Read more
Osho kính yêu,
Cái một như thế
Xét chuyện tình lớn này, ông phải có ý chí
quyết tâm. Nếu ông bán tin bán nghi, sẽ không có kết nối. Cổ đức nói, "Học
đạo giống như diễn tập cứu hoả. Ông vẫn không thể dừng được khi ông còn thấy
khói: chỉ khi tia lửa xuất hiện việc quay về nhà là đầy đủ." Muốn biết nó
là đầy đủ ở đâu? - Nó là thế giới của cái ngã và thế giới của người khác như
cái một như thế.
Đức tín
Phật nói, "Đức tín có thể phá huỷ mãi
mãi gốc rễ của ưu phiền; đức tín có thể hội tụ ông vào đức hạnh của phật
tính." Ông ấy cũng nói, "Đức tín có thể siêu việt lên nhiều con đường
của ảo tưởng, và hiển thị con đường của giải thoát không ai vượt qua."
Nếu ông có thể tin một cách trực tiếp rằng
tâm trí này dứt khoát đạt tới chứng ngộ từ lúc bắt đầu, và đột ngột quên đi mọi
cái nhìn của ông, thì những con đường của ảo tưởng này bản thân chúng là con đường
của chứng ngộ, theo đó người ta thoát khỏi sinh và tử.
Cái một như thế... nó là chiều
đặc biệt mà Phật Gautam đã mở ra. Không ai trước ông ấy đã bao giờ nói về cái
như thế. Nó chứa nhiều điều tới mức nó phải được hiểu trong tính toàn bộ của
nó. Nếu bạn đã hiểu tính như thế trong tính toàn bộ của nó, không cái gì khác
còn lại để hiểu.
Tâm trí bao giờ cũng hỏi, hoài
nghi, quyết định cái gì là đúng và cái gì là sai, cái gì là thực và cái gì là
giả. Nói cách khác, tâm trí bao giờ cũng trong phân chia và trong xung đột. Nói
cách khác, tâm trí không thoải mái cùng sự tồn tại.
Tính như thế nghĩa là việc thoải
mái với sự tồn tại. Cây xanh và hoa hồng đỏ - bạn có thể làm được gì? Có kẻ giết
người và có thánh nhân lớn. Nếu bạn không phân biệt, nếu bạn đơn giản chấp nhận
sự kiện rằng điều này là vậy - cây này thì cao và cây kia thì nhỏ, sự tồn tại
cho phép tính đa dạng, diễn đạt bản thân nó theo đa dạng cách thức - nếu bạn
thoải mái với tất cả nó, với thánh nhân, với tội nhân, bạn đã đạt tới phật
tính.
Nếu bạn không có kết án tội
nhân và không ngưỡng mộ thánh nhân, bạn đã siêu việt lên trên cả hai - bạn đã
đi tới cái một như thế. Thế giới của hai, thế giới của nhị nguyên, đã rơi rụng
đi khỏi bạn.
Và khoảnh khắc thế giới của
hai, thế giới của nhị nguyên, không còn đó nữa, bạn ở đâu? Tâm trí bạn ở đâu? Bản
ngã của bạn ở đâu? Chúng tất cả đã mất đi trong một nhát kiếm. Đột nhiên toàn
thể sự tồn tại trở thành một phần của nhịp đập con tim của bạn, và nhịp đập con
tim của bạn trở thành nhịp đập con tim của toàn thể vũ trụ. Thế thì chim bắt đầu
hót, và nó không phải là chim, mà là bạn. Thế thì cây đứng trong im lặng - nó
không phải là cây, mà là bạn. Thế thì những đỉnh cao đầy ánh mặt trời của
Himalayas và những con sóng triều của đại dương không còn là đối thể; chúng là
chính tính chủ thể của bạn.
Phát biểu này Phật gọi là 'cái
một như thế.' Không có nhu cầu về bất kì Thượng đế nào; không có nhu cầu về luật
đạo đức nào, không có nhu cầu về bất kì ý thức đúng và sai. Bạn là ai mà quyết
định? - bạn đơn giản ở đây để hân hoan và để nối liền trong điệu vũ. Trong điệu
vũ này tội nhân là một phần cũng như thánh nhân. Nghĩ về một thế giới mà không
có tội nhân mà xem, và nó sẽ chán thế, hoàn toàn khô cằn thế, chỉ là sa mạc, vô
tận.
Sự sống như nó vậy... tiếng con
chim cúc cu xa xăm vẫy gọi bạn là tâm riêng của bạn. Một khi điều này không chỉ
là lí thuyết mà là kinh nghiệm - rằng bạn bắt đầu nhảy múa cùng gió khi cây nhảy
múa, rằng bạn bắt đầu nở hoa cùng hoa khi chúng mở cánh ra, rằng khi đột nhiên
con chim cúc cu hót, đó là bài ca riêng của bạn - thế thì không có vấn đề về
phân biệt: đúng là đúng, và sai cũng vậy.
