Chương 2. Sáng suốt

Chương 2. Sáng suốt

Price:

Read more

Thiền sư lớn Đại Huệ - Tập 1 - Osho
Suy nghĩ về biến đổi từ trí thức sang chứng ngộ
Chương 2. Sáng suốt


Osho ơi,
Chăn trâu
Đã học đạo này, trong mười hai thời, nơi tuỳ duyên tiếp vật không cho ác niệm tương tục, hoặc khi sơ sót khởi một niệm ác phải gấp kéo đầu trở lại. Nếu để mặc nó tương tục không dứt, chẳng những chướng đạo, cũng gọi là người không trí tuệ.
Khi xưa Qui Sơn hỏi Đại An: Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?
An nói: Chăn trâu.
Sơn nói: Ngươi chăn như thế nào?
An nói: Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về.
Sơn nói: Ngươi là người chăn trâu chân thật.
Người học đạo kiềm chế ác niệm nên như Đại An chăn trâu thì lâu ngày tự thuần thục vậy.
"Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết. "Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo. Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm từ sáng tới tối đã làm việc gì tự lợi, lợi người? Nếu cảm thấy hơi thiên một bên thì phải tự cảnh sách, chẳng nên khinh thường.
Xưa kia Thiền sư Đạo Lâm kết am trên cây tùng nơi núi Tần Vọng, người thời ấy gọi Ngài là Hoà thượng "tổ chim."
Khi Bạch Cư Dị làm quan Thị lang ở Tiền Đường có vào núi thăm Sư.
Dị thưa: Chỗ ở của Sư rất nguy hiểm.
Sư Nói: Lão Tăng có gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn.
Dị nói: Đệ tử trấn thủ giang sơn có gì nguy hiểm?
Sư nói: Củi lửa lẫn lộn, tính thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư!
Dị lại hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư nói: Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành.
Dị nói: Con nít ba tuổi cũng biết nói như thế.
Sư nói: Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được.
Dị liền lễ bái cáo từ.
Chăn trâu là biểu tượng rất cổ trong lịch sử của Thiền. Có mười bức tranh ở Trung Quốc; bức tranh thứ mười đã là nguyên nhân của tranh cãi lớn. Tôi muốn bạn hiểu mười bức tranh đó, và cuộc tranh cãi, trước khi chúng ta bắt đầu bài giảng của Đại Huệ về chăn trâu.
Mười bức tranh này hay vô cùng. Trong bức thứ nhất, con trâu bị lạc. Người chủ trâu đang đứng, nhìn khắp xung quanh trong rừng rậm, và anh ta không thể thấy được con trâu đã đi đâu. Anh ta đơn giản ngơ ngác, bối rối. Trời đang tối dần, mặt trời đang lặn; đêm sẽ sớm buông, và thế thì đi vào rừng tậm để tìm trâu sẽ trở nên mỗi lúc một khó hơn.
Trong bức tranh thứ hai anh ta thấy dấu chân trâu. Anh ta cảm thấy sung sướng hơn chút ít; có lẽ có khả năng tìm ra trâu - anh ta đã thấy dấu chân. Anh ta đi theo dấu chân.
Trong bức tranh thứ ba anh ta thấy lưng trâu đang đứng trong rừng rậm. Khó thấy, nhưng anh ta có thể hình dung ra đó là lưng trâu. Trong bức thứ tư anh ta đã tiến tới trâu; anh ta có thể nhìn thấy trâu bây giờ, toàn thân nó. Anh ta hân hoan.
Trong bức thứ năm, anh ta tóm được sừng trâu. Đó là cuộc giằng co lớn để đem nó trở về nhà nhưng anh ta thắng. Trong bức thứ sáu anh ta cưỡi lên trâu, quay về nhà. Đây là những bức tranh đẹp!
Trong bức thứ bẩy con trâu được buộc vào chỗ của nó. Trong bức thứ tám người này đầy vui mừng tới mức anh ta bắt đầu thổi sáo. Bức thứ chín là cái khung trống rỗng - không có gì được vẽ trong nó.
Trong bức thứ mười, cái là nguyên nhân cho tranh cãi lớn, người này đang đi cùng bầu rượu hướng tới bãi chợ, gần như say. Bạn có thể thấy, anh ta thậm chí không thể bước được. Bức tranh thứ mười này đã gây ra tranh cãi lớn suốt hai nghìn năm.
Một phái, chính là phái đa số của đại thừa, tin rằng bức thứ chín là bức tranh cuối cùng. Nó đại diện cho vô trí; bạn đã đạt tới mục đích. Con trâu là cái ngã bên trong nhất của bạn mà bạn đã để lạc, và toàn thể chuỗi tranh này là việc tìm kiếm cái ngã bên trong của bạn. Bạn đã tìm thấy cái ngã này trong bức thứ chín. Có im lặng mênh mông và an bình. Nó là niết bàn, nó là vô trí.
Bên ngoài bức thứ chín... những người nói đây là chỗ cuối cùng của cuộc hành trình nghĩ rằng ai đó đã thêm vào bức thứ mười, điều dường như tuyệt đối không liên quan. Nhưng những người thuộc vào phái nhỏ của Thiền tin vào bức thứ mười nữa. Họ nói rằng khi người ta đã trở nên chứng ngộ đây không phải là kết thúc. Đây là đỉnh cao nhất của tâm thức, nó là thành tựu vĩ đại nhất, nhưng người ta phải quay lại thế giới con người, tới thế giới bình thường. Người ta phải lần nữa trở thành một phần của nhân loại lớn hơn. Chỉ thế thì người đó mới có thể chia sẻ, chỉ thế thì người đó mới có thể khơi gợi người khác về việc tìm kiếm. Và chắc chắn khi người đó tới từ đỉnh cao thế, người đó tuyệt đối say với cực lạc. Chai rượu kia không phải là rượu thường. Nó chỉ là biểu tượng của trạng thái cực lạc.
Khi những bức tranh này được mang sang Nhật Bản, chỉ mới một nghìn hai trăm hay một nghìn ba trăm năm trước, chỉ chín bức tranh được mang sang. Bức thứ mười gây rắc rối; nó đã bị bỏ lại ở Trung Quốc.
Tôi đã phân vân khi lần đầu tiên tôi nhìn vào các bức tranh Nhật Bản. Chúng dường như đầy đủ. Một khi bạn đã đạt tới niết bàn, cái gì thêm nữa có đó? Và thế rồi tôi thấy trong cuốn sách Trung Quốc cổ mười bức tranh. Tôi lập tức sung sướng rằng ai đó có sáng suốt từ hai nghìn năm trước rằng phật không phải là phật nếu ông ấy không thể quay lại với nhân loại bình thường, nếu ông ấy không thể lại trở thành đơn giản, hồn nhiên, mang niết bàn của mình, mang cực lạc của mình trong bầu rượu, hoàn toàn say sưa với điều thiêng liêng nhưng vẫn đi tới bãi chợ.
Tôi có thể thấy rằng bất kì người nào đã vẽ bức tranh thứ mười là đúng. Mãi cho tới bức thứ chín, nó đơn giản là logic. Bên ngoài tâm trí, bức thứ mười, là việc nhận ra lớn lao.
Theo tôi, mãi cho tới bức thứ chín con người chỉ là phật; với bức thứ mười anh ta cũng trở thành một Zorba. Và đây đã là chủ đề thường xuyên của tôi: tôi đã từng nhấn mạnh rằng bức tranh thứ mười là đích thực, và nếu nó mà không có đó, tôi sẽ vẽ nó. Không có nó, việc kết thúc trong hư không có vẻ hơi chút buồn bã, có vẻ hơi chút nghiêm chỉnh, có vẻ trống rỗng.
