ông ấy đã không về nhà. Ông ấy nói với vợ mình, "Anh phân
vân: em đã là đệ tử của Phật lâu thế; thế thì tại sao em lấy chồng, tại sao em
vẫn ở trong cung điện? Khi thầy của em đi chân trần trong nóng mặt trời quanh đất
nước em cũng phải đi cùng thầy chứ, em phải chăm sóc thầy. Em có thể quay về
nhà - xe ngựa sẵn đó - nhưng anh đã buông bản thân anh, anh đã trao bản thân
anh như món quà. Anh không về nhà đâu."
Người vợ đã không nghĩ tới khả
năng như vậy. Cô ấy đã là đệ tử, nhưng điều đó không có nghĩa... Nhưng bây giờ,
khi người chồng không tới... cô ấy cũng vươn lên trạng thái tâm thức cao hơn.
Cô ấy nói, "Anh không thể đánh bại em được; em thuộc vào cùng đẳng cấp chiến
binh mà anh thuộc vào. Thất bại đơn giản là không chấp nhận được. Chết là chấp
nhận được, nhưng thất bại - không. Em cũng sẽ ở lại. Xe ngựa có thể về trống rỗng."
Việc buông này sẽ giúp bạn hiểu
đối thoại giữa Nghiêm Dương và Châu. Châu đang nói, "Đừng mang bất kì căng
thẳng nào. Nếu ông đã không mang cái gì, chẳng thành vấn đề. Khi ông đem cái gì
đó tới, thế nữa cũng không thành vấn đề. Cho nên buông nó xuống. Toàn thể cảm
giác này rằng ông đã không mang cái gì, toàn thể mặc cảm này, toàn thể bối rối
này - buông nó xuống."
Nhưng khi Nghiêm Dương nói,
"Khi tôi đã không mang cái gì, làm sao tôi có thể buông nó xuống được?"
Thế thì Châu nói, "Điều đó là tuỳ ông. Nhặt nó lên." Vào chính khoảnh
khắc đó, như cú sét bất thần, Nghiêm Dương có thể thấy điều ông ấy ngụ ý: ông ấy
không nói về bất kì cái gì; ông ấy đang nói về tâm trí căng thẳng. Hoặc buông
nó xuống, hoặc nếu ông không thể làm được - nó là buồn, nhưng nó là được - nhặt
nó lên.
Một hiểu biết tức khắc nảy sinh
trong ông ấy. Nghiêm Dương đại ngộ.
Nếu bạn có thể thấy toàn thể bối
cảnh - cách thiền vận hành, cách các thầy thiền đã vận hành.... Và nhớ lấy,
Châu chắc đã không nói điều này cho bất kì người nào hay cho mọi người. Chắc chắn
chính trạng thái của Nghiêm Dương là rõ ràng cho Châu. Khi bạn tới trước thầy,
thầy biết bạn ở đâu. Thấy rằng chỉ một ý nghĩ nhỏ đang ngăn cản ông ấy chưa đi
vào hư không lớn lao, thầy đã trả lời theo cách này - bằng không chắc thầy đã
không trả lời. Nếu một giáo sư tới thăm, một nhà khoa học, một nhà logic, ông ấy
chắc đã không nói điều đó. Việc đó chắc đã là lạc lõng; người kia chắc không sẵn
sàng cho nó.
Đó là lí do tại sao tôi đã liên
tục nói với bạn, tôi không trả lời câu hỏi của bạn, tôi trả lời bạn. Câu hỏi là
không liên quan; người hỏi là mục tiêu của tôi, không phải là việc hỏi của người
đó. Cho nên có thể là cùng câu hỏi có thể được hỏi bởi những người khác nhau và
tôi có thể trả lời khác đi, vì người hỏi là khác. Những người khác nhau có thể
diễn đạt câu hỏi theo cùng cách, trong cùng lời; nhưng những người khác nhau
không thể hỏi cùng câu hỏi, vì các cá nhân khác nhau đó có trạng thái tâm thức
khác nhau. Tôi phải trả lời cho tâm thức của họ, không cho những rác rưởi bắt
nguồn từ tâm trí họ.