Kinh nghiệm tối thượng về tâm
thức là ở chỗ toàn thể vở kịch này cần các mâu thuẫn. Nếu bạn lấy đi ngày, đêm
sẽ rất nghèo nàn. Nếu bạn lấy đi đêm, ngày sẽ rất mệt mỏi. Chúng xuất hiện cho
tâm trí chúng ta như các mâu thuẫn, nhưng trong sự tồn tại chúng là phần bù. Nó
giống như con lắc của đồng hồ di chuyển từ cực đoan này sang cực đoan khác. Thấy
thánh nhân và tội nhân như hai điểm mà giữa họ con lắc liên tục chuyển động, bạn
bỏ mọi ngưỡng mộ thánh nhân và bạn bỏ mọi kết án tội nhân. Bạn đơn giản tận hưởng
cái đẹp của cả hai. Chính hiện hữu của họ là đủ rót đầy bạn với lòng biết ơn lớn
lao.
Kinh nghiệm này về cái một như
thế là đóng góp lớn lao nhất của Phật Gautam. Và Đại Huệ đang đi ngày một sâu
hơn vào trong Phật Gautam - không như người trí thức nữa, mà như người đã trải
nghiệm.
Trong khoảnh khắc để cái một
như thế này sở hữu bạn.... Mọi thứ trở thành chân thành thế, im lặng thế, mọi
thứ trở thành vui vẻ tới mức không có lời nào để diễn đạt nó. Kinh nghiệm không
thể diễn đạt được này là điều tối thượng của tính tôn giáo.
Đại Huệ nói về hai điều trong lời
kinh buổi sáng này: cái một như thế, và đức tín. Chúng là hai cái tên cho một
điều. Nó không phải là đức tin của người Ki tô giáo. Lời đổi nghĩa của chúng
khi chúng đổi hoàn cảnh. Lời không có nghĩa riêng của chúng; nghĩa của chúng tới
từ hoàn cảnh của chúng.
Đức tin với người Ki tô giáo
hay người Mô ha mét giáo hay người Hindu không là gì ngoài lời khác cho niềm
tin, và niềm tin không bao giờ là bất kì cái gì ngoài hoài nghi bị kìm nén. Mọi
niềm tin đều có đằng sau nó hoài nghi. Để kìm nén hoài nghi bạn tin ngày càng
nhiều hơn... nhưng hoài nghi càng đi sâu hơn vào trong vô thức của bạn.
Đức tín trong thế giới kinh
nghiệm của Phật Gautam không phải là niềm tin. Nó không liên quan gì tới các học
thuyết và triết lí, thượng đế học, ý thức hệ. Nó có cái gì đó liên quan tới tin
cậy, cái gì đó liên quan tới yêu, cái gì đó liên quan với việc thoải mái cùng
thế giới, dù nó là thế nào.
Có một câu chuyện cổ về một Thiền
sư... Mọi đêm nhà vua thường vi hành trá hình quanh kinh đô, để xem liệu mọi thứ
có bình an vô sự không hay có rắc rối nào đó mà ông ấy đã không được phép biết.
Ai đó có bị khổ không? - nếu ông ấy có thể làm cái gì đó, ông ấy muốn biết trực
tiếp điều đó, không qua nhiều người trung gian và hệ thống quan liêu.
Ông ấy luôn luôn phân vân bởi một
người rất đẹp, rất im lặng bao giờ cũng đứng dưới cây. Bất kì giờ nào trong đêm
ông ấy đi, người này bao giờ cũng đứng đó im lặng, giống hệt tượng đá hoa. Một
cách tự nhiên, tò mò nảy sinh, và chung cuộc ông ấy không thể cưỡng được cám dỗ
hỏi người này anh ta đang canh gác cái gì. Ông ấy không thể thấy được rằng người
đó có cái gì... thực ra người đó đang đứng trần trụi.
Người thanh niên cười và nói,
"Tôi đang canh gác bản thân tôi; tôi không có bất kì cái gì khác. Nhưng bản
thân việc canh gác - tỉnh táo và nhận biết và thức tỉnh - là kho báu lớn nhất.
Ngài có nhiều, nhưng ngài không có người gác."
Nhà vua phân vân, nhưng bị mê
say bởi cái đẹp của người này và bởi thẩm quyền của lời anh ta. Mọi đêm họ thường
nói chuyện một chút ít, và dần dần, dần dần tình bạn lớn nảy sinh. Sư trần trụi
không bao giờ hỏi, "Ông là ai?"
Nhà vua hỏi anh ta, "Tôi
đã từng hỏi anh nhiều câu hỏi - anh là ai, anh đã tới từ đâu, anh đang làm gì,
kỉ luật của anh là gì - nhưng anh không bao giờ hỏi tôi, 'Ông là ai?'"
Người thanh niên nói, "Nếu
ông biết ông là ai, ông chắc đã không hỏi những câu hỏi này. Tôi không muốn làm
bẽ mặt ông - tôi đơn giản chấp nhận ông là bất kì ai. Tôi không bao giờ hỏi
cây, tôi không bao giờ hỏi con vật, chim muông, tôi không bao giờ hỏi sao - tại
sao tôi phải hỏi ông? Điều hoàn toàn tốt là ông hiện hữu, và tôi hoàn toàn thoải
mái với ông và với mọi thứ."
Câu hỏi là sự không thoải mái,
nó là căng thẳng; nó nảy sinh sâu bên dưới từ sợ. Người ta muốn biết người
khác, vì người khác có thể biến thành kẻ thù, có thể biến thành điên. Người
khác phải được làm thành dự đoán được, thế thì người ta cảm thấy thoải mái.
Nhưng bạn có thể làm cho bất kì ai thành dự đoán được không?
