Read more
Vigyan Bhairav Mật
Tông Tập 2 - Osho
Sách về các Bí mật:
Bình luận mới
Chương 21. Ba
kĩ thuật nhìn
6. Mắt nhắm, thấy bản chất bên trong của
ông thật chi tiết. Vậy thấy bản tính thực của ông.
7. Nhìn cái bát mà không thấy các mặt bên
hay vật liệu. Trong vài khoảnh khắc trở nên nhận biết.
8. Dường như lần đầu tiên thấy một người đẹp
hay một vật thường.
Những kĩ thuật đêm nay có liên
quan tới việc thực hành nhìn. Trước khi chúng ta đi vào những kĩ thuật này, cái
gì đó cần được hiểu về mắt, vì cả bẩy kĩ thuật này đều phụ thuộc vào điều đó.
Điều thứ nhất: mắt là phần phi thân thể nhất trong thân thể con người, có tính thân thể ít nhất. Nếu vật chất có thể trở thành phi vật chất, thế thì đó là trường hợp với mắt. Mắt là vật chất, nhưng đồng thời chúng cũng là phi vật chất. Mắt là điểm gặp gỡ của bạn và thân thể bạn. Không đâu khác trong thân thể có sự gặp gỡ sâu sắc thế.
Thân thể con người và bạn là
tách rời nhiều, khoảng cách lớn có đó. Nhưng tại điểm của mắt, bạn ở gần nhất với
thân thể của bạn và thân thể là gần nhất với bạn. Đó là lí do tại sao mắt có thể
được dùng cho cuộc hành trình bên trong. Một cú nhảy từ mắt có thể đưa bạn về cội
nguồn. Điều đó là không thể được từ tay, không thể được từ tim, không thể được
từ bất kì chỗ nào khác trong thân thể. Từ mọi chỗ khác bạn sẽ phải du hành lâu;
khoảng cách là lớn. Nhưng từ mắt chỉ một bước là đủ để đi vào trong bản thân bạn.
Đó là lí do tại sao mắt đã liên tục được dùng trong các thực hành tôn giáo yoga
và Mật Tông.
Lí do thứ nhất là vì bạn ở gần
nhất từ chỗ đó. Đó là lí do tại sao, nếu bạn biết cách nhìn vào mắt ai đó, bạn
có thể nhìn vào trong chiều sâu của người đó. Người đó là ở đó. Người đó không
hiện diện thế ở bất kì chỗ nào khác trong thân thể, nhưng nếu bạn có thể nhìn
vào trong mắt người đó bạn sẽ thấy người đó ở đó. Nhìn vào mắt ai đó là nghệ
thuật khó, và nó tới với bạn chỉ khi bạn đã lấy cú nhảy từ mắt riêng của bạn
vào bên trong; bằng không bạn không thể nhìn được. Nếu bạn đã không nhìn vào
bên trong, vượt ra ngoài mắt riêng của bạn, bạn không thể có cái nhìn vào trong
mắt của ai đó khác. Nhưng nếu bạn biết cách nhìn vào trong mắt, bạn có thể chạm
tới chiều sâu của người này.
Đó là lí do tại sao chỉ trong
yêu bạn mới có thể nhìn thẳng và chăm chăm vào mắt của người khác. Ngoài ra, nếu
bạn nhìn chăm chăm vào mắt của ai đó, người đó sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Bạn
đang xúc phạm; đây là việc xúc phạm. Bạn có thể nhìn vào thân thể - không có
xúc phạm. Nhưng khoảnh khắc bạn nhìn chăm chăm vào mắt ai đó, bạn đang xúc phạm
vào tính cá nhân của người đó, bạn đang xúc phạm tự do cá nhân của người đó, bạn
đang bước vào người đó mà không có lời mời nào. Đó là lí do tại sao có một giới
hạn, và bây giờ giới hạn này có thể được đo. Nhiều nhất bạn có thể được phép nhìn
trong ba giây. Bạn có thể được phép chỉ nhìn bình thường và thế rồi bạn phải
chuyển mắt đi; bằng không người kia sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Đây là bạo hành,
vì bạn có thể có thoáng nhìn về các bí mật bên trong của người đó, và điều đó
không thể được phép.
Chỉ trong yêu sâu sắc bạn mới
có thể nhìn vào mắt người kia, vì yêu ngụ ý rằng bây giờ bạn không muốn giữ bất
kì bí mật nào. Bây giờ bạn mở cho người kia và người kia bao giờ cũng được đón
chào và được mời đi vào bạn. Và khi những người yêu nhìn vào mắt nhau, có sự gặp
gỡ phi thân thể, có gặp gỡ mà không mang tính thân thể.
Cho nên điều thứ hai cần được nhớ: tâm trí bạn, tâm thức bạn, linh hồn bạn, bất kì cái gì ở bên trong bạn, có thể được nhìn thoáng qua đôi mắt.
Đó là lí do tại sao người mù có
bộ mặt chết. Không chỉ việc mắt bị thiếu, mà bộ mặt là chết - không sống động.
Mắt là ánh sáng của mặt: chúng làm sáng mặt bạn lên; chúng cho mặt sự sống động
bên trong. Khi mắt không có đó, mặt bạn thiếu tính sống động. Và người mù thực
sự bị đóng. Bạn không thể đi vào người đó dễ dàng thế. Đó là lí do tại sao người
mù rất có tính bí mật và bạn có thể tin cậy vào người mù. Nếu bạn cho người đó
một bí mật, bạn có thể tin cậy vào người đó. Người đó sẽ duy trì nó, và sẽ khó
mà phán xét liệu người đó có bí mật không. Nhưng với người có mắt sống động,
người ta có thể phán xét ngay lập tức rằng người đó có bí mật.
Chẳng hạn, bạn đi tầu hoả mà
không có vé. Mắt bạn sẽ liên tục phản bội bạn rằng bạn không có vé. Đó là một
bí mật; không người nào biết, chỉ bạn biết. Nhưng mắt bạn sẽ có cái nhìn khác,
và bạn sẽ nhìn bất kì người nào đi vào trong toa với phẩm chất khác. Nếu người
kia có thể hiểu được đặc tính này, người đó sẽ biết ngay rằng bạn không có vé.
Cái nhìn sẽ khác khi bạn có vé. Cái nhìn sẽ khác!
Cho nên nếu bạn đang che giấu
bí mật, mắt bạn sẽ tiết lộ điều đó. Và kiểm soát mắt là rất khó. Điều khó kiểm
soát nhất trong thân thể là mắt. Cho nên mọi người không thể trở thành những
thám tử lớn được vì huấn luyện cơ bản của thám tử là huấn luyện về mắt. Mắt người
đó phải không để lộ bất kì cái gì - hay ngược lại chúng phải để lộ cái đối lập.
Khi người đó đang đi tầu mà không có vé, mắt người đó phải để lộ ra rằng người
đó có vé. Điều đó rất khó vì mắt không tự nguyện: chúng là phi tự nguyện.
Bây giờ nhiều thực nghiệm đang
được tiến hành trên mắt. Ai đó là người brahmachari, người vô dục, và người đó
nói người đó không có hấp dẫn tới đàn bà. Nhưng mắt người đó sẽ để lộ mọi thứ;
người đó có thể che giấu sự hấp dẫn của mình. Người đàn bà đẹp vào phòng. Người
đó có thể không nhìn cô ấy, nhưng ngay cả việc không nhìn cô ấy của người đó sẽ
làm lộ ra. Sẽ có nỗ lực, đè nén tinh vi, và mắt sẽ biểu lộ điều đó. Không chỉ
việc đó, bề mặt của mắt sẽ mở rộng. Khi người đàn bà đẹp đi vào, con ngươi của
mắt sẽ nở to ngay lập tức để cho phép người đàn bà đẹp có nhiều không gian hơn
để đi vào. Và bạn không thể làm được bất kì cái gì về điều đó với những con
ngươi đó và việc nở to của chúng là không tự nguyện. Bạn không thể làm được bất
kì cái gì! Tuyệt đối không thể nào kiểm soát được chúng. Cho nên điều thứ hai cần
nhớ là ở chỗ mắt là cánh cửa cho bí mật của bạn. Nếu bất kì người nào muốn vào
trong thế giới bí mật của bạn, riêng tư của bạn, mắt bạn là cánh cửa.
Nếu bạn biết cách mở khoá
chúng, bạn sẽ trở nên mong manh, mở. Và nếu bạn muốn đi vào trong cuộc sống bí
mật riêng của bạn, cuộc sống bên trong riêng của bạn, thế thì lần nữa bạn sẽ phải
dùng cùng ổ khoá và hệ thống mở khoá. Bạn sẽ phải làm việc trên mắt của bạn, chỉ
thế thì bạn mới có thể đi vào được.