Điều này tạo ra vấn đề cho bất
kì ai muốn soạn ra triết lí của tôi là gì. Người đó sẽ sớm vào nhà thương điên,
vì người đó sẽ thấy bao nhiêu câu trả lời cho cùng một câu hỏi tới mức người đó
sẽ phát rồ, lẩn thẩn! Nó không phải là triết lí; nó không phải là hệ thống
logic nhất quán. Nó là sự thân thiết, việc truyền nănglượng nào đó, ánh sáng
nào đó từ cá nhân sang cá nhân.
Lại nữa: Một sư hỏi cổ đức,
"Khi học trò không thể đối phó được thì nó giống cái gì?" Cổ đức nói,
"Ta cũng giống điều này." Điều này là kì lạ khi có liên quan tới tâm
trí - thầy nói, "Ta cũng giống điều này." Học trò không thể đương đầu
được - điều đó là không thể hiểu nổi. Nhưng thầy nói, "Ta cũng giống điều
này" dẫn bạn vào một chiều mà không có tính logic, nó là bản thân sự tồn tại.
Sư nói, "Thầy ơi, sao thầy
cũng không thể đối phó được?" Cổ đức nói, "Nếu ta có thể đối phó được,
ta có thể lấy đi cái không có khả năng đối phó này của ông." Với những lời
này, sư đại ngộ.
Đầu tiên sư này hỏi về ai đó
khác, từ đó thầy có thể thấy trực tiếp rằng ôg ta muốn hỏi một câu hỏi về bản
thân ông ta, nhưng không đủ dũng cảm để hỏi nó.
Hàng nghìn lần tôi đã bắt gặp
những người đem tới các câu hỏi như, "Bạn tôi có vấn đề này," và tôi
bao giờ cũng bảo họ, "Tốt hơn cả là đưa bạn của bạn tới đi, và anh ta có
thể nói rằng bạn anh ta có vấn đề. Nếu bạn thậm chí không thể chấp nhận được rằng
đó là vấn đề của bạn, bạn không xứng với bất kì câu trả lời nào. Bạn không đích
thực ngay cả trong câu hỏi của bạn.
Ông ấy nói, " Khi học trò
không thể đối phó được thì nó giống cái gì?" Trên đường đạo, thời gian của
thầy đã không bị phí hoài về người khác; trong những khoảnh khắc hiếm hoi này bạn
nên hỏi về bản thân bạn. Ông ấy thực sự đang hỏi, "Khi tôi không thể đối
phó được thì nó giống cái gì?", nhưng là hèn.
Cổ đức nói, "Ta cũng giống
điều này." Bây giờ sự việc trở nên thậm chí còn thách đố hơn. Đầu tiên,
người hỏi không mở tâm mình, nhưng người đó nghĩ bất kì cái gì thầy trả lời sẽ
là áp dụng được cho người đó nữa. Và điều thầy trả lời là, "Ta cũng giống
điều này."
Điều đó là được với đệ tử, với
học trò, nhưng với thầy sao...? Thầy là thầy, thầy đã đạt tới, sao thầy không
thể đối phó được?
Cổ đức nói, "Nếu ta có thể
đối phó được, ta có thể lấy đi cái không có khả năng đối phó này của ông."
Ông ấy không nói về học trò, ông ấy không nói về bất kì người nào khác; ông ấy
đánh thẳng sư này, người ẩn đằng sau từ 'học trò'.
Thầy nói, " Nếu ta có thể
đối phó được, ta có thể lấy đi cái không có khả năng đối phó này của ông."
Nếu ta không thể lấy nó đi được, điều đó đơn giản nghĩa là bản thân ta không thể
đối phó được, ta không là thầy thực. Trước một học trò giả, làm sao ta có thể
là thầy thực được? Ta có thể phơi bầy thực tại của ta cho cho người là đích thực
hướng tới ta. Thầy đã bắt giữ người này, và thầy nói, "Ta có thể lấy đi
cái không có khả năng đối phó này của ông."
Điều đó phải đã là cú choáng bất
thần - sư này đang hỏi về ai đó khác, và thầy trả lời anh ta. Cú choáng bất thần
đó dừng vận hành của tâm trí. Bất kì cái gì bất thần và tâm trí không thể xoay
xở được. Nó chỉ có thể xoay xở với cái là cũ rích và cổ, đã được biết hoàn hảo
với nó; nó có thể lặp lại như vẹt câu trả lời cũ. Nhưng bây giờ, làm gì? - thầy
đã bắt quả tang anh ta, đang gian lận.