Người thanh niên nói,
"Không cái gì có thể được dự đoán. Mọi thứ liên tục chuyển vào trong điều
huyền bí ngày càng nhiều hơn, và tôi hoàn toàn thoải mái; bất kì cái gì xảy ra
đều là niềm vui. Từng khoảnh khắc sao dịu ngọt thế và thơm hương thế, tôi không
thể đòi hỏi nhiều hơn. Dù ông là bất kì ai, ông là tốt. Tôi yêu ông, tôi yêu mọi
người... Tôi đơn giản yêu. Tôi không biết bất kì cách nào khác để có quan hệ với
sự tồn tại."
Đây là đức tín: không biết cách
khác để có quan hệ với sự tồn tại ngoại trừ yêu, ngoại trừ chấp nhận toàn bộ -
cái một như thế.
Nhà vua bị ấn tượng thế. Ông ấy
biết rõ rằng người đã từ bỏ thế giới, thậm chí từ bỏ quần áo của mình, và trong
đêm mùa đông lạnh vẫn ra đứng một mình trong im lặng, nhất định từ chối lời mời
của ông ấy - một mong đợi đơn giản của bất kì con người nào. Nhưng ông ấy nói,
"Tôi đã rơi vào yêu mến ông nhiều tới mức cả ngày tôi chờ đợi để khi đêm tới
và tôi đi một vòng. Tôi bao giờ cũng sợ rằng một ngày nào đó ông có thể không ở
đây. Tôi muốn ông ở gần tôi hơn. Tôi có thể mời ông tới cung điện của tôi được
không? Tôi sẽ thu xếp mọi thứ như ông muốn."
Thậm chí không có ngần ngại một
khoảnh khắc và người này nói, "Đây là ý hay."
Nhà vua hụt hẫng. Người ta mong
đợi từ thánh nhân rằng ông ấy đã từ bỏ thế giới, ông ấy không thể quay lại với
thế giới được - và thánh nhân sẽ nổi lên trong tôn vinh và kính trọng trong con
mắt của ông ấy. Nhưng người này nói, "Đây là ý thực hay! Tôi có thể đi
cùng ông ngay bây giờ. Tôi không có bất kì cái gì để mang theo mình, không thu
xếp nào phải được làm."
Nhà vua hoài nghi - có lẽ ông ấy
đã bị lừa. Có lẽ người này không phải là thánh nhân; anh ta chỉ giả vờ và phải
đã chờ đợi khoảnh khắc này. Nhưng bây giờ rất khó rút lại lời mời. Cho nên một
cách buồn bã, ngần ngại, ông ấy phải đưa người này về, người mà ông ấy đã ham
muốn nhiều thế, đã yêu nhiều thế, người đồng hành của ông ấy, sự hiện diện của
người ấy, mắt người ấy, mọi cử chỉ của người ấy... Ông ấy cho anh ta cung điện
tốt nhất nơi các khách của ông ấy, các vị vua và hoàng đế thường ở.
Ông ấy hi vọng rằng thánh nhân
này sẽ nói, "Không, tôi không cần những giường vàng này và cung điện đá
hoa này. Tôi là sư trần trụi, hoà điệu nhiều hơn với cây cối, với gió, với lạnh,
với nóng." Nhưng thay vì điều này, người này trở nên rất quan tâm. Người
này nói, "Hay lắm! Đây là đúng chỗ rồi!"
Nhà vua không thể ngủ được cả
đêm, mặc dầu sư này ngủ cả đêm rất ngon trong những thứ xa hoa bao quanh. Từ
sáng hôm đó sự kính trọng với sư này trong tâm trí nhà vua cứ giảm xuống mọi
ngày, vì anh ta ăn thức ăn xa hoa, anh không còn ở trần, anh dùng những áo thụng
đắt nhất. Anh ta không lo nghĩ về đàn bà - những người đàn bà đẹp nhất phục vụ
anh ta và anh ta hoàn toàn thoải mái, dường như không cái gì đã xảy ra. Anh ta
có vẻ hệt như anh ta đã ở trần dưới cây.
Nhưng điều đó là quá thể; điều
đó trở thành vết thương trong tim nhà vua rằng mình đã thực sự bị lừa, bị bịp.
Bây giờ, làm sao tống khứ người này đi? Anh ta không phải là thánh nhân.... Một
hôm nhà vua hỏi anh ta, "Tôi đã từng mang một câu hỏi trong tâm trí tôi từ
nhiều, nhiều ngày rồi, nhưng đã không đủ dũng cảm để hỏi."
Người này nói, "Tôi biết -
không phải là nhiều, nhiều ngày đâu, mà từ chính khoảnh khắc khi tôi chấp nhận
lời mời của ông."
Nhà vua lại đớ người ra. Ông ấy
nói, "Ông ngụ ý gì?"
Anh ta nói, "Tôi có thể thấy
chính khoảnh khắc đó sự thay đổi trên mặt ông, trong mắt ông. Nếu như tôi bác bỏ
lời đề nghị của ông, ông chắc đã kính trọng tôi, chạm chân tôi. Nhưng tôi không
bác bỏ bất kì cái gì. Việc chấp nhận của tôi là toàn bộ. Nếu ông mời tôi, điều
đó là hoàn toàn tốt. Khi tôi nói cung điện là đúng, không phải là cung điện là
đúng, tôi là đúng dù bất kì chỗ nào tôi ở. Tôi đã đúng dưới cây trần trụi; tôi
là đúng dưới những áo thụng hoàng gia này, được bao quanh bởi đàn bà đẹp, mọi
thứ xa hoa. Một cách tự nhiên tôi biết ông phải rất phân vân. Ông có vẻ mệt mỏi,
ông có vẻ buồn, ông không có vẻ là cái ngã cũ của ông. Ông có thể hỏi tôi câu hỏi,
mặc dầu tôi biết câu hỏi đó."