Thứ ba, mắt là rất linh động, chuyển động, trong chuyển động thường xuyên, và chuyển động đó có nhịp riêng của nó, hệ thống riêng của nó, cơ chế riêng của nó. Mắt bạn không chuyển động ngẫu nhiên, theo cách hỗn loạn. Chúng có nhịp điệu của riêng chúng và nhịp điệu đó chỉ ra nhiều điều.Nếu bạn có ý nghĩ dục trong tâm trí, mắt bạn chuyển động khác - với nhịp điệu khác. Chỉ bằng việc nhìn vào mắt bạn và sự chuyển động, người ta có thể nói kiểu ý nghĩ nào đang di chuyển bên trong. Khi bạn cảm thấy đói và ý nghĩ về thức ăn có ở bên trong, mắt có chuyển động khác.
Cho nên ngay cả bây giờ mơ của
bạn cũng có thể được xuyên thấu. Chuyển động của mắt của bạn có thể được ghi lại
khi bạn ngủ. Và nhớ, ngay cả trong mơ mắt bạn cũng hành xử tương tự. Nếu bạn
đang nhìn người đàn bà khoả thân trong mơ, điều này có thể được phán xét từ
chuyển động của mắt bạn. Bây giờ họ có những thiết bị máy móc để ghi lại các
chuyển động của mắt là gì.
Những chuyển động mắt này được
gọi là R.E.M. - Rapid Eye Movements - chuyển động mắt nhanh. Chúng có thể được
ghi lại trên đồ thị, cũng giống như điện tâm đồ. Nếu bạn đã ngủ cả đêm, chuyển
động mắt của bạn có thể được ghi lại liên tục. Và thế rồi đồ thị có thể chỉ ra
khi nào bạn mơ và khi nào bạn không mơ, vì khi bạn không mơ mắt dừng lại và trở
thành tĩnh tại. Khi bạn đang mơ chúng chuyển động, và chuyển động này giống như
khi bạn đang xem cái gì đó trên màn ảnh. Nếu bạn đang xem phim, mắt phải chuyển
động. Theo cùng cách, trong mơ mắt bạn chuyển động: chúng đang nhìn cái gì đó.
Chúng dõi theo chuyển động của phim. Với mắt bạn không có khác biệt giữa phim
thực tại đang được chiếu trên màn ảnh hay chỉ là phim mơ.
Cho nên những máy ghi R.E.M.
này nói bạn đã mơ bao nhiêu trong đêm và trong bao nhiêu khoảnh khắc bạn đã
không mơ, vì mắt dừng chuyển động khi bạn không mơ. Có nhiều người nói họ không
bao giờ mơ. Họ chỉ có trí nhớ rất đãng trí - không gì khác. Họ không thể nhớ được,
đó là điều duy nhất. Họ thực tại đang mơ, trong cả đêm họ mơ, nhưng họ không thể
nhớ được. Trí nhớ của họ không tốt, có vậy thôi. Cho nên đến sáng khi họ nói
không có mơ, đừng tin họ.
Tại sao mắt chuyển động khi có
mơ, và tại sao mắt dừng lại khi không có mơ? Từng chuyển động mắt đều được nối
với quá trình ý nghĩ. Nếu suy nghĩ có đó, mắt sẽ chuyển động. Nếu không có suy
nghĩ, mắt sẽ không chuyển động - không có nhu cầu.
Cho nên nhớ điểm thứ ba này nữa, rằng chuyển động mắt và suy nghĩ được nối với nhau. Đó là lí do tại sao nếu bạn dừng mắt và chuyển động của chúng, quá trình ý nghĩ của bạn sẽ dừng lại ngay lập tức. Hay nếu quá trình ý nghĩ của bạn dừng lại, mắt bạn sẽ tự động dừng.
Và một điểm nữa, điểm thứ tư. Mắt
chuyển động liên tục từ vật này sang vật khác. Từ A sang B, từ B sang C, chúng
liên tục chuyển động. Chuyển động là bản tính của chúng. Nó cũng giống như việc
sông chảy: chuyển động là bản tính của chúng! Và bởi vì chuyển động đó, chúng sống
động thế! Cuộc sống cũng là chuyển động.
Bạn có thể cố dừng mắt bạn tại
điểm đặc biệt nào đó, vào vật đặc biệt, và không cho phép chúng chuyển động,
nhưng chuyển động là bản tính của chúng. Bạn không thể dừng chuyển động được,
nhưng bạn có thể dừng mắt của bạn: hiểu sự phân biệt này đi. Bạn có thể dừng mắt
bạn ở điểm cố định đặc thù - vào một chấm trên tường. Bạn có thể nhìn chăm chăm
vào chấm đó; bạn có thể dừng mắt bạn lại. Nhưng chuyển động là bản tính của
chúng. Cho nên chúng có thể không chuyển động từ vật A sang vật B vì bạn đã buộc
chúng vẫn còn ở A, nhưng thế rồi một hiện tượng rất lạ xảy ra. Chuyển động nhất
định có đó; đó là bản tính của chúng. Nếu bạn không cho phép chúng chuyển động
từ A sang B, chúng sẽ chuyển từ ra ngoài thành vào trong. Hoặc chúng có thể chuyển
từ A sang B, hoặc nếu bạn không cho phép chuyển động ra ngoài này, chúng sẽ
chuyển động vào trong. Chuyển động là bản tính của chúng; chúng cần chuyển động.
Nếu bạn đột nhiên dừng và không cho phép chúng chuyển động ra ngoài, chúng sẽ bắt
đầu chuyển động vào trong.
Cho nên có hai khả năng chuyển
động. Một là từ vật A sang vật B. Nhưng đây là chuyển động ra ngoài. Đây là
cách nó đang xảy ra một cách tự nhiên. Nhưng có khả năng khác mà là của Mật
Tông và yoga - không cho phép chuyển động từ vật bên ngoài này sang vật khác và
dừng chuyển động này. Thế thì mắt nhảy từ vật bên ngoài sang tâm thức bên
trong, chúng bắt đầu chuyển động vào trong. Nhớ bốn điểm này; thế thì sẽ dễ hiểu
các kĩ thuật này.
Kĩ thuật thứ nhất:
Mắt nhắm, thấy bản chất bên trong của ông thật chi tiết. Vậy thấy bản tính thực của ông.
Mắt nhắm...
Nhắm mắt. Nhưng việc nhắm này là không đủ. Việc nhắm toàn bộ ngụ ý nhắm mắt và dừng chuyển động của chúng; bằng không mắt sẽ tiếp tục thấy cái gì đó của bên ngoài. Ngay cả với mắt nhắm bạn sẽ thấy nhiều thứ - các hình ảnh của nhiều thứ. Những thứ thực tại không có đó, nhưng hình ảnh, ý tưởng, kí ức được thu lượm - chúng sẽ bắt đầu chảy. Chúng cũng từ bên ngoài, cho nên mắt bạn vẫn không nhắm toàn bộ. Mắt nhắm toàn bộ nghĩa là không cái gì để thấy.
Hiểu sự khác biệt này. Bạn có thể nhắm mắt; điều đó là dễ, mọi người đều nhắm chúng mọi khoảnh khắc. Trong đêm bạn nhắm mắt, nhưng điều đó sẽ không làm lộ ra bản chất bên trong cho bạn. Nhắm mắt để sao cho không cái gì còn lại được thấy - không vật bên ngoài, không hình ảnh bên trong của bất kì vật bên ngoài nào, chỉ bóng tối trống trơn dường như bạn đã đột nhiên bị mù. Không mù chỉ với thực tại, nhưng mù cả với thực tại mơ nữa.
Người ta phải thực hành nó. Một thời kì dài sẽ được cần; nó không thể được thực hiện một cách bất thần. Bạn sẽ cần việc huấn luyện lâu dài. Nhắm mắt lại. Bất kì lúc nào bạn cảm thấy thoải mái và có thời gian, nhắm mắt lại và thế rồi dừng mọi chuyển động mắt bên trong. Không cho phép bất kì chuyển động nào. Cảm đi! Không cho phép bất kì chuyển động nào. Dừng mọi chuyển động của mắt. Cảm thấy dường như chúng đã trở thành đá, và thế rồi vẫn còn trong trạng thái "đá" đó của mắt. Không làm bất kì cái gì; chỉ vẫn còn ở đó. Đột nhiên, một ngày nào đó, bạn sẽ trở nên nhận biết rằng bạn đang nhìn vào bên trong bản thân bạn.
Bạn có thể chỉ đi ra ngoài toà nhà này, đi quanh toà nhà và có cái nhìn, nhưng đó là nhìn vào toà nhà từ bên ngoài. Thế rồi bạn có thể đi vào trong phòng và bạn có thể đứng trong phòng này và có cái nhìn. Đó là nhìn toà nhà từ bên trong. Khi bạn đi một vòng bên ngoài, bạn sẽ thấy các bức tường, nhưng chỉ một phía; (tường là như nhau, nhưng) thế thì bạn đang nhìn phía bên ngoài của bức tường. Khi bạn đi vào, tường vẫn thế, nhưng bây giờ bạn sẽ thấy phía bên trong của tường.