Im lặng, choáng, nhưng cú
choáng và im lặng đã giúp vô cùng.... Với những lời này, sư đại ngộ.
Chứng ngộ của hai sư này là
chính xác ở chỗ ông bị mất đi; khi ông có hoài nghi là đích xác chỗ hai sư này
hỏi câu hỏi của họ. "Hiện tượng được sinh ra từ phân biệt và cũng tàn lụi
đi qua phân biệt. Quét sạch mọi hiện tượng phân biệt - pháp này không sinh
không diệt."
Con đường này, giả kim thuật
này của Thiền, không sinh không diệt. Nó là một trong những việc truyền trao trực
tiếp nhất từ thầy sang đệ tử. Nó không đi vào việc nói dài dòng, nó không thảo
luận những vấn đề không cần thiết. Thiền đã thu mọi thứ về chính điều bản chất;
nó đã cắt đi mọi thứ không cần thiết.
Thiền như điện tín. Bạn có để ý
rằng khi bạn viết thư, nó liên tục trở nên dài hơn và dài hơn. Dễ dàng bắt đầu
thư, nhưng khó kết thúc nó. Khi bạn gửi bức điện tín, chỉ mười từ, nó là thông
điệp cô đọng. Bức thư dài mười trang của bạn sẽ không có cùng hiệu quả như mười
từ của bức điện tín. Nghĩa càng được cô đọng, nó càng nổi bật. Nghĩa càng trải
rộng, càng ít ấn tượng.
Thiền tin vào chính điều bản chất.
Nó không có điều vô nghĩa bao quanh nó, không nghi lễ, trong đó mọi tôn giáo
khác đã mất hút, không tụng niệm, không mật chú, không kinh sách - chỉ những
giai thoại. Nếu bạn có nhận thức đúng, chúng sẽ đánh bạn thẳng vào tâm. Nó là
giáo huấn rất cô đọng và kết tinh, nhưng nó cần người được chuẩn bị cho nó. Và
việc chuẩn bị duy nhất là nhận biết có tính thiền.
Bạn không thể dạy được Thiền
trong đại học. Nó sẽ là khó bởi lẽ đơn giản rằng sinh viên không có nhận biết
thiền, và bạn không có sách về Thiền mà có thể làm ra nghĩa, điều có vẻ ngớ ngẩn.
Bạn sẽ ngạc nhiên rằng trong nhiều đại học Thiền họ đang dạy Thiền qua sách của
tôi, vì sách của tôi ít nhất đang làm nỗ lực để làm cho điều ngớ ngẩn dường như
có thể nhận biết được. Tôi đang cố cho hoàn cảnh, bối cảnh đúng, vì tôi đang
nói cho những người không được sinh ra trong truyền thống Thiền. Bản thân sách
Thiền là rất chắp vá.
Tôi chưa bao giờ tới Nhật Bản
và có thể nhất là chính phủ Nhật Bản sẽ không cho phép tôi vào. Nhưng trong nhiều
đại học... ở Nhật Bản, các Thiền viện có đại học gắn với nơi các sư Thiền có thể
dạy. Điều đơn giản kì lạ là nó là truyền thống của họ... họ có lịch sử gần một
nghìn hai trăm năm với văn học, hội hoạ, thơ ca lớn nhưng chúng tất cả đều chắp
vá. Không ai đã cố gắng cho nhiều hơn chỉ kết luận; không ai đã cho toàn thể
hoàn cảnh.
Điều đó là rất kì lạ. Khi tôi bị
bắt ở Mĩ, bức điện tín đầu tiên phản đối tổng thống tới từ một Thiền sư từ Nhật
Bản: "Điều này là tuyệt đối xấu của nước các ông - bắt một người đã không
phạm bất kì tội nào và người không thể phạm bất kì tội nào. Mặc dầu chúng tôi
không biết ông ấy về mặt cá nhân, chúng tôi dạy từ sách của ông ấy trong đại học
của chúng tôi. Sáng suốt mà ông ấy đã mang tới cho Thiền là rõ ràng tới mức
không thể nào có chuyện người này đã không đạt tới cùng không gian như Phật
Gautam.
"Các ông đã bắt một Phật
Gautam. Xin lập tức thả ông ấy ra, nếu không điều đó sẽ là việc kết án các ông
và đất nước các ông mãi mãi." Viên cai ngục lập tức tới tôi và cho tôi xem
bức điện tín. Một bản được gửi cho tôi và một bản gửi cho tổng thống Mĩ.