Nhà vua nói, "Nếu ông biết
câu hỏi, thế thì câu hỏi bây giờ là ở chỗ tôi muốn biết khác biệt gì giữa tôi
và ông?"
Anh thanh niên cười và anh ta
nói, "Tôi sẽ trả lời, nhưng không phải ở đây vì ông sẽ không hiểu nó.
Chúng ta sẽ đi dạo buổi sáng, và tại đúng chỗ, vào đúng khoảnh khắc, tôi sẽ trả
lời."
Thế là cả hai lên ngựa đi dạo
buổi sáng, và nhà vua chờ đợi và chờ đợi. Đó là sáng đẹp, nhưng ông ấy không có
đó để tận hưởng buổi sáng; chỉ anh thanh niên là tận hưởng. Chung cuộc nhà vua
nói, "Bây giờ con sông này là biên giới của vương quốc của tôi. Bên ngoài
con sông này tôi không thể đi được; chỗ đó thuộc vào ai đó mà chúng tôi đã từng
là kẻ thù trong nhiều thế kỉ. Chúng ta đã cưỡi ngựa đi nhiều dặm đường, và bây
giờ thế là đủ thời gian rồi. Trời đang nóng lên, giữa ngày rồi."
Người này nói, "Vâng, câu
trả lời của tôi là - đây là áo thụng của ông, đây là ngựa của ông" - và xuống
ngựa, anh ta cởi áo thụng ra. Anh ta nói, "Tôi đi sang bên kia sông, vì
tôi không có kẻ thù nào. Áo thụng này không bao giờ là của tôi, và ngựa này
không bao giờ là của tôi. Chỉ một câu hỏi nhỏ: Ông có tới cùng tôi hay
không?"
Nhà vua nói, "Làm sao tôi
có thể tới cùng ông được? Tôi phải chăm nom vương quốc. Công việc của cả đời
tôi, vật lộn, chiến đấu, tham vọng ở sau tôi trong vương quốc. Làm sao tôi có
thể đi cùng ông được?"
Người này nói, "Đó là khác
biệt. Tôi có thể đi - tôi không có bất kì cái gì trong cung điện, tôi không có
bất kì cái gì để mất, không cái gì thuộc vào tôi. Chừng nào nó sẵn có, tôi tận
hưởng cái như thế của nó. Bây giờ tôi sẽ tận hưởng cây dại, sông, mặt trời."
Nhà vua, dường như thức dậy từ
ác mộng, lại có thể thấy rằng mình đã sai lầm. Người kia đã không lừa ông ấy;
anh ta đích thực là con người của việc nhận ra. Ông ấy nói, "Tôi xin ông
tha thứ. Tôi chạm chân ông. Đừng đi, bằng không tôi sẽ không bao giờ có khả
năng tha thứ cho bản thân tôi."
Anh thanh niên nói, "Với
tôi không có vấn đề gì. Tôi có thể quay lại, nhưng ông sẽ vẫn bắt đầu hoài
nghi, cho nên tốt hơn cả là ông để tôi đi. Tôi sẽ chỉ đứng bên bờ sông dưới cây
đẹp kia. Bất kì khi nào ông muốn tới ông có thể tới - ít nhất tới bờ kia - và
nhìn tôi. Tôi không có vấn đề gì trong việc quay lại, nhưng tôi không quay lại
vì tôi không muốn quấy rối đêm và ngày của ông, và tạo ra căng thẳng và lo
nghĩ."
Anh ta càng trở nên ngần ngại,
nhà vua càng bắt đầu cảm thấy tiếc và buồn, mặc cảm về điều ông ấy đã làm.
Nhưng sư trẻ nói, "Ông có thể không hiểu tôi vì ông không hiểu kinh nghiệm
về tính như thế: bất kì chỗ nào ông hiện hữu, ông đều ở trong mối quan hệ yêu
sâu sắc với mọi thứ đang có đó. Ông không phải thay đổi bất kì người nào, ông
không phải thay đổi bất kì cái gì, ông không phải thay đổi bản thân ông. Mọi thứ
là như nó phải vậy; nó là thế giới hoàn hảo nhất.
"Đây là đức tín của tôi,
đây không phải là niềm tin của tôi. Không phải là tôi tin nó là vậy, nó là điều
tôi trải nghiệm nó là vậy."
Cho nên 'đức tín' trong thế giới
của Phật Gautam và các đệ tử của ông ấy có chiều khác toàn bộ, ý nghĩa khác. Nó
không phải là niềm tin. Niềm tin bao giờ cũng vào một khái niệm - Thượng đế,
cõi trời, địa ngục, thượng đế học nào đó, hệ thống ý tưởng nào đó. Niềm tin là
của tâm trí và đức tín là của toàn thể bản thể bạn. Niềm tin được vay mượn, đức
tín là kinh nghiệm trực tiếp riêng của bạn. Bạn có thể tin vào Thượng đế, nhưng
bạn không thể có đức tín vào Thượng đế. Bạn có thể có đức tín vào cây cối,
nhưng bạn không thể tin tưởng vào cây cối.