Mọi nỗ lực này của việc tìm ra bản thân bạn, thiền, đi ra ngoài tâm trí, nhận ra bản thể bạn và kết thúc trong sa mạc của hư không... không, phải có cái gì đó nhiều hơn cho nó, cái gì đó bên ngoài nó hơn, nơi hoa nở, nơi bài ca nảy sinh, nơi điệu vũ lại là có thể - tất nhiên, ở mức độ khác toàn bộ.
Nhưng những bức tranh này về chăn trâu đã được thấy là cực kì có ý nghĩa trong giải thích toàn thể con đường từng bước một.
Đại Huệ nói,
Đã học đạo này...
Nhớ điều tôi đã nói về Đại Huệ - ông ấy là thầy giáo; bằng không không thầy nào có thể dùng từ học. Thầy sẽ nói, "Vì ông đang đi theo con đường này, vì ông ở trên con đường này..." Học sao? - đó không phải là cách thức của người tìm kiếm; đó là cách thức của học trò tò mò, người muốn biết cái gì đó - nhiều thông tin hơn, nhiều tri thức hơn - nhưng là người không quan tâm tới thực tại biến đổi bản thân mình.
Nhưng Đại Huệ là thầy giáo. Mặc dầu ông ấy đã cố gắng theo mọi cách có thể để nêu ra như một thầy, ông ấy không thể lừa được bất kì ai đã chứng ngộ. Đây đó sẽ có chỗ hở, nhưng ông ấy không thể hình dung được rằng chúng sẽ chỉ ra tính thầy của ông ấy chỉ là đạo đức giả.
Điều chắc đã là tuyệt đối đúng nếu ông ấy đã nói, "Tôi chỉ là thầy giáo." Nhưng ông ấy không nói điều đó. Khi có khả năng được chấp nhận là thầy - ngay cả hoàng đế cũng chấp nhận ông ấy là Thầy lớn của Thiền - thế thì ông ấy giữ im lặng. Ông ấy phải đã biết, vì ông ấy dường như là người rất thông minh, ông ấy phải đã nhận biết rằng ông ấy không phải là thầy. Ông ấy là thầy giáo rất giỏi, và tôi muốn bạn nhớ ở mọi điểm về cách ông ấy biểu lộ vô nhận biết của ông ấy.
Đã học con đường này... Việc học thuộc vào học trò. Người tìm kiếm không nghiên cứu đạo, người đó tham gia vào. Người đó tham gia vào toàn thể cuộc hành hương. Người đó là một người hành hương, người đó không phải là học trò. Người đó không có ham muốn biết về con đường; người đó muốn đạt tới đích - dù có đường hay không có đường. Người đó muốn quay về nhà.
trong mười hai thời, nơi tuỳ duyên tiếp vật không cho ác niệm tương tục.
Lần nữa, lại lỗ hổng. Vấn đề không phải là ác niệm và thiện niệm; mọi niệm, mọi ý nghĩ đều sai khi có liên quan tới việc đi ra ngoài tâm trí. Ông ấy thậm chí không nhận biết về sự kiện là cái đúng và sai không bao giờ tách rời; chúng bao giờ cũng cùng nhau.
Bạn có thể tách rời yêu và ghét được không? Hàng triệu người đã thử nhưng không một người nào đã có khả năng thành công, vì bạn sẽ đi ngược lại chính bản tính của mọi thứ.
Bạn có thể tách tối và sáng được không? Mặc dầu chúng có vẻ khác nhau thế, cuộc truy hỏi khoa học vào trong ánh sáng và trong bóng tối đã chứng minh cái gì đó chống lại cách hiểu thông thường. Khác biệt giữa tối và sáng chỉ là ở mức độ. Tối đơn giản nghĩa là ít sáng, và sáng đơn giản nghĩa là ít tối.
Đó là lí do tại sao có những con vật, như con cú và các con khác, với chúng đêm là ngày. Chúng có mắt tốt hơn bạn có mắt, cho nên ngay cả ánh sáng kém hơn - mà với bạn có vẻ là tối - với chúng nó là đầy ánh sáng. Mắt chúng có nhiều khả năng hơn mắt bạn. Ban ngày chúng không thể mở mắt được, vì mắt chúng nhạy cảm tới mức ánh sáng ban ngày thành loá. Trong ánh sáng ban ngày mắt chúng đơn giản nhắm lại; một cách tự nhiên chúng thấy tối. Khi với bạn trời là sáng, với cú trời là đêm. Và khi với bạn trời là đêm, với cú trời là ngày, đầy ánh sáng.
Cho nên khác biệt giữa sáng và tối chỉ ở mức độ. Bạn không thể có sáng mà không có tối, và bạn không thể có Thượng đế mà không có quỉ.
Điều kì lạ là các tôn giáo tin vào Thượng đế tự động tin vào quỉ nữa. Họ phải vậy, đó chỉ là sự cần thiết logic. Và các tôn giáo không tin vào Thượng đế, không tin cả vào quỉ nữa. Chẳng hạn, Jaina giáo không có Thượng đế, do đó không có quỉ. Nó đơn giản ở ngoài vấn đề. Nhưng mọi tôn giáo tin vào Thượng đế phải chấp nhận đối lập cực của ngài, quỉ.
Tại sao có sự cần thiết này? Vì sự tồn tại bao giờ cũng cần phân cực. Sinh được phân cực bởi chết, yêu được phân cực bởi ghét, từ bi được phân cực bởi độc ác. Nhìn khắp sự sống mà xem. Mọi thứ đều có đối lập cực của nó, và nếu bạn có thể bỏ đi cái đối lập cực thế thì cực kia cũng sẽ biến mất. Chúng có thể tồn tại chỉ khi cùng nhau.
Thiện niệm là gì và ác niệm là gì? Và làm sao bạn có thể tách rời chúng được? Chỉ thầy giáo không biết rằng cách tiếp cận chung cuộc hướng tới bản thể bạn cần mọi ý nghĩ biến mất - không thành vấn đề liệu chúng là thiện hay ác. Chúng ta không nói ở đây về đạo đức; chúng ta đang nói ở đây về tôn giáo đích thực.
Tất nhiên trong đạo đức có thiện niệm và ác niệm, và chúng tất cả đều tuỳ tiện. Vì với người Mô ha mét giáo, có bốn vợ không phải là ý nghĩ xấu, nhưng với mọi người khác trên thế giới chính ý nghĩ về có bốn vợ là ý tưởng xấu.
Với người Hindus cổ đại, thậm chí đàn bà có năm chồng không phải là ý nghĩ xấu; đàn bà có năm chồng được tôn thờ như một trong năm người đàn bà vĩ đại của Ấn Độ! Tất nhiên năm chồng không phải là con số đúng vì ngày cuối tuần còn lại - làm gì với ngày cuối tuần? Mọi ngày trong năm ngày người đàn bà đáng thương đó phải đổi chồng, và hai ngày chỉ là ngày nghỉ. Cho nên ngày cuối tuần không phải là cái gì đó mới và có tính chất Mĩ; nó rất cổ đại và có tính Ấn Độ! Không ai đã kết án điều đó là tình huống xấu. Không nhà tư tưởng hay triết gia hay nhà thượng đế học Hindu nào đã kết án điều đó; nó đã là chấp nhận được.
Yudhishthira, anh cả của năm người em trai có chung một vợ, được người Ấn Độ coi là một trong những người tôn giáo nhất đã từng sống trên trái đất. Ông ấy có tên là Dharmaraj, "vua của tính tôn giáo." Và anh chàng Yudhishthira này là kẻ đánh bạc khát nước; anh ta đánh bạc tới mức độ anh ta đặt cược cả vương quốc, toàn thể kho báu, và chung cuộc anh ta đặt cược cả vợ của mình!
Cả năm anh em đều có mặt, và họ ưng thuận. Và không ai đã kết án điều đó. Họ vẫn liên tục gọi Yudhishthira là một trong những người tôn giáo vĩ đại nhất - và anh ta đã đối xử với người đàn bà này còn tồi hơn là anh ta đối xử với con vật, dường như đàn bà chỉ là mảnh tài sản chết, như đồ đạc, mà bạn có thể dùng để đánh bạc.
Vậy cái gì là đúng?
Với người Mô ha mét giáo, Koran là nguồn linh thiêng của họ, và Koran nói Thượng đế tạo ra mọi con vật khác cho con người ăn. Bây giờ nếu Thượng đế nói điều đó, không có hại gì trong việc ăn con vật. Ngoại trừ con người, mọi con vật đều có thể bị làm thịt và bị ăn mà không có vấn đề gì. Không vấn đề về bạo hành nào đã bao giờ nảy sinh. Thế rồi có người Jainas. Sư của họ đeo màn chắn trên mũi vì khi bạn thở ra không khí trở nên nóng, và trong bầu khí quyển có những tế bào sống rất tí hon mà khí nóng có thế giết chết. Để bảo vệ những tế bào đó mà bạn không thể thấy được, họ liên tục che mũi bằng miếng vải, để cho lúc khí nóng đi ra qua vải nó không còn nóng nữa; vải ngăn cản nó và làm mát nó. Bây giờ ai là đúng?
Có các sư Hindu cạo đầu, cạo râu mép, râu cằm - mọi thứ lông đều phải bị loại bỏ. Lí do là ở chỗ họ coi rằng lông là phần chết của thân thể. Theo một cách nào đó họ là đúng. Tế bào chết trong thân thể bạn đang bị tống ra liên tục theo những cách khác nhau. Đó là lí do tại sao khi bạn cắt tóc bạn không cảm thấy đau. Nếu chúng mà sống bạn chắc đã cảm thấy đau. Cho nên lông chỉ là chết như bất kì cái xác nào. Tại sao mang thứ chết? Người Hindus và sư của họ loại bỏ chúng.
Nếu bạn nhìn vào những người khác nhau, các tín ngưỡng khác nhau, bạn sẽ đơn giản ngạc nhiên. Nhưng làm sao quyết định được cái gì là đúng và cái gì là sai?
Ở Trung Quốc, thậm chí ăn rắn không bị coi là cái gì kì lạ. Thực ra nó là một trong những thức ăn ngon nhất. Họ chỉ phải cắt đầu rắn, vì chất độc của nó chỉ ở trong mồm - chỉ một tuyến nhỏ trong mồm có chất độc. Họ chặt đầu, và phần còn lại chỉ là rau. Nếu bạn là khách trong một nhà Trung Quốc, họ chắc chắn sẽ phục vụ cho bạn món đó, chỉ như việc đón chào, và những người đã ăn nó đều nói nó là ngon.
Không một con vật, chim chóc, sâu bọ nào mà không bị ăn ở đâu đó. Điều đó sẽ làm cho bạn thấy buồn nôn - đây là loại người gì vậy? Nhưng về tín ngưỡng họ đã chấp nhận điều đó là đúng, và một khi cái gì đó được chấp nhận là đúng, nó trở thành đúng cho tín ngưỡng đó, cho những người đó. Họ đơn giản cười bạn - bạn bỏ lỡ thức ăn ngon thế.
Ở Ấn Độ cổ đại, và thậm chí bây giờ ở Nam Ấn Độ, các ngôi đền không là gì ngoài nhà thổ. Đã là tục lệ rằng mọi người phải dâng hiến con gái cả của họ cho Thượng đế, nhưng Thượng đế chỉ là bức tượng đá; tu sĩ khai thác người đàn bà đáng thương về mặt dục, nhân danh Thượng đế. Thế rồi nhiều đàn bà thế bắt đầu tụ tập trong đền, và người giầu bắt đầu tới đền. Những người đàn bà này được gọi là devadasis, người hầu của Thượng đế, nhưng chức năng thực của họ là để hấp dẫn người giầu tới đền. Họ vận hành như gái mãi dâm tôn giáo, và vì họ mà đền liên tục trở nên ngày càng giầu hơn.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng mới vài ngày trước, ở Bombay, một cuộc điều tra đã được thực hiện về gái mãi dâm. Ba mươi phần trăm được thấy là các devadasis từ các ngôi đền của Nam Ấn Độ, vì nếu tu sĩ thấy ai đó đủ đẹp, thế thì tốt hơn cả là bán cô ấy ở chợ Bombay thay vì giữ cô ấy trong đền. Theo cách đó các tu sĩ có thể kiếm được số tiền trả gọn. Ba mươi phần trăm gái mãi dâm đã được cúng dường cho Thượng đế đã tới chợ gái mãi dâm ở Bombay. Và không người Hindu nào đã phản đối điều đó - thậm chí cả ngay nay. Chính phủ không để ý tới. Việc đó vẫn tiếp tục vì không ai muốn chọc giận bất kì ai. Mọi người đang cố ra vẻ tốt trong con mắt của người khác.
Hàng triệu đàn bà ở nước này đã bị thiêu sống! Họ phải chết cùng chồng họ; họ phải nhảy vào dàn hoả thiêu với người chồng chết. Điều đó được gọi là truyền thống tự thiêu theo chồng. Những người đàn bà đã kiểm soát việc tự tử này - việc tự tử rất đau đớn - đã được gọi là người đàn bà vĩ đại, người đàn bà rất tôn giáo.
Nhưng ý tưởng thực đằng sau nó không có tính tôn giáo; không có gì tốt trong nó. Ý tưởng thực đằng sau nó là ở chỗ đàn ông không muốn vợ mình, khi anh ta đã chết... ai biết được? Cô ấy có thể rơi vào yêu ai đó khác. Anh ta muốn giữ cô ấy như tài sản của mình ngay cả sau cái chết. Cho nên cách duy nhất là - vì rời bỏ cô ấy anh ta không thể tin cậy được - rằng cô ấy phải cũng chết cùng anh ta, chỉ để thoả mãn cho thói bạo dâm, gia trưởng nam, ý tưởng ngu xuẩn về là người sở hữu.
Họ kính trọng những người đàn bà này, họ làm đài kỉ niệm cho những người này. Tôi đã hỏi các shankaracharyas và các sư Hindu có học và khôn ngoan, "Nếu đây là hoàn cảnh, tại sao không có một người đàn ông nào trong toàn thể lịch sử nhảy vào dàn thiêu cùng vợ khi cô ấy chết?" Và họ không có gì để trả lời. Họ đơn giản có vẻ bối rối, họ muốn thay đổi chủ đề. Nhưng với tôi rất khó thay đổi chủ đề! Tôi nói, "Nếu đó là cái gì đó lớn lao, thế thì đàn ông đã tự chứng minh bản thân mình thấp hơn đàn bà."
Nhưng chân lí là ở chỗ đàn ông bao giờ cũng nghĩ rằng anh ta là người chủ, và đàn bà là vật sở hữu - tại sao anh ta phải chết cho vật sở hữu? Anh ta có thể có nhiều đàn bà như anh ta muốn.