Bạn đã thấy thân thể bạn chỉ từ bên ngoài. Bạn đã thấy thân thể bạn trong gương hay bạn đã thấy tay bạn từ bên ngoài. Bạn không biết bên trong thân thể bạn là gì. Bạn chưa bao giờ đi vào trong cái ngã riêng của bạn; bạn chưa bao giờ ở trung tâm của thân thể bạn và hiện hữu, để nhìn quanh vào cái gì có đó từ bên trong.
Kĩ thuật này là rất có ích để có cái nhìn từ bên trong, và điều đó biến đổi toàn bộ tâm thức của bạn, toàn bộ sự tồn tại của bạn - vì nếu bạn có thể có cái nhìn từ bên trong, bạn lập tức trở thành khác với thế giới. Sự đồng nhất giả này rằng "Mình là thân thể" chỉ bởi vì chúng ta đã nhìn vào thân thể mình từ bên ngoài. Nếu bạn có thể có cái nhìn từ bên trong, người nhìn trở thành khác. Và thế thì bạn có thể di chuyển ý thức của bạn vào trong thân thể bạn, từ ngón chân tới đầu; bây giờ bạn có thể nhìn một vòng bên trong thân thể. Và một khi bạn trở nên có khả năng có cái nhìn từ bên trong và di chuyển tới đó, thế thì không khó đi ra phía ngoài chút nào.
Một khi bạn biết cách di chuyển, một khi bạn biết rằng bạn là tách rời khỏi thân thể, bạn được tự do khỏi sự lệ thuộc lớn. Bây giờ bạn không bị sức hút hấp dẫn; bây giờ bạn không có giới hạn nào. Bây giờ bạn tuyệt đối tự do. Bạn có thể đi ra ngoài thân thể; bạn có thể đi và về. Và thế thì thân thể bạn trở thành chỉ là chỗ trú ngụ.
Nhắm mắt lại, thấy bản chất bên trong của bạn thật chi tiết và di chuyển từ các chi sang các chi bên trong. Đi tới ngón chân cái. Quên toàn thân đi: di chuyển tới ngón chân cái. Ở đó và có cái nhìn. Thế rồi di chuyển qua ống chân, đi lên, đi tới mọi chi. Thế thì nhiều thứ xảy ra, nhiều thứ xảy ra!
Thế thì thân thể bạn trở thành phương tiện nhạy cảm thế, bạn thậm chí không thể hình dung được điều đó. Thế thì nếu bạn chạm vào người nào đó, bạn có thể đi vào tay của bạn một cách toàn bộ và cái chạm đó sẽ trở thành việc biến đổi. Đó là điều được ngụ ý bởi cái chạm của thầy: thầy có thể đi tới bất kì chi nào một cách toàn bộ, và thế rồi thầy được tập trung ở đó. Nếu bạn có thể đi tới bất kì phần nào của thân thể bạn một cách toàn bộ, phần đó trở thành sống động - sống động tới mức bạn không thể hình dung được cái gì xảy ra cho phần đó. Thế thì bạn có thể đi tới mắt một cách toàn bộ. Nếu bạn có thể đi tới mắt một cách toàn bộ và thế rồi nhìn vào trong mắt ai đó, bạn sẽ xuyên thấu người đó; bạn sẽ đi tới chính chiều sâu của người đó.
Bây giờ các nhà phân tâm đang cố đi vào các chiều sâu qua phân tâm học. Thế thì họ mất một năm, hai năm, ba năm... Điều này là việc lãng phí thời gian cực kì. Và cuộc sống là ngắn tới mức nếu ba năm được để ra làm phân tích tâm trí cho một người, nó là vô nghĩa. Và thế nữa bạn cũng vẫn không thể tin cậy được vào liệu phân tích này có là đầy đủ hay không. Bạn dò dẫm trong bóng tối. Cách tiếp cận phương Đông đã là qua đôi mắt. Không cần phân tích người này trong thời gian lâu thế. Công việc này có thể được thực hiện bằng việc đi vào qua mắt người đó một cách toàn bộ, chạm tới chiều sâu của người đó, biết nhiều điều về người đó mà thậm chí người đó không nhận biết.
Thầy có nhiều thứ để làm. Một trong những điều cơ bản là thế này: phân tích bạn, đi sâu vào trong bạn, đi vào trong cõi tối của bạn điều là không biết với bạn. Và nếu thầy nói với bạn rằng cái gì đó đang ẩn kín trong bạn, bạn sẽ không tin vào điều đó. Làm sao bạn có thể tin được vào nó? Bạn không nhận biết về nó. Bạn chỉ biết một phần của tâm trí - một mảnh mẩu rất nhỏ chỉ là phần phía trên, chỉ là tầng đầu tiên. Đằng sau nó có chín tầng ẩn kín mà bạn không biết, nhưng qua mắt bạn việc xuyên thấu vào là có thể.
Nhắm mắt lại; thấy bản chất bên trong của ông thật chi tiết. Phần thứ nhất, bên ngoài của kĩ thuật này là nhìn vào thân thể bạn từ bên trong - từ trung tâm bên trong của bạn. Đứng đó và có cái nhìn. Bạn sẽ được tách rời khỏi thân thể vì người nhìn không bao giờ là cái được nhìn vào. Người quan sát là khác với vật.
Nếu bạn có thể thấy thân thể bạn một cách toàn bộ từ bên trong, thế thì bạn không bao giờ có thể rơi vào trong ảo tưởng rằng bạn là thân thể. Thế thì bạn sẽ vẫn còn khác - khác toàn bộ: bên trong nó nhưng không là nó, trong thân thể nhưng không là thân thể. Đây là phần thứ nhất. Thế thì bạn có thể di chuyển; thế thì bạn được tự do di chuyển. Một khi được tự do với thân thể, được tự do với sự đồng nhất, bạn được tự do di chuyển. Bây giờ bạn có thể đi vào trong tâm trí bạn - sâu bên dưới. Chín tầng này mà ở bên trong và vô ý thức bây giờ có thể được đi vào.
Đây là hang động bên trong của tâm trí. Nếu bạn đi vào hang động này của tâm trí, bạn sẽ trở nên tách rời khỏi tâm trí nữa. Thế thì bạn sẽ thấy rằng tâm trí cũng là vật mà bạn có thể nhìn vào, và cái đang đi vào tâm trí, lần nữa, là tách rời và khác biệt. Việc đi vào trong tâm trí này là điều được ngụ ý bởi: thấy bản chất bên trong của ông thật chi tiết. Thân thể và tâm trí cả hai phải được đi vào và được nhìn từ bên trong. Thế thì bạn đơn giản là nhân chứng, và nhân chứng này không thể bị xuyên thấu.
Đó là lí do tại sao nó là cốt lõi bên trong nhất của bạn: cái đó là bạn. Cái mà không thể bị xuyên thấu, cái mà có thể được thấy thì không phải là bạn. Khi bạn đã đi tới cái mà không thể bị xuyên thấu, cái mà trong đó bạn không thể di chuyển được, cái mà không thể bị quan sát, chỉ thế thì bạn mới đi tới cái ngã thực. Bạn không thể chứng kiến cội nguồn đang chứng kiến, nhớ lấy - điều đó là ngớ ngẩn.
Nếu ai đó nói rằng "Tôi đã chứng kiến nhân chứng của tôi," điều đó là ngớ ngẩn. Tại sao nó ngớ ngẩn? Vì nếu bạn đã chứng kiến bản thân việc chứng kiến của bạn, thế thì bản thân việc chứng kiến đó không phải là bản thân việc chứng kiến. Người đã chứng kiến nó là nhân chứng. Người bạn có thể thấy, bạn không là người đó; cái bạn có thể quan sát, bạn không là nó; cái bạn có thể trở nên nhận biết, bạn không là nó.
Nhưng một điểm tới bên ngoài tâm trí nơi bạn đơn giản hiện hữu. Bây giờ bạn không thể phân chia riêng sự tồn tại của bạn thành hai: đối thể và chủ thể. Tính chủ thể đơn giản có đó, chỉ là việc chứng kiến. Điều này là rất, rất khó hiểu thấu qua trí tuệ vì mọi phân loại của trí tuệ đều bị phá vỡ ở đó.
Vì khó khăn logic này, Charwak - người dẫn giải của một trong những hệ thống triết lí logic nhất trên thế giới - nói rằng bạn không thể biết được cái ngã; không có tự biết mình. Và bởi vì không có việc tự biết mình, làm sao bạn có thể nói rằng có cái ngã? Bất kì cái gì bạn biết đều không phải là cái ngã. Người biết là cái ngã, không là cái được biết, cho nên bạn không thể nói một cách logic rằng "Tôi đã biết cái ngã của tôi." Điều đó là ngớ ngẩn, phi logic. Làm sao bạn có thể biết cái ngã của bạn? Thế thì ai sẽ là người biết và ai sẽ là cái được biết? Tri thức nghĩa là phân loại, phân chia giữa đối thể và chủ thể, người biết và cái được biết.
Cho nên Charwak nói rằng tất cả những người nói họ đã biết tới cái ngã đều nói điều vô nghĩa. Việc tự biết mình là không thể được vì cái ngã là không thể qui về người biết được. Nó không thể được chuyển thành cái được biết.