Đức tín có tính tồn tại, kinh
nghiệm.
Cho nên cả hai từ này là cực kì
có ý nghĩa cho mọi người không trong tìm kiếm việc làm nặng gánh bản thân họ bằng
nhiều tri thức hơn, nhiều thông tin hơn, mà là việc tìm kiếm đích thực để biến
đổi toàn thể cách tiếp cận của họ tới sự tồn tại.
Xét chuyện tình lớn này... Đại
Huệ là đúng khi gọi nó là "chuyện tình lớn." Tất cả các bạn đều biết
các chuyện nhỏ - bạn gọi chúng là chuyện tình - nhưng bạn không biết chuyện
tình lớn. Không cái gì là sai với những chuyện nhỏ; chúng giống như cầu thang.
Liên tục có ngày càng nhiều những chuyện nhỏ, và một ngày nào đó bạn sẽ có chuyện
tình lớn. Yêu người này, yêu người kia, yêu tình huống này, yêu tình huống kia
- đột nhiên bạn sẽ mở ra, "Tại sao keo kiệt? Tại sao chọn? Tại sao không
yêu một cách vô chọn lựa?"
Khi yêu theo các lượng nhỏ cho
nhiều vui vẻ thế - toàn thể đại dương, toàn thể sự tồn tại được yêu, được tin cậy,
không có bất kì phàn nàn nào, không có bất kì cằn nhằn nào, không có bất kì ham
muốn thay đổi nào, chỉ như chúng vậy - bạn đột nhiên rơi vào trong chuyện tình
lớn. Đại Huệ là tuyệt đối đúng khi gọi nó là chuyện tình lớn này. Nhưng để trải
nghiệm chuyện tình lớn này bạn không được mong đợi phải tin; bạn được mong đợi
có ý chí quyết tâm. Bạn có thể thấy cách con đường thay đổi.
Niềm tin có nghĩa là buông xuôi
ý chí của bạn theo đấng cứu tinh nào đó, theo sứ giả nào đó, theo nhà tiên tri
nào đó, theo Thượng đế nào đó. Nhưng chuyện tình lớn này cần ý chí vô cùng về
phần bạn để gạt bỏ đi mọi ý tưởng và mọi niềm tin, thực ra gạt bỏ bản thân tâm
trí bạn, để cho bạn có thể trở thành mở trong mọi chiều của sự tồn tại, sẵn có
cho mọi kinh nghiệm - và chúng là vô hạn.
Điều đó cần ý chí quyết tâm rằng
bạn sẽ không mang tri thức vay mượn, rằng bạn sẽ không vẫn còn bị ước định bởi
bố mẹ bạn, bởi thầy giáo của bạn, bởi các tu sĩ, một ý chí quyết tâm rằng bạn sẽ
lau sạch mọi chuyện tào lao này khỏi tâm bạn, và bạn sẽ vẫn còn hệt như bạn mới
được sinh ra - đứa trẻ nhỏ không có tâm trí mà chỉ là tâm thức tuyệt đối, không
có ngôn ngữ mà chỉ có sáng tỏ lớn lao. Đứa trẻ nhỏ nhìn cây nhưng nó không thể
nó chúng xanh; nó thấy trăng đẹp nhưng nó không thể nói đó là đẹp. Lời không đứng
giữa nó và sự tồn tại. Sẽ mất chút thời gian cho nó tạo ra bức tường quanh bản
thân nó những lời, ngôn ngữ, khái niệm, ý thức hệ, triết lí, tôn giáo. Bức tường
càng trở thành lớn và càng to, nó càng bị cầm tù nhiều hơn: mọi con người đều
là niềm huy hoàng bị cầm tù.
Ý chí lớn lao sẽ được cần tới để
bỏ mọi điều bạn biết - vì nó không phải là việc biết của bạn - và chỉ là đơn giản
và hồn nhiên. Đột nhiên, trong một phần giây, biến đổi xảy ra... bạn đã rơi vào
trong chuyện tình lớn, cái một như thế, và đức tín. Đức tín này không có tính từ;
nó đơn giản là sự đầy đủ đức tín.
Nếu ông bán tin bán nghi, sẽ
không có kết nối. Nếu bạn nửa tin và nửa ngờ, bạn sẽ không được kết nối với
chuyện tình lớn này, với sự tồn tại này. Bạn bao giờ cũng làm nhà bằng tay này
và phá nó bằng tay kia. Cứ nhìn vào đời bạn mà xem: bạn tạo ra chuyện tình nhỏ
- quên chuyện tình lớn đi! - ngay cả trong chuyện tình nhỏ của bạn, bạn đang tạo
ra nó bằng tay này và phá huỷ nó bằng tay kia.
Một sự kiện tâm lí được chứng
minh là yêu không bao giờ một mình, nó bao giờ cũng có cùng với ghét - bạn ghét
cùng người bạn yêu. Và họ liên tục thay đổi dịch chuyển: sáng bạn ghét, tối bạn
yêu.