Thực ra, ở Ấn Độ cổ đại đàn bà đã bị bán ở bãi chợ - như họ đã bị bán ở khắp trên thế giới - như nô lệ. Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng các thánh nhân, hiền nhân Hindu lớn - vì không ai nhìn đằng sau bức màn - ngay cả họ đã đi vào chỗ đàn bà bị đấu giá, và họ đã mua đàn bà.
Họ có vợ và bên cạnh đó họ đã mua đàn bà. Với những người đàn bà được mua, một từ đặc biệt đã được dùng. Với người vợ từ này là patni và với người đàn bà được mua từ này là vadhu. Bây giờ phân biệt bị mất rồi, vì bây giờ không có chỗ đấu giá về đàn bà.
Nhưng điều đó đã được chấp nhận như là đúng hoàn hảo. Ngay cả cái gọi là các nhà tiên tri, thánh nhân, người bạn chắc nghĩ đã đi ra ngoài mọi thứ trần tục, đã không nhạy cảm thế để nổi dậy chống lại quá trình tàn bạo về đấu giá đàn bà, vẫn mua họ chỉ như bất kì thứ gì khác bạn mua ở chợ.
Cái gì là đúng? Và cái gì là sai?
Cho nên vấn đề không phải là, không cho ác niệm tương tục. Bạn phải không để ý nghĩ liên tục - không có vấn đề về đúng, không có vấn đề về sai.
Nói cách khác: mọi ý nghĩ đều là sai.
Mọi ý nghĩ phải bị loại bỏ khỏi tâm trí bạn để cho màn ảnh của tâm trí hoàn toàn trống rỗng, do vậy bạn có bầu trời mở bao la và không cái gì chuyển động trong tâm trí. Đó là Thiền đích thực. Nhưng điều đó chỉ có thể được nói bởi thầy chứng ngộ.
Đại Huệ đã thu thập, từ đây đó, bất kì cái gì ông ấy cảm thấy dường như là có ý nghĩa. Nhưng ông ấy không có tiêu chí bên trong để phán xét cái gì là con đường đích thực của việc tự nhận ra. Ông ấy đã đi tới đủ mọi loại thầy giáo, và ông ấy đã thu thập mọi thứ ý nghĩ mâu thuẫn.
Ông ấy là người thông minh, nhưng một mình thông minh không có khả năng quan niệm được bản tính của bản thể bạn. Nó không đủ.
hoặc khi sơ sót khởi một niệm ác phải gấp kéo đầu trở lại.
Thứ nhất, mọi niệm đều là sai.
Thứ hai, bạn không phải gấp kéo đầu trở lại, kéo năng lượng tâm trí của bạn đi xa, vì năng lượng tâm trí là rễ của mọi ý nghĩ của bạn. Nó là mẹ của mọi quá trình ý nghĩ của bạn, thiện hay ác. Năng lượng tâm trí phải không bị kéo đi xa. Bạn phải thoát ra khỏi năng lượng tâm trí, ra khỏi đống lộn xộn của năng lượng tâm trí; bạn phải kéo bản thân bạn ra.
Bạn phải đứng tách ra khỏi tâm trí của bạn, như người quan sát. Bất kì cái gì diễn ra trong tâm trí, bạn thậm chí không can thiệp. Bạn đơn giản quan sát. Bạn đơn giản liên tục nhìn nó, dường như nó là tâm trí của ai đó khác, và bạn chẳng liên quan gì tới nó - nó không phải là việc của bạn.
Trong xa cách dửng dưng này, mọi ý nghĩ biến mất.
Và với ý nghĩ biến mất không có tâm trí, vì tâm trí không là gì ngoài cái tên tập thể của các ý nghĩ.
Đại Huệ không biết gì về thiền. Ông ấy không bao giờ thiền.
Nếu để mặc nó tương tục không dứt, chẳng những chướng đạo, cũng gọi là người không trí tuệ.
Ông ấy không biết gì về trí huệ. Ông ấy đang dùng từ sai. Bất kì cái gì ông ấy nói... chỉ một thứ có thể được nói: Nếu bạn cho phép ý nghĩ liên tục không ngắt quãng, điều này sẽ không chỉ cản trở con đường, mà nó làm cho bạn bị coi là người không có tri thức - không phải là không có trí tuệ.
Điều đó cũng phải được thấy rõ ràng. Tri thức là tuyệt đối liên quan trong khoa học. Chính nghĩa của từ 'khoa học' là tri thức, và toàn thể nỗ lực của khoa học là liên tục đổi cái không biết thành cái biết. Mục đích tối thượng của khoa học là ở chỗ một ngày nào đó sẽ không cái gì bị bỏ lại không biết - mọi thứ sẽ được biết.
Mọi thứ sẽ bị thu lại thành tri thức. Và đây là điểm mà tôn giáo khác đi. Và khác biệt này có giá trị mênh mông.
Tôn giáo nói rằng không chỉ có hai phân loại trên thế giới, phân loại về cái biết và cái không biết. Có ba phân loại mà có ý nghĩa hơn là hai phân loại kia, và đó là phân loại về cái không thể biết, điều bí ẩn, điều huyền bí. Bạn có thể sống nó, bạn có thể là nó, bạn có thể hân hoan nó, bạn có thể hát nó, bạn có thể nhảy múa nó. Nhưng bạn không thể biết được nó. Tri thức là không thể được.
Đi vào trong cõi này của cái không thể biết là trí huệ.
Trí huệ không phải là tri thức.
Trí huệ là hồn nhiên và cảm giác sâu sắc về điều huyền bí.
Mắt của người trí huệ đầy ngạc nhiên; chỉ một đoá hoa nhỏ cũng làm cho người đó ngạc nhiên. Nó huyền bí thế - tại sao nó có đó?
Chuyện xảy ra một đêm... Socrates không về nhà mình. Vợ ông ấy rất bối rối, cả nhà hàng xóm cũng bối rối. Họ nhìn khắp xung quanh - ông ấy đã đi đâu? Ông ấy không phải là người đi bất kì đâu; từ trường nơi ông ấy thường dạy, ông ấy hay đi thẳng về nhà. Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đây, nó là không có tiền lệ trước. Tuyết đang rơi, và họ rất bận tâm liệu ông ấy có bị lạc đâu đó trong rừng không. Đến sáng họ tìm thấy ông ấy. Ông ấy đang đứng bên cạnh một cây, dựa lưng vào cây, và nhìn lên trời. Khi họ tiến tới ông ấy, ông ấy gần như đông cứng, vì đã có tuyết ngập tới đầu gối ông ấy.
Họ lay ông ấy - "Ông làm gì ở đây vậy?" Ông ấy nói, "Tôi làm gì ở đây ư? Đêm đã tuyệt vời thế và sao huyền bí tới mức tôi cứ nhìn chăm chăm mãi. Nhiều lần ý nghĩ tới rằng đã muộn rồi, nhưng tôi gần như bị thôi miên bởi các ngôi sao và cái đẹp của chúng. Tôi biết rằng tuyết đang rơi, tôi run cả người - nhưng tôi không thể chuyển động được."
Bây giờ người này là con người của trí huệ. Có hàng triệu người liên tục chạy đây đó, không bao giờ nhìn lên trời. Nó ở ngay trên đỉnh họ - không mất tiền, không vé, không đứng xếp hàng trước rạp chiếu phim - và huy hoàng thế! Và bạn sở hữu nó, vì không ai khác sở hữu nó.
Đêm trăng tròn, và không cái gì khuấy động trong tim bạn sao?
Bụi hồng nở, và không cái gì nở ra trong bản thể bạn sao?
