SỐNG THIỀN - Dốt nát không phải là thiếu tri thức; mà là thiếu vắng nhận biết

SỐNG THIỀN - Dốt nát không phải là thiếu tri thức; mà là thiếu vắng nhận biết

Price:

Read more


Trạng thái dốt nát là nguyên nhân của mọi ảo tưởng, của mọi cái hão huyền, của mọi hình tướng, nhưng biết nhiều không phải là trạng thái của tri thức. Dốt nát là nguyên nhân, nhưng tri thức không phải là phương thuốc - tri thức theo nghĩa thông thái. Bạn có thể biết ngày càng nhiều hơn và nhiều hơn, nhưng bạn vẫn còn như cũ. Tri thức trở thành thói nghiện. Bạn cứ thêm vào nó. Nhưng bản thể mà bạn thêm vào nó vẫn còn như cũ. Bạn biết nhiều hơn, nhưng bạn không nhiều hơn.
Và căn nguyên của dốt nát có thể bị làm tan biến chỉ khi bạn là nhiều hơn, khi bản thể bạn mạnh hơn, khi bản thể bạn nhiều quyền lực hơn, khi bản thể bạn đã thức tỉnh. Căn nguyên của mọi khổ là dốt, nhưng tri thức không phải là phương thuốc - thức tỉnh mới là phương thuốc.
Nếu bạn không hiểu phân biệt tinh tế này, đầu tiên, bạn bị lạc trong dốt nát, và thế rồi bạn sẽ bị lạc - và lạc nhiều hơn thế - trong tri thức. Trong Upanishads có một trong những phát biểu triệt để nhất đã từng được thốt ra. Phát biểu này là ở chỗ người dốt bị lạc, nhưng trong tri thức họ bị lạc theo cách sâu hơn. Dốt nát dẫn sai đường, tri thức dẫn sai đường nhiều hơn.
Dốt nát không phải là thiếu vắng tri thức. Nếu nó là thiếu vắng tri thức thế thì mọi sự chắc đã rất, rất dễ dàng - và rẻ. Bạn có thể vay mượn tri thức; bạn không thể vay mượn bản thể. Bạn thậm chí có thể đánh cắp tri thức; bạn không thể đánh cắp bản thể. Bạn phải trưởng thành trong nó. Nhớ điều này như một tiêu chuẩn: rằng chừng nào bạn còn chưa trưởng thành trong cái gì đó, nó không bao giờ là của bạn. Khi bạn trưởng thành, chỉ thế thì cái gì đó mới thuộc về bạn. Bạn có thể sở hữu cái gì đó, nhưng đừng bị lạc lối bởi sở hữu. Vật sở hữu vẫn còn tách rời - nó có thể bị lấy đi khỏi bạn. Chỉ bản thể bạn là không thể bị lấy đi khỏi bạn. Cho nên chừng nào việc biết còn chưa xảy ra trong bản thể bạn, dốt nát không thể bị tan biến.

Dốt nát không phải là thiếu vắng tri thức; dốt nát là thiếu vắng nhận biết. Dốt nát là một loại buồn ngủ, một loại thiu thiu ngủ, một loại thôi miên; dường như bạn bước đi trong giấc ngủ, làm mọi thứ trong ngủ say. Bạn không nhận biết điều bạn đang làm. Bạn không phải là ánh sáng; toàn thể bản thể bạn là tối. Bạn có thể biết về ánh sáng, nhưng tri thức đó về ánh sáng sẽ không bao giờ trở thành ánh sáng. Ngược lại, nó sẽ trở thành rào cản hướng tới ánh sáng, bởi vì khi bạn biết quá nhiều về ánh sáng bạn quên mất rằng ánh sáng đã không xảy ra cho bạn. Bạn bị lừa bởi tri thức riêng của bạn.
Cứ dường như là bạn đã sống trong xà lim tối. Bạn đã nghe nói về ánh sáng nhưng bạn đã không nhìn thấy nó. Và làm sao bạn có thể nghe được về ánh sáng? Nó chỉ có thể được nhìn thấy. Tai không phải là phương tiện để biết ánh sáng: mắt mới là phương tiện. Và bạn đã nghe nói về ánh sáng. Và nghe lặp đi lặp lại về ánh sáng bạn đã bắt đầu cảm thấy rằng bạn biết ánh sáng. Bạn biết về; nhưng biết về không phải là biết. Bạn đã nghe nói thôi. Làm sao bạn có thể nghe được ánh sáng? Sường như là ai đó nói rằng người đó đã thấy âm nhạc. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn.
Nghe về ánh sáng, tâm trí trở nên ngày một tham hơn. Bạn tư vấn kinh sách. Bạn đi và hỏi người già, trí huệ. Bạn thậm chí có thể bắt gặp ai đó, người đã thấy, nhưng khoảnh khắc người đó nói cái gì đó về điều đó, với bạn nó trở thành việc nghe nói. Ở Ấn Độ kinh sách cổ nhất được biết tới là shruti, cái đã được nghe nói. Điều đó là hay. Điều đó thực sự hay. Làm sao chân lí có thể được nghe thấy? Và mọi kinh sách cổ đều được gọi là shrutis, và smritis. Shruti nghĩa là "điều nghe nói," và smriti nghĩa là "điều được ghi nhớ." Bạn đã nghe và bạn ghi nhớ. Bạn đã ghi nhớ nó, nhưng làm sao bạn có thể biết chân lí bằng việc nghe? Bạn phải cảm nó. Thực ra bạn phải sống nó.
Người sống trong hang động, trong bóng tối, có thể thu thập nhiều sự kiện về ánh sáng. Người đó gần như có thể trở thành bác học lớn. Bạn có thể tư vấn người đó và bạn có thể tin cậy vào người đó. Người đó sẽ nói mọi thứ mà đã từng được nói về ánh sáng, nhưng người đó sẽ sống tất cả như nhau trong bóng tối. Và người đó không thể giúp được bạn hướng tới ánh sáng; bản thân người đó mù.
Jesus nói đi nói lại, "Người mù dẫn người mù.' Kabir nói, "Nếu ông khổ, trở nên tỉnh táo đi; ông phải đã bị người mù dẫn đi. Nếu người mù dẫn người mù, họ rơi xuống giếng," Kabir nói. Và các bạn tất cả đều ở trong giếng của khổ; các bạn phải đã nghe nói quá nhiều về chân lí; bạn phải đã nghe quá nhiều về Thượng đế. Hàng nghìn bác học liên tục thuyết giảng Thượng đế - nhà thờ, đền chùa, học giả - liên tục nói "về". Thượng đế không phải là việc nói. Đó là kinh nghiệm.
Dốt nát không thể bị làm tan biến bởi tri thức. Nó có thể bị làm tan biến chỉ bởi nhận biết. Tri thức bạn có thể cứ thu thập trong mơ; nhưng nó là một phần của mơ, và mơ là một phần của giấc ngủ của bạn. Ai đó phải lay bạn. Ai đó phải gây choáng cho bạn. Ai đó phải đem bạn ra khỏi giấc ngủ của bạn; bằng không bạn có thể cứ ngủ mãi. Ngủ là rượu. Dốt nát là rượu; nó là ma tuý. Bạn phải được kéo ra khỏi nó.
Tôi sẽ kể cho bạn một giai thoại tôi bao giờ cũng thích. Nó là về Siddha Naropa, đệ tử của Tilopa. Chuyện xảy ra trước khi Naropa tìm được thầy mình, Tilopa. Chuyện xảy ra trước khi bản thân ông ấy trở nên chứng ngộ. Và nó là điều phải có cho mọi người tìm kiếm; nó phải xảy ra cho mọi người. Cho nên dù nó xảy ra cho Naropa hay không thì cũng không phải là vấn đề - nó là điều phải có trên cuộc hành trình. Chừng nào nó còn chưa xảy ra, chứng ngộ là không thể được. Cho nên về mặt lịch sử tôi không biết liệu nó đã xảy ra hay không. Về mặt tâm lí tôi chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn, nó đã xảy ra bởi vì không ai có thể đi xa thêm vào cõi bên kia mà không có nó.
Naropa là một học giả lớn, một bác học lớn. Có chuyện rằng ông ấy là phó hiệu trưởng vĩ đại của một đại học lớn - mười nghìn đệ tử của riêng ông ấy. Một hôm ông ấy đang ngồi với các đệ tử vây quanh. Khắp xung quanh ông ấy là hàng nghìn kinh sách - cổ đại, rất cổ đại, hiếm hoi. Đột nhiên ông ấy rơi vào giấc ngủ, chắc phải đã bị mệt mỏi, và ông ấy có linh ảnh. Tôi gọi nó là linh ảnh, không phải mơ, vì nó không phải là mơ thường. Nó có ý nghĩa thế, gọi nó là mơ sẽ không chính xác; nó là linh ảnh.
Ông ấy thấy một bà rất, rất già, xấu, kinh khủng - như phù thuỷ. Cái xấu của bà ấy nhiều tới mức ông ấy bắt đầu run rẩy trong giấc ngủ của mình. Nó buồn nôn thế ông ấy muốn trốn đi - nhưng trốn đi đâu, đi đâu đây? Ông ấy bị bắt, cứ dường như bị thôi miên bởi bà phù thuỷ già. Thân thể bà gớm ghiếc buồn nôn, nhưng mắt bà ấy như nam châm. Bà ấy hỏi, "Naropa, ông đang làm gì?" Và ông ấy nói, "Tôi đang học." "Ông học gì?" bà già hỏi.
Ông ấy nói, "Triết học, tôn giáo, nhận thức học, ngôn ngữ, văn phạm, logic."
Bà già lại hỏi, "Ông có hiểu chúng không?" Naropa nói, "Ô... có chứ, tôi hiểu chúng."
Bà ấy lại hỏi, "Ông hiểu lời, hay nghĩa?"
Điều này được hỏi lần đầu tiên. Cả nghìn câu hỏi đã được mọi người hỏi Naropa trong đời ông ấy. Ông ấy là thầy giáo lớn - hàng nghìn học sinh bao giờ cũng hỏi, chất vấn - nhưng không ai đã hỏi điều này: ông hiểu lời, hay nghĩa. Và mắt bà này xuyên thấu tới mức không thể nói dối được - bà ấy sẽ tìm ra. Trước mắt bà ấy Naropa cảm thấy hoàn toàn trần trụi, khoả thân, trong suốt. Đôi mắt đó xuyên vào rất sâu trong bản thể ông ấy, và không thể nào nói dối được. Với bất kì ai khác ông ấy chắc đã nói, "Tất nhiên, tôi hiểu nghĩa chứ," nhưng với bà này, bà già trông kinh khủng này, ông ấy không thể nói dối được; ông ấy phải nói ra chân lí. Ông ấy nói, "Vâng, tôi hiểu lời."
Bà già rất hạnh phúc. Bà ấy bắt đầu nhảy múa và cười.
Tưởng rằng bà ấy đã trở nên hạnh phúc thế... Và bởi vì hạnh phúc của bà ấy mà cái xấu của bà ấy đã được biến đổi; bà ấy không còn xấu thế nữa; cái đẹp tinh tế thoát ra từ bản thể bà ấy. Tưởng là "Mình đã làm cho bà ấy hạnh phúc thế. Tại sao không làm cho bà ấy hạnh phúc thêm chút ít?" ông ấy nói, "Và vâng, tôi hiểu cả nghĩa nữa."
Bà già dừng cười. Bà ấy dừng múa. Bà ấy bắt đầu kêu khóc, và mọi cái xấu xí quay lại - cả nghìn lần hơn.
Naropa nói, "Sao thế? Sao bà kêu khóc? Và sao bà đã cười và nhảy múa lúc trước?"
Bà già nói, "Ta đã múa và cười và đã hạnh phúc vì một học giả lớn như ông đã không nói dối. Nhưng bây giờ ta kêu khóc vì ông đã nói dối ta. Ta biết - và ông biết - rằng ông không hiểu nghĩa."
Linh ảnh này biến mất và Naropa được biến đổi. Ông ấy trốn khỏi đại học. Ông ấy không bao giờ chạm tới kinh sách trong đời mình nữa. Ông ấy trở thành dốt nát hoàn toàn: ông ấy đã hiểu rằng chỉ bằng việc hiểu lời, bạn đang lừa ai; và chỉ bằng việc hiểu lời bạn đã trở thành phù thuỷ già xấu xí.
Tri thức là xấu. Và nếu bạn lại gần học giả bạn sẽ thấy họ bốc mùi - mùi tri thức - chết.
Con người của trí huệ, con người của hiểu biết, có sự tươi tắn về người đó, cuộc sống ngát hương - khác toàn bộ với bác học, con người của tri thức. Người hiểu nghĩa trở thành đẹp; người chỉ hiểu lời trở thành xấu. Và người đàn bà này không phải là ai ở bên ngoài: nó chỉ là phóng chiếu của phần bên trong. Nó là bản thể riêng của Naropa, qua tri thức đã trở thành xấu. Chỉ hiểu biết ngần này rằng "Tôi không hiểu nghĩa," và cái xấu sẽ được biến đổi ngay lập tức thành hiện tượng đẹp.
Naropa đi trong tìm kiếm, vì bây giờ kinh sách không ích gì. Bây giờ thầy sống được cần tới. Thế rồi sau những cuộc hành trình dài ông ấy bắt gặp Tilopa. Tilopa cũng trong việc tìm kiếm người này, bởi vì khi bạn có cái gì đó, bạn muốn chia sẻ; từ bi nảy sinh.
Thuật ngữ Phật giáo cho từ bi là karuna. Từ tiếng Anh không mang đích xác cùng nghĩa - nó không thể mang được. Từ karuna là rất, rất có nghĩa. Nó tới từ cùng gốc tiếng Phạn như từ kriya. Kriya nghĩa là hành động. Kriya và karuna - kriya nghĩa là hành động, karuna nghĩa là từ bi - chúng cả hai tới từ cùng một gốc kra. Thuật ngữ Phật giáo karuna nghĩa là "từ bi trong hành động." Và đó là khác biệt giữa thông cảm và từ bi; khi bạn trong thông cảm không có nhu cầu về hành động - bạn đơn giản biểu lộ thông cảm của bạn và sự việc được chấm dứt. Từ bi là hoạt động - bạn làm cái gì đó. Khi bạn thực sự trong từ bi bạn sẽ phải làm cái gì đó. Làm sao bạn có thể chỉ thông cảm thôi? Thông cảm sẽ có vẻ nhợt nhạt thế, lạnh lẽo thế. từ bi là ấm áp. Từ bi nghĩa là nó phải có tính hoạt động.
Khi một người biết, từ bi nảy sinh. Tilopa đã biết. Ông ấy đã đi tới đối diện với điều tối thượng: và bây giờ từ bi đã nảy sinh. Và ông ấy bắt đầu tìm và kiếm ai đó người sẵn sàng nhận... bởi vì bạn không thể ném việc biết này về điều tối thượng trước những người sẽ không hiểu. Trái tim cảm nhận, trái tim nữ tính được cần tới. Đệ tử phải mang nữ tính bởi vì thầy sẽ rót vào, và đệ tử chỉ cho phép.
Họ đã gặp nhau và Tilopa nói, "Naropa, bây giờ ta sẽ nói mọi thứ mà ta đã từng chờ đợi để nói. Ta sẽ nói mọi thứ bởi vì ông, Naropa. Ông đã tới; bây giờ ta có thể làm nhẹ gánh cho bản thân ta."
Linh ảnh này của Naropa là rất có ý nghĩa. Linh ảnh này là điều phải có. Chừng nào bạn còn chưa cảm thấy rằng tri thức là vô dụng bạn sẽ không bao giờ tìm kiếm trí huệ. Bạn sẽ mang đồng tiền giả cứ tưởng rằng đây là kho báu thực. Bạn phải trở nên nhận biết rằng tri thức là đồng tiền giả - nó không phải là việc biết, nó không phải là việc hiểu. Nhiều nhất nó là có tính trí tuệ - lời đã được hiểu nhưng nghĩa bị mất. Một khi bạn hiểu điều này bạn sẽ ném đi mọi tri thức của bạn và bạn sẽ trốn đi để tìm ai đó biết, bởi vì chỉ với ai đó biết - từ tim qua tim, bản thể qua bản thể, việc truyền trao xảy ra. Nhưng nếu đệ tử đã là con người của tri thức, việc truyền trao là không thể được, bởi vì tri thức sẽ trở thành bức tường.
Tôi có thể thấy bức tường tinh tế bao giờ cũng bao quanh bạn. Bất kì khi nào bạn tới tôi, tôi đều xem liệu tôi có thể tiếp cận được bạn hay không, liệu bạn có là tiếp cận tới được hay không. Nếu tôi thấy bức tường tri thức rất dầy điều đó dường như là gần như không thể nào tiếp cận tới bạn được; tôi sẽ phải đợi. Nếu tôi có thể tìm thấy cho dù một vết nứt nhỏ, tôi đi vào từ đó. Nhưng mọi người sợ hãi, đầy những sợ - họ thậm chí không để một vết nứt nào; họ làm thành bức tường vững chắc. Họ làm ra thành trì tri thức quanh họ, các khái niệm - những lời trừu tượng. Vô tích sự! Chỉ tiếng ồn! Thực ra là điều phiền toái, nhưng bạn tin vào chúng.
Cho nên đây là điều đầu tiên cần được hiểu: tri thức không phải là tri thức. Và chỉ tri thức đó cái không phải là tri thức mà là trí huệ, việc hiểu, việc biết, mới có thể chặt tận gốc dốt nát.
Nhớ từ "nhận biết." Cũng như buổi sáng bạn dần dần trở nên tỉnh táo và bạn ra khỏi giấc ngủ và việc ngái ngủ rơi rụng xuống, biến mất; cùng điều đó lại xảy ra: bạn ra khỏi giấc ngủ, dần dần mắt bạn mở ra, bạn bắt đầu nhìn, tim bạn trở thành sẵn có, bản thể bạn mở ra; và ngay lập tức, bạn không còn là cùng người như bạn đã vậy trong giấc ngủ. Bạn đã bao giờ quan sát chưa, vào buổi sáng, khi thức dậy, bạn trở thành một người khác toàn bộ - bạn không là cùng người đã ngủ? Bạn có quan sát không, trong giấc ngủ bạn trở thành một người khác toàn bộ - trong giấc ngủ bạn làm những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được trong khi bạn thức - trong giấc ngủ bạn tin vào mọi thứ mà bạn không thể tin được khi bạn thức? Trong giấc ngủ mọi loại ngớ ngẩn đều được tin. Trong khi bạn thức bạn cười vào cái ngu xuẩn riêng của bạn, cười vào giấc mơ riêng của bạn.
Cùng điều đó xảy ra khi bạn chung cuộc thức tỉnh. Thế thì, toàn thế giới mà bạn đã từng sống cho tới khoảnh khắc đó trở thành một phần của mơ, giấc mơ lớn. Đó là lí do tại sao người Hindus cứ nói thế giới là maya: chất liệu làm ra nó là chất liệu mơ; nó không phải là thực. Thức tỉnh đi! Và bạn sẽ thấy mọi cái hão huyền đó bao quanh bạn đã biến mất. Và một cách nhìn khác toàn bộ về sự tồn tại trở thành sẵn có - đó là tự do. Tự do là tự do khỏi ảo tưởng. Tự do là tự do khỏi giấc ngủ. Tự do là tự do khỏi mọi điều không có và dường như là có đó.
Đi tới cái thực là đi về nhà; lang thang trong cái hão huyền là ở trong thế giới. Bây giờ, cố hiểu lời kinh của Patanjali.
Phân tách người thấy và cái được thấy, điều được mang tới bằng việc xua tan dốt nát là phương thuốc đem tới giải thoát.
Bắt đầu từ đâu?... bởi vì Patanjali bao giờ cũng quan tâm tới chỗ bắt đầu. Nếu bắt đầu không rõ ràng chúng ta có thể cứ nói về giải thoát là gì, nhưng điều đó sẽ vẫn còn là việc nói. Bắt đầu phải tuyệt đối rõ ràng - mọi bước đều rõ ràng tới mức bạn có thể đi từ nơi bạn đang ở. Nếu bạn nghe Lão Tử, Lão Tử nói từ đỉnh, đỉnh cao nhất có thể cho tâm thức con người; nếu bạn hỏi Tilopa, ông ấy trả lời từ chỗ ông ấy ở. Nếu bạn hỏi Patanjali, ông ấy nói từ chỗ bạn đang ở. Ông ấy không nói gì về bản thân ông ấy; ông ấy đơn giản nói từ chỗ bạn đang ở, chỗ bắt đầu. Ông ấy thực dụng hơn; Lão Tử đúng hơn. Patanjali thực dụng hơn.
Hôm nọ ai đó đã hỏi tại sao tôi không thể tiếp tục nói về Lão Tử. Bởi vì bạn thôi. Nếu tôi một mình điều đó sẽ là tốt, hoàn hảo; nhưng bạn cũng có đó, và tôi không thể quên bạn được. Khi tôi nói về Lão Tử tôi phải bỏ bạn lại xa đằng sau. Thế thì ngay lập tức tôi bắt đầu nói về Patanjali, hay ai đó, người nói về bạn và những bước đầu tiên của bạn. Có khác biệt bao la.
Lão Tử bạn có thể thích thú nhưng bạn không thể thực hành được, bởi vì ông ấy không nói gì về thực hành. Ông ấy đã đạt tới và ông ấy nói về việc đạt tới của ông ấy - từ cách nhìn đó. Mọi sự là khác toàn bộ. Bạn có thể bị thôi miên bởi cách nhìn đó, cách nhìn đó có thể có hấp dẫn lớn với bạn, nhưng nó vẫn còn là thơ ca. Nó sẽ vẫn còn là hư cấu: nó sẽ không trở thành kinh nghiệm; nó sẽ không trở thành thực hành. Bạn sẽ không có khả năng tìm được cách từ đó đi qua Lão Tử. Mọi thứ đều đúng hoàn hảo, nhưng đi từ đâu? Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết về bản thân bạn, Lão Tử ở đâu đó xa xăm, cách xa thế...
Patanjali ở ngay bên cạnh bạn. Bạn có thể đi cùng ông ấy, tay trong tay. Ông ấy nói về chỗ bắt đầu.
"Phân tách người thấy và cái được thấy..." Cho nên bước đầu tiên là nhớ, lưu tâm, rằng bạn là tách rời với cái được thấy: bất kì cái gì bạn nhìn, bạn đều là người thấy. Cây có đó, xanh thế và đẹp thế, nở hoa - nhưng cây là đối thể; bạn là chủ thể. Tách rời với chúng. Biết cho rõ rằng cây có đó và bạn ở đây; cây ở ngoài, bạn ở trong; cây là cái được thấy và bạn là người thấy. Điều đó là khó nhớ vì cây đẹp thế và hoa quyến rũ thế, chúng thôi miên bạn. Bạn muốn bị mất hút. Bạn muốn quên bản thân bạn.
Thực ra bạn bao giờ cũng trong tìm kiếm quên lãng bản thân bạn, cố thoát khỏi bản thân bạn. Bạn chán ngán thế với bản thân bạn... Không ai muốn còn lại với bản thân mình. Bạn tạo ra cả nghìn lẻ một con đường chỉ để thoát khỏi bản thân bạn. Khi bạn nói, "Cây đẹp," bạn đã trốn thoát rồi; bạn đã quên bản thân bạn. Khi bạn thấy người đàn bà đẹp đi ngang qua, bạn đã quên bản thân bạn. Người thấy bị mất hút trong cái được thấy.
Đừng đánh mất người thấy trong cái được thấy. Nhiều lần nó sẽ bị mất hút - giành lại nó đi. Giành lại nó lặp đi lặp lại. Dần dần bạn sẽ trở thành vững chắc. Dần dần bạn sẽ có sức mạnh. Bất kì cái gì đi qua, bất kì cái dù là cái gì - cho dù Thượng đế có đi qua - Patanjali nói, "nhớ rằng ông là người thấy và ngài là cái được thấy." Đừng quên phân biệt này, bởi vì chỉ với phân biệt này cái nhìn của bạn sẽ trở thành rõ ràng, tâm thức của bạn sẽ tập trung, nhận biết của bạn trở nên được vững chắc, bản thể bạn sẽ trở nên được bắt rễ và định tâm.
Cứ đi lặp đi lặp lại, ngã đi ngã lại vào nhớ cái ta. Nhớ lấy, nhớ cái ta không phải là nhớ bản ngã. Nó không phải là nhớ rằng "tôi đây," không. Nó là nhớ rằng bên trong là người thấy và bên ngoài là cái được thấy. Vấn đề không phải là về "tôi"; vấn đề là tâm thức và đối thể của tâm thức. "Phân tách người thấy và cái được thấy, điều được mang tới bằng việc xua tan dốt nát là phương thuốc đem tới giải thoát." Bạn càng trở nên nhận biết về mọi thứ bao quanh bạn, dần dần, bạn sẽ thấy rằng không chỉ thế giới bao quanh bạn, thân thể riêng của bạn cũng bao quanh bạn. Điều đó nữa cũng là đối thể. Tôi có thể nhìn tay tôi, tôi có thể cảm tay tôi, cho nên tôi phải là tách rời chứ. Nếu tôi mà là thân thể thế thì sẽ không có cách nào để cảm thân thể - ai sẽ cảm nó? Để biết, phân tách là được cần tới. Mọi tri thức, mọi việc biết, đều phân tách. Mọi dốt nát đều là quên lãng, sự phân tách. Khi bạn trở nên nhận biết rằng thân thể cũng là "kẻ khác," tâm thức bạn đang lắng đọng ở nhà.
Thế thì bạn trở nên nhận biết rằng xúc động của bạn, ý nghĩ của bạn - chúng cũng là "kẻ khác," bởi vì bạn có thể thấy chúng. Bạn đã thấy chúng lặp đi lặp lại, nhưng bạn không nhớ rằng bạn là tách rời. Bạn nhìn một ý nghĩ thoáng qua trên màn ảnh của tâm trí. Nó giống hệt như mây bay qua trên trời: bạn thấy mây trắng bay qua hay mây đen bay qua, bay về hướng bắc. Khi một ý nghĩ trôi qua chỉ nhìn chỗ nó đi, chỗ nó tới. Quan sát nó. Đừng bị dính líu; đừng trở thành một với nó. Việc bị dính líu vào đó, trở thành một với nó, được gọi là đồng nhất, tadatmya: và đó là dốt nát. Bị đồng nhất, bạn là trong dốt nát. Không bị đồng nhất - tách rời, chứng kiến, quan sát - bạn đang đi hướng tới nhận biết.
Đây là phương pháp, điều Upanishads gọi là "neti, neti," phương pháp khử dần: bạn thấy thế giới - thế thì tôi không là thế giới; bạn thấy thân thể - thế thì tôi không là thân thể; bạn thấy ý nghĩ - thế thì tôi không là ý nghĩ; bạn thấy xúc động - thế thì tôi không là xúc động. Bạn cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục mãi... một khoảnh khắc tới, chỉ người thấy còn lại; mọi cái được thấy đã biến mất, và với cái được thấy, cả thế giới biến mất.
Trong tính một mình đó của tâm thức có cái đẹp vô cùng, đơn giản vô cùng, hồn nhiên vô cùng, mộc mạc. Ngồi trong tâm thức đó, được định tâm trong tâm thức đó không có lo nghĩ, không lo nghĩ chút nào - không lo âu, không phiền não, không khổ, không ghét, không yêu, không giận. Mọi thứ đã biến mất; duy nhất, bạn có đó. Ngay cả cảm giác rằng "tôi đây" cũng không có đó, bởi vì nếu bạn cảm thấy "tôi đây" bạn có thể trở nên nhận biết về cảm giác - cái đó là tách rời khỏi bạn. Bạn hiện hữu. Đơn giản, bạn hiện hữu. Đơn giản tới mức không có nhận biết rằng "tôi đây," chỉ cái "đây," hiện hữu. Đó là định nghĩa về hiện hữu. Vấn đề không phải là triết lí, cách định nghĩa nó; vấn đề là việc kinh nghiệm, cách kinh nghiệm nó.
Tất cả đều bị khử bỏ, mọi mơ đều bị tan biến, toàn thế giới biến mất - bạn ngồi trong bản thân bạn, không làm điều gì, thậm chí không một gợn suy nghĩ, thậm chí không một làn gió xúc động thoảng qua bạn - mọi thứ tĩnh lặng thế và im lặng thế: thời gian đã dừng lại, không gian đã biến mất. Đây là khoảnh khắc siêu việt. Trong khoảnh khắc này, lần đầu tiên, bạn không còn là người dốt nát. Đây là cách bạn trưởng thành trong hiện hữu. Đây là cách bạn trở thành người biết, không phải là người thông thái. Bạn đã không thu thập bất kì thông tin nào; ngược lại, bạn đã tách rời mọi thứ bao quanh bạn. Trần trụi toàn bộ, khoả thân, bạn như shunya, cái trống rỗng.
Patanjali nói đây là giải thoát khỏi dốt nát. Cho nên bước thứ nhất là cứ tách rời. Bất kì cái gì bạn thấy, bao giờ cũng nhớ người thấy, rằng "Mình tách rời," và ngay lập tức, môt loại im lặng sẽ bao quanh bạn. Khoảnh khắc bạn nhớ, "Mình là người thấy và không là cái được thấy," lập tức, bạn không còn là một phần của thế giới này - lập tức, bạn đã siêu việt lên.
Bạn có thể lại quên. Rất khó nhớ lúc bắt đầu, nhưng cho dù trong hai mươi tư giờ, nếu bạn có thể nhớ một khoảnh khắc thôi, điều đó sẽ là đủ nuôi dưỡng rồi. Và dần dần nhiều khoảnh khắc sẽ trở thành có thể. Một ngày tới khi bạn nhớ thường xuyên tới mức chính nỗ lực nhớ là không được cần tới: nó trở thành tự nhiên, như việc thở - bạn thở, bạn nhớ. Nói "nhớ" là không hay, vì không có nỗ lực. Nó đơn giản xảy ra; nó đã trở thành sahaj, tự phát.
Thực hành kiên định khu biệt...
Thế rồi bước thứ hai. Bước thứ nhất: của tách rời, không đồng nhất giữa cái được thấy và người thấy. Bước thứ hai:
Thực hành kiên định khu biệt giữa cái thực và cái không thực đem tới việc xua tan dốt nát.
Đây là một bước; thế rồi có bước khác. Chúng cả hai cùng làm việc với nhau. Nói bước kia là bước thứ hai là không hay lắm - chúng đi đồng thời. Nhưng tốt hơn cả là bắt đầu bước thứ nhất với khu biệt giữa cái được thấy và người thấy; thế thì bước kia sẽ là có thể, bởi vì bước kia là tinh tế hơn, phân biệt giữa cái thực và cái không thực.
Chẳng hạn, trong cuộc sống đời thường bạn đã hoàn toàn bị làm lộn xộn. Bạn không biết cái gì là thực và cái gì là không thực. Bạn bị lộn xộn tới mức bất kì hư cấu nào cũng có thể trở thành thực cho bạn; và khi nó trở thành thực, điều đó nghĩa là khi bạn coi nó là thực, nó bắt đầu ảnh hưởng lên bạn, nó có vẻ thực hơn, bởi vì nó đang ảnh hưởng tới bạn. Điều đó trở thành vòng luẩn quẩn.
Trong đêm bạn mơ rằng ai đó ngồi lên ngực bạn với con dao và định giết bạn - cơn ác mộng. Bạn la hét. Bởi vì việc la hét, giấc ngủ bị phá vỡ. Bạn mở mắt ra; không ai ngồi trên ngực bạn cả. Có thể trong giấc ngủ bạn đã kéo gối lên ngực, hay chỉ có mỗi tay bạn, và sức ép cho bạn ấn tượng; sức ép này tạo ra mơ. Bây giờ bạn biết nó là mơ thôi, nhưng dầu vậy tim bạn vẫn cứ đập nhanh. Bạn biết rằng nó là mơ. Bây giờ bạn thức dậy hoàn toàn. Bạn bật đèn lên - không có ai, chẳng có gì - nhưng thân thể bạn vẫn cứ run rẩy một chút. Phải mất thời gian để lắng đọng lại.
Giấc mơ không thực, làm sao nó tạo ra hiện tượng thực trong thân thể? Chỉ hai khả năng có đó. Một, thân thể cũng không rất thực. Đó là quan điểm của người Hindu về cuộc sống: vì mơ có thể ảnh hưởng tới nó, nó phải giống như mơ; nó không thể là thực. Khả năng thứ hai là: bởi vì bạn coi mơ là thực, đó là lí do tại sao nó ảnh hưởng tới bạn. Nó trở thành thực. Đấy chỉ là tâm trí riêng của bạn: nếu bạn coi cái gì đó là thực nó trở thành thực. Nếu bạn hiểu, nó là không thực. Ngay lập tức nó dừng ảnh hưởng lên bạn theo mọi cách.
Quan sát mà xem: bạn cảm thấy đói. Nó là thực, thân thể bạn cần, hay chỉ bởi vì bạn ăn hàng ngày vào giờ này; cho nên đồng hồ nói bây giờ là giờ ăn sao? "Cảm thấy đói đi!" đồng hồ nói, và bạn lập tức theo mệnh lệnh này: bạn bắt đầu cảm thấy đói. Nó có là đói thực không?
Nếu nó là đói thực, bạn càng duy trì đói, nó sẽ càng tăng thêm. Nếu bạn ăn mọi ngày vào một giờ và bạn cảm thấy đói lúc một giờ, đợi đã: sau đó mười lăm phút bạn không cảm thấy đói; sau một giờ bạn đã hoàn toàn quên mất. Cái gì đã xảy ra? Nếu đói là thực, sau một giờ nó phải đói hơn - nhưng nó đã biến mất. Đó là bịa đặt của tâm trí - không phải nhu cầu thân thể thực, chỉ là nhu cầu tưởng tượng, nhu cầu không thực.
Quan sát cái gì là thực và cái gì là không thực và bạn sẽ trở nên nhận biết về nhiều điều. Và thế rồi bạn có thể phân loại chúng ra và cuộc sống sẽ trở nên ngày càng đơn giản hơn. Đây là điều tính chất sannyas nghĩa là gì: tìm ra cái gì là không thực. Nếu nó là không thực, nếu bạn đã tìm thấy nó là vậy, nó đơn giản không có quyền lực lên bạn. Khoảnh khắc bạn hiểu "cái này là không thực," quyền lực bị mất, việc này chết, nó không còn ảnh hưởng tới bạn. Cuộc sống trở nên đơn giản hơn, tự nhiên hơn. Và thế rồi, dần dần, bạn trở nên nhận biết rằng chín mươi chín phần trăm các thứ là không thật. Chín mươi chín phần trăm, tôi nói. Tôi để một phần trăm cho bước cuối cùng, bởi vì ở bước cuối cùng điều đó nữa cũng trở thành không thực - thực tại duy nhất còn lại là bạn. Mọi thứ, dần dần được cảm thấy là không thực và bị bỏ đi. Cuối cùng, chỉ tâm thức là thực.
Chẳng hạn trong đêm bạn ngủ, bạn thấy giấc mơ. Giấc mơ là thực trong đêm. Bạn coi nó là thực. Bạn sống qua nó - bạn cảm, bạn giận, bạn yêu - đủ mọi loại xúc động, ý nghĩ, đủ mọi loại cuộc sống trôi qua bạn. Thế rồi, đến sáng nó đã trở thành không thực. Bây giờ bạn đang đi tới văn phòng, tới cửa hàng, tới thế giới, tới chợ - bây giờ thế giới này là thực. Đến tối bạn về nhà. Bạn đi ngủ - chợ, cửa hàng, bãi chợ - mọi thứ đã lại trở thành không thực lần nữa. Sâu trong giấc ngủ bạn không nhớ tới chợ, gia đình, nhà cửa, lo âu - chúng tất cả đã biến mất.
Nhưng duy nhất một điều bao giờ cũng còn lại: người thấy. Trong đêm, trong khi mơ diễn ra, mơ có thể là mơ, nhưng người thấy không phải là mơ - bởi vì ngay cả để mơ tồn tại, người thấy thực được cần tới. Cả hai không thể đều là mơ.
Bạn là thanh niên, thế rồi bạn trở nên già, nhưng người thấy vẫn còn là một. Bạn ốm, bạn trở nên mạnh khoẻ; nhưng cái được thấy vẫn còn là một. Tâm thức bên trong bạn bao giờ cũng là một, nhân tố thường hằng - thực tại duy nhất, bởi vì người Hindu định nghĩa thực tại là cái vẫn còn mãi mãi và mãi mãi. Định nghĩa của họ là, "Cái là vĩnh hằng là thực, và cái nhất thời là không thực," bởi vì một khoảnh khắc này nó có đó, khoảnh khắc tiếp nó mất đi. Sao gọi nó là thực được? Nó là mơ. Bất kì cái gì có nghĩa cho một khoảnh khắc và thế rồi trở thành vô nghĩa đều là mơ. Toàn thể cuộc sống, người Hindu nói, đều là mơ, khi bạn chết đi toàn thể cuộc sống đã trở thành vô nghĩa, dường như nó chưa bao giờ tồn tại.
Dần dần, việc khu biệt cái thực từ cái không thực, phân loại nó ra, nhận biết đích thực hơn sẽ nảy sinh từ nó, ngày càng nhiều nhận biết đích thực sẽ nảy sinh ra từ nó. Nhớ lấy, việc phân loại này, khu biệt này giữa cái thực và cái không thực, là phương pháp để tạo ra nhiều nhận biết hơn. Vấn đề thực không phải là biết cái gì là thực và cái gì là không thực. Vấn đề thực là: khi cố gắng biết cái gì là thực và cái gì là không thực, bạn sẽ trở nên nhận biết mạnh mẽ. Nó là phương pháp luận. Cho nên đừng bị mắc vào nó; bởi vì mọi người có thể bị mắc vào phương pháp luận của họ. Bao giờ cũng nhớ nó là phương pháp luận. Nó chỉ là phương cách. Bạn càng trở nên xuyên thấu và nhận biết về cái gì là thực và cái gì là không thực - cái gì đang xảy ra giữa hai điều này? Sự mãnh liệt của bạn đang trở nên ngày càng mãnh liệt, sống động hơn. Mắt bạn đang trở nên ngày càng xuyên thấu hơn, nhìn xa hơn vào hiện tượng cuộc sống. Đó mới là vấn đề thực.
Với yoga mọi thứ đều là phương cách. Mục đích là làm cho bạn nhận biết hoàn hảo, để cho thậm chí không một mảng tối nào còn lại trong tim bạn, thậm chí không một góc nào còn tối - toàn thể ngôi nhà đều được chiếu sáng. "Thực hành kiên định khu biệt giữa cái thực và cái không thực đem tới việc xua tan dốt nát." Cho nên vấn đề là: xua tan dốt nát.
Ở Ấn Độ có vài loài rắn rất, rất độc, rắn mang bành và các loại rắn khác. Khi rắn mang bành cắn người, vấn đề duy nhất là: nếu bạn có thể giữ cho người này tỉnh trong ba mươi sáu giờ, chính thân thể tống chất độc ra khỏi nó. Máu tuần hoàn và làm thuần khiết bản thân nó; chất độc bị tống ra ngoài hệ thống. Nhưng điểm duy nhất là trong ba mươi sáu giờ người này phải không rơi vào giấc ngủ. Một khi người này rơi vào giấc ngủ, thế thì điều đó là không thể được. Cho nên khi rắn mang bành cắn người trong rừng ở Ấn Độ hay ở các bộ lạc nguyên thuỷ nơi không có thuốc men khác tồn tại, cả làng sẽ tụ tập lại cùng nhau. Một lần tôi đã ở trong một làng và chuyện đó xảy ra, và tôi đã quan sát toàn thể hiện tượng này - trong ba mươi sáu giờ. Điều đó là hay, bởi vì đó là toàn thể quá trình trở nên nhận biết.
Vấn đề là ở chỗ chất độc đó làm cho con người buồn ngủ. Người đó cảm thấy thôi thúc vô cùng để rơi vào giấc ngủ. Nó không phải là giấc ngủ thường - thôi thúc vô cùng để rơi vào giấc ngủ. Người đó không thể được phép ngồi; mọi người phải ngăn cản người đó, giữ người đó. Ngồi hay đứng người đó đều phải bị gây choáng, và liên tục tình huống được tạo ra - trống và dàn nhạc và ca hát và nhảy múa khắp xung quanh, và la hét và gào thét và kêu to - để cho người đó không thể rơi vào giấc ngủ. Khoảnh khắc mắt người đó nhắm lại người đó bị lay cho ra khỏi điều đó, lặp đi lặp lại. Người đó thậm chí còn bị đánh. Một khoảnh khắc tới sau mười hai giờ, người đó trở thành gần như không thể thức dậy: bạn cứ la hét, người đó không nghe; thân thể người đó trở nên ẻo lả, bạn không thể giữ được người đó - đứng hay ngồi. Thế thì người đó phải bị đánh đau; chỉ điều đó mới giữ cho người đó thức. Nếu ba mươi sáu giờ được hoàn thành thì chất độc được thân thể tống ra và người đó vẫn còn sống. Nếu người đó rơi vào giấc ngủ, cho dù vài phút, người đó chết.
Toàn thể nỗ lực của yoga là giống điều đó. Nhiều phương pháp phải được dùng để vẫn còn tỉnh táo: và bởi vì điều này mà nhiều điều đã đi sai. Chẳng hạn, nhịn ăn: nhịn là phương pháp để vẫn còn tỉnh táo - nó chẳng liên quan gì tới thân thể - bởi vì bất kì khi nào bạn nhịn ăn bạn không thể rơi vào giấc ngủ dễ dàng. Để rơi vào giấc ngủ, thân thể cần thức ăn. Khi bạn đã ăn quá nhiều bạn rơi vào giấc ngủ ngay lập tức. Nếu bạn ăn quá nhiều, ngay lập tức bạn cảm thấy rằng bây giờ bạn không thể di chuyển được. Bạn không thể làm được gì. Ý thức đánh mất bản thân nó. Toàn thể năng lượng của thân thể dồn vào dạ dầy, nó bỏ đầu lại chỗ nó vẫn còn ý thức, bởi vì thức ăn phải được tiêu hoá, và đó là điều đầu tiên cần được làm - ngay lập tức, nhu cầu đầu tiên. Năng lượng toàn thân tập trung gần dạ dầy và bạn bắt đầu cảm thấy buồn ngủ.
Trong nhịn ăn, nếu bạn đã bao giờ nhịn ăn, bạn sẽ cảm thấy rằng trong đêm bạn không thể rơi vào giấc ngủ được. Bạn lật mình lặp đi lặp lại; cái gì đó bị thiếu. Năng lượng của thân thể hoàn toàn tự do - không cần tiêu hoá cái gì. Năng lượng tự do di chuyển khắp thân thể. Nó không còn được tập trung vào dạ dầy. Thực ra nó sẵn có, cho nên tâm trí bạn cứ vận hành: bạn vẫn còn tỉnh táo. Ngủ là khó. Nhịn ăn là cách để tạo ra nhận biết. Nếu bạn nhịn ăn thời gian lâu, bạn sẽ đạt tới nhị nguyên nào đó của nhận biết điều là khó đạt tới trong khi bạn cứ ăn. Nó có thể được đạt tới, nhưng nó sẽ mất thời gian lâu hơn. Nhịn ăn là lối tắt để đạt tới nó.
Nhưng, ở đâu đó, cái gì đó đã đi sai. Nó bao giờ cũng xảy ra với người ngủ. Bạn cho họ cái gì đó: họ trở nên bị nghiện với cái đó. Họ quên mục đích - phương pháp trở thành mục đích; phương tiện trở thành cứu cánh. Bây giờ có hàng nghìn sư Jaina liên tục nhịn ăn - và chẳng cái gì xảy ra. Tôi đã từ đi lang thang khắp nước gặp gỡ nhiều kiểu người thế. Tôi đã hỏi hàng nghìn sư Jaina, "Sao ông nhịn ăn?" Họ nói, "Vì điều đó làm thuần khiết thân thể." Tuyệt đối ngu xuẩn.
Nó có thể làm thuần khiết thân thể, nhưng đó không phải là vấn đề chút nào. Nó có thể là tốt cho sức khoẻ nhưng thỉnh thoảng thôi, không phải luôn luôn. Nếu bạn đã tích luỹ mỡ quá nhiều trong thân thể, làm thuần khiết nó sẽ có ích; nó giảm mỡ. Nếu bạn đã ăn quá nhiều trong nhiều năm tới mức bạn đã tích luỹ nhiều chất độc trong thân thể, nó giúp làm thuần khiết. Nhưng điều đó là phụ; điều đó không liên quan gì tới tôn giáo cả. Nó là tự nhiên liệu pháp, không phải là tôn giáo.
Nhưng sao sư Jaina phải làm thuần khiết thân thể? Ông ấy không ốm. Ông ấy không bị chất độc. Ông ấy đã hoàn toàn quên mất mục đích. Mục đích là nhận biết. Bây giờ ông ấy cứ thực hành phương tiện, dùng phương tiện, không biết tới mục đích. Ông ấy đơn giản khổ. Cho nên nhịn ăn không còn là nhịn ăn nữa; nó là việc bỏ đói. Và điều này đã xảy ra nhiều lần - gần như bao giờ nó cũng xảy ra - bởi vì mọi sự được trao cho những người ngủ. Họ không thể hiểu được mục đích; mục đích là xa xôi. Họ níu bám lấy phương tiện.
Bạn phải đã thấy những bức hình, hay nếu bạn chưa thấy những bức hình này, bạn có thể tới Benares và xem mọi người nằm trên giường gai. Đó là phương pháp cổ nhất để tạo ra nhận biết, rất cổ, cổ đại nhất. "Để tạo ra nhận biết" - nó chẳng liên quan gì tới kì công cả. Nó chẳng liên quan gì tới việc tạo ra ấn tượng lên người khác. Người này không nên ở đó trên phố của Benares; người đó nên ẩn trong rừng, rừng sâu, nơi không ai đạt tới, bởi vì đó không phải là triển lãm. Nhưng bây giờ điều đó đã trở thành việc triển lãm.
Và bạn sẽ thấy mọi người nằm trên giường gai và bạn sẽ không thấy một tia lửa nhận biết nào trong mắt họ hey trên mặt họ; ngược lại, bạn sẽ cảm thấy họ rất, rất đờ đẫn, không nhạy cảm - không thông minh, ngu ngốc. Đây là phép màu, bởi vì phương pháp này là để tạo ra nhận biết. Điều gì đã xảy ra? Họ hoàn toàn quên mất nó để làm gì: nó trở thành mục đích trong bản thân nó. Họ đã "học thủ đoạn." Và nếu bạn phải học thủ đoạn, bạn phải trở nên vô cảm; chỉ thế thì bạn mới có thể nằm trên giường đinh hay gai. Thân thể phải đờ đẫn tới mức nó không cảm thấy gì mấy. Nó phải chết để cho gai hay đinh không thể làm hại nó. Bạn phải thu thập đờ đẫn dầy quanh thân thể bạn, vô cảm.
Bây giờ chính việc đảo lại mới là mục đích: trở nên nhạy cảm hơn, cảm thấy thân thể trong mọi cảm giác của nó. Nếu bạn nằm trên giường đinh hay gai bạn sẽ cảm thấy mọi lỗ chân lông của thân thể. Toàn thân đều đau - và cái đau cho bạn cú sốc, và đau làm bạn thức, làm bạn tỉnh táo. Nó không phải là để được thực hành. Nếu bạn thực hành nó, dần dần thân thể học được thủ đoạn. Thế thì thân thể trở nên chết; thân thể bắt đầu tạo ra các chỗ chết để cho bất kì khi nào đinh đâm vào thân thể một chỗ chết lại nảy sinh. Thân thể phải tự bảo vệ nó. Thế thì bạn sẽ thấy người này nằm trên đinh tuyệt đối vô nhận biết - vô nhận biết hơn bạn. Nếu bạn nằm trên giường bạn sẽ la hét với đau đớn. Bạn tỉnh táo hơn, bạn nhạy cảm hơn. Người đó nằm một cách hạnh phúc; người đó thậm chí còn ngủ trên nó. Thân thể người đó nhiều tính đá hơn. Người đó đã đánh mất cái gì đó được cần tới - nhận biết. Bây giờ chính điều ngược lại đã xảy ra.
Và điều này là vậy trong mọi thực hành tôn giáo: chúng trở thành nghi lễ. Tôi bắt gặp một người từng đứng trong mười năm. Ông ta không ngủ; ông ta sẽ không ngồi; ông ta đơn giản đứng - một trong những phương pháp hatha yoga cổ để tạo ra tâm thức, bởi vì thân thể sẽ cần ngủ. Thân thể sẽ nói, "Tôi muốn đi ngủ." Bạn có thể đứng được bao lâu? Sau vài giờ, hay vài ngày bạn sẽ cảm thấy thôi thúc vô cùng để ngủ. Chế ngự thôi thúc đó, lờ nó đi, và vẫn còn tỉnh táo - đó là cái dụng của phương pháp này.
Nhưng tôi đã bắt gặp người này. Ông ta rất nổi tiếng, cả nghìn người tới bầy tỏ kính trong ông ta, nhưng họ không biết họ đang làm gì và họ đang làm cho ai. Người đó đã trở thành hoàn toàn đờ đẫn. Ông ta đã đứng lâu thế, chân ông ta đã trở thành phần gần chết. Bây giờ ông ta không thể gập được chúng. Chúng đã trở thành như nó xảy ra trong bệnh có tên là bệnh chân voi: chân trở thành như chân của voi. Toàn thể trọng lượng thân thể của ông ta đã di chuyển xuống chân. Ông ta là người gầy còm. Phần trên đã trở thành rất gầy và phần dưới đã thành rất dầy và nặng. Ông ta bị bóp méo. Mặt ông ta méo mó.
Bạn có thể thấy rằng ông ta đã tự hành hạ mình nhiều lắm - nhưng ông ta đã không trở nên tỉnh táo; thay vì thế, qua hành hạ, ông ta đã trở nên hoà hợp với nó, đã được thích nghi, miễn nhiễm. Bây giờ nó không làm ông ta bận tâm nữa. Ông ta đã mất ý thức qua nó thay vì thu được.
Cho nên nhớ lấy, đây là mọi phương pháp: khu biệt giữa cái được thấy và người thấy, khu biệt giữa cái thực và cái không thực chỉ là phương pháp. Mục đích là nhận biết. "Thực hành kiên định khu biệt giữa cái thực và cái không thực đem tới việc xua tan dốt nát."
Giai đoạn cao nhất của chứng ngộ được đạt tới trong bẩy bước.
Patanjali tin vào trưởng thành dần dần. Ông ấy nói rằng mục đích được đạt tới trong bẩy bước. Tôi nói nó được đạt tới trong một bước nhưng Patanjali đã chia cùng một bước đó thành bẩy phần để làm cho nó dễ dàng hơn cho bạn, không gì khác. Bạn có thể nhảy sáu bước, bẩy bước, trong một cú nhảy; bạn có thể bước cùng khoảng cách trong bẩy bước. Patanjali không tin vào 'nhảy,' vì ông ấy biết bạn hèn; bạn sẽ không có khả năng lấy cú nhảy. Bạn có thể được thuyết phục, thực ra là dụ dỗ, dần dần lấy các bước nhỏ. Bạn có thể lấy những bước nhỏ vì với các bước nhỏ bạn có thể chắc rằng không có nguy hiểm nào. Cú nhảy là nguy hiểm bởi vì bạn không biết bạn sẽ tiếp đất ở chỗ nào. Một bước nhỏ: bạn có thể nhìn quanh và cảm thấy an toàn; chậm rãi, bạn có thể bước nó: và bạn bao giờ cũng biết rằng nếu cái gì đó đi sai bạn bao giờ cũng có thể bước lùi lại, vấn đề chỉ là một khoảng cách nhỏ. Nhưng bạn có thể nhảy lùi lại nếu cái gì đó đi sai. Cú nhảy là thay đổi vô cùng, triệt để.
Patanjali bao giờ cũng nhìn vào bạn bất kì khi nào ông ấy nói cái gì đó. Bây giờ - ngay lập tức - sau khi mô tả cách đạt tới nhận biết, lập tức ông ấy nói, "Giai đoạn cao nhất của chứng ngộ được đạt tới trong bẩy bước." Cho nên đừng lo nghĩ, đừng sợ, bạn có thể đi chậm.
Bẩy bước này là gì? Số bẩy là rất rất quan trọng. Nó dường như là số quan trọng nhất. Từ nhiều con đường thế và nhiều cách thức thế con số đó cứ bật ra lặp đi lặp lại. Nếu bạn hỏi Gurdjieff, ông ấy nói có bẩy kiểu người. Bẩy kiểu người đó là bẩy bước. Nếu bạn hỏi nhà bí truyền Kabbala hay các điều bí ẩn Ai cập, họ nói có bẩy thể trong con người, bẩy tầng thân thể. Bẩy tầng đó của thân thể trở thành bẩy bước. Nếu bạn hỏi nhà yogi, họ nói có bẩy trung tâm trong con người. Bẩy trung tâm đó trở thành bẩy bước. Bằng cách nào đó, bẩy dường như là rất, rất quan trọng. Và bạn sẽ bắt gặp số bẩy này lặp đi lặp lại, nhưng nghĩa cơ sở là như nhau.
Hai khả năng - một, bạn lấy cú nhảy, cú nhảy bất thần, như các Thiền sư yêu cầu bạn làm - như tôi bao giờ cũng hi vọng rằng bạn sẽ có khả năng làm. Trong cú nhảy này bẩy bước đó được gói gọn trong một bước, nhưng nhiều dũng cảm được cần tới. Không chỉ dũng cảm, mà dũng cảm phi lí được cần - bởi vì bạn đang đi vào trong cái không biết. Khác biệt là bao la giữa bạn và thung lũng nơi bạn tiếp sẽ đất. Bạn thậm chí không thể tưởng tượng được. Nó là từ cái biết tới cái không biết. Không có trưởng thành dần dần: bùng nổ bất thần. Khả năng khác là chia không gian thành bẩy - để cho bạn có thể đi chậm, để cho tâm trí tinh ranh của bạn, tâm trí láu lỉnh, có thể được thoả mãn.
Mọi người tới tôi và tôi hỏi họ, "Bạn có thích nhận tính chất sannyas không nghĩ ngợi gì không, hay bạn muốn nghĩ về nó?" Hiếm khi điều xảy ra là ai đó nói, "Tôi phát chán với nghĩ rồi." Maneesha đã nói rằng khi cô ấy tới. Chính ngày đầu tiên cô ấy tới tôi, tôi hỏi, "Bạn có muốn nhận tính chất sannyas không? Không nghĩ ngợi? Bạn có muốn trước hết nghĩ về nó, cảm thấy an toàn? Hay bạn sẵn sàng ngay bây giờ?" Cô ấy nói, "Tôi phát chán với suy nghĩ rồi." Hiếm khi điều xảy ra là ai đó nói "chán với suy nghĩ."
Trong hầu hết mọi trường hợp chuyện xảy ra là họ nói, "Chúng tôi sẽ nghĩ." Và họ bỏ lỡ cơ hội, bởi vì nếu bạn nghĩ, bạn tiếp tục. Nếu bạn quyết định nó, thế thì nó không còn là cú nhảy nữa. Nếu lí trí của bạn trước hết cảm thấy an toàn, cố cảm thấy an toàn, mọi an ninh, cố hiểu mọi thứ; thế thì nó vẫn còn là dạng được sửa đổi của bản thể bạn. Thế thì quá khứ của bạn cứ chơi một phần trong nó. Và tính chất sannyas nghĩa là vứt bỏ quá khứ; nó không phải là trạng thái được sửa đổi của quá khứ của bạn. Nó là cách mạng toàn bộ: nó là triệt để. Cho nên những người nói, "Chúng tôi sẽ nghĩ," bỏ lỡ cái gì đó. Họ tới. Họ nghĩ về nó trong vài ngày, thế rồi họ tới, thế rồi họ nhận tính chất sannyas - nhưng nhiều thứ hơn là có thể, nhiều thứ hơn là sẵn có. Họ đơn giản bỏ lỡ nó. Nếu bạn có thể lấy cú nhảy, thế thì lấy cú nhảy đi. Nếu bạn muốn đi chậm, bạn có thể đi, nhưng bạn sẽ bỏ lỡ cái gì đó.
Tôi đã thấy việc xảy ra này. Những người dũng cảm với chứng ngộ bất thần, họ đạt tới đỉnh mà không bao giờ được đạt tới bởi người trưởng thành dần. Những người này cũng đạt tới đỉnh, nhưng họ đạt tới kiểu dần dần thế, họ chia toàn thể không gian thành nhiều phần tới mức nó không bao giờ trở thành cực lạc. Họ đạt tới cùng đỉnh.
Bạn phải quan sát rồi. Một Meera nhảy múa, một Chaitanya điên và nhảy múa và ca hát. Nhà yogis sao? Không, họ không bao giờ nhảy múa, họ không bao giờ hát, bởi vì họ đạt tới dần dần tới mức nó không bao giờ là kinh nghiệm hồ hởi, không bao giờ. Họ đạt tới dần dần thế, trong các bộ phận họ đạt tới cực lạc. Họ đạt tới nó trong nhiều liều thế - những liều nhỏ, liều vi lượng - tới mức trước khi liều khác được cho, liều thứ nhất mất rồi, họ đã hấp thu nó, tiêu hoá nó. Thế rồi liều thứ hai được cho - điều đó nữa cũng được hấp thu trước khi liều thứ ba tới. Họ không thể nhảy múa. Bạn không thể thấy nhà yogi nhảy múa. Ông ta đã bỏ lỡ cái gì đó. Ông ta đã đạt tới cùng đỉnh, nhưng trên con đường cái gì đó bị mất.
Tôi bao giờ cũng thiên về bất thần, bởi vì khi bạn đang sắp đạt tới, sao không nhảy múa đạt tới? Khi bạn sắp đạt tới, sao không đạt tới trong cực lạc sâu sắc của bản thể? Nhà yogi có vẻ giống như kinh doanh - tính toán, toán học - không điên như người yêu. Nhưng cả hai con đường đều mở. Chọn lựa dành cho bạn.
Điều đó cũng giống như bạn trúng xổ số - mười vạn ru pi - và thế rồi một ru pi được trao cho bạn, thế rồi một ru pi khác, thế rồi lại một ru pi khác; dần dần bạn có được nó, nhưng bạn không bao giờ được phép có mười vạn ru pi và bạn không bao giờ được phép biết rằng bạn sẽ có mười vạn ru pi. Bạn sẽ đạt tới mười vạn ru pi, nhưng một nghìn năm sẽ trôi qua - và bạn bao giờ cũng vẫn còn là kẻ ăn xin: một ru pi trong túi. Trước khi bạn dùng nó, đồng khác sẽ không được trao; khi bạn đã dùng nó rồi, đồng khác sẽ được trao.
Chứng ngộ bất thần có cái đẹp, cái đẹp hoang sơ về nó: rằng đột nhiên bạn được cho mười vạn ru pi - bạn có thể nhảy múa! Nhưng nếu bạn yếu tim tốt hơn cả là đi chậm thôi.
Tôi đã nghe, chuyện xảy ra: Một người bao giờ cũng mua vé xổ số, và như nó vẫn xảy ra, anh ta chả bao giờ được giải nào. Nhiều năm qua đi, nhưng điều đó đã thành lệ thường. Mọi tháng anh ta sẽ đi và mua vài vé số từ tiền lương. Nhưng một hôm chuyện xảy ra. Anh ta ở văn phòng và vợ đi tới biết rằng anh ta đã đạt được mục đích - mười vạn ru pi. Cô ấy trở nên sợ hãi bởi vì anh ta là người nghèo, anh ta lĩnh lương hàng tháng chỉ một trăm ru pi. Mười vạn ru pi sẽ là quá nhiều. Nó sẽ nhiều tới mức nó có thể làm anh ta chết.
Cho nên phải làm gì? Cô ấy chạy tới một trong các hàng xóm, ông ta là linh mục trong nhà thờ. Ông ta là người khôn ngoan, và cô ấy không thể nghĩ được về bất kì ai khôn ngoan hơn, cho nên cô ấy đi tới đó và kể cho linh mục, "Cha phải làm cái gì đó đi. Anh ấy sẽ về từ văn phòng, và nếu anh ấy mà biết 'mười vạn ru pi' một cách đột ngột thế, chắc chắn anh ấy sẽ không sống được. Con biết anh ấy rõ lắm. Anh ấy là người keo kiệt và anh ấy chưa bao giờ thấy hơn một trăm ru pi. Anh ấy sẽ phát điên hay anh ấy sẽ chết, nhưng cái gì đó sẽ xảy ra. Cha tới và cứu anh ấy đi."
Người khôn ngoan nói, "Cha sẽ tới. Đừng sợ; cha tới mà."
Ông ta lập kế hoạch, như mọi người tính toán lập kế hoạch. Người này về nhà. Linh mục ngồi đó rồi. Ông ta nói, "Con nghe đây, con đã trúng xổ số. Con đã trúng xổ số một vạn ru pi."
Ông ta nghĩ đây sẽ là liều nhỏ - ông ta đã chia nó ra thành mười phần. Dần dần ông ta sẽ nói rằng không, không phải một, mà hai. Khi ông ta thấy rằng anh ta đã hấp thu được cú sốc, ông ta sẽ nói ba.
Người này nói, "Một vạn ru pi à? Có thực không? Nếu nó là thực, con sẽ biếu cha một nửa số đó cho nhà thờ của cha."
Tu sĩ lăn đùng và chết mất ngáp. Năm mươi nghìn ru pi! Ông ta không thể tin được vào điều đó. Quá nhiều.
Cho nên bạn phải chọn; chọn lựa là của bạn. Nếu bạn cảm thấy trái tim là mạnh, đi cùng tôi. Nếu bạn cảm thấy trái tim là yếu và có khả năng đau tim, đi cùng Patanjali. Ông ấy là nhà toán học. Ông ấy cho bạn các liều chậm, nhưng nhớ lấy, bạn sẽ bỏ cái gì đó. Bạn sẽ đạt tới cùng trạng thái của vấn đề, cùng trạng thái của bản thể - im lặng, phúc lạc - nhưng cực lạc sẽ không có đó. Bạn sẽ ngồi dưới cây bồ đề, im lặng; nhưng bạn sẽ không có khả năng nhảy múa như một Meera hay như một Chaitanya. Và điệu vũ đó có cái gì đó trong nó. Nó bao giờ cũng xảy ra cho những người đạt tới bất thần.
Trích từ quyển 'Yoga: Alpha và Omega' Tập 5 - Osho

0 Đánh giá

Ads Belove Post