Nhưng loại chuyện tình tới gần
và đi xa là quá trình không kết thúc. Nó sẽ không cho bạn mãn nguyện; nó sẽ
không cho bạn đức tín, tin cậy và phúc lạc. Vâng, thỉnh thoảng nó sẽ cho bạn
vài thoáng nhìn, nhưng nó cũng sẽ cho bạn nhiều ác mộng. Thế thì chúng tất cả
trộn lẫn và mọi người trở thành chỉ là đống lộn xộn. Ác mộng của họ và những
khoảnh khắc dịu ngọt của họ, những khoảnh khắc vàng của họ tất cả đều trộn lẫn
- nhìn vào bất kì tâm trí nào và bạn sẽ thấy cái lộn xộn này. Họ không thể nào
phân loại nó ra được.
Thực ra, không có cách nào để
phân loại nó. Hoặc buông nó xuống hoặc nhặt nó lên - đây là hai phương án duy
nhất. Một ngày nào đó mọi người sẽ buông bỏ nó, vì bạn có thể sống trong địa ngục
được bao lâu, bạn có thể hành hạ bản thân bạn được bao lâu? Không chuyện tình
nhỏ nào có thể là việc hoàn thành; bạn được sinh ra với năng lực cho chuyện
tình lớn.
Nó cần ý chí quyết tâm - không
phải là niềm tin, không phải là tri thức, mà là quyết tâm quyệt đối rằng bạn sẽ
là bản thân bạn, rằng bạn sẽ ném đi mọi cái đã được chất lên bạn, rằng bạn sẽ
khoả thân, như bạn đã được sinh ra, và bạn sẽ nhìn vào sự tồn tại mà không có
con mắt định kiến nào.
Có khả năng của việc được kết nối.
Bạn đã được kết nối rồi. Trong bụng mẹ của mẹ bạn, bạn đã thoải mái - đó đã là
toàn thể thế giới của bạn. Bạn đã nếm trải trong chín tháng cái vĩnh hằng của
an bình hoàn toàn, phúc lạc, không căng thẳng, không lo nghĩ, không buồn bã, chỉ
nhảy múa của trái tim. Khi bạn được sinh ra bạn đã bị ngắt với mẹ bạn, và thế rồi
việc ngắt đó tiếp diễn mãi liên tục nhân danh giáo dục; nhân danh làm cho bạn
thành văn minh, văn hoá, bạn liên tục trở nên bị ngắt ngày càng nhiều hơn với sự
tồn tại.
Sigmund Freud là đúng khi ông ấy
nói rằng mọi tôn giáo không là gì ngoài việc tìm bụng mẹ khác. Ông ấy có chân
lí lớn trong phát biểu của ông ấy. Đôi khi ông ấy gây choáng, và với người
đương đại của ông ấy, ông ấy đã rất gây choáng khi ông ấy nói rằng ham muốn của
mọi đàn ông đi vào thân thể đàn bà không là gì ngoài nỗ lực vô ý thức để tìm ra
bụng mẹ mà anh ta đã đánh mất - mặc dầu điều đó không phải là cách tìm ra nó.
Bây giờ, bạn cần bụng mẹ lớn
hơn... và sự tồn tại là sẵn có, nhưng bạn không biết cách đi vào trong nó. Bạn
bị cản trở bởi nhiều chướng ngại không cần thiết tới mức bạn không biết cách đi
vào sự tồn tại. Cách duy nhất là bỏ mọi chướng ngại này - chướng ngại được bạn
hỗ trợ.
Cổ đức nói, "Học đạo giống
như diễn tập cứu hoả. Ông vẫn không thể dừng được khi ông còn thấy khói: chỉ
khi tia lửa xuất hiện việc quay về nhà là đầy đủ."
Ý chí lớn sẽ được cần để liên tục
rèn luyện, cho dù trong thời gian dài không cái gì xảy ra. Nhưng một ngày nào
đó bạn sẽ thấy dấu hiệu của khói: đừng dừng ở đó, khói không phải là lửa! Chừng
nào tia lửa, chừng nào ngọn lửa chưa sẵn có cho bạn, đừng dừng lại; liên tục
luyện tập cho tới khoảnh khắc bản thân bạn trở thành ngọn lửa. Đó là việc hoàn
thành cuộc hành hương của bạn. Đó là chuyện tình lớn.
Muốn biết nó là đầy đủ ở đâu? -
Nó là thế giới của cái ngã và thế giới của người khác như cái một như thế.
Muốn biết nó là đầy đủ ở đâu? -
nó là đầy đủ khi thế giới của cái ngã và thế giới của người khác tất cả đều tan
biến trong tính như thế lớn lao, khi chỉ có một tâm thức đại dương diễn đạt bản
thân nó trong các hình dạng khác nhau.
Toàn thể sự tồn tại này là tình
huynh đệ.
Thánh Francis thường du hành
trên con lừa của ông ấy, và mọi người phân vân rất nhiều vì ông ấy thường gọi
con lừa là "Anh em Lừa." Nhiều lần họ nói, "Điều này có vẻ không
được; mọi người cười vào nó."
Ông ấy nói, "Nhưng lừa
không bao giờ cười, và tôi đang nói tới lừa, không phải là nói cho người. Và
chúng tôi có tình huynh đệ nào đó."
Ngày ông ấy chết lời cuối cùng
của ông ấy được dành cho con lừa, không cho những người đi theo, người đã tụ tập
tới từ những chỗ xa xôi. Ông ấy nói với con lừa, "Người anh em, ta đi đây.