Con chim cúc cu bắt đầu hót bài ca của nó, và bạn không có được con chim cúc cu đó sao?
Trí huệ là thứ khác toàn bộ với tri thức. Tri thức giải huyền bí của sự tồn tại; trí huệ làm nó huyền bí lên. Trí huệ thuộc vào nhà huyền bí; tri thức thuộc vào nhà khoa học, nhà triết học, nhà thượng đế học - nhưng họ không phải là con người của tôn giáo. Họ không biết nhịp tim đập của vũ trụ.
Chỉ những người đi vào trong cõi giới của điều huyền bí mở ra hết cánh cửa nọ tới cánh cửa kia của điều huyền bí và đột nhiên thấy bản thân họ, không trong thế giới trần tục mà vô nghĩa, mà trong chỗ tiên cảnh nơi mọi thứ là có ý nghĩa thế, thơ ca thế, âm nhạc thế, đẹp thế.
Toàn thể kinh nghiệm này là kinh nghiệm của người tôn giáo. Và kinh nghiệm này là có thể chỉ nếu bạn có thể gạt tâm trí bạn sang bên. Tâm trí là kẻ thu thập tri thức; nó không quan tâm tới điều huyền bí.
Khi xưa Qui Sơn hỏi Đại An: Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?
An nói: Chăn trâu.
Sơn nói: Ngươi chăn như thế nào?
An nói: Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về.
Sơn nói: Ngươi là người chăn trâu chân thật.
Thiền đầy những đối thoại nhỏ như vậy, điều rất đặc biệt cho Thiền. Trong phát biểu nhỏ này, chỉ vài từ được truyền giữa hai người, nhưng mọi thứ phải được nói về Thiền đã được nói.
An nổi tiếng trong lịch sử của Thiền là người lười. Tên ông ấy trở thành Đại An, vì ông ấy không bao giờ làm bất kì cái gì. Qui Sơn hỏi ông ấy, "Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?" - vì ông không làm gì, chỉ ngồi im lặng.
Mọi người yêu mến Đại An. Ông ấy là người hay, có sự hiện diện lớn lao. Chính hiện hữu của ông ấy ở một nơi làm cho nó thành gần như linh thiêng, ông ấy có năng lượng thế - mặc dầu ông ấy không bao giờ làm bất kì cái gì. Mọi người thường đem thức ăn tới cho ông ấy. Ông ấy thậm chí không bao giờ đi ăn xin, điều là cách thức của mọi sư Phật giáo, nhưng mọi người chăm nom cho ông ấy. Họ đã quan tâm về ông ấy. Nếu trời lạnh họ sẽ mang chăn tới; nếu trời mưa họ sẽ làm thu xếp nào đó.
An lười thế, ông ấy thậm chí sẽ không bước đi; mọi người sẽ phải khênh ông ấy đi! Mọi người biết rằng chẳng ích gì mà nói bất kì cái gì với ông ấy, bạn cứ làm bất kì cái gì bạn làm. Và ông ấy không bao giờ cản bất kì ai, hay hỏi, "Các ông khênh ta đi đâu?" Ngay cả ngần ấy cũng là quá nhiều - hỏi, "Các ông khênh ta đi đâu?" Ông ấy là một nhân cách đặc biệt.
Qui Sơn cũng là một người của hiểu biết lớn, cho nên ông ấy hỏi, "Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?"
An nói, "Tôi chăn trâu."
Ông ấy nói tới mười bức tranh chăm trâu đó. Chỉ một phát biểu nhỏ... và ông ấy đã không nói bất kì cái gì.
Sơn nói: Ngươi chăn như thế nào?
An nói: Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về.
Sơn nói: Ngươi là người chăn trâu chân thật.
Và đó là kết thúc cuộc đối thoại. Nhưng Qui Sơn đã đồng ý rằng đây là cách thiền. Khi ý thức của bạn bắt đầu tham gia vào trong tâm trí, kéo nó lại. Vẫn còn tách rời, đứng sang bên. Giữ khoảnh cách giữa bản thân bạn và tâm trí... và không có nhu cầu để làm bất kì cái gì khác.
Qui Sơn thực sự được thoả mãn rằng Đại An không lười chút nào; ông ấy đang làm công trình bên trong lớn lao. Tất nhiên bên ngoài ông ấy có vẻ lười, nhưng người ta có thể thấy từ hào quang của ông ấy, trường năng lượng của ông ấy, dịu dàng nào đó bao quanh ông ấy, hương thơm nào đó.
Ông ấy không làm bất kì cái gì, dầu vậy, bất kì chỗ nào ông ấy ở, mọi người chăm nom ông ấy, theo cách riêng của họ. Họ đột nhiên cảm thấy rằng đó là trách nhiệm của họ để chăm nom cho Đại An; dường như ông ấy chỉ là đứa trẻ nhỏ, hồn nhiên tới mức bất kì ai ngay lập tức bắt đầu chăm nom ông ấy - và ông ấy là ông già.
Không ai đã bao giờ bảo ông ấy làm cái gì đó. Ông ấy làm điều có thể được gọi là việc làm thực. Ông ấy thường xuyên làm chỉ một điều: không cho phép tâm thức của ông ấy được tham gia vào bãi cỏ của tâm trí, nơi ý nghĩ mọc như cỏ, cỏ dại. Ông ấy chỉ liên tục kéo con trâu của mình trở lại.
Và điều đó không lấy nhiều thời gian. Một khi tâm thức bạn trở nên quen không tham gia vào trong tâm trí, bạn không phải kéo nó lặp đi lặp lại; ở ngoài tâm trí là an bình, vui vẻ, phúc lạc tới mức bản thân tâm thức trở nên nhận biết rằng ở trong tâm trí là ở trong địa ngục.
Bây giờ điều đó là tuỳ ở bạn. Nếu bạn muốn ở trong địa ngục, bạn có thể ở; bằng không nó không phải là bắt buộc, nó là tuỳ chọn. Địa ngục là tuỳ chọn!
Người học đạo... lần nữa ông ấy liên tục dùng từ 'học'... kiềm chế ác niệm - lần nữa ông ấy liên tục nói điều ác - nên như Đại An chăn trâu.
Ông ấy đã không hiểu điều Đại An đang làm. Ông này không kiểm soát ý nghĩ của mình. Ông này đơn giản kéo tâm thức của mình ra khỏi thế giới của ý nghĩ, ra khỏi khu vực và lãnh thổ của tâm trí.... thì lâu ngày tự thuần thục vậy.
Cung người, ta chớ cầm
"Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết. "Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo.
Đó là một châm ngôn cổ ở Trung Quốc: "Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết." Nó cực kì hay, mặc dầu nó chỉ là khôn ngoan về mọi người. Họ nói, "Không vay mượn bất kì cái gì từ bất kì ai." Tuỳ thuộc vào tài riêng của bạn thôi, vì chừng nào bạn còn chưa tuỳ thuộc vào tài riêng của bạn, bạn không bao giờ được tự do, và bạn không bao giờ có thể là cá nhân. Bạn bao giờ cũng sẽ còn là nô lệ.
Đại Huệ nói, "Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo." Thỉnh thoảng, ông ấy nói cái gì đó mà ông ấy phải đã thu thập từ ai đó biết nó.
Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm... nhưng lập tức ông ấy rơi trở lại trong trạng thái riêng của ông ấy. Đây là rắc rối; nếu bạn đang lặp lại tri thức của ai đó khác, bạn không thể tiếp tục đi lâu được. Chẳng mấy chốc bạn sẽ nói cái gì đó sẽ phơi bày bạn ra.
Ông ấy nói, Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm.
Đó không phải là cách thức của Thiền.
Đó là cách thức của phân tâm học, điều không tồn tại vào thời đó, và điều không tồn tại ở phương Đông ngay cả ngày nay. Và nếu phương Tây không kiêu ngạo, không định kiến, và mở để hiểu, phân tâm học sẽ biến mất ngay cả từ phương Tây.
Kiểm điểm bản thân bạn không làm thay đổi bạn.
Bạn có thể liên tục kiểm điểm bản thân bạn thường xuyên. Kiểm điểm là từ khác cho phân tích - tại sao ý nghĩ này, tại sao ý nghĩ kia? Nguyên nhân của nó là gì? Tại sao nó không tới với tôi? Tôi phải làm gì với nó? Bạn sẽ vào nhà thương điên.
Không, đó không phải là cách thức của phương Đông.
Phương Đông nói, "Vẫn còn nhận biết về bản thân ông thường xuyên."
Và nhận biết không phải là kiểm điểm bản thân bạn.
Nhận biết đơn giản là tách rời, nhưng tỉnh táo. Bất kì cái gì tâm trí đang làm, để cho nó làm; bất kì cái gì diễn ra trong tâm trí, để nó là vậy. Bạn đơn giản ở ngoài nó. Bạn phải không là người tham gia - đó là mọi điều được cần, và tâm trí chết theo cái chết riêng của nó.
Bằng kiểm điểm bạn đang đi vào lãnh thổ của tâm trí. Và tâm trí là hiện tượng tinh vi thế - khoảnh khắc bạn đi vào trong nó, nó bắt đầu khai thác năng lượng của bạn cho chủ định riêng của nó.
Đây là kinh nghiệm của mọi nhà huyền bí phương Đông. Không phân tích, không kiểm điểm, không biện minh, không kết án. Không làm bất kì đánh giá nào. Đơn giản đứng sang bên, dường như con đường đầy giao thông và bạn bước sang bên đường và đứng đó, không bận tâm ai đang đi, ai đang tới, ai tốt, ai xấu.
Khám phá này về nhận biết đã là phép màu thế: giao thông đơn giản biến mất, chỉ bởi bạn bước ra khỏi nó. Bạn không phải kiểm điểm, bạn không phải kiểm soát, bạn không phải xua đuổi bất kì cái gì. Bạn không phải làm bất kì cái gì chút nào - chỉ nhận biết thuần khiết là đủ giết chết tâm trí.
Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm từ sáng tới tối đã làm việc gì tự lợi, lợi người? Nếu cảm thấy hơi thiên mộtbên thì phải tự cảnh sách, chẳng nên khinh thường.
Ông ấy đơn giản nói như thầy giáo đạo đức, linh mục Công giáo! Ông ấy đã quên rằng một khi con người nhận biết về bản thân mình, người đó làm bất kì cái gì cũng đúng, và người đó không bao giờ làm bất kì cái gì sai. Đó không phải là vấn đề chọn lựa. Nhận biết của người đó là đủ đem người đó hướng tới cái đúng, và không bao giờ hướng tới cái sai. Người đó đơn giản vẫn còn tỉnh táo và nhận biết vô chọn lựa, và toàn thể phong cách sống của người đó thay đổi. Thế thì bất kì cái gì người đó làm, nó bao giờ cũng ích lợi. Thế thì người đó thường xuyên đem phúc lành cho toàn thế giới. Nhưng nó không phải là quyết định về phần người đó. Nó đơn giản là tính tự phát của người đó. Nó đơn giản là bản tính của người đó chỉ là tốt. Cũng như trên bụi hồng hoa hồng nở ra, trên bụi của nhận biết hoa hồng cũng nở - hoa hồng của điều tốt lành, hoa hồng của cái đẹp, hoa hồng của duyên dáng, hoa hồng của mọi loại phúc lành cho người khác, cho bản thân người đó.
Xưa kia thiền Sư Đạo Lâm kết am trên cây tùng nơi núi Tần Vọng, người thời ấy gọi Ngài là Hoà thượng "ổ chim."
Khi Bạch Cư Dị làm quan Thị lang ở Tiền Đường có vào núi thăm Sư.
Dị thưa: Chỗ ở của Sư rất nguy hiểm.
Sư Nói: Lão Tăng có gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn.
Dị nói: Đệ tử trấn thủ giang sơn có gì nguy hiểm?
Sư nói: Củi lửa lẫn lộn, tính thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư!
Điều ông ấy nói là cực kì có ý nghĩa. Ông ấy nói, "Ta đang ngồi trong tổ chim trên cây tùng. Hiển nhiên là có nguy hiểm rơi ngã, nhưng ông có nhận biết rằng nếu ông ngã từ vị trí của ông, ông sẽ trong nguy hiểm lớn hơn nhiều không? Và việc ngã của ông là có thể vào bất kì khoảnh khắc nào. Ông là quan Thị Lang, kẻ thù không xa xôi gì. Ông và kẻ thù của ông cũng giống như dầu và lửa được nối liền. Lửa ngay cạnh đấy, rất gần nó là dầu; chúng có thể nối lại bất kì khoảnh khắc nào. Bất kì khoảnh khắc nào đều có thể có bùng nổ. Ông đang ngồi trên núi lửa.
"Ta chắc chắn bị nguy hiểm nếu ta ngã - có lẽ ta có thể bị gẫy vài cái xương. Nhưng nó không là nguy hiểm gì mấy. Nguy hiểm của ông còn lớn hơn nhiều. Tính thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư? Tâm thức của ông là nhỏ thế; đó là nguy hiểm lớn nhất trong thế giới, vì bất kì khoảnh khắc nào ông cũng có thể trượt vào trong vô thức. Thế thì trong vô thức bất kì cái gì ông làm đều sẽ gây hại cho ông. Tâm thức của ta là tuyệt đối. Ta có thể ngồi trong tổ chim trên cây tùng cao này; ta biết ta sẽ không ngã, vì ta tỉnh táo. Ngay cả khi ta ngủ, ta vẫn tỉnh táo."
Có lần Ananda đã hỏi Phật Gautam... ông ấy thường ngủ trong cùng phòng, để chăm sóc mọi thứ Phật cần trong đêm nếu đột nhiên Phật cảm thấy ốm. Phật mong manh, ông ấy già rồi, và ông ấy làm việc chăm chỉ thế, liên tục đi, cho tới chính hơi thở cuối cùng. Phật Gautam thường ngủ trong tư thế được gọi là tư thế Sư tử, vì nó chính là cách sư tủ ngủ. Nhưng Ananda ngạc nhiên rằng một khi Phật đã lấy tư thế đó, ông ấy vẫn còn trong cùng tư thế đó cả đêm; ông ấy không cử động chân, ông ấy không cử động tay, ông ấy không cử động bất kì cái gì. Ông ấy vẫn còn gần như bức tượng. Ananda ngạc nhiên - một ngày có lẽ người ta có thể xoay xở được, nhưng ngày tiếp ngày, tháng tiếp tháng, năm tiếp năm sao...? Chung cuộc ông ấy không thể kìm được tò mò. Ông ấy nói, "Tôi phải hỏi, thầy ngủ hay không ngủ? - vì thầy không bao giờ đổi tư thế."
Phật nói, "Thân thể ngủ, tâm trí ngủ, nhưng nhận biết của ta là vĩnh hằng, nó không biết gì về ngủ. Và điều thứ hai: ông xoay và trở mình vì ông đang cố tìm tư thế đúng. Ta đã tìm thấy nó - tại sao ta phải xoay và trở mình? Ông làm gì khi xoay và trở mình theo cách này cách kia? Thực ra ông đang cố tìm ra tư thế đúng. Ta đã tìm thấy nó, Ananda này. Bây giờ không có nhu cầu thay đổi nó. Khi có liên quan tới nhận biết, ngay cả trong đêm vẫn có ngọn lửa nhỏ của nhận biết cháy vĩnh hằng bên trong ta, ngay cả trong giấc ngủ."
Cho nên thầy già này là đúng khi ông ấy nói, "Lão Tăng có gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn."
Tân thức của ông là nhỏ thế, và đồng nhất của ông là giả thế. Ông tưởng bản thân ông là quan Thị Lang, nhưng đằng sau bộ quan phục của ông, ông chỉ là người hữu tử. Chỉ một viên đạn sẽ kết thúc ông; chỉ một mệnh lệnh từ hoàng đế là ông về hưu hay bị giáng cấp và ông sẽ mất đồng nhất của ông.
"Không ai có thể lấy lại đồng nhất của ta từ ta.
"Không ai có thể bảo ta về hưu - ta đã về hưu rồi. Không ai có thể bảo ta, 'Ông bị giáng cấp.' Ông có thể ném ta vào chỗ nào khác được? Ta đã trong tình huống mà không ai muốn đổi chỗ với ta.
"Hiến khi mọi người tới đây. Ông là anh chàng kì lạ, nhận nhiều rắc rối thế để tới núi này, tới chỗ đơn độc này, và nói với một người kì lạ chỉ sống trên cây tùng và không bao giờ trèo xuống.
"Đồng nhất của ta là trong tay riêng của ta. Đồng nhất của ông được trao cho ông; nó có thể bị lấy đi - nguy hiểm của ông, hỡi quan Thị Lang, là lớn hơn nhiều."
Dị lại hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư nói: Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành.
Điều đó là tuyệt đối sai, và tôi không nghĩ điều đó đã được nói bởi Thiền sư Đạo Lâm; ông ấy không thể nói điều này được. Đây phải là bổ sung của Đại Huệ, vì đây không phải là giáo huấn của Phật, và Bạch Cư Dị đang hỏi về đại ý Phật pháp - chỉ là ý chính.
Ý chính của triết lí của Phật đơn giản là vipassana - trong một từ, thiền. Mọi thứ khác là phụ và không bản chất. Điều Đại Huệ đang nói toàn là điều không bản chất:
Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành - đó không phải là giáo huấn của Phật.
Đó là chỗ Phật là duy nhất - khác với bất kì thầy nào của thế giới: giáo huấn của ông ấy có thể được thu lại thành một phát biểu: "Im lặng, đi ra ngoài tâm trí, thế thì bất kì cái gì ông làm đều là tốt."
Dị nói: Con nít ba tuổi cũng biết nói như thế.
Sư nói: Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được.
Điều đó là đúng, vì cách duy nhất để hành nó là không nhắc tới.
Cách duy nhất để hành nó là im lặng.
Từ im lặng mọi hoa nở bung.
Khó ngay cả cho người già tám mươi tuổi không phạm bất kì việc ác nào và thực hành mọi đức hạnh, vì chúng là sản phẩm phụ. Và bạn không thể làm bất kì cái gì mà là sản phẩm phụ được. Bạn phải đi tới rễ.
Chẳng hạn tôi sẽ bảo bạn... Tôi nhớ một sự vụ nhỏ trong đời Mao Trạch Đông khi ông ấy còn rất trẻ, và bố ông ấy đã chết. Mẹ ông ấy rất quan tâm tới việc trồng hoa hồng đủ mầu sắc và đa dạng; bà ấy có khiếu thẩm mĩ, và bà ấy đã làm cái vườn đẹp quanh nhà.
Chị bà ấy trở nên rất ốm, và bà ấy rất quan ngại về hoa hồng. Mao còn rất trẻ, không quá mười hai tuổi. Ông ấy nói, "Mẹ ơi đừng lo. Mẹ có thể đi - vấn đề chỉ là vài ngày - mẹ có thể ở cùng với chị của mẹ. Còn khi có liên quan tới vườn, con sẽ chăm nom."
Người mẹ đi, và Mao chăm sóc hết lòng như bạn có thể quan niệm; cả ngày từ sáng tới tối cậu ta chăm sóc hoa hồng. Nhưng điều rất kì lạ là chúng chết - cây chết, hoa chết - và cậu ta không thể nào nghĩ được mình sẽ nói gì khi mẹ quay về. Toàn thể vườn của bà ấy có vẻ như hoang vắng, và cậu ta đã làm nhiều việc vất vả thế.
Mẹ cậu ta về. Bà ấy nhìn quanh vườn và cười, vì Mao đang đứng nó nước mắt lưng tròng. Cậu ta nói, "Con đã làm việc liên tục từ sáng tới tối." Người mẹ nói, "Mẹ biết điều này sẽ xảy ra, cho nên đừng lo nghĩ. Mẹ về một cách im lặng và đứng ở cổng quan sát điều con làm."
Cậu ta đã làm gì? - cậu rửa từng đoá hoa bằng nước, lau sạch mọi bụi bằng chiếc chổi nhỏ. Một cách tự nhiên mọi hoa... cậu ta phải chăm sóc nhiều, nhưng để chăm sóc hoa bạn phải chăm sóc rễ. Bạn không phải bận tâm về hoa hồng, chúng sẽ tự chăm sóc chúng; bạn đơn giản chăm sóc rễ. Cậu ta không bao giờ bận tâm tới rễ - cậu ta không có ý tưởng gì về rễ. Cậu ta không bao giờ bận tâm tới rễ; cậu ta đơn giản lau rửa hoa.
Cây chết, hoa chết và cậu bé đáng thương hoàn toàn khổ sở. Người mẹ nói, "Mẹ đã thấy rồi... đứng bên ngoài mẹ chỉ muốn xem cái gì diễn ra, và mẹ có thể thấy rằng con đã phá huỷ cả vườn! Nhưng không cần kêu và khóc."
Mẹ cậu bé nói với cậu bé, "Đây là điều con người đang làm trên khắp thế giới. Mọi người đều chăm nom cho hoa và không ai bận tâm về rễ. Và điều thực là rễ. Hoa tới một cách tự động. Con không phải có bất kì chăm sóc đặc biệt nào cho chúng."
Cho nên không có thiền, ngay cả người già tám mươi tuổi cũng không thể hành được nó, mặc dầu nó là đơn giản tới mức đứa trẻ ba tuổi có thể nói nó được.
Sư nói: Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được.
Dị liền lễ bái cáo từ.
Đây là phát biểu không đầy đủ. Ông ấy phải đã nghe nó từ ai đó - người thứ hai, người thứ ba - vì thầy già Đạo Lâm không thể bỏ sót việc nhắc tới rễ. Chừng nào thiền chưa được nhắc tới, bạn không biết gì về các giáo huấn của Phật Gautam. Và ông ấy phải đã nhắc tới nó: nếu ông ấy mà không nhắc tới nó, thế thì Dị chắc đã không cúi lạy và cáo từ. Dị tuyệt đối được thoả mãn, nhưng trong đối thoại này đã không có lí do cho việc được thoả mãn.
Cách nhìn mọi sự của tôi là rất thẳng. Tôi không thấy từ đối thoại này tại sao Dị phải được thoả mãn, nhưng ông ấy chắc phải đã được thoả mãn bởi vì ông ấy, với kính trọng lớn lao, cúi lạy và cáo từ. Chắc chắn cái gì đó bị thiếu, cái gì đó bản chất bị thiếu... và điều đó bao giờ cũng xảy ra. Người không hiểu, người không đích thân kinh nghiệm thiền, sẽ nói về mọi thứ là sản phẩm phụ, và sẽ quên về thiền.
Điều này xảy ra nhiều lần, trong nhiều tín ngưỡng tới mức nó có thể được chấp nhận như một qui tắc. Chẳng hạn Mahavira.... Các đệ tử của ông ấy, những người đi theo ông ấy trong hai mươi nhăm thế kỉ, đã nghĩ rằng ông ấy dạy bất bạo hành, rằng ông ấy dạy vô sở hữu, rằng ông ấy dạy là đích thực và chân thực.
Bây giờ đây toàn là sản phẩm phụ. Nhưng sư Jaina đã từng đi theo chúng, và tôi đã nhìn mặt họ: họ không biểu lộ bất kì dấu hiệu nào của vui vẻ, của hoàn thành, của mãn nguyện, của việc đạt tới bất kì im lặng lớn lao nào hay an bình hay phúc lạc. Họ có vẻ tuyệt đối khô héo, chết. Mặc dầu họ đi theo kỉ luật chính xác nhất có thể được, họ chỉ bỏ lỡ điều nền tảng.
Tất cả ba điều này - bất bạo hành, vô sở hữu, đích thực và chân thực - nảy sinh mà không có bất kì nỗ lực nào về phần bạn... nếu bạn thành công trong thiền. Con người của thiền không thể dối trá. Con người của thiền không thể làm tổn thương bất kì ai; do đó người đó là bất bạo hành.
Con người của thiền biết hoàn toàn rõ rằng mọi thứ đều phù du. Bạn tới thế giới này mà không có bất kì cái gì, và bạn sẽ phải đi từ thế giới này không có bất kì cái gì; cho nên bạn có thể dùng mọi thứ - nhưng bạn không thể sở hữu chúng. Bạn có thể dùng mọi thứ hệt như cách bạn dùng tầu hoả. Chỉ bởi vì bạn ngồi trên tầu hoả bạn không bắt đầu tuyên bố rằng bạn là người chủ của tàu hoả! Bạn dùng nó trong lúc này; ở ga này bạn lên tàu, ở ga khác bạn xuống tàu.
Cuộc sống phải được nhận theo cùng cách. Bất kì cái gì cuộc sống cho bạn - dùng nó, nhưng đừng trở thành người sở hữu. Đừng níu bám lấy nó, và thế thì khi nó đi ra khỏi bàn tay bạn, bạn không buồn, bạn không thất vọng; bạn không bắt đầu nghĩ tới tự tử chỉ bởi vì bạn đã bị phá sản, hay chỉ bởi vì vợ bạn đã trốn đi với ai đó khác.
Tôi đã nghe nói về một người đi tới bưu điện và bắt đầu nói với nhân viên bưu điện, "Xin ông viết ra rằng vợ tôi đã trốn đi." Nhân viên bưu điện nói, "Tôi lấy làm tiếc rằng vợ ông đã trốn đi. Có lẽ ông đang trong tình trạng rối loạn tới mức ông không thấy rằng đây là bưu điện. Đồn cảnh sát ngay phía trước kia - ông đi sang đó đi." Ông ta nói, "Tôi không sang đó đâu và tôi không bảo ông nhận báo cáo mà không biết rằng đó là bưu điện."
Nhân viên bưu điện nói, "Điều này là lạ. Ông biết rằng đây là bưu điện, và dầu vậy ông vẫn bảo tôi làm báo cáo rằng vợ ông đã trốn đi với ai đó."
Ông ta nói, "Vâng, từ bẩy ngày trước. Và tôi không định đi tới đồn cảnh sát, vì lần trước khi cô ấy trốn đi tôi đã báo cáo điều đó tại đồn cảnh sát, và những kẻ ngốc kia đã đem cô ấy trở lại. Lần này tôi vẫn còn im lặng trong bẩy ngày để cho họ đi xa nhất có thể được. Nhưng thế rồi lương tâm tôi bắt đầu cắn rứt và tôi nói, 'Điều này là không đúng. Ít nhất mình phải báo cáo việc đó.' Thế là tôi nghĩ rằng tốt hơn cả là báo cáo việc đó cho bưu điện. Ông chỉ nhận báo cáo và giải phóng cho tôi khỏi cắn rứt lương tâm."
Nhân viên bưu điện nói, "Kì lạ thế. Nếu vấn đề là vậy, thế thì sao bận tâm? Điều tốt là cô ấy đã trốn đi."
Anh ta nói, "Tôi không bận tâm về cô ấy; tôi bận tâm về anh chàng mà cô ấy đã trốn đi cùng. Điều gì sẽ xảy ra cho anh chàng đáng thương đó? Tôi thì quen với cô ấy rồi; anh ta là người mới. Cô ấy sẽ giết chết anh ta. Bẩy ngày đã trôi qua rồi, và không cái gì đã được nghe thấy."
"Ông không cảm thấy bất kì vấn đề gì - bất kì cái gì sao?" nhân viên bưu điện hỏi.
"Tôi không bận tâm về vợ tôi; tôi bận tâm về người mà cô ấy đã nắm giữ. Tôi không thể báo cáo điều đó cho đồn cảnh sát được - ông có thể hiểu vấn đề của tôi - nhưng tôi đang cầu nguyện mọi ngày trong ngôi đền. Hãy nhân từ với người đáng thương đó. Cứu mạng anh ta.'"
Mọi người đang sống trong khổ thế. Nhưng cho dù họ bị khổ với vợ hay chồng, họ sẽ không tách ra. Họ sẽ không cho phép tự do cho nhau. Nhưng tại sao liên tục chịu khổ? Không có lí do chút nào.
Cuộc sống này là để hân hoan.
Nếu bạn có thể hân hoan cùng nhau - tốt.
Nếu bạn có thể hân hoan một cách tách rời - thậm chí tốt hơn.
Mọi điều được cần là việc làm sâu sắc thêm nào đó cho tâm thức của bạn, và điều đó xảy ra qua thiền. Thế thì mọi hành động của bạn, hành vi của bạn, cuộc sống của bạn bắt đầu thay đổi theo cách riêng của nó; bạn bắt đầu thấy mọi thứ một cách rõ ràng. Ngay bây giờ bạn thấy mọi thứ qua làn khói mà không cái gì dường như rõ ràng.
Một người đàn bà đi tới bác sĩ và hỏi, "Loại đơn thuốc nào ông đã cho chồng tôi? Ông ấy đã tốt thế, vâng lời thế và đột nhiên từ khi ông cho ông ấy đơn thuốc này, ông ấy đã trốn mất."
Bác sĩ nói, "Tôi đã không cho ông ấy bất kì thuốc nào. Tôi đã đơn giản kê đơn mắt kính mới cho kính của ông ấy, cho nên một cách tự nhiên ông ấy phải đã trốn đi. Tôi có thể nhìn thấy bà - thế là đủ. Ông ấy đã có đơn thuốc sai, ông ấy đã không có khả năng nhìn thấy bà. Khoảnh khắc ông ấy thấy bà một cách rõ ràng, ông ấy trốn liền. Không có vấn đề trong nó."
Mọi thứ bạn cần là cái nhìn rõ ràng... vào cuộc sống của bạn, vào hành động của bạn, vào mối quan hệ của bạn, vào mọi thứ bao quanh bạn. Chỉ cái nhìn rõ ràng - và cái đó sẽ thay đổi mọi thứ, không có bất kì nỗ lực gian nan nào về phần bạn.
Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa thầy.

0 Đánh giá

Ads Belove Post