Thế rồi Charwak nói rằng nếu bạn không thể biết được cái ngã, làm sao bạn có thể nói rằng có cái ngã? Những người như Charwak, người không tin vào sự hiện diện của cái ngã, được gọi là anatmavadin. Họ nói không cái ngã nào hiện hữu; họ nói không có cái ngã - cái mà không thể được biết là không hiện hữu. Và họ là đúng về logic. Nếu logic là tất cả, họ là đúng. Nhưng đây là điều huyền bí của cuộc sống, rằng logic chỉ là bắt đầu - không là kết thúc. Một khoảnh khắc tới khi logic kết thúc, nhưng bạn không kết thúc. Một khoảnh khắc tới khi logic bị kết thúc, nhưng bạn vẫn có đó. Sống là phi logic. Đó là lí do tại sao khó hiểu thấu, khó quan niệm về cái gì được ngụ ý khi người ta nói rằng chỉ nhân chứng còn lại.
Chẳng hạn, nếu có chiếc đèn trong phòng, bạn thấy nhiều vật quanh bạn. Khi đèn bị tắt đi, có tối và không cái gì có thể được thấy. Khi chiếc đèn được bật lên, có sáng và bạn có thể thấy mọi thứ trong phòng. Nhưng bạn đã bao giờ quan sát cái gì xảy ra không? Nếu không có vật nào, bạn có khả năng thấy chiếc đèn và ánh sáng của nó không? Bạn sẽ không thể thấy được ánh sáng của nó, vì để được thấy ánh sáng phải phản xạ cái gì đó. Nó phải đập vào một vật. Tia sáng phải đi tới vật và thế rồi được phản xạ, thế thì chúng sẽ đạt tới mắt bạn. Cho nên đầu tiên bạn thấy các vật, thế rồi bạn suy diễn rằng ánh sáng có đó. Khi bạn thắp đèn hay nến, bạn không bao giờ thấy ánh sáng trước hết. Đầu tiên bạn thấy các vật, và bởi vì các vật này bạn đi tới biết về ánh sáng.
Các nhà khoa học nói rằng nếu không có vật nào thế thì ánh sáng không thể được nhìn thấy. Nhìn lên trời mà xem: nó có vẻ mầu xanh nhưng nó không xanh đâu, nó được rót đầy bằng các tia vũ trụ. Nó có vẻ xanh vì không có vật nào. Những tia sáng đó không thể phản xạ và đi tới mắt bạn. Nếu bạn đi vào không gian và không có vật nào, thế thì sẽ có tối. Tất nhiên, các tia sáng sẽ đi qua ngay bên cạnh bạn, nhưng sẽ có bóng tối. Để biết ánh sáng, vật nào đó phải có đó.
Charwak nói rằng nếu bạn đi vào bên trong và đi tới điểm mà chỉ nhân chứng còn lại và không có cái gì để được chứng kiến, làm sao bạn có thể biết về điều đó được? Vật nào đó phải có đó để được chứng kiến chứ; chỉ thế thì bạn mới có thể biết việc chứng kiến. Về logic, về khoa học điều đó là đúng. Nhưng về tính tồn tại điều đó là không đúng.
Những người thực sự đi vào bên trong đi tới một điểm không vật nào còn lại mà chỉ có tâm thức của hiện hữu. Bạn hiện hữu, nhưng không cái gì có đó để được thấy - chỉ có người thấy. Chỉ người thấy! Có tính chủ thể đơn giản mà không có bất kì đối thể nào quanh nó. Khoảnh khắc bạn đi tới điểm này, bạn đã đi vào mục đích tối thượng của hiện hữu. Bạn có thể gọi nó là alpha - cái bắt đầu, hay bạn có thể gọi nó là omega - cái kết thúc. Nó là cả hai, alpha và omega. Điều này được gọi là "tự biết mình."
Về mặt ngôn ngữ lời là sai vì về mặt ngôn ngữ không cái gì có thể được nói về nó. Ngôn ngữ trở thành vô nghĩa khi bạn đi vào thế giới của cái một. Ngôn ngữ là có nghĩa chỉ khi bạn ở trong thế giới của hai. Trong thế giới nhị nguyên ngôn ngữ là có nghĩa vì ngôn ngữ được tạo ra, là một phần của thế giới nhị nguyên. Nó trở thành vô nghĩa khi bạn đi vào cái một, cái bất nhị. Đó là lí do tại sao những người biết vẫn còn im lặng - hay cho dù họ nói cái gì đó họ vội vàng nói thêm rằng bất kì cái gì họ nói đều chỉ là biểu tượng, và bất kì cái gì họ nói đều không đích xác là thực: nó là giả.
Lão Tử nói rằng cái mà có thể được nói ra không thể là thực, và cái là thực không thể được nói ra. Ông ấy vẫn còn im lặng; trong phần lớn đời mình ông ấy không viết cái gì. Ông ấy nói, "Nếu ta nói cái gì đó nó sẽ là không thực, vì không cái gì có thể được nói về cõi mà chỉ cái Một còn lại."
Mắt nhắm, thấy bản chất bên trong của ông thật chi tiết - thân thể và tâm trí cả hai. Do vậy thấy bản tính thực của ông. Thấy thân thể và tâm trí bạn, cấu trúc của bạn đi. Và nhớ, thân thể và tâm trí không phải là hai thứ. Thay vì thế, bạn là cả hai: thân-tâm - tâm thân. Tâm trí là phần mịn hơn của thân thể và thân thể là phần thô hơn của tâm trí.
Cho nên nếu bạn có thể trở nên nhận biết về cấu trúc thân-tâm, nếu bạn có thể trở nên có ý thức về cấu trúc này, bạn được tự do khỏi cấu trúc này, bạn được tự do khỏi phương tiện này, bạn đã trở thành khác. Và việc biết này rằng bạn là tách rời khỏi cấu trúc này là bản tính của bạn. Đó là điều bạn thực sự là gì. Thân thể này sẽ chết, nhưng bản tính thực đó không bao giờ chết. Tâm trí này sẽ chết và thay đổi, và chết đi chết lại mãi, nhưng bản tính thực đó không bao giờ chết. Bản tính thực đó là vĩnh hằng. Đó là lí do tại sao bản tính thực đó không là tên của bạn không là hình tướng của bạn. Nó ở bên ngoài cả hai.
Cho nên làm sao làm kĩ thuật này? Việc nhắm toàn bộ mắt lại là được cần. Nếu bạn thử nó, nhắm mắt lại và thế rồi dừng chuyển động. Để cho mắt bạn trở thành giống hệt đá. Không chuyển động nào là được phép. Đột nhiên, bất kì ngày nào trong khi thực hành điều này, đột nhiên việc xảy ra là bạn sẽ có khả năng nhìn vào bên trong. Mắt bao giờ cũng nhìn ra ngoài sẽ quay vào trong và bạn sẽ có thoáng nhìn bên trong.
Thế thì không có khó khăn. Một khi bạn có thoáng nhìn bên trong, bạn biết cần phải làm cái gì và làm sao di chuyển. Chỉ thoáng nhìn đầu tiên là khó; sau đó bạn có cái mẹo rồi. Thế thì nó trở thành chỉ là thủ thuật. Thế thì nó trở thành chỉ giống như thủ đoạn. Bất kì khoảnh khắc nào bạn cũng có thể nhắm mắt, làm cho mắt bạn thành tĩnh tại, và bạn có thể đi vào cõi này.
Phật sắp chết. Đó là ngày cuối cùng của đời ông ấy, và ông ấy hỏi các đệ tử liệu họ có muốn hỏi bất kì câu hỏi nào không. Họ khóc, than, và họ nói, "Thầy đã nói cho chúng tôi nhiều thế. Bây giờ chẳng cái gì còn lại để hỏi." Phật có thói quen hỏi ba lần. Ông ấy không bao giờ dừng lại sau khi hỏi một lần. Ông ấy sẽ hỏi lại, và thế rồi ông ấy lại hỏi lại lần nữa liệu bạn có bất kì câu hỏi cần hỏi nào không. Nhiều lần Phật được hỏi, "Sao thầy hỏi một thứ những ba lần?" Ông ấy nói, "Vì con người là vô nhận biết thế, vô ý thức thế, người đó có thể đã không nghe lần thứ nhất và người đó có thể đã bỏ lỡ lần thứ hai."
Ba lần ông ấy hỏi, và ba lần các khất sĩ, các sư, đệ tử của ông ấy nói, "Bây giờ chúng tôi không muốn hỏi bất kì cái gì. Thầy đã nói nhiều thế." Thế rồi ông ấy nhắm mắt lại và nói, "Nếu các ông không có cái gì để hỏi, trước khi chết xuất hiện cho thân thể ta sẽ chuyển ra khỏi nó."
Ông ấy nhắm mắt. Mắt ông ấy trở nên tĩnh tại và ông ấy bắt đầu di chuyển. Chuyện kể rằng có bốn phần của chuyển động vào trong của ông ấy. Đầu tiên ông ấy nhắm mắt; thứ hai, mắt ông ấy trở thành tĩnh tại, không có chuyển động. Nếu bạn có tĩnh tại thế thì công cụ để ghi R.E.M., đồ thị sẽ không được vẽ ra. Mắt trở thành tĩnh tại - đó là điều thứ hai. Thứ ba, ông ấy nhìn vào thân thể mình; thế rồi thứ tư, ông ấy nhìn vào tâm trí mình.
Đây là toàn thể cuộc hành trình. Trước khi chết xuất hiện ông ấy đã trở lại vào trung tâm của ông ấy, vào cội nguồn nguyên thuỷ của ông ấy. Đó là lí do tại sao cái chết này không được gọi là chết: chúng ta gọi nó là niết bàn, và đây là khác biệt. Chúng ta gọi nó là niết bàn - dừng lại - không là chết. Bình thường, chúng ta chết vì cái chết xuất hiện cho chúng ta. Nó không bao giờ xuất hiện cho Phật. Trước khi chết tới, ông ấy đã trở về cội nguồn.
Chết xuất hiện chỉ cho thân thể chết - ông ấy không có đó để được tìm thấy. Cho nên trong truyền thống Phật giáo người ta nói rằng ông ấy không bao giờ chết. Chết không thể bắt được ông ấy. Nó theo sau, dường như nó theo sau ông ấy như mọi người, nhưng ông ấy không thể bị sập bẫy; ông ấy đánh lừa Chết từ điều đó. Ông ấy phải đã cười - đứng bên ngoài, và Chết có đó chỉ với thân thể chết.
Kĩ thuật này là như nhau. Làm ra bốn phần của nó và di chuyển. Và khi bạn biết một thoáng nhìn, toàn thể sự việc sẽ trở thành rất dễ dàng và đơn giản. Thế thì bất kì khoảnh khắc nào bạn cũng có thể di chuyển vào và ra, và đi vào và đi ra, cũng như đi ra khỏi nhà bạn và và đi vào... đi ra và đi vào.
Kĩ thuật thứ hai:
Nhìn cái bát mà không thấy các mặt bên hay vật liệu. Trong vài khoảnh khắc trở nên nhận biết.
Nhìn vào bất kì cái gì. Cái bát hay bất kì vật gì cũng có tác dụng, nhưng nhìn với phẩm chất khác. Nhìn cái bát mà không thấy các mặt bên hay vật liệu. Nhìn vào bất kì vật gì, nhưng với hai điều kiện này... Không nhìn và mặt bên, nhìn vào vật này như một toàn thể. Bình thường, chúng ta nhìn vào các bộ phận. Điều đó có thể không được làm một cách có ý thức thế, nhưng chúng ta nhìn vào các bộ phận. Nếu tôi nhìn bạn, đầu tiên tôi thấy mặt bạn, thế rồi thân hình bạn, và thế rồi toàn thân bạn. Nhìn vào một vật như một toàn thể đi; không phân chia nó thành các bộ phận. Tại sao? Vì khi bạn phân chia cái gì đó thành các bộ phận, mắt có cơ hội di chuyển từ phần này sang phần khác. Nhìn vào một vật như một toàn thể. Bạn có thể làm được điều đó.
Tôi có thể nhìn vào tất cả các bạn theo hai cách. Tôi có thể nhìn từ phía này và rồi di chuyển. Tôi có thể nhìn vào A, thế rồi vào B, thế rồi tôi nhìn vào C và liên tục chuyển. Khi tôi nhìn vào A, B và C, tôi không hiện diện - hay chỉ hiện diện ở ven rìa, nhưng không được hội tụ. Khi tôi nhìn vào B, tôi rời khỏi A. Khi tôi nhìn vào C, A đã hoàn toàn bị mất; anh ấy đã đi ra khỏi hội tụ của tôi. Tôi có thể nhìn vào nhóm này theo cách này, nhưng tôi có thể nhìn vào toàn thể nhóm mà không phân chia nó thành các cá nhân, thành các đơn vị, coi nó như một toàn thể.
Thử điều đó đi. Trước hết nhìn vào một vật từ mảnh này sang mảnh khác. Thế rồi đột nhiên nhìn vào vật này như một toàn thể; không phân chia nó. Khi bạn nhìn vào một vật như một toàn thể, mắt không có nhu cầu di chuyển. Để không trao bất kì cơ hội nào cho việc chuyển động, điều này đã được làm thành điều kiện: nhìn vào một vật một cách toàn bộ, coi như một toàn thể. Và thứ hai, không nhìn vật liệu. Nếu cái bát bằng gỗ, không nhìn thấy gỗ: chỉ thấy bát, hình tướng. Không thấy chất liệu.
Nó có thể bằng vàng, nó có thể bằng bạc - quan sát nó. Không nhìn vào vật liệu tạo nên nó, chỉ nhìn vào hình tướng. Điều thứ nhất là nhìn vào nó như một toàn thể. Thứ hai, nhìn vào nó như một hình tướng, không như chất liệu. Tại sao? Vì chất liệu là phần vật chất, hình tướng là phần tâm linh, và bạn định di chuyển từ vật chất sang phi vật chất. Điều đó sẽ giúp ích.
Thử nó đi. Bạn có thể thử với bất kì người nào. Người đàn ông nào đó hay người đàn bà nào đó đang đứng: nhìn, và lấy người đàn ông hay người đàn bà một cách toàn thể vào trong cái nhìn của bạn, toàn bộ ở trong nó. Đó sẽ là cảm giác kì lạ lúc ban đầu vì bạn không quen với cách này, nhưng nó rất hay ở lúc cuối. Và thế rồi, không nghĩ về liệu thân thể này là đẹp hay không, trắng hay đen, đàn ông hay đàn bà. Không nghĩ; chỉ nhìn vào hình dạng. Quên chất liệu đi và chỉ nhìn vào hình tướng.
Trong vài khoảnh khắc trở nên nhận biết. Liên tục nhìn vào hình tướng này như một toàn thể. Không cho phép mắt có bất kì chuyển động nào. Không bắt đầu nghĩ về vật chất. Cái gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ đột nhiên trở nên nhận biết về cái ngã của bạn. Nhìn vào cái gì đó, bạn sẽ trở nên nhận biết về cái ngã của bạn. Tại sao? Vì với mắt không có khả năng nào di chuyển ra ngoài. Hình tướng này đã được lấy như một toàn thể, cho nên bạn không thể di chuyển tới các bộ phận. Vật liệu đã bị bỏ đi; hình tướng thuần khiết đã bị lấy đi. Bây giờ bạn không thể nghĩ về vàng, gỗ, bạc. v.v.
Hình tướng là hình tướng thuần khiết. Không suy nghĩ nào về nó là có thể. Hình tướng chỉ là hình tướng; bạn không thể nghĩ về nó. Nếu nó bằng vàng, bạn có thể nghĩ nhiều điều. Bạn sẽ muốn, bạn có thể muốn đánh cắp nó, hay làm cái gì đó với nó, hay bán nó, hay bạn có thể nghĩ về giá - nhiều điều là có thể. Nhưng hình tướng thuần khiết, không suy nghĩ nào là có thể. Hình tướng thuần khiết dừng việc suy nghĩ. Và không có khả năng nào của việc thay đổi từ phần này sang phần khác; bạn đã lấy nó như một toàn thể.
Vẫn còn với cái toàn thể và hình tướng. Đột nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết về bản thân bạn, vì bây giờ mắt không thể chuyển động. Và chúng cần chuyển động; đó là bản tính của chúng. Cho nên cái nhìn của bạn sẽ chuyển hướng tới bạn. Nó sẽ quay lại, nó sẽ trở về nhà, và đột nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết về cái ngã của bạn. Việc trở nên nhận biết này về cái ngã của người ta là một trong những khoảnh khắc cực lạc nhất có thể có. Khi lần đầu tiên bạn trở nên nhận biết về cái ngã của bạn, nó có cái đẹp và phúc lạc tới mức bạn không thể so sánh được nó với bất kì cái gì khác bạn đã biết.
Thực sự, lần đầu tiên bạn trở thành cái ngã của bạn; lần đầu tiên bạn biết bạn hiện hữu. Hiện hữu của bạn được khải lộ trong một chớp loé.
Nhưng tại sao nó xảy ra? Bạn có thể đã thấy, đặc biệt trong các sách của trẻ em, một bức tranh, hay trong chuyên luận tâm lí học nào đó, nhưng tôi hi vọng mọi người phải đã thấy ở đâu đó chỗ này chỗ khác - bức tranh về một bà già, và đồng thời một cô gái trẻ đẹp cũng được ẩn kín. Có một bức tranh, cùng bức tranh đó, nhưng hai hình có trong nó: một bà già, một thanh nữ.
Nhìn bức tranh này đi: bạn không thể trở nên nhận biết về cả hai đồng thời được. Bạn sẽ trở nên nhận biết hoặc người này hoặc người kia. Nếu bạn trở nên nhận biết về bà già, bạn không thể thấy được cô thanh nữ được ẩn ở đâu. Nhưng nếu bạn cố tìm cô ấy, sẽ khó khăn, và chính nỗ lực này sẽ trở thành rào chắn. Vì bạn đã trở nên nhận biết về bà già, bà ấy sẽ trở thành thứ cố định trong mắt bạn. Với thứ cố định này, bạn đang cố tìm cô thanh nữ. Điều đó là không thể được, bạn sẽ không có khả năng tìm ra cô ấy. Bạn phải làm một kĩ thuật.
Chỉ nhìn chăm chăm vào bà già; quên cô thanh nữ hoàn toàn. Nhìn chăm chăm vào bà già, vào hình ảnh bà già. Nhìn chăm chăm! Liên tục nhìn chăm chăm. Đột nhiên bà già sẽ biến mất, và bạn sẽ trở nên nhận biết về cô thanh nữ ẩn ở đó. Tại sao? Nếu bạn cố tìm cô ấy bạn sẽ lỡ. Kiểu tranh này được cho trẻ em như câu đố, và nó được dành để nói cho chúng, "Tìm người kia đi." Thế rồi chúng bắt đầu cố tìm cô ấy, và vì điều đó chúng bỏ lỡ.
Thủ đoạn là không cố tìm cô ấy: cứ nhìn chăm chăm vào hình này và bạn sẽ trở nên nhận biết. Quên người kia đi, không cần nghĩ về nó. Mắt bạn không thể vẫn còn ở một điểm, cho nên nếu bạn nhìn chăm chăm vào hình bà già, mắt sẽ trở nên mệt. Thế thì đột nhiên chúng sẽ chuyển từ hình này, và trong việc chuyển đó bạn sẽ trở nên nhận biết về hình khác được ẩn ngay bên cạnh bà già, trong cùng tấm hình. Nhưng phép màu là ở chỗ khi bạn trở nên nhận biết về cô thanh nữ, bạn không thể thấy được bà già. Nhưng bạn biết rằng cả hai bây giờ có đó.
Lúc ban đầu bạn có thể đã không tin rằng cô thanh nữ đang ẩn kín, nhưng bây giờ bạn biết vì bạn đã thấy bà già đầu tiên. Bây giờ bạn biết rằng bà già có đó, nhưng trong khi nhìn vào người trẻ bạn không thể đồng thời trở nên nhận biết về người già. Và nếu bạn trở nên nhận biết về người già, bạn sẽ bỏ lỡ người trẻ lần nữa. Cả hai không thể được thấy đồng thời; bạn chỉ có thể thấy một người mỗi lúc.
Cùng điều này xảy ra với cái nhìn bên ngoài và bên trong. Bạn không thể có cả hai cái nhìn đồng thời. Khi bạn đang nhìn vào chiếc bát hay bất kì vật nào, bạn đang nhìn ra ngoài: tâm thức đang chuyển ra ngoài, dòng sông đang chảy ra. Bạn được hội tụ vào chiếc bát. Liên tục nhìn chăm chăm vào nó. Chính việc nhìn chăm chăm đó sẽ tạo ra cơ hội để chuyển vào. Mắt bạn sẽ trở nên mệt; chúng muốn chuyển đi. Không tìm thấy cái gì để chuyển ra ngoài, đột nhiên sống sẽ quay lại - điều đó vẫn còn là khả năng duy nhất. Bạn sẽ ép buộc tâm thức bạn rơi trở lại. Và khi bạn sẽ trở nên nhận biết về bạn, bạn sẽ không thấy chiếc bát; nó sẽ không có đó.
Đó là lí do tại sao Shankara hay Long Thọ nói toàn thế giới là ảo vọng; họ đã biết nó là vậy. Khi chúng ta đi tới biết bản thân chúng ta, thế giới không hiện hữu. Thực sự, thế giới không là ảo vọng; nó có đó. Nhưng bạn không thể thấy được cả hai thế giới đồng thời - đó là vấn đề. Cho nên khi Shankara đi vào bản thân ông ấy, khi ông ấy đi tới biết cái ngã của ông ấy, khi ông ấy trở thành nhân chứng, thế giới không có đó. Cho nên ông ấy là đúng. Ông ấy nói nó là maya - ảo vọng. Nó đơn giản dường như hiện hữu; nó không có đó.
Nhận biết về sự kiện này đi. Khi bạn biết thế giới, bạn không hiện hữu. Bạn có đó, nhưng bị ẩn kín, và bạn không thể tin được rằng bạn bị ẩn kín ở đó; thế giới hiện diện quá nhiều với bạn. Và nếu bạn bắt đầu tìm bản thân bạn một cách trực tiếp, điều đó sẽ là khó, chính nỗ lực này có thể trở thành rào chắn. Cho nên Mật Tông nói, cố định cái nhìn chăm chăm của bạn vào đâu đó trong thế giới, vào bất kì vật nào, và không chuyển đi khỏi chỗ đó, vẫn còn ở đó. Chính nỗ lực này để vẫn còn ở đó sẽ tạo ra khả năng cho tâm thức bắt đầu chảy hướng lên - đi ngược lại. Thế thì bạn sẽ trở nên nhận biết về cái ngã của bạn.
Nhưng khi bạn trở nên nhận biết về cái ngã của bạn, chiếc bát sẽ không có đó. Nó có đó, nhưng với bạn, nó sẽ không có đó. Cho nên Shankara nói thế giới là ảo vọng vì khi bạn đi tới biết cái ngã của bạn, thế giới không có đó. Nó biến mất như mơ.
Nhưng Charwak và Epicurus và Marx, họ cũng đúng. Họ nói thế giới là thực, và cái ngã của bạn chỉ là giả; chẳng thể tìm được nó ở đâu cả. Họ nói khoa học là thực. Khoa học nói chỉ vật chất hiện hữu, chỉ vật thể; không có chủ thể. Họ đúng, vì con mắt được hội tụ vào các vật.
Nhà khoa học thường xuyên hội tụ vào các vật. Ông ấy quên cái ngã hoàn toàn. Cả Shankara và Marx đều đúng theo một nghĩa nào đó và sai theo nghĩa khác. Nếu bạn bị cố định vào thế giới, nếu cái nhìn của bạn bị cố định vào thế giới, cái ngã sẽ có vẻ là ảo vọng - giống như nó chỉ là mơ. Nếu bạn đang nhìn vào trong, thế giới sẽ trở thành mơ. Cả hai đều là thực, nhưng bạn không thể nhận biết về cả hai đồng thời được - đó là vấn đề. Và không cái gì có thể được làm. Bạn sẽ gặp bà già hay bạn sẽ gặp cô thanh nữ, và một người sẽ trở thành maya, ảo vọng. Nhưng kĩ thuật này có thể được dùng một cách dễ dàng. Sẽ mất chút thời gian, nhưng nó không khó.
Một khi bạn biết cách quay ý thức, bạn có thể làm điều đó ở bất kì chỗ nào. Đi xe bus hay ngồi trên tầu hoả bạn có thể làm điều đó - bất kì chỗ nào. Không cần bát hay bất kì vật đặc biệt nào: bạn có thể làm điều đó với bất kì cái gì. Với bất kì cái gì, nhìn chăm chăm, nhìn chăm chăm, nhìn chăm chăm... và đột nhiên quay vào trong, và tầu hoả biến mất. Tất nhiên, khi bạn quay lại từ cuộc hành trình bên trong bạn đã du hành rồi, nhưng tầu hoả đã biến mất. Từ ga này bạn sẽ tới ga khác, và ở giữa sẽ không có tầu hoả - chỉ kẽ hở. Tất nhiên, tầu hoả đã có đó; bằng không làm sao bạn có thể tới được ga kia? Nhưng nó đã không có đó cho bạn; với bạn nó không hiện hữu.
Những người có thể thực hành kĩ thuật này, họ có thể sống trong thế giới rất dễ dàng. Bất kì khoảnh khắc nào họ đều có thể làm cho bất kì cái gì biến mất - nhớ điều này. Bạn bận tâm với vợ bạn hay với chồng bạn - bạn có thể làm cho cô ấy hay anh ấy biến mất. Vợ đang ngồi đó ngay bên cạnh bạn và cô ấy không có đó. Cô ấy là ảo vọng, cô ấy đã biết mất. Chỉ bằng việc nhìn chăm chăm và thế rồi quay tâm thức bạn vào bên trong, cô ấy đã dừng có đó. Và điều đó đã xảy ra nhiều lần.
Tôi nhớ tới Socrates. Vợ ông ấy Xanthippe rất lo nghĩ về ông ấy, và bất kì bà vợ nào chắc cũng trong cùng thế khó xử này. Có một Socrates làm chồng là một trong những điều khó khăn nhất trong chịu đựng. Socrates là tốt khi là thầy giáo, nhưng không tốt khi là chồng.
Một hôm chuyện xảy ra... và vì điều đó vợ ông ấy đã bị kết án trong hai nghìn năm liên tục, nhưng điều đó là không công bằng, tôi không nghĩ bà ấy đã làm bất kì cái gì sai. Socrates đang ngồi đó, và ông phải đang làm cái gì đó như kĩ thuật này - điều đó không được ghi lại, tôi chỉ giả sử. Vợ ông ấy tới với một cái khay, ấm trà để rót trà cho ông ấy. Bà ấy chắc phải đã thấy rằng ông ấy không có đó, cho nên tương truyền rằng bà ấy đã đổ trà lên Socrates, lên mặt ông ấy. Thế rồi đột nhiên ông ấy đã quay lại.
Mặt ông ấy vẫn còn bị bỏng suốt cả đời. Và vì điều này vợ ông ấy đã bị kết án rất nhiều, nhưng không ai biết Socrates đang làm gì ở đó - vì không người vợ nào sẽ làm điều này một cách bất thần, không có nhu cầu. Ông ấy chắc phải đã làm cái gì đó; cái gì đó chắc phải đã xảy ra ở đó. Đó là lí do tại sao Xanthippe phải đổ trà lên ông ấy. Ông ấy chắc phải đã trong cơn mê bên trong, và cảm giác bỏng rát đã đem ông ấy lại, ý thức phải đã trở lại.
Tôi giả sử rằng đây là hoàn cảnh vì có nhiều hoàn cảnh khác được kể lại về Socrates mà là tương tự. Trong bốn mươi tám giờ ông ấy đã không được tìm thấy. Ông ấy được người ta đi tìm khắp nơi, toàn thể dân Athens đã đi tìm Socrates, nhưng ông ấy chẳng được tìm thấy ở đâu cả. Thế rồi ông ấy được tìm thấy ở bên ngoài thành phố, xa nhiều dặm, đang đứng dưới cây. Nửa người ông ấy ngập dưới tuyết. Tuyết đã rơi, và ông ấy bị đông cứng, đứng đó với mắt mở. Nhưng ông ấy đã không nhìn bất kì người nào.
Khi đám đông tụ tập xung quanh, họ nhìn vào mắt ông ấy và họ nghĩ rằng ông ấy đã chết. Mắt ông ấy hệt như đá - nhìn đấy, nhưng không nhìn vào bất kì người nào; chỉ tĩnh tại, không chuyển động. Họ sờ tim ông ấy: Nó đang đập chậm; ông ấy còn sống. Họ phải gây choáng cho ông ấy, chỉ thế thì ông ấy mới quay lại nhìn họ. Lập tức ông ấy hỏi, "Bây giờ mấy giờ rồi?" Ông ấy đã mất tích bốn mươi tám giờ hoàn toàn, chúng không bao giờ tồn tại cho ông ấy. Ông ấy đã không trong thế giới này của thời gian và không gian.
Cho nên họ hỏi, "Ông đã làm gì vậy? Chúng tôi tưởng ông đã chết rồi... bốn mươi tám giờ!" Ông ấy nói, "Tôi nhìn các ngôi sao, và đột nhiên chuyện xảy ra là sao biến mất. Và thế rồi, tôi không biết... thế rồi toàn thế giới biến mất. Nhưng tôi vẫn còn trong trạng thái bình thản, thanh bình, phúc lạc tới mức nếu nó là chết thì nó cũng đáng hàng nghìn lần sống. Nếu nó là chết, thế thì tôi muốn đi vào nó lặp đi lặp lại."
Điều đó có thể đã xảy ra mà không có tri thức của ông ấy, vì Socrates không phải là người yogi, không phải là người Mật Tông. Ông ấy không quan tâm một cách có ý thức tới bất kì thực hành tâm linh nào theo bất kì cách nào. Nhưng ông ấy là nhà tư tưởng lớn, và điều đó có thể xảy ra như một điều ngẫu nhiên rằng ông ấy đã nhìn chăm chăm lên các ngôi sao ban đêm, và đột nhiên cái nhìn của ông ấy quay trở lại, vào trong. Bạn có thể làm điều đó. Và sao thực sự là vật tốt.
Nằm ra trên đất, nhìn lên bầu trời đen, và thế rồi cố định bản thân bạn vào một ngôi sao. Tập trung vào nó, nhìn chăm chăm vào nó. Làm hẹp dần ý thức của bạn vào một ngôi sao; quên các ngôi sao khác. Dần dần, tập trung, làm hẹp dần cái nhìn chăm chăm của bạn. Các ngôi sao khác sẽ có đó chỉ ở ven rìa, ở ngoài biên. Nhưng dần dần chúng sẽ biến mất, và chỉ một ngôi sao sẽ còn lại. Thế rồi liên tục nhìn chăm chăm, liên tục nhìn chăm chăm. Một khoảnh khắc sẽ tới khi ngôi sao đó sẽ biến mất. Và khi ngôi sao đó biến mất, bạn sẽ xuất hiện cho bản thân bạn.
Kĩ thuật thứ ba:
Dường như lần đầu tiên thấy một người đẹp hay một vật thường.
Một số điều cơ bản trước hết; thế rồi bạn có thể làm kĩ thuật này. Chúng ta nhìn vào mọi thứ bao giờ cũng bằng mắt cũ. Bạn về nhà; bạn nhìn nó mà không nhìn nó. Bạn biết nó - không có nhu cầu nhìn nó. Bạn đã đi vào nó lặp đi lặp lại trong nhiều năm. Bạn đi tới cửa, bạn đi vào cửa; bạn có thể mở khoá cửa. Nhưng không cần nhìn.
Toàn thể quá trình này diễn ra như robot, một cách máy móc, vô ý thức. Nếu cái gì đó đi sai, chỉ nếu chìa khoá của bạn không khớp vào ổ khoá, thế thì bạn mới nhìn vào ổ khoá. Nếu chìa khoá khớp, bạn không bao giờ nhìn vào ổ khoá. Vì thói quen máy móc, làm cùng một điều lặp đi lặp lại, bạn mất năng lực nhìn; bạn mất cái tươi tắn để nhìn. Thực sự, bạn đánh mất chức năng của mắt - nhớ điều này. Về căn bản bạn trở thành mù, vì mắt không được cần.
Nhớ lần cuối cùng bạn nhìn vợ bạn. Lần cuối cùng bạn nhìn vợ bạn hay nhìn chồng bạn có thể đã nhiều năm trước đây. Trong bao nhiêu năm bạn đã không nhìn rồi? Bạn chỉ đi qua, cho một thoáng nhìn bất chợt, nhưng không phải là cái nhìn. Đi lại và nhìn vợ bạn hay chồng bạn dường như bạn đã mong đợi lần đầu tiên đi. Tại sao? Vì nếu bạn lần đầu tiên mong đợi, mắt bạn sẽ đầu với sự tươi tắn. Chúng sẽ trở thành sống động.
Bạn đi qua phố, và một người đàn bà đẹp đi qua. Mắt bạn trở nên sống động - sáng lên. Một ngọn lửa bất thần tới với chúng. Người đàn bà này có thể là vợ của ai đó. Anh ta sẽ không nhìn vào cô ấy; anh ta có thể trở thành mù như bạn đã trở thành mù khi nhìn vợ bạn. Tại sao? Làn đầu tiên mắt được cần, lần thứ hai không nhiều mấy, và lần thứ ba chúng không được cần. Sau vài việc lặp lại bạn trở thành mù. Chúng ta sống một cách mù loà.
Nhận biết đi. Khi bạn gặp con bạn, bạn có nhìn chúng không? Bạn không nhìn chúng. Thói quen này giết chết đôi mắt; mắt trở thành chán - có cái cũ cứ lặp đi lặp lại mãi. Và không cái gì là thực sự cũ, đó chỉ là thói quen của bạn làm cho bạn cảm thấy rằng nó là vậy. Vợ bạn không vẫn như vậy như cô ấy đã thế hôm qua, cô ấy không thể thế được; bằng không thì cô ấy là phép màu. Không cái gì có thể vẫn là vậy cho khoảnh khắc tiếp. Cuộc sống là một luồng, mọi thứ tuôn chảy, không cái gì là nguyên như vậy.
Cùng mặt trời mọc sẽ không xảy ra lần nữa. Theo một nghĩa nào đó cũng vậy, mặt trời không là nguyên như vậy. Mọi ngày nó đều mới; thay đổi cơ bản đã xuất hiện. Và trời sẽ không nguyên như vậy lần nữa; sáng nay sẽ không tới lần nữa. Mọi sáng đều có tính cá nhân riêng của nó, và trời và mầu sắc, chúng sẽ không tụ tập theo cùng hình mẫu lần nữa. Nhưng bạn liên tục cảm thấy dường như mọi thứ chỉ là nguyên như vậy.
Họ nói không cái gì mới dưới bầu trời. Thực sự, không cái gì cũ dưới bầu trời. Chỉ mắt trở thành cũ, quen với mọi thứ; thế thì không cái gì là mới. Với trẻ con mọi thứ là mới: đó là lí do tại sao mọi thứ cho chúng sự háo hức. Ngay cả hòn đá mầu trên bãi biển, và chúng trở nên háo hức thế. Bạn sẽ không háo hức ngay cả khi thấy đích thân Thượng đế đang tới nhà bạn. Bạn sẽ không háo hức thế! Bạn sẽ nói, "Tôi biết ngài, tôi đã đọc về ngài." Trẻ con háo hức thế vì mắt chúng là mới và tươi tắn. Và mọi thứ đều là một thế giới mới, chiều hướng mới.
Nhìn vào mắt trẻ con mà xem - nhìn vào sự tươi tắn, sự sống động rạng ngời, sự sinh động. Chúng có vẻ như gương, im lặng, nhưng xuyên thấu. Chỉ những đôi mắt như vậy mới có thể đạt tới bên trong.
Cho nên kĩ thuật này nói, Nhìn dường như lần đầu tiên một người đẹp hay vật bình thường. Bất kì cái gì cũng có tác dụng. Nhìn vào giầy của bạn mà xem. Bạn đã từng dùng chúng trong nhiều năm, nhưng nhìn dường như lần đầu tiên và thấy sự khác biệt: phẩm chất của ý thức của bạn đột nhiên thay đổi.
Tôi tự hỏi liệu bạn có thấy tranh về giầy của Van Gogh không. Nó là một trong những thứ hiếm hoi nhất. Chỉ có một chiếc giầy cũ - xơ xác, buồn bã, dường như đang trên bờ chết. Nó chỉ là một chiếc giầy cũ, nhưng nhìn nó, cảm nó, và bạn sẽ cảm thấy chiếc giầy này phải đã trải qua cuộc sống chán chường, đằng đẵng làm sao. Nó buồn thế, chỉ đang cầu nguyện được lấy đi khỏi cuộc sống, xơ xác hoàn hoàn, mọi tinh thần sụp đổ, chỉ là một ông già, chiếc giầy cũ. Nó là một trong những bức tranh nguyên bản nhất. Nhưng làm sao Van Gogh có thể thấy được nó?
Bạn thậm chí có nhiều giầy cũ hơn - xơ xác hơn, chết hơn, buồn hơn, thất vọng, nhưng bạn không bao giờ nhìn chúng, nhìn điều bạn đã làm với chúng, cách bạn đã cư xử với chúng. Chúng kể câu chuyện cuộc đời về bạn vì chúng là giầy của bạn. Chúng có thể nói lên mọi điều về bạn. Nếu chúng có thể viết, chúng chắc đã viết ra bản tiểu sử đích thực nhất về người mà chúng đã phải sống cùng - mọi tâm trạng, mọi bộ mặt. Khi người chủ của chúng đang trong yêu, anh ta đã cư xử khác với giầy, khi anh ta giận anh ta đã cư xử khác. Và giầy không bận tâm chút nào, và mọi thứ đã để lại dấu hiệu.
Nhìn vào bức tranh của Van Gogh, và thế thì bạn sẽ thấy điều ông ấy có thể thấy trong chiếc giầy này. Mọi thứ có đó - toàn thể tiểu sử của người đã dùng chúng. Nhưng làm sao ông ấy có thể thấy được? Để là hoạ sĩ, người ta phải lấy lại cái nhìn trẻ thơ, sự tươi tắn. Ông ấy có thể nhìn vào mọi thứ - ngay cả những thứ bình thường nhất. Ông ấy có thể nhìn!
Cezanne đã vẽ một chiếc ghế, chỉ là ghế thường, và bạn thậm chí có thể tự hỏi... tại sao đi vẽ chiếc ghế? Không có nhu cầu. Nhưng ông ấy đã làm việc trên bức tranh đó trong nhiều tháng liền. Bạn có thể phải dừng lại một khoảnh khắc để nhìn nó, còn ông ấy đã làm việc trong nhiều tháng trên nó vì ông ấy có thể nhìn vào chiếc ghế. Chiếc ghế có tâm hồn riêng của nó, câu chuyện riêng của nó, khổ và sướng riêng của nó. Nó đã sống! Nó đã trải qua cuộc sống! Nó có kinh nghiệm, kí ức riêng của nó. Tất cả chúng đều được hiển lộ trong bức tranh của Cezanne. Nhưng bạn có nhìn vào chiếc ghế của bạn không? Không ai nhìn vào nó, không ai cảm thấy nó.
Bất kì vật nào đều được. Kĩ thuật này là để làm cho mắt bạn tươi tắn - tươi tắn, sống động, sinh động rạng ngời tới mức chúng có thể di chuyển vào bên trong và bạn có thể có cái nhìn vào cái ngã bên trong của bạn. Dường như lần đầu tiên nhìn thấy. Làm điều đó thành một điểm để nhìn mọi thứ dường như là lần đầu tiên, và đôi khi, đột nhiên, bạn sẽ ngạc nhiên về bạn đã bỏ lỡ thế giới đẹp làm sao. Đột nhiên trở nên nhận biết và nhìn vào vợ bạn dường như là lần đầu tiên. Và sẽ không có gì ngạc nhiên nếu bạn lại cảm thấy cùng yêu bạn đã cảm thấy lần đầu tiên, cùng sự trào dâng năng lượng, cùng hấp dẫn trong sự trọn vẹn nhất của nó. Nhưng nhìn dường như lần đầu tiên vào người đẹp hay vật bình thường. Cái gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ thu lấy sức nhìn của bạn. Bạn mù. Ngay bây giờ, như bạn vậy, bạn mù. Và sự mù này nhiều tính số mệnh hơn là sự mù vật lí, vì bạn có mắt và dầu vậy bạn không thể nhìn được.
Jesus nói nhiều lần, "Những người có mắt, để họ thấy. Những người có tai, để họ nghe." Dường như là ông ấy đang nói cho người mù hay người điếc. Nhưng ông ấy liên tục lặp lại điều đó. Ông ấy là gì - giám thị trong hội nào đó cho người mù sao? Ông ấy liên tục lặp lại, "Nếu ông có mắt, nhìn đi." Ông ấy phải đang nói cho người thường, người có mắt. Nhưng sao có nhấn mạnh này vào, "Nếu ông có mắt, nhìn đi"? Ông ấy đang nói về mắt mà kĩ thuật này có thể cho bạn.
Nhìn vào mọi thứ bạn đi qua dường như đó là lần đầu tiên. Làm điều đó thành thái độ liên tục. Chạm mọi thứ dường như đó là lần đầu tiên. Cái gì sẽ xảy ra? Nếu bạn có thể làm điều này, bạn sẽ được tự do khỏi quá khứ của bạn. Gánh nặng, chiều sâu, dơ bẩn, kinh nghiệm đã tích luỹ - bạn sẽ được tự do khỏi chúng.
Mọi khoảnh khắc, di chuyển khỏi quá khứ. Không cho phép nó đi vào bên trong bạn; không cho phép nó được mang theo - bỏ nó. Nhìn vào mọi thứ dường như đó là lần đầu tiên. Đây là kĩ thuật lớn để giúp bạn được tự do khỏi quá khứ. Thế thì bạn thường xuyên trong hiện tại, và dần dần bạn sẽ có sự hấp dẫn với hiện tại. Thế thì mọi thứ sẽ là mới. Thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu câu nói của Heraclitus rằng bạn không thể bước hai lần vào cùng một dòng sông.
Bạn không thể thấy một người hai lần - cùng một người - vì không cái gì là tĩnh tại. Mọi thứ đều như dòng sông, chảy và chảy và chảy. Nếu bạn được tự do với quá khứ và bạn có cái nhìn mà có thể thấy hiện tại, bạn sẽ đi vào sự tồn tại. Và việc đi vào này sẽ là kép: bạn sẽ đi vào trong mọi thứ, vào trong tâm linh của nó, và bạn sẽ đi vào trong bản thân bạn nữa vì hiện tại là cánh cửa. Mọi cách thiền theo cách này cách khác đều cố làm cho bạn sống trong hiện tại. Cho nên kĩ thuật này là một trong những kĩ thuật hay nhất - và dễ. Bạn có thể thử nó, và không có nguy hiểm gì.
Nếu bạn có vẻ tươi tắn ngay cả khi đi qua cùng một phố lần nữa, nó là phố mới. Gặp cùng người bạn dường như người đó là người lạ, nhìn vào vợ bạn dường như bạn đã nhìn lần đầu tiên khi cô ấy là người lạ, bạn có thể thực sự nói rằng anh ấy hay cô ấy vẫn không là người lạ không? Bạn có thể đã sống trong hai mươi hay ba mươi năm với vợ bạn, nhưng bạn có thể nói rằng bạn quen với cô ấy không? Cô ấy vẫn là người lạ: các bạn là hai người lạ sống cùng nhau. Các bạn biết những thói quen bên ngoài của nhau, những phản ứng bên ngoài, nhưng cốt lõi bên trong của hiện hữu vẫn không được biết tới, không được chạm tới.
Lại nhìn tươi tắn, dường như đó là lần đầu tiên, và bạn sẽ thấy cùng người lạ. Không cái gì, không cái gì đã trở thành cũ; mọi thứ là mới. Điều này sẽ cho sự tươi tắn cho cái nhìn của bạn. Mắt bạn sẽ trở thành hồn nhiên. Những đôi mắt hồn nhiên đó có thể thấy. Những đôi mắt hồn nhiên đó có thể đi vào trong thế giới bên trong.
0 Đánh giá