Anh đã phục vụ ta cả đời anh với tình yêu sâu sắc tới mức nó bao giờ cũng còn lại
như kí ức trong ta, bất kì chỗ nào ta hiện hữu trong sự tồn tại. Và anh đã mở
cho ta cánh cửa của tình huynh đệ lớn lao. Chính cảm giác ở trong hoà điệu với
anh mà ta bắt đầu cảm thấy trong hoà điệu với các con vật khác, với cây cối."
Có những nhân chứng bằng mắt rằng
Thánh Francis ngồi trong rừng hoang và các con vật hoang sẽ tới ông ấy, ôm ông ấy.
Chim sẽ tới và đậu lên vai ông ấy, và khi ông ấy lại gần đại dương hay bất kì
dòng sông nào, các loai cá khác nhau sẽ nhảy lên vì vui mừng, bắt đầu nhảy múa
trong nước. Nhiều người đã thấy điều đó tới mức nó không thể là huyền thoại; có
nhiều ghi chép của những người khác, người đã thấy những điều này. Và bất kì
khi nào ông ấy được hỏi, "Bí mật của điều đó là gì?" ông ấy nói,
"Tôi không biết. Tôi biết duy nhất một điều: ngày tôi trở thành anh em với
con lừa của tôi, đột nhiên toàn thể sự tồn tại trở thành huynh đệ."
Cho nên để biết chỗ nào nó là đầy
đủ, một chỉ dẫn đơn giản là ở chỗ bạn rơi vào trong tính như thế sâu sắc.
Trong cả đời tôi, tôi không bao
giờ cảm thấy rằng bất kì cái gì là sai. Mọi thứ khớp đẹp trong vở kịch tới mức
không có nó, sự sống chắc đã kém phong phú đi chút xíu.
Khi tôi bị tù ở Mĩ, cảnh sát
trưởng của nhà tù đầu tiên là một người rất thông minh. Anh ta lập tức nhận ra
tôi. Khi anh ta đưa tôi vào xà lim, anh ta không ngồi lên ghế; anh ta ngồi trên
sàn, và anh ta nói, "Ngồi trên ghế trước thầy là không thể được với
tôi." Và anh ta hỏi, "Thầy không cảm thấy rằng cái gì đó đã đi sai ở
đâu đó sao? Điều này không thể là một phần của số phận của thầy được."
Tôi nói với anh ta, "Đây
phải là một phần của số phận của tôi chứ. Không cái gì đi sai; không cái gì đã
bao giờ đi sai. Đây là toàn thể tôn giáo mà tôi dạy: mọi thứ xảy ra đều là
đúng."
Sau mười hai ngày, khi tôi rời
nhà tù cuối cùng, viên cảnh sát trưởng nói, "Thật lạ, thầy có vể khoẻ hơn
khi thầy vào tù."
Tôi nói, "Vì tôi tận hưởng
nó nhiều thế, nó là kinh nghiệm mới thế. Nếu như tôi mà không ở trong tù cái gì
đó chắc vẫn còn không đầy đủ trong đời tôi. Nó đã làm cho tôi giầu hơn."
Anh ta nói, "Nhìn thầy, dường
như..."
Và tôi nói với anh ta, "Nếu
bạn muốn cuộc sống của tổng thống và phó tổng thống của bạn được giầu có hơn,
cho họ cùng kinh nghiệm này đi. Họ thực sự cần nó!"
Nhưng không một khoảnh khắc nào
tôi cảm thấy không thoải mái với sự tồn tại. Tôi không có bất kì đền chùa nào,
tôi không có bất kì nhà thờ hồi giáo nào, tôi không có bất kì nhà thờ nào, tôi
không có bất kì hệ thống niềm tin nào, nhưng tôi đã sống toàn bộ tới mức tôi có
thể nói cuộc sống là món quà lớn tới mức không lòng biết ơn nào có thể diễn đạt
được nó.
Phật nói, "Đức tín có thể
phá huỷ mãi mãi gốc rễ của ưu phiền..." Mọi ưu phiền của bạn được thu lại
một phát biểu đơn giản, không gì nhiều hơn: mọi sự không phải là điều chúng
đáng phải vậy. Bạn phải có vị trí tốt hơn, bạn phải được thừa nhận nhiều hơn, bạn
phải có của cải nhiều hơn, bạn phải có thân thể đẹp hơn, bạn phải có nhà tốt
hơn, vợ tốt hơn, chồng tốt hơn... Phàn nàn của bạn có cả triệu, và tất cả những
phàn nàn đó trong tâm trí bạn tạo ra khổ của bạn.
Phật là đúng khi ông ấy nói,
"Đức tín có thể phá huỷ mãi mãi gốc rễ của ưu phiền"... đức tín theo
nghĩa của ông ấy - chấp nhận bất kì cái gì đang là tình huống mà không có bất
kì phàn nàn nào, biết rằng đây là cách sự tồn tại muốn nó là vậy. Và nếu sự tồn
tại muốn nó là vậy, điều đó phải là đúng, vì bạn không thể khôn hơn bản thân sự
tồn tại. Bạn phải cần nó theo cách nào đó; phải có một phần nào đó trong bạn cần
nó làm cho bạn đầy đủ.