Ngay bây giờ họ đang có lễ hội
lớn của các sannyasins ở Nhật Bản. Mọi người khác cũng được mời, và một nghìn
người đang tới tụ tập; phần lớn sẽ là sư, những người đang thiền, nhưng ở đâu
đó bị mắc kẹt - những người đã đọc, nhưng không thể tìm ra giải thích đúng.
Mọi phát biểu ngớ ngẩn dường
như ngớ ngẩn chỉ với tâm trí trần tục. Một khi bạn đã vươn lên trên điều tầm
thường trần tục, một khi bạn có thể thấy rõ ràng, cái ngớ ngẩn biến mất. Và
không chỉ cái ngớ ngẩn biến mất - sự biến mất của nó sẽ là sự biến mất của bản
ngã riêng của bạn nữa. Tâm trí bạn cũng sẽ biến mất cùng nó.
Những đối thoại nhỏ và câu chuyện
này đã phục vụ cho nhiều người thế trong việc đạt tới chứng ngộ, điều các kinh
sách lớn đã không có khả năng làm. Kinh sách lớn đã tạo ra chỉ các học giả.
Không có chỗ cho học giả trong Thiền. Chẳng hạn, học giả làm gì với hai câu
chuyện này?
Nhưng học giả hoàn toàn thoải
mái với Vedas, với Gita, với Kinh Thánh, với Talmud, với Torah. Ông ấy cực kì
thoải mái, vì những bức thư chục trang giấy đó còn những bức điện tín này - khẩn
thiết, tức khắc, không cho bạn bất kì giải thích nào, nhưng đơn giản cho bạn
chính điều bản chất, hương thơm của hàng nghìn hoa. Bạn chỉ phải tỉnh táo và đủ
tính thiền để hấp thu chúng.
Nếu bạn có thể hấp thu chúng,
trong văn đàn của toàn thế giới, không có gì quan trọng hơn các giai thoại Thiền.
Trong mọi thứ chúng là duy nhất. Chúng là những bức tranh nhỏ, và chỉ quan sát
chúng, bạn sẽ rơi vào trong an bình tới mức bạn không thể quan niệm được thu hoạch
từ một Picasso. Xem một Picasso, bạn sẽ bị ác mộng thế... nhưng quan sát bức
tranh Thiền, nó rất đơn giản; bạn sẽ có an bình lớn giáng xuống bạn.
Có những thơ ca lớn, nhưng
không cùng ý nghĩa như những bài cú nhỏ từ Thiền. Tôi bao giờ cũng yêu mến Ba
Tiêu, một trong các thầy về bài cú. Những bài cú nhỏ của ông ấy nói nhiều thứ tới
mức ngay cả kinh sách linh thiêng nghìn trang cũng không nói - nó tất cả là văn
xuôi nhiều thế. Bài cú nhỏ của Ba Tiêu là:
Ao cổ...
Và khi bạn nghe bài cú này, bạn
phải quán tưởng nó. Nó nhỏ tới mức nó không phải là vấn đề hiểu, nó là vấn đề
đi vào trong nó. Ao cổ... chỉ có cảm giác về ao cổ, quán tưởng nó đi.
Ao cổ.
Ếch nhảy.
Tõm.
Và bài cú là đầy đủ.
Nhưng ông ấy đã nói nhiều thế:
ao cổ, cây cổ, đá cổ quanh nó.... và phải có im lặng.... và ếch nhảy vào. Trong
một khoảnh khắc im lặng bị quấy rối, tõm. Và lần nữa im lặng được phục hồi....
có lẽ còn sâu hơn nó trước đó.
Ông ấy muốn nói gì trong bài cú
này? Ông ấy đang nói, Thế giới cổ đại này... và sự tồn tại của bạn chỉ là tiếng
tõm, một âm thanh nhỏ bé trong im lặng. Và thế rồi bạn mất đi, và im lặng sâu sắc
hơn. Theo cách này ông ấy làm cho toàn thế giới thành phù du, tựa mơ - không
cái gì vững chắc trong nó, ngoại trừ im lặng lớn.
Im lặng lớn đó là chính bản thể
của bạn. Nó cũng là chính bản thể của toàn thể vũ trụ.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá