Read more
Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 1 - Osho
Vigyan Bhairav Tantra Vol. 1
Chương 16. Bên ngoài tội vô ý thức
Câu hỏi thứ nhất:
Kĩ thuật cuối thầy đã thảo luận hôm qua nói
rằng khi một tâm trạng nảy sinh để chống lại ai đó hay ủng hộ ai đó, không đặt
nó vào người đang có liên quan mà vẫn còn được định tâm. Nhưng khi chúng tôi thực
nghiệm với kĩ thuật này trên giận, hận, v.v của mình, chúng tôi cảm thấy rằng
chúng tôi đang kìm nén xúc động của mình và nó trở thành phức hợp bị kìm nén. Vậy
xin thầy làm sáng tỏ làm sao được tự do khỏi những phức cảm bị kìm nén này khi
thực hành kĩ thuật trên.
Diễn đạt và kìm nén là hai mặt
của một đồng tiền. Chúng là mâu thuẫn, nhưng về căn bản chúng không khác nhau. Trong
diễn đạt và trong kìm nén, trong cả hai, người kia là trung tâm.
Tôi giận - tôi kìm nén cơn giận.
Tôi diễn đạt giận chống lại bạn; bây giờ tôi kìm nén cơn giận chống lại bạn.
Nhưng giận liên tục được phóng chiếu lên bạn dù được diễn đạt hay kìm nén.
Kĩ thuật này không dành cho kìm
nén. Kĩ thuật này thay đổi chính cơ sở của cả việc diễn đạt và kìm nén. Kĩ thuật
này nói, không phóng chiếu nó lên người kia, bạn là nguồn. Dù bạn diễn đạt nó
hay kìm nén nó, bạn là nguồn. Nhấn mạnh không vào diễn đạt hay kìm nén. Nhấn mạnh
là vào việc biết giận này nảy sinh từ đâu. Bạn phải chuyển về trung tâm, nguồn
từ đó giận, ghét và yêu nảy sinh. Khi bạn kìm nén bạn không di chuyển tới trung
tâm này, bạn đang vật lộn với việc diễn đạt.
Giận đã nảy sinh trong tôi. Bình
thường, tôi có thể làm hai điều: diễn đạt nó lên ai đó hay kìm nén nó. Nhưng
trong cả hai trường hợp tôi quan tâm tới người kia và tôi quan tâm tới năng lượng
giận đã trồi lên bề mặt - không với nguồn.
Kĩ thuật này là để quên đi người
kia hoàn toàn. Chỉ nhìn vào năng lượng giận của bạn đang nảy sinh và đi sâu xuống
để tìm ra nguồn bên trong bản thân bạn từ đó nó đang tới. Và khoảnh khắc bạn
tìm thấy nguồn, vẫn còn được định tâm trong nó. Không làm bất kì cái gì với giận
- nhớ lấy. Trong diễn đạt bạn đang làm cái gì đó với giận; trong kìm nén bạn
cũng đang làm cái gì đó với giận. Không làm bất kì cái gì với giận; không chạm
vào nó, chỉ dùng nó như con đường. Chỉ đi sâu xuống vào trong nó để biết điều
này đã nảy sinh từ đâu. Và khoảnh khắc bạn sẽ tìm thấy nguồn, rất dễ được định
tâm ở đó. Giận phải được dùng, thực sự, như con đường để tìm ra nguồn. Bất kì
xúc động nào cũng có thể được dùng.
Khi bạn kìm nén bạn sẽ không
tìm ra nguồn, bạn đang vật lộn với năng lượng mà đã kéo tới và muốn được diễn đạt.
Bạn có thể kìm nén nó, nhưng nó sẽ được diễn đạt sớm hay muộn vì bạn không thể
vật lộn mãi mãi với năng lượng này mà đã kéo tới. Nó phải được diễn đạt. Cho
nên bạn có thể không diễn đạt nó lên A, nhưng thế thì bạn sẽ diễn đạt nó lên B
hay C. Bất kì khi nào bạn thấy người nào đó yếu hơn bạn, bạn sẽ diễn đạt năng
lượng này. Và chừng nào bạn chưa diễn đạt nó bạn sẽ cảm thấy bị nặng gánh, căng
thẳng, nặng nề và không thoải mái.
Cho nên nó sẽ được diễn đạt. Bạn
không thể kìm nén nó liên tục được. Từ đâu đó nó sẽ rò rỉ ra, vì nếu nó không
rò rỉ ra bạn sẽ thường xuyên lo nghĩ về nó. Cho nên kìm nén thực sự không là gì
ngoài việc trì hoãn diễn đạt. Bạn sẽ đơn giản trì hoãn.
Bạn giận ông chủ của bạn và bạn
không thể diễn đạt được điều đó; điều đó là không kinh tế. Bạn sẽ phải đẩy nó
xuống, cho nên bạn chỉ chờ đợi cho tới khi bạn có thể diễn đạt nó lên vợ bạn
hay con bạn hay đâu đó khác - lên người hầu của bạn... Và khoảnh khắc bạn về tới
nhà bạn sẽ diễn đạt nó. Bạn sẽ tìm ra lí do, tất nhiên, vì con người là con vật
hợp lí hoá. Người đó sẽ hợp lí hoá; người đó sẽ tìm ra cái gì đó - cái gì đó rất
tầm thường, nhưng bây giờ cái đó sẽ trở thành rất có nghĩa vì bạn có cái gì đó
để diễn đạt.
Kìm nén không là gì ngoài việc
trì hoãn. Bạn có thể trì hoãn nhiều tháng, nhiều năm. Và những người biết đều
nói rằng bạn có thể trì hoãn nhiều kiếp nữa, nhưng nó sẽ phải được diễn đạt. Kĩ
thuật này không quan tâm chút nào tới kìm nén hay diễn đạt - không! Kĩ thuật
này dùng tâm trạng của bạn, năng lượng của bạn, như con đường cho bạn đi sâu xuống
vào bên trong bản thân bạn.
Gurdjieff thường tạo ra những
tình huống trong đó ông ấy sẽ áp đặt giận lên bạn, hay hận, hay bất kì tâm trạng
khác nào, và điều đó là hiện tượng được tạo ra. Bạn sẽ không nhận biết về điều
sắp xảy ra.
Gurdjieff đang ngồi cùng các đệ
tử của ông ấy, và khi bạn đi vào bạn không nhận biết về điều sắp xảy ra, nhưng
họ sẵn sàng tạo ra giận trong giận. Họ sẽ cư xử theo cách như thế... Ai đó sẽ
nói cái gì đó, và cả nhóm sẽ cư xử theo cách xúc phạm bạn tới mức bạn trở nên bực
bội. Đột nhiên giận sẽ bật ra; bạn bắt lửa. Và khi Gurdjieff đã thấy rằng bây
giờ một điểm đã tới từ đó bạn hoặc có thể đi sâu xuống hoặc bạn có thể đi ra,
khi đỉnh đã tới bên trong bạn và bạn sắp sửa bùng nổ, thế thì ông ấy sẽ nói,
"Nhắm mắt lại. Bây giờ nhận biết về giận của ông và quay trở lại."
Chỉ thế thì bạn mới nhận ra rằng
tình huống này là một tình huống được tạo ra. Không ai quan tâm tới việc xúc phạm
bạn - đó chỉ là vở kịch, vở kịch tâm lí - nhưng giận đã nảy sinh. Và cho dù bạn
đi tới biết rằng đó đơn giản là vở kịch, năng lượng này không thể đột nhiên đi
xuống được, nó sẽ cần thời gian. Bây giờ bạn có thể chuyển xuống tới nguồn với
năng lượng tụt xuống này. Năng lượng này sẽ chỉ giúp bạn đi xuống tới chỗ nó đã
tới từ đó; bây giờ bạn có thể kết nối với nguồn nguyên thuỷ. Và đây là một
trong những phương pháp thiền thành công nhất.
Tạo ra bất kì tâm trạng nào...
nhưng không có nhu cầu vì cả ngày các tâm trạng đều có đó. Dùng bất kì tâm trạng
nào để thiền. Thế thì bạn đã quên người kia hoàn toàn, và bạn không kìm nén bất
kì cái gì. Bạn chỉ chuyển xuống với năng lượng nào đó mà đã trồi lên. Mọi năng
lượng đều tới từ nguồn, cho nên ngay bây giờ con đường là ấm áp và bạn có thể
dùng con đường đó để đi đi ngược lại. Và khoảnh khắc bạn đạt tới nguồn nguyên thuỷ,
năng lượng này sẽ lắng vào trong nguồn nguyên thuỷ. Nó không kìm nén: năng lượng
đã đi ngược lại tới nguồn nguyên thuỷ. Và khi bạn trở nên có khả năng thống nhất
lại năng lượng của bạn với nguồn nguyên thuỷ của bạn, bạn đã trở thành người chủ
của thân thể bạn, tâm trí bạn, năng lượng của bạn. Bạn đã trở thành người chủ.
Bây giờ bạn sẽ không tiêu tán năng lượng của bạn.
Một khi bạn có thể biết cách
năng lượng rơi trở lại với bạn tới trung tâm, không có nhu cầu về bất kì kìm
nén nào và không có nhu cầu về bất kì diễn đạt nào. Ngay bây giờ bạn không giận.
Tôi nói cái gì đó - bạn trở nên giận. Năng lượng này từ đâu tới? Một khoảnh khắc
trước bạn đã không giận, nhưng năng lượng này đã ở trong bạn. Nếu năng lượng
này có thể rơi trở lại nguồn, bạn sẽ lại là cùng như bạn đã là vậy khoảnh khắc
trước.
Nhớ điều này: năng lượng không
là giận không là yêu không là ghét. Năng lượng đơn giản là năng lượng - trung lập.
Cùng năng lượng này trở thành giận; cùng năng lượng này trở thành dục; cùng
năng lượng này trở thành yêu; cùng năng lượng này trở thành ghét. Đây toàn là
hình tướng của cùng một năng lượng. Bạn cho hình tướng, tâm trí bạn cho hình tướng,
và năng lượng chuyển vào trong nó.
Cho nên nhớ, nếu bạn yêu sâu sắc
bạn sẽ không có nhiều năng lượng để giận. Nếu bạn không yêu chút nào, thế thì bạn
sẽ có nhiều năng lượng để giận, và bạn sẽ liên tục tìm các tình huống để giận.
Nếu năng lượng của bạn được diễn đạt qua dục, bạn sẽ ít bạo hành hơn. Nếu năng
lượng của bạn không được diễn đạt qua dục, bạn sẽ nhiều bạo hành hơn. Đó là lí
do tại sao quân đội sẽ không bao giờ cho phép mối quan hệ dục cho lính tráng. Nếu
điều đó là được phép, quân đội sẽ trở thành tuyệt đối bất lực để đánh nhau.
Đó là lí do tại sao, bất kì khi
nào nền văn minh đi tới đỉnh, nó không thể đánh nhau được. Cho nên bao giờ cũng
vậy, các xã hội văn hoá hơn và văn minh hơn bị tàn phá và bị đánh bại bởi những
nền văn minh kém hơn - bao giờ cũng vậy, vì xã hội phát triển hơn chăm nom tới
mọi nhu cầu của các cá nhân của nó, và dục cũng được bao hàm. Cho nên khi một
xã hội thực sự được củng cố, phong lưu, nhu cầu dục của mọi người được đáp ứng
- nhưng khi nhu cầu dục được đáp ứng bạn không thể đánh nhau được. Bạn có thể
đánh nhau rất dễ dàng nếu nhu cầu dục không được đáp ứng. Cho nên nếu bạn muốn
có một thế giới hoà bình, nhiều tự do hơn về dục sẽ được cần tới. Nếu bạn muốn
có một thế giới của chiến tranh, đánh nhau, thế thì phủ nhận dục, kìm nén dục,
tạo ra thái độ chống dục.
Đây là điều rất ngược đời: cái
gọi là các thánh nhân và hiền nhân liên tục nói về hoà bình, và họ liên tục nói
chống lại dục nữa. Họ liên tục tạo ra bầu không khí chống dục, và đồng thời họ
liên tục nói rằng thế giới cần hoà bình, không cần chiến tranh. Điều này là ngớ
ngẩn. Người hippies là đúng hơn; khẩu hiệu của họ là đúng: "Làm tình,
không làm chiến tranh." Điều đó là đúng. Nếu bạn có thể làm tình nhiều
hơn, thực sự bạn không thể làm chiến tranh.
Đó là lí do tại sao cái gọi là
các sannyasin những người đã kìm nén dục, bao giờ cũng bạo hành, giận dữ về chẳng
cái gì: chỉ giận, chỉ bạo hành, sôi lên, chờ đợi bùng nổ. Toàn thể năng lượng của
họ là không được diễn đạt. Chừng nào năng lượng này chưa đổ về nguồn, không
brahmacharya, không vô dục thực nào là có thể. Bạn có thể kìm nén dục - thế thì
nó sẽ trở thành bạo hành. Nếu năng lượng dục chuyển xuống tới trung tâm, bạn sẽ
giống hệt đứa trẻ.
Đứa trẻ có nhiều năng lượng dục
hơn bạn, nhưng nó là tĩnh lặng trong nguồn; nó chưa di chuyển tới thân thể. Nó
sẽ di chuyển. Khi thân thể sẵn sàng và các tuyến sẵn sàng và thân thể chín muồi,
năng lượng này sẽ di chuyển. Tại sao đứa trẻ trông hồn nhiên thế? Năng lượng ở
tại nguồn; nó đã không di chuyển. Lần nữa cùng điều này xảy ra khi ai đó trở
nên được chứng ngộ. Toàn thể năng lượng di chuyển tới nguồn, và người này trở
thành như đứa trẻ. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, "Chỉ những người
giống như trẻ nhỏ sẽ có khả năng vào vương quốc Thượng đế của ta."
Điều đó có nghĩa là gì? Về mặt
khoa học toàn thể năng lượng của bạn đã di chuyển trở lại nguồn. Nếu bạn diễn đạt,
nó đã đi ra. Và khi nó được diễn đạt, bạn đang tạo ra thói quen cho năng lượng
này di chuyển ra, rò rỉ ra. Nếu bạn kìm nén, thế thì năng lượng này đã không di
chuyển tới nguồn và nó đã không di chuyển ra: nó bị kìm nén. Và năng lượng bị
đình lại là gánh nặng.
Đó là lí do tại sao, nếu bạn thực
sự diễn đạt giận, bạn cảm thấy nhẹ nhõm. Nếu bạn đi qua dục, bạn cảm thấy nhẹ
nhõm. Nếu bạn phá huỷ cái gì đó, ghét của bạn được xả ra và bạn cảm thấy nhẹ
nhõm. Tại sao sự nhẹ nhõm này được cảm thấy? Vì năng lượng bị kìm nén là gánh nặng,
là sức nặng. Tâm trí bạn bị che mờ bởi nó. Bạn phải tống nó ra hay cho phép nó
di chuyển ngược trở lại nguồn nguyên thuỷ; đây là hai cách duy nhất.
Nếu nó đi ngược lại nguồn, nó
trở thành vô hình tướng. Tại nguồn, năng lượng là vô hình tướng. Chẳng hạn, điện
là vô hình tướng. Khi nó di chuyển vào trong quạt, nó lấy một loại hình tướng.
Khi nó di chuyển vào trong bóng đèn, nó lấy hình tướng khác. Bạn có thể dùng nó
theo cả nghìn cách - năng lượng vẫn là một. Hình tướng được cho bởi cơ chế này
qua đó nó di chuyển.
Giận là cơ chế, dục là cơ chế,
yêu là cơ chế, ghét là cơ chế. Khi năng lượng di chuyển vào trong kênh của
ghét, nó trở thành ghét. Nếu cùng năng lượng này di chuyển vào trong yêu, nó trở
thành yêu. Và khi nó di chuyển vào trong nguồn, nó là năng lượng vô hình tướng
- năng lượng thuần khiết. Nó không là ghét không là yêu không là giận không là
dục, đơn giản là năng lượng. Thế thì nó là hồn nhiên, vì cái vô hình tướng là
tuyệt đối hồn nhiên. Đó là lí do tại sao Phật có vẻ hồn nhiên thế, như trẻ con.
Năng lượng đã chuyển vào nguồn.
Đừng diễn đạt, vì bạn làm phí
hoài năng lượng của bạn và giúp cho người khác cũng làm phí hoài năng lượng của
người đó. Đừng kìm nén, vì thế thì bạn đang tạo ra hiện tượng ngăn cản lại cái
sẽ phải được xả ra. Thế thì phải làm gì?
Kĩ thuật này nói, không làm bất
kì cái gì với bản thân tâm trạng, chỉ đi ngược lại nguồn từ nơi tâm trạng này tới.
Và trong khi tâm trạng này còn nóng, con đường là rõ ràng, là thấy được bên
trong; bạn có thể di chuyển trên nó. Dùng các tâm trạng cho thiền. Kết quả là
kì diệu, không thể tin được. Và một khi bạn tìm ra chìa khoá, cái chỉ cho bạn
cách rót năng lượng trở lại nguồn, bạn sẽ có phẩm chất khác của nhân cách. Thế
thì bạn sẽ không làm tiêu tán bất kì cái gì, thế thì việc tiêu tán đó sẽ có vẻ
ngu xuẩn.
Phật đã nói rằng bất kì khi nào
bạn giận ai đó, bạn đang tự trừng phạt bản thân bạn vì hành động xấu của người
kia. Người đó đã xúc phạm bạn - đó là hành vi của người đó - và bạn đang trừng
phạt bản thân bạn bởi việc là giận; bạn đang làm tiêu tán năng lượng của bạn.
Điều này là ngu xuẩn.
Nhưng thế rồi, nghe theo Phật,
Mahavir, Jesus, chúng ta bắt đầu kìm nén; chúng ta bắt đầu đè nén năng lượng của
chúng ta. Thế rồi chúng ta nghĩ rằng điều đó là không tốt, rằng nổi giận là ngu
xuẩn.
Vậy phải làm gì? Đè nén giận,
không giận, kéo bản thân bạn vào, đóng bản thân bạn lại. Tranh đấu với giận của
bạn và đè nén nó. Nhưng thế thì bạn sẽ ngồi trên cái gì đó mà sẽ bùng nổ bất kì
khoảnh khắc nào. Bạn đang ngồi trên núi lửa Vesuvius - bất kì khoảnh khắc nào
nó sẽ nổ.
Bạn liên tục dồn ứ. Giận của cả
ngày được dồn lại; giận của cả tháng được dồn lại; giận của cả năm, và giận của
cả đời bạn, và thế rồi giận của nhiều kiếp sống, được dồn lại. Nó có đó; nó có
thể bùng nổ bất kì khoảnh khắc nào. Thế rồi bạn trở nên rất sợ ngay cả việc sống,
vì bất kì khoảnh khắc nào bất kì cái gì có thể đi vào và bạn sẽ bùng nổ. Bạn trở
nên sợ, mọi khoảnh khắc đều là cuộc vật lộn bên trong.
Các nhà tâm lí nói diễn đạt là
tốt hơn đè nén, nhưng tôn giáo không thể nói được điều này. Tôn giáo nói cả hai
là ngu xuẩn. Trong diễn đạt bạn đang làm hại người khác và cũng làm hại bản
thân bạn. Trong đè nén bạn làm hại bản thân bạn, và bạn sẽ làm hại ai đó khác một
ngày nào đó. Di chuyển tới nguồn để cho năng lượng rơi trở lại vào nguồn và trở
thành vô hình tướng đi. Thế thì bạn sẽ cảm thấy rất mạnh mà không giận. Thế thì
bạn sẽ cảm thấy năng lượng - sinh lực. Bạn sẽ sống động, bạn sẽ có cuộc sống
mãnh liệt mà không có hình tướng. Bất kì người nào đều sẽ bị ấn tượng chỉ bởi sự
hiện diện của bạn. Bạn không cần chi phối bất kì người nào, chỉ sự hiện diện của
bạn và họ sẽ cảm thấy rằng nguồn sức mạnh nào đó đã tới.
Bất kì khi nào ai đó đi tới vị
phật hay tới một Krishna, đột nhiên năng lượng của người đó cảm thấy sự thay đổi
bầu khí hậu vì nguồn sức mạnh như vậy. Khoảnh khắc bạn di chuyển lại gần, bạn bị
nhiễm từ. Không ai làm cho bạn nhiễm từ, không ai cố làm bất kì cái gì, chỉ có
sự hiện diện. Bạn có thể cảm thấy rằng ai đó đã thôi miên bạn, nhưng không ai
làm việc thôi miên cả. Sự hiện diện của một Phật - người có năng lượng đã trở
thành vô hình tướng, người có năng lượng đã đi tới nguồn, người được định tâm ở
nguồn của người đó - chính sự hiện diện này đang thôi miên. Nó trở thành có sức
lôi cuốn.
Phật đã trở nên chứng ngộ. Trước
chứng ngộ của mình ông ấy đã có năm đệ tử. Họ là những nhà khổ hạnh và khi đó bản
thân Phật đã là nhà khổ hạnh lớn, hành hạ thân thể ông ấy theo nhiều, nhiều
cách, phát minh ra những kĩ thuật mới và tự bạo hơn để hành hạ bản thân mình,
năm người đó đã là những người đi theo nhiệt thành của ông ấy. Thế rồi Phật cảm
thấy rằng điều này đã là điều ngớ ngẩn tuyệt đối, toàn thể. Chỉ bằng việc hành
hạ thân thể người ta, người ta sẽ không nhận ra bản thân mình. Khi ông ấy nhận
ra điều này, ông ấy đã bỏ con đường khổ hạnh. Năm người đi theo kia bỏ ông ấy
ngay lập tức. Họ nói, "Anh đã sa ngã. Anh không còn là người khổ hạnh."
Họ bỏ ông ấy.
Khi Phật trở nên chứng ngộ, ý
tưởng đầu tiên tới với tâm trí ông ấy là về năm người đi theo kia. Có thời họ
đã là người đi theo ông ấy, cho nên ông ấy phải đi tới họ. Ông ấy cảm thấy có
nghĩa vụ - ông ấy phải đi tìm họ và nói cho họ điều ông ấy đã tìm thấy. Thế là
ông ấy đi tìm họ, và ông ấy đã đi du hành ở Bihar, từ Bodhgaya tới Benares, chỉ
để tìm họ. Họ đã ở Sarnath. Phật chưa bao giờ quay lại Benares lần nữa, không
bao giờ quay lại Sarnath lần nữa, vì ông ấy chỉ tới vì năm đệ tử kia.
Ông ấy tới Sarnath. Lúc đó là tối
rồi, mặt trời đã lặn, và năm người khổ hạnh đó đang ngồi trên đồi nhỏ. Họ thấy
Phật tới, cho nên họ nói, "Phật Gautam sa ngã kia, Gautam Siddharth kia đã
sa ngã khỏi con đường, đang tới. Chúng ta phải không bày tỏ bất kì kính trọng
nào với ông ta. Chúng ta phải không bày tỏ ngay cả kính trọng bình thường với
ông ta."
Thế là họ nhắm mắt lại. Phật tới
mỗi lúc một gần hơn, và năm người khổ hạnh này bắt đầu cảm thấy sự thay đổi -
thay đổi của tâm trí. Họ trở nên không thoải mái. Khi Phật tới gần, đột nhiên cả
năm người mở mắt ra và quì xuống dưới chân Phật. Phật nói, "Nhưng tại sao
các ông làm điều này? Các ông đã quyết định không bày tỏ bất kì kính trọng nào
với ta, cho nên tại sao các ông làm điều này?"
Họ nói, "Chúng tôi không
làm điều đó, nó xảy ra. Ông đã thu được cái gì? Ông đã trở thành lực từ. Chúng
tôi bị kéo lại. Ông đang làm gì với chúng tôi? Ông có thôi miên chúng tôi không?"
Phật nói, "Không! Ta đã không làm gì với các ông, nhưng cái gì đó đã xảy
ra trong ta. Mọi năng lượng đã rơi về nguồn, cho nên bất kì chỗ nào ta di chuyển,
đột nhiên từ lực được cảm thấy."
Đó là lí do tại sao những người
chống lại Phật hay Mahavir liên tục nói hàng thế kỉ, "Người đó là không tốt;
ông ta đã thôi miên mọi người." Không người nào làm thôi miên cả. Bạn trở
nên bị thôi miên - đó là chuyện khác. Khi năng lượng của bạn rơi trở lại nguồn
nguyên thuỷ, bạn trở thành trung tâm từ. Kĩ thuật này là để tạo ra trung tâm từ
đó trong bạn.
Câu hỏi thứ hai:
Hôm qua thầy đã nói rằng kĩ thuật thiền về việc tháo dỡ tâm trí là rất có ý nghĩa. Nhưng ở phương Tây hàng trăm nhà phân tâm và nhà tâm thần theo Freud và Jung đang thực hành kĩ thuật này, nhưng họ không thu được kết quả rất có ý nghĩa trong việc cố biến đổi con người. Lí do gì cho sự không thành công của họ?
Có nhiều điều cần được chú ý. Một: Tâm lí học phương Tây chưa tin vào sự hiện hữu của con người, nó chỉ tin vào tâm trí. Với tâm lí học phương Tây không có gì bên ngoài tâm trí. Nếu không có gì bên ngoài tâm trí, thế thì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ không thực sự giúp cho con người. Nhiều nhất nó có thể giúp con người là bình thường - nhiều nhất!
Và bình thường là gì? Trạng thái bình thường là gì? Chỉ là trung bình. Nếu bản thân con người trung bình là không bình thường, thế thì là bình thường không có nghĩa gì. Nó đơn giản ngụ ý bạn được điều chỉnh theo đám đông. Cho nên tâm lí học phương Tây đang chỉ làm một điều: bất kì khi nào ai đó bị điều chỉnh kém, các phương pháp phương Tây làm cho người đó được điều chỉnh theo đám đông. Đám đông không bị nghi vấn chút nào; liệu bản thân đám đông có là ổn hay không thì không phải là vấn đề.
Với tâm lí học phương Đông, đám đông không phải là tiêu chí. Nhớ phân biệt này: với tâm lí học phương Đông, đám đông không là tiêu chí, xã hội không là tiêu chí. Bản thân xã hội là ốm yếu. Thế thì tiêu chí là gì? Với chúng ta phật là tiêu chí. Chừng nào bạn chưa trở thành như phật, bạn ốm.
Với tâm lí học phương Tây xã hội là tiêu chí, vì phật không thể là tiêu chí. Họ không tin rằng có điều như vậy như hiện hữu bên trong. Nếu không có điều như vậy như hiện hữu bên trong, thế thì không thể có bất kì chứng ngộ nào. Nhưng khi hiện hữu bên trong trở nên được chói sáng, thế thì có chứng ngộ.
Cho nên tâm lí học phương Tây thực sự chỉ là chữa bệnh, chỉ là một phần của y học. Nó cố gắng, nó giúp bạn để được điều chỉnh, nhưng nó không là việc siêu việt. Nỗ lực phương Đông dành cho cách siêu việt trên tâm trí, vì với chúng ta không có bệnh tâm trí, nhớ lấy. Với chúng ta không có bệnh tâm trí - thay vì thế, tâm trí là bệnh. Với tâm lí học phương Tây tâm trí không là bệnh. Tâm trí là bạn, nó không phải là bệnh. Tâm trí có thể khoẻ, và tâm trí có thể ốm.
Với chúng ta tâm trí là bệnh, tâm trí không bao giờ có thể là mạnh khoẻ. Chừng nào bạn chưa đi ra ngoài tâm trí, bạn không bao giờ có thể mạnh khoẻ. Bạn có thể ốm và được điều chỉnh hoặc bạn có thể ốm và bị điều chỉnh sai, nhưng bạn không bao giờ có thể mạnh khoẻ. Cho nên người bình thường không thực sự mạnh khoẻ. Người đó chỉ ở bên trong các biên giới, người đó ốm bên trong biên giới. Người bất thường là người đã đi ra ngoài các biên giới; và khác biệt giữa hai điều này chỉ ở mức độ - về số lượng, không về chất lượng.
Người điên trong nhà thương điên và bạn - không có khác biệt về chất, chỉ khác biệt về mức độ. Người đó hơi chút điên hơn bạn; bạn còn ở bên trong các biên giới. Về mặt chức năng, bạn có thể bật công tắc lên. Người đó không thể bật được công tắc bây giờ; người đó đã đi xa hơn bạn. Người đó có hoàn cảnh đi sâu hơn, không gì khác. Bạn chỉ đang trên con đường còn người đó đã đạt tới.
Tâm lí học phương Tây cố đem người đó trở lại với bầy, với đoàn, với đám đông. Nó làm cho người đó thành bình thường. Điều đó là tốt; chừng nào điều đó diễn ra, nó là tốt. Nhưng với chúng ta, chừng nào người đó chưa đi ra ngoài tâm trí, người đó là điên, vì với chúng ta tâm trí là điên.
Cho nên chúng ta đang cố tháo dỡ tâm trí chỉ để biết cái ở bên ngoài nó. Họ cũng thử các phương pháp tháo dỡ chỉ để điều chỉnh tâm trí, nhưng cái bên ngoài không có đó. Và nhớ điều này: chừng nào bạn chưa thể đi ra ngoài bản thân bạn, không cái gì có giá trị xảy ra. Chừng nào bạn chưa thể đạt tới cái gì đó ở bên ngoài bạn, cuộc sống là vô nghĩa.
Những thứ khác nào đó cũng thế... Với Freud và những người theo Freud, con người thực sự là sinh linh không thể hạnh phúc. Chính sự hiện hữu với họ là tới mức con người không thể là hạnh phúc được. Nếu bạn không bất hạnh, đó là tất cả. Nhớ, nếu bạn không bất hạnh, được thoả mãn - thế là đủ. Bạn không thể hạnh phúc được. Tại sao? Vì tâm lí học Freud nói rằng hạnh phúc nằm trong việc là bản năng, hạnh phúc nằm trong việc là giống như con vật, và rằng con người không thể hiện hữu được. Lí trí liên tục can thiệp. Bạn có thể đánh mất lí trí của bạn và trở thành giống như con vật; thế thì bạn có thể hạnh phúc. Nhưng thế thì bạn sẽ không nhận biết về hạnh phúc. Đây là điều ngược đời với họ.
Nếu bạn rơi xuống và trở thành giống con vật, bạn sẽ hạnh phúc nhưng bạn sẽ không nhận biết. Nếu bạn cố trở nên nhận biết bạn không thể hạnh phúc được, vì bạn không thể trở thành giống con vật. Và lí trí liên tục can thiệp vào mọi thứ. Con người không thể đánh mất lí trí và con người cũng không thể sống cùng lí trí - đó là vấn đề. Cho nên bạn không thể hạnh phúc được theo Freud. Nhiều nhất, nếu bạn khôn ngoan, bạn có thể thu xếp cuộc sống của bạn theo cách mà bạn sẽ không bất hạnh. Đây là điều rất phủ định.
Với tâm lí học hay siêu hình hay tôn giáo phương Đông, có mục đích tích cực. Bạn có thể hạnh phúc. Không chỉ hạnh phúc, bạn có thể phúc lạc. Và tâm lí phương Đông nói rằng nếu bạn có thể cảm thấy rằng bạn bất hạnh, điều đó chỉ ra tiềm năng của bạn, khả năng rằng bạn có thể hạnh phúc; bằng không bạn sẽ không có khả năng cảm thấy việc bị bất hạnh này nữa.
Nếu một người có thể thấy bóng tối, người đó có mắt, và người có thể thấy bóng tối, có thể thấy ánh sáng. Nhớ, người mù không thể thấy được bóng tối. Bạn có thể đã nghĩ rằng người mù sống trong bóng tối - quên điều đó hoàn toàn đi. Họ không thể thấy được bóng tối đâu, vì ngay cả để thấy bóng tối mắt là được cần. Nếu bạn có thể cảm thấy bất hạnh, bạn có mắt đấy, và nếu bạn có thể cảm thấy bất hạnh, bạn có thể cảm thấy hạnh phúc. Thực sự, nếu bạn không thể cảm thấy được hạnh phúc, không có khả năng cho việc cảm thấy bất hạnh. Đây là các đối lập cực.
Bạn có năng lực là hạnh phúc toàn bộ, nhưng thế thì tâm trí không thể hiện hữu được. Hiểu điều đó theo cách này: nếu bạn rơi xuống và trở thành chỉ là thân thể, bạn sẽ hạnh phúc. Freud cũng đồng ý với điều này. Nếu bạn rơi xuống và quên lí trí của bạn hoàn toàn, nếu bạn trở thành giống con vật, chỉ là thân thể, bạn sẽ hạnh phúc nhưng bạn sẽ không biết điều đó. Với tâm trí bạn có thể biết nó, nhưng thế thì bạn không thể hạnh phúc được vì tâm trí liên tục quấy rối. Thân thể có thể hạnh phúc, nhưng tâm trí liên tục quấy rối.
Có khả năng khác mà phương Đông đã làm việc: đi ra ngoài. Freud nói rằng nếu bạn rơi xuống và trở thành con vật, bạn sẽ hạnh phúc nhưng bạn sẽ không biết điều đó; nếu bạn ở trong tâm trí bạn có thể biết, nhưng bạn không thể hạnh phúc được. Tìm kiếm của phương Đông nói rằng nếu bạn đi ra ngoài tâm trí, bạn sẽ hạnh phúc và cũng nhận biết. Đó là điểm thứ ba - của cõi bên kia.
Cho nên có ba điểm. Con người là ở giữa; phía dưới là sự tồn tại mang tính con vật. Đi vào rừng và nhìn con vật mà xem. Chúng có thể không nhận biết rằng chúng hạnh phúc, nhưng bạn sẽ cảm thấy rằng chúng hạnh phúc. Đi ra bãi biển vào buổi sáng, hay đi ra vườn buổi sáng và lắng nghe tiếng hót của chim. Chúng có thể không biết điều đó, nhưng bạn sẽ cảm thấy chúng hạnh phúc. Bạn không bao giờ thấy việc hót như điều đó. Nhìn sâu bên dưới trong mắt chúng - sáng sủa và hồn nhiên. Chúng hạnh phúc, nhưng bạn không hạnh phúc.
Rơi xuống và trở thành chỉ là thân thể - thế thì bạn sẽ hạnh phúc. Hay đi ra ngoài và trở thành tâm linh hay trở thành sự hiện hữu, và bạn sẽ hạnh phúc. Nhưng ở giữa bạn bao giờ cũng sẽ căng thẳng, vì tâm trí thực sự không là đầu cuối. Nó chỉ là chiếc dây căng giữa hai thực tại: thân thể và linh hồn.
Cho nên bạn chỉ trên dây như một nata, người đi trên dây. Người đi trên dây không thể thoải mái được. Hoặc người đó phải đi lui hoặc người đó phải đi tiến, nhưng người đó không thể vẫn còn ở trên dây. Người đó phải đi xuống khỏi dây, và có hai khả năng: người đó có thể đi lui, hay người đó có thể đi tiến và ra ngoài. Tâm trí là chiếc dây, và sống cùng tâm trí là đi trên dây. Bạn nhất định bị mất thăng bằng, không thoải mái; mọi khoảnh khắc đều có lo âu, khổ sở. Cuộc sống của tâm trí là căng thẳng. Đó là lí do tại sao tâm lí học phương Tây thành công trong việc làm bạn thành bình thường, nhưng không làm cho bạn thành người tự thực tại hoá được.
Nhưng có những xu hướng mới, và mọi người đều nghĩ, và phương Đông bây giờ đang xuyên thấu vào phương Tây rất sâu. Thực sự, đó là cách thức của phương Đông để chinh phục. Phương Tây đã chinh phục phương Đông - cách thức của họ rất thô. Phương Đông có cách chinh phục riêng của nó - cách rất tinh tế, cách im lặng. Bây giờ phương Đông đang xuyên thấu sâu vào tâm trí phương Tây. Không có bất kì bạo hành nào, không có bất kì xung đột nào, phương Đông đang xuyên rất sâu vào phương Tây. Và sớm hay muộn tâm lí học phương Tây sẽ phải tiến hoá các khái niệm về siêu việt, về cách siêu việt trên tâm trí.
Việc tháo dỡ có thể giúp ích theo cả hai cách. Nếu bạn chỉ đang cố tạo ra tâm trí bình thường, việc tháo dỡ sẽ giúp ích. Nhưng thế thì mục đích của bạn không phải là siêu việt. Nếu mục đích của bạn là siêu việt, thế nữa việc tháo dỡ có thể giúp ích. Mọi kĩ thuật này đều có thể được dùng cho an bình tâm trí thông thường, và mọi kĩ thuật này cũng có thể được dùng cho im lặng thực điều không phải là của tâm trí.
Có hai kiểu im lặng: một là của tâm trí, trong đó tâm trí im lặng, và im lặng kia là khi tâm trí không còn nữa. Im lặng khi tâm trí không còn nữa, là khác hoàn toàn với an bình tâm trí. Trong an bình tâm trí, tâm trí có đó, chỉ không rất điên. Việc điên bị làm chậm lại - có vậy thôi.
Tâm lí học phương Tây phải trở thành siêu hình, chỉ thế thì con người mới có thể siêu việt lên. Nó cũng phải trở thành triết lí, và chung cuộc nó phải trở thành tôn giáo. Chỉ thế thì con người mới có thể được giúp để siêu việt.
Câu hỏi thứ ba:
Thầy đã từng giải thích nhiều phương pháp thiền cho chúng tôi. Tuy nhiên, chẳng phải đúng là không phương pháp nào có thể là toàn năng chừng nào người ta chưa được khai tâm vào trong nó đó sao?
Phương pháp trở thành khác về chất khi bạn được khai tâm vào trong nó. Tôi đang nói về các phương pháp đó - bạn có thể dùng chúng. Một khi bạn biết nền tảng khoa học và cách thức này, bí quyết này, bạn có thể dùng nó, nhưng khai tâm làm cho nó khác về chất. Nếu tôi khai tâm bạn vào một phương pháp đặc thù nó sẽ là điều khác, vì nhiều thứ được ngụ ý trong khai tâm.
Khi tôi nói về phương pháp và tôi giải thích nó cho bạn, bạn có thể dùng nó theo cách riêng của bạn. Phương pháp được giải thích cho bạn, nhưng liệu nó có phù hợp với bạn hay không, nó làm việc thế nào lên bạn, bạn là kiểu người nào, lại không được thảo luận. Điều đó là không thể được.
Trong khai tâm, bạn là quan trọng hơn kĩ thuật. Khi thầy khai tâm cho bạn, thầy quan sát bạn. Thầy tìm ra kiểu của bạn là gì, thầy tìm ra bạn đã làm việc bao nhiêu qua các kiếp sống quá khứ của bạn, chỗ bạn là đúng vào khoảnh khắc này, ngay bây giờ bạn đang vận hành ở trung tâm nào, và thế rồi thầy quyết định về phương pháp; thầy chọn phương pháp. Nó là cách tiếp cận cá nhân. Phương pháp là không quan trọng, bạn là quan trọng, bạn được khảo cứu và quan sát và phân tích.
Các kiếp sống quá khứ của bạn, ý thức của bạn, tâm trí của bạn, thân thể của bạn, chúng được mổ xẻ ra. Bạn được cảm thấy sâu sắc dưới dạng bạn ở đâu, vì cuộc hành trình bắt đầu từ điểm đó - điểm mà bạn đang ở ngay bây giờ. Bất kì phương pháp nào sẽ không có tác dụng.
Thế rồi thầy chọn một phương pháp đặc thù cho bạn, và nếu thầy cảm thấy rằng phương pháp đặc thù này phải được thay đổi cho bạn, những sửa đổi chi li hay những bổ sung nào đó được cần, thầy bổ sung thêm, thầy xoá bớt, thầy làm cho phương pháp khớp với bạn. Và thế rồi thầy cho khai tâm; thế rồi thầy trao phương pháp này cho bạn. Đó là lí do tại sao điều được nhấn mạnh là bất kì khi nào bạn được khai tâm vào một phương pháp, bạn sẽ không nói về nó. Điều đó phải bí mật vì nó có tính cá nhân. Nếu bạn nói điều đó cho ai đó khác điều đó có thể không giúp ích, hay thậm chí nó còn có hại.
Nó phải được giữ bí mật. Chừng nào bạn chưa đạt tới và thầy bạn chưa nói rằng bây giờ bạn có thể khai tâm cho người khác, nó phải không được nói tới chút nào - không được thốt ra, thậm chí không được nói cho chồng bạn hay vợ bạn hay bạn của bạn. Không, nó là tuyệt đối bí mật vì nó rất nguy hiểm, nó rất mạnh. Nó đã được chọn và được làm cho bạn. Nó sẽ có tác dụng cho bạn, nhưng nó không có tác dụng cho bất kì cá nhân nào khác trên thế giới. Thực sự, từng cá nhân là duy nhất tới mức người đó cần phương pháp khác, và với hơi khác biệt, một phương pháp có thể trở thành phù hợp cho người đó.
Điều tôi đang nói tới - một trăm mười hai phương pháp này - chúng là những phương pháp đã được tổng quát hoá. Chúng là một trăm mười hai phương pháp được tổng quát hoá, mọi phương pháp đã từng được dùng. Đây là dạng tổng quát để cho bạn trở nên quen thuộc. Bạn có thể thử - nếu cái gì đó phù hợp với bạn, bạn có thể tiếp tục. Nhưng đây không phải là khai tâm vào một phương pháp. Khai tâm là chuyện cá nhân, cá biệt giữa thầy và đệ tử. Nó là việc truyền trao bí mật. Và nhiều thứ khác được ngụ ý trong khai tâm. Thế rồi thầy chọn khoảnh khắc đúng khi thầy sẽ trao phương pháp cho bạn, để cho nó đi sâu vào trong vô thức.
Khi tôi đang nói, ý thức của bạn đang lắng nghe. Bạn sẽ quên. Khi tôi đã nói về một trăm mười hai phương pháp, bạn thậm chí sẽ không có khả năng đổi tên chúng lần nữa - một trăm mười hai tên. Bạn sẽ quên nhiều tên hoàn toàn. Bạn sẽ có khả năng nhớ vài cái tên, và thế rồi bạn sẽ trộn lẫn và lẫn lộn. Bạn sẽ không biết cái gì là cái gì.
Thầy phải chọn khoảnh khắc đúng khi vô thức của bạn đang mở, và thế rồi thầy trao cho bạn phương pháp. Thế thì nó đi sâu xuống vào trong vô thức. Cho nên nhiều lần việc khai tâm được cho trong giấc ngủ, không phải khi bạn có ý thức. Nhiều lần khai tâm được trao cho bạn trong cơ mê thôi miên sâu, khi tâm trí có ý thức của bạn hoàn toàn ngủ và tâm trí vô thức của bạn mở.
Đó là lí do tại sao buông xuôi là được cần nhiều thế trong khai tâm. Chừng nào bạn chưa buông xuôi việc khai tâm không thể được trao, vì chừng nào bạn chưa buông xuôi tâm trí có ý thức của bạn bao giờ cũng tỉnh táo và cảnh giác.
Khi bạn buông xuôi, thế thì tâm trí có ý thức của bạn có thể được giảm nhẹ nghĩa vụ của nó và tâm trí vô thức của bạn có thể đi thẳng vào tiếp xúc với thầy.
Một khoảnh khắc đúng phải được chọn, và thế thì bạn phải được chuẩn bị cho khai tâm. Có thể mất nhiều tháng để chuẩn bị cho bạn. Phải có thức ăn đúng, ngủ đúng, và mọi thứ phải đi tới điểm yên tĩnh; chỉ thế thì bạn mới có thể được khai tâm, cho nên khai tâm là quá trình lâu dài, quá trình có tính cá nhân. Chừng nào ai đó còn chưa sẵn sàng để buông xuôi một cách toàn bộ, khai tâm là không thể được.
Cho nên tôi không khai tâm bạn vào những phương pháp này, tôi chỉ làm cho bạn quen với những phương pháp này. Nếu ai đó cảm thấy rằng phương pháp nào đó phù hợp với mình một cách sâu sắc và người đó cảm thấy rằng mình nên được khai tâm vào phương pháp đó, tôi có thể khai tâm cho người đó vào phương pháp đó. Nhưng thế thì đó sẽ là một quá trình lâu dài. Thế thì tính cá nhân của bạn phải được biết một cách đầy đủ. Bạn phải trở thành trần trụi toàn bộ để cho không cái gì còn bị giấu kín. Và thế thì mọi sự trở nên rất dễ dàng - vì khi một phương pháp đúng được trao cho người đúng ở khoảnh khắc đúng, nó có tác dụng ngay lập tức.
Đôi khi chuyện xảy ra là trong khi khai tâm cho một đệ tử, đệ tử này trở nên được chứng ngộ, chỉ việc khai tâm trở thành việc chứng ngộ. Thế thì phương pháp này trở thành sống động - khi nó được thầy trao cho một cách riêng tư, cá nhân. Bất kì cái gì tôi đang làm bây giờ đều không là khai tâm, nhớ điều này. Cách tiếp cận khoa học này chỉ để làm sống lại một trăm mười hai phương pháp, để làm cho chúng được biết tới.
Nếu người nào đó quan tâm, người đó có thể được khai tâm. Và khi bạn thực sự quan tâm, bạn sẽ tìm kiếm việc khai tâm, vì làm việc một mình trên phương pháp là chuyện rất lâu dài. Có thể mất nhiều năm, có thể mất nhiều kiếp, và bạn có thể không có khả năng duy trì nó trong thời kì lâu thế. Qua khai tâm việc đó trở thành rất dễ dàng, và thế thì phương pháp này trở thành việc truyền. Thế thì qua phương pháp này thầy bắt đầu làm việc trong bạn. Khai tâm là mối quan hệ sống với thầy, và mối quan lâu dài, tất nhiên, đi sâu. Nó làm thay đổi bạn và biến đổi bạn.
Câu hỏi tiếp:
Thầy đã dẫn George Gurdjieff khi nói rằng đồng nhất là tội duy nhất, nhưng trong nhiều kĩ thuật quá trình đồng nhất lại được dùng. Họ nói, chẳng hạn, trở thành một với người yêu, trở thành một với hoa hồng, hay trở thành một với thầy. Và, hơn nữa, thông cảm được coi là có phẩm chất thiền và tâm linh, cho nên câu nói trên của Gurdjieff dường như là đúng một phần và hữu dụng chỉ cho những kĩ thuật nào đó.
Không! Nó không phải là đúng một phần đâu, nó là đúng toàn bộ đấy. Nhưng bạn sẽ phải hiểu. Đồng nhất là có tính vô thức, nhưng khi bạn dùng đồng nhất trong một kĩ thuật thiền, nó là có ý thức.
Chẳng hạn, tên bạn là Ram. Ai đó xúc phạm "Ram" - lập tức bạn cảm thấy bị xúc phạm vì bạn bị đồng nhất với cái tên Ram này. Nhưng đây không phải là điều có ý thức cho bạn, nó là vô thức. Tâm trí bạn không làm việc theo cách này: "Mình tên là Ram. Tất nhiên, mình không là Ram, đây chỉ là cái tên của mình, và mọi người được sinh ra đều vô danh. Cái tên này được trao cho, và nó là tuỳ tiện. Người này chỉ đang xúc phạm vào cái tên tuỳ tiện, cho nên mình có phải giận hay không?" Bạn sẽ không bao giờ suy luận điều đó theo cách này. Nếu bạn suy luận điều đó theo cách này, bạn chắc sẽ không giận chút nào. Đột nhiên ai đó xúc phạm "Ram" và bạn bị xúc phạm, nhưng đây chỉ là cái tên tuỳ tiện. Sự đồng nhất này là vô ý thức, nó không phải là có ý thức.
Khi bạn đang đồng nhất với hoa hồng, nó là nỗ lực có ý thức. Bạn không bị đồng nhất với hoa hồng. Bạn đang cố đồng nhất bản thân bạn với hoa hồng, và bạn đang cố quên đi bản thân bạn. Bạn đang cố trở thành một với hoa hồng, và bạn có ý thức sâu, nhận biết về toàn thể quá trình này. Bạn đang làm nó. Ngay cả việc đồng nhất được làm một cách có ý thức, nó trở thành thiền. Và nếu bạn làm kĩ thuật thiền nào đó một cách có ý thức, nó không phải là thiền - nhớ lấy.
Bạn liên tục làm lời cầu nguyện của bạn mọi sáng hay mọi tối một cách vô ý thức, chỉ như chuyện thường lệ. Trong khi làm nó bạn không bị đồng nhất chút nào với điều bạn đang làm. Bạn không có ý thức chút nào về lời nào bạn nói trong lời cầu nguyện. Bạn chỉ lặp lại chúng như vẹt. Đây không phải là thiền. Và nếu bạn tắm một cách có ý thức, nó là thiền. Cho nên nhớ điều này: bất kì cái gì bạn đang làm một cách có ý thức, với sự tỉnh táo, đầy nhận biết, đều trở thành thiền. Ngay cả bạn giết ai đó một cách có ý thức, trong khi có ý thức đầy đủ, nó có tính thiền.
Đó là điều Krishna đã nói cho Arjuna: "Đừng sợ. Giết, sát hại, một cách có ý thức đầy đủ đi, biết đầy đủ rằng không ai bị sát hại và không ai bị giết." Arjuna có thể giết rất dễ dàng kẻ thù của anh ta một cách vô thức. Anh ta có thể phát điên trong cuồng nộ và giết - điều đó là dễ dàng. Nhưng Krishna nói, "Tỉnh táo, ý thức đầy đủ đi. Chỉ trở thành công cụ trong tay điều thiêng liêng, và biết rõ rằng không ai bị giết, không ai có thể bị giết. Hiện hữu bên trong là vĩnh hằng, bất tử. Cho nên ông chỉ đang phá huỷ các hình tướng, không phá huỷ cái ở đằng sau hình tướng. Cho nên phá huỷ các hình tướng đi." Nếu Arjuna có thể có nhận biết có tính thiền thế thì không có bạo hành nào, không ai bị giết, không tội nào bị phạm phải.
Tôi sẽ kể cho bạn một giai thoại trong đời của Long Thọ. Long Thọ là một trong những thầy vĩ đại mà Ấn Độ đã sản sinh ra - người mang tầm cỡ của Phật và Mahavir và Krishna. Và Long Thọ là thiên tài hiếm hoi. Thực sự, ở mức độ trí tuệ không có so sánh nào trên toàn thế giới; một trí tuệ sắc bén và xuyên thấu thế hiếm khi xảy ra. Ông ấy đi qua một thành phố, một kinh đô, và ông ấy bao giờ cũng còn ở trần. Hoàng hậu của vương quốc đó là người tin theo, người đi theo và người yêu của Long Thọ, người sùng kính. Cho nên Long Thọ tới cung điện và hỏi xin thức ăn. Ông ấy có một bát ăn xin bằng gỗ. Hoàng hậu nói, "Cho tôi cái bát ăn xin này. Tôi sẽ yêu mến nó như món quà, và tôi có cái bát khác cho thầy. Thầy có thể lấy cái đó."
Long Thọ nói, "Được!" Chiếc bát kia bằng vàng, và nhiều đá quí được nạm trong nó; nó rất giá trị. Long Thọ không nói cái gì. Bình thường không sannyasin nào sẽ nhận nó, người đó chắc sẽ nói, "Tôi không thể chạm vào vàng được." Nhưng Long Thọ đã nhận nó. Nếu thực sự vàng chỉ là bùn, thế thì sao tạo ra bất kì phân biệt nào? Ông ấy đã nhận nó. Ngay cả hoàng hậu cũng cảm thấy điều đó là không tốt. Bà ấy cảm thấy, "Sao vậy? Ông ấy đáng phải nói không chứ. Thánh nhân vĩ đại thế! Tại sao ông ấy đã nhận thứ giá trị thế trong khi ông ấy sống trần trụi, không quần áo nào, không bất kì đồ sở hữu nào? Tại sao ông ấy không bác bỏ điều đó?"
Nếu như Long Thọ đã bác bỏ điều đó, hoàng hậu chắc đã khăng khăng, yêu cầu, nhưng thế thì bà ấy chắc đã cảm thấy thoải mái hơn. Long Thọ đã nhận nó và đi mất. Một kẻ cắp thấy ông ấy đi qua thành phố, và tên trộm nghĩ, "Người này không thể giữ bình bát ăn xin này được, ai đó nhất định đánh cắp nó hay ai đó nhất định lấy nó đi khỏi ông ta. Với sự trần trụi - làm sao ông ta có thể bảo vệ được nó?" Thế là tên trộm đi theo... tên trộm đi theo Long Thọ.
Long Thọ nghỉ ở ngoài thị trấn trong một đền cũ, một mình; đền này chỉ là ngôi nhà điêu tàn. Ông ấy đi vào, ông ấy nghe tiếng bước chân của người này, nhưng ông ấy không nhìn lại sau vì ông ấy nghĩ, "Anh ta phải tới vì chiếc bát ăn xin này, không vì mình, vì ai sẽ tới? Không ai đã bao giờ đi theo mình tới chỗ điêu tàn này."
Ông ấy đi vào. Tên trộm đứng sau bức tường và chờ đợi. Long Thọ, thấy rằng anh ta đang chờ đợi bên ngoài, ném chiếc bát ăn xin ra ngoài cửa. Tên trộm không thể hiểu nổi: "Đây là kiểu người gì vậy? Trần trụi, với thứ đồ quí giá thế, và ông ta đã ném nó ra." Thế là anh ta hỏi Long Thọ, "Tôi có thể vào được không, thưa ngài? Tôi phải hỏi một câu hỏi."
Long Thọ nói, "Ta đã ném cái bát ra chỉ để ông có thể vào - để giúp ông đi vào, vì ta sắp ngủ trưa. Ông chắc đã tới vì chiếc bát ăn xin, nhưng thế thì chắc không có việc gặp ta. Cho nên vào đi."
Tên trộm bước vào. Anh ta nói, "Đồ quí giá thế mà ông đã ném nó đi sao? Và ông là hiền nhân tới mức tôi không thể nói dối trước ông được - tôi là kẻ trộm đây." Long Thọ nói, "Đừng lo, mọi người đều là kẻ trộm. Ông làm đi, đừng phí thời gian về những thứ không cần thiết thế."
Tên trộm nói, "Đôi khi, nhìn vào những người như ông, tâm trí tôi cũng khao khát biết làm sao đạt tới trạng thái này. Tôi cầu nguyện rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ có năng lực ném đi đồ quí giá như thế. Dạy tôi cái gì đó đi. Tôi đi tới nhiều hiền nhân, và tôi là kẻ trộm nổi tiếng, cho nên mọi người đều biết tôi. Họ nói, ‘Trước hết bỏ kinh doanh của ông, bỏ nghề của ông đi, chỉ thế thì ông mới có thể tiến vào thiền.' Điều đó là không thể được, tôi không thể bỏ nó được, cho nên tôi không thể tiến vào thiền được."
Long Thọ nói, "Nếu ai đó nói trước hết bỏ việc ăn trộm, và thế rồi tiến vào thiền, thế thì người đó không biết thiền chút nào - vì làm sao thiền có liên quan tới ăn trộm? Không có mối quan hệ nào. Cho nên ông cứ tiếp tục bất kì cái gì ông đang làm đi. Ta sẽ cho ông một kĩ thuật; ông thực hành điều này."
Tên trộm nói, "Bây giờ dường như chúng ta có thể đi cùng nhau. Vậy tôi có thể tiếp tục hành nghề của tôi chứ? Kĩ thuật gì vậy? Nói ngay cho tôi đi!"
Long Thọ nói, "Ông chỉ vẫn còn nhận biết thôi. Khi ông đi ăm trộm cái gì đó, cứ ý thức đầy đủ và nhận biết. Khi ông đang phá khoá vào nhà nào đó, ý thức đầy đủ vào. Khi ông phá kho báu, ý thức đầy đủ vào. Khi ông đang lấy cái gì đó ra khỏi kho báu, ý thức đầy đủ vào. Làm điều đó một cách có ý thức. Bất kì cái gì ông làm đều không phải là mối quan tâm của ta. Và mười lăm ngày nữa tới đây, nhưng đừng tới nếu ông đã không thực hành. Thực hành trong mười lăm ngày đi: liên tục làm bất kì cái gì ông đang làm, nhưng làm nó một cách có ý thức đầy đủ."
Ngày thứ ba tên trộm quay lại và anh ta nói, "Mười lăm ngày quá lâu, và ông là tay rất thủ đoạn. Ông đã cho tôi một kĩ thuật mà nếu tôi ý thức đầy đủ tôi không thể ăn trộm được. Ba đêm qua liên tục tôi đã ở trong cung điện. Tôi đã tới kho báu, tôi đã mở nó ra, những đồ quí giá đã ở trước tôi, nhưng thế rồi tôi trở nên ý thức đầy đủ. Và khoảnh khắc tôi trở nên ý thức đầy đủ, tôi trở thành giống như tượng Phật. Tôi không thể làm gì thêm được; tay tôi không cử động, và toàn thể kho báu dường như vô dụng. Cho nên tôi đã quay đi quay lại chỗ đó. Tôi định làm gì? Và ông nói rằng việc bỏ nghề của tôi không phải là điều kiện, nhưng phương pháp của ông dường như có một quá trình sẵn có trong nó."
Long Thọ nói, "Đừng tới ta nữa. Bây giờ ông có thể chọn. Nếu ông muốn tiếp tục ăn trộm, quên thiền đi. Nếu ông muốn thiền, thế thì quên ăn trộm. Ông có thể chọn." Tên trộm nói, "Ông đã đẩy tôi vào thế khó xử. Trong ba ngày này tôi đã biết rằng tôi sống động. Và khi tôi quay về mà không lấy bất kì cái gì từ cung điện, lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi là hoàng đế, không phải kẻ trộm. Ba ngày này đã là phúc lạc tới mức bây giờ tôi không thể bỏ thiền được. Ông đã lừa tôi; bây giờ khai tâm cho tôi và làm tôi thành đệ tử của ông đi. Không có nhu cầu tiếp tục thử, ba ngày là đủ."
Bất kì cái gì có thể là đối thể, nếu bạn có ý thức nó trở thành thiền. Thử đồng nhất một cách có ý thức mà xem - nó trở thành thiền. Một cách vô ý thức, nó là tội lỗi lớn.
Tất cả các bạn đều bị đồng nhất với nhiều thứ: "Cái này là của tôi, cái kia là của tôi..." Bạn bị đồng nhất! "Đây là đất nước của tôi, đây là quốc gia của tôi, đây là cờ quốc gia của tôi..." Nếu ai đó ném cờ quốc gia của bạn, bạn trở nên bực tức - người đó đang làm gì? Bạn không có quốc gia và mọi lá cờ quốc gia đều là hoang đường. Điều tốt là chơi với chúng như trẻ con chơi; chúng là đồ chơi. Nhưng bạn có thể sát hại và bị sát hại vì chúng, và các nước có thể được tạo ra và bị phá huỷ vì xúc phạm lá cờ quốc gia. Và nó chỉ là mảnh vài.
Cái gì đang xảy ra? Bạn bị đồng nhất với nó. Sự đồng nhất đó là vô thức. Vô thức là tội lỗi.
Đủ cho hôm nay.
0 Đánh giá