"... Đức tín có thể hội tụ
ông vào đức hạnh của phật tính." Chính bởi cánh cửa của đức tín, tin cậy,
yêu, như thế, mà bạn đi vào những cánh cửa của phật tính.
Tôi nhớ tới một phật khác,
Socrates. Vợ ông ấy là đủ để làm cho bất kì người nào thành chứng ngộ, cho nên
đấy không phải là sự vĩ đại của Socrates làm cho ông ấy thành chứng ngộ đâu;
toàn thể công lao thuộc về vợ ông ấy. Ông ấy liên tục dạy - học sinh từ những
nơi xa xôi tụ tập tới nhà ông ấy - và vợ ông ấy bị xúc phạm một cách tự nhiên rằng
ông ấy không bao giờ để ý tới bà ấy, ông ấy không có thời gian.
Một hôm bà ấy chuẩn bị trà cho
ông ấy, và thế rồi vài học sinh tới và ông ấy trở nên bị cuốn hút vào trong biện
luận sâu. Vợ ông ấy trở nên giận tới mức bà ấy rót nước nóng lên mặt ông ấy; nửa
mặt ông ấy bị bỏng mãi mãi - nhưng ông ấy không gián đoạn cuộc đối thoại với học
sinh của mình. Học sinh sững sờ! Họ không thể tin được điều đó: "Trời, mặt
thầy bị bỏng, nhưng thầy không bị rối loạn chút nào!" Họ gần như đã quên mất
vấn đề đang được thảo luận, nhưng ông ấy tiếp tục. Họ nói, "Chúng tôi đã
quên mất vấn đề là gì. Trước hết xin làm rõ ràng một điều cho chúng tôi: vợ thầy
là quỉ, mặt thầy bị bỏng."
Socrates nói, "Bà ấy là
phép thử lửa của ta. Ta biết ơn mênh mông với bà ấy. Bà ấy đã làm mọi thứ để
làm rối loạn ta, làm cho ta giận, nhưng bản thể ta vẫn còn điềm tĩnh. Ta mang nợ
bà ấy nhiều. Bất kì cái gì ta là vậy, không có bà ấy điều đó sẽ là không thể được.
An bình của ta, im lặng của ta, hiểu biết của ta, chấp nhận của ta về bất kì
tình huống nào tất cả đều mang ơn bà ấy."
Nếu bạn nhìn cuộc sống - và đây
là cách thức của người tìm kiếm - thế thì bạn thay đổi mọi ưu phiền thành bàn đạp,
mọi ác mộng thành tình huống cho thức tỉnh.
"Đức tín có thể siêu việt
lên nhiều con đường của ảo tưởng, và hiển thị con đường của giải thoát không ai
vượt qua."
Cảm thấy tính một cùng sự tồn tại
đi... [Tiếng nổ từ bên ngoài được nghe thấy.] Bây giờ ai đó tới với con khỉ của
mình và với chiếc trống của mình...!
Cuộc sống là phong phú thế và đẹp
không thể tin được thế. Nếu bạn có thể thảnh thơi với nó, bạn đã đạt tới con đường
của giải thoát không ai vượt qua, bạn đã đạt tới chính cõi bên kia tối thượng
điều không ai đã từng đi. Và nó đơn giản thế: mọi điều bạn cần là học nghệ thuật
của chấp nhận, như thế, và đức tín sẽ nảy sinh ra từ nó. Với đức tín nảy sinh,
mọi cánh cửa của sự tồn tại được mở ra cho bạn, mời chào bạn.
Người tôn giáo của thế giới đã
phá huỷ cái thực và nghĩa bản chất của tôn giáo. Bằng việc tạo ra nghi lễ, lời
cầu nguyện, tượng, nhà thờ, giáo đường, họ đã làm lầm lạc toàn thể nhân loại.
Không cái gì trong những điều đó là được cần; nó toàn là đồ đồng nát. Mọi điều
được cần là ngọn lửa nhỏ của yêu hướng tới tất cả, không có bất kì điều kiện
nào, không có bất kì mong đợi nào - và bất kì cái gì cuộc sống mang tới, chấp
nhận nó với lòng biết ơn.
Cho nên đơn giản là kinh nghiệm
tôn giáo thực. Không kinh sách linh thiêng nào được cần. Bạn không phải đi bất
kì chỗ nào. Bất kì chỗ nào bạn hiện hữu, bạn có thể tạo ra kinh nghiệm về tính
như thế, và bạn có thể nở hoa thành đoá hoa của đức tín, điều tự động trở thành
hương thơm của phật tính.
Đại Huệ đã đi con đường dài. Nó
đã là kinh nghiệm hay để thấy một người trí thức, con người của thông thái, biến
đổi bản thân ông ấy thành con người của hồn nhiên, đức tín, như thế. Ông ấy đã
đi từ tâm trí sang vô trí.
Điều tốt là chúng ta cũng đã du
hành cùng ông ấy, với mọi nhược điểm của ông ấy, điều cũng là nhược điểm của
chúng ta nữa. Nhưng điều chắc chắn là nếu ông ấy có thể đạt tới phật tính, mọi
người khác cũng có thể đạt tới phật tính.
Tất cả các bạn về bản chất đều
đang mang đứa trẻ tối thượng, hồn nhiên tối thượng. Chỉ chút ít ý chí, chút ít
dũng cảm, và bạn đã về tới nhà.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá