Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 22. Con mắt thứ ba và quyền năng mắt siêu linh

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 22. Con mắt thứ ba và quyền năng mắt siêu linh

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 - Osho
Sách về các Bí mật: Bình luận mới
Chương 22. Con mắt thứ ba và quyền năng mắt siêu linh


Câu hỏi thứ nhất:
Xin thầy giải thích mối quan hệ của hai con mắt với con mắt thứ ba. Theo cách nào mà các kĩ thuật liên quan tới việc nhìn ảnh hưởng tới con mắt thứ ba?
Trước hết, hai điểm cần được hiểu. Một, năng lượng của con mắt thứ ba thực sự là hệt như năng lượng chuyển vào trong hai con mắt thường - cùng năng lượng đó. Nó bắt đầu chuyển vào trung tâm mới. Con mắt thứ ba đã có đó rồi, nhưng không hoạt động, và nó không thể nhìn được chừng nào những con mắt thường này chưa trở nên không thấy.
Cùng năng lượng đó phải chuyển vào trong nó. Khi năng lượng không chuyển trong hai con mắt, nó có thể chuyển vào con mắt thứ ba, và khi nó chuyển vào con mắt thứ ba, hai con mắt kia sẽ trở thành không thấy được. Chúng sẽ có đó, nhưng bạn sẽ không có khả năng thấy qua chúng. Năng lượng đó mà nhìn qua chúng sẽ vắng bóng; nó sẽ chuyển qua trung tâm mới. Trung tâm đó là ở giữa hai con mắt này. Nó đã có đó, đầy đủ; bất kì khoảnh khắc nào nó đều có thể hoạt động. Nhưng nó cần năng lượng để hoạt động, và cùng năng lượng đó phải được chuyển hướng.
Thứ hai, khi bạn đang nhìn qua hai con mắt, bạn đang nhìn qua thân thể vật lí. Con mắt thứ ba không thực sự là một phần của thân thể vật lí. Nó là một phần của thể thứ hai cái được ẩn kín - thể tinh tế, sukshma sharir. Nó có chỗ tương ứng trong thể vật lí, nhưng nó không là một phần của thể vật lí. Đó là lí do tại sao sinh lí học không thể tin được rằng có tồn tại con mắt thứ ba hay bất kì cái gì giống điều đó, vì xương sọ của bạn có thể được phân tích, được xuyên thấu, được chiếu tia x, và không có điểm nào, không có thực thể vật lí nào mà có thể được nói là con mắt thứ ba. Con mắt thứ ba là một phần của thể tinh tế, sukshma sharir.
Khi bạn chết thể vật lí của bạn chết, nhưng sukshma sharir của bạn, thể tinh tế của bạn, di chuyển cùng bạn; nó lấy việc sinh khác. Chừng nào thể tinh tế còn chưa chết, bạn không bao giờ có thể được tự do khỏi vòng sinh tử, tái sinh-tử. Vòng tròn này di chuyển liên tục.
Con mắt thứ ba thuộc vào thể tinh tế. Khi năng lượng đang chuyển qua thể vật lí, bạn đang nhìn qua con mắt vật lí. Đó là lí do tại sao qua con mắt vật lí bạn không thể nhìn vào bất kì cái gì khác hơn thứ vật lí, khác hơn vật chất. Hai con mắt là con mắt vật lí. Qua hai con mắt này bạn không thể nhìn vào bất kì cái gì, không thể thấy bất kì cái gì mà không phải là vật lí.
Chỉ với con mắt thứ ba vận hành bạn mới có thể đi vào chiều khác. Bây giờ bạn có thể thấy các thứ mà không thấy được bằng con mắt vật lí, nhưng thấy được bằng con mắt tinh tế. Thế thì, với con mắt thứ ba vận hành, nếu bạn nhìn vào một người, bạn nhìn vào linh hồn người đó, vào tâm linh của người đó, không vào thân thể người đó - cũng giống như bạn nhìn vào thân thể vật lí qua con mắt vật lí, nhưng bạn không thể thấy được linh hồn. Cùng điều này xảy ra khi bạn nhìn qua con mắt thứ ba: bạn nhìn và thân thể không có đó, chỉ thấy người cư ngụ bên trong thân thể này.
Nhớ hai điểm này. Thứ nhất, cùng năng lượng phải vận động. Nó phải được lấy đi khỏi mắt vật lí bình thường và được phép di chuyển qua con mắt thứ ba. Thứ hai, con mắt thứ ba không phải là một phần của thân thể vật lí. Nó là một phần của thể tinh tế, thể thứ hai mà ở bên trong. Vì nó là một phần của thể tinh tế, khoảnh khắc bạn có thể nhìn qua nó, bạn nhìn vào thế giới tinh tế. Bạn đang ngồi đây. Nếu một con ma đang ngồi đây bạn không thể thấy được nó, nhưng nếu con mắt thứ ba của bạn vận hành, bạn sẽ thấy con ma này, vì sự tồn tại tinh tế có thể được thấy chỉ qua con mắt tinh tế.
Làm sao con mắt thứ ba có liên quan tới kĩ thuật nhìn này? Nó có quan hệ sâu sắc. Thực sự, kĩ thuật này là để mở con mắt thứ ba. Nếu hai con mắt của bạn dừng hoàn toàn, nếu chúng trở thành không vận động, tĩnh tại, như đá, không có chuyển động nào trong hai con mắt này, năng lượng dừng chảy qua chúng. Nếu bạn dừng chúng lại, năng lượng dừng chảy qua chúng. Năng lượng vẫn chảy; đó là lí do tại sao chúng chuyển. Rung động, chuyển động, là vì năng lượng. Nếu năng lượng này không chuyển động, mắt bạn sẽ trở thành giống như mắt của người chết - như đá, chết.
Nhìn vào một chỗ, nhìn chăm chăm vào nó mà không cho phép mắt di chuyển đi bất kì chỗ nào khác, sẽ cho tính chất tĩnh tại. Đột nhiên năng lượng mà đã di chuyển qua hai mắt sẽ không di chuyển qua hai mắt này. Và năng lượng phải vận động; năng lượng không thể tĩnh tại. Mắt có thể tĩnh tại, nhưng năng lượng không thể tĩnh tại. Khi đôi mắt này bị đóng lại với năng lượng, nếu đột nhiên các cánh cửa này đóng lại là năng lượng không thể di chuyển qua những mắt này, nó cố tìm ra con đường mới. Và con mắt thứ ba ở ngay gần, ngay ở giữa hai lông mày, sâu một phân rưỡi. Nó ở ngay gần - điểm gần nhất.
Nếu năng lượng của bạn được xả ra từ những con mắt này, điều đầu tiên có thể xảy ra là ở chỗ nó sẽ chuyển qua con mắt thứ ba. Điều đó cũng dường như là nước đang chảy và bạn bịt lỗ lại: nó sẽ tìm lỗ khác - lỗ gần nhất mà có thể được tìm thấy với ít chống cự nhất. Nó sẽ tìm thấy chỗ đó một cách tự động; bạn không phải làm bất kì cái gì đặc biệt. Với những con mắt vật lí này, bạn chỉ phải dừng năng lượng không cho di chuyển qua chúng, và thế thì năng lượng sẽ tìm ra con đường riêng của nó và nó sẽ di chuyển qua con mắt thứ ba.
Việc di chuyển này qua con mắt thứ ba làm biến đổi bạn vào một thế giới khác. Bạn bắt đầu thấy những thứ bạn không bao giờ thấy, bạn bắt đầu cảm thấy những thứ bạn không bao giờ cảm, bạn bắt đầu ngửi thấy những thứ bạn không bao giờ ngửi. Một thế giới mới, thế giới tinh tế, bắt đầu vận hành. Nó đã có đó rồi. Con mắt này có đó; thế giới, thế giới tinh tế, đã có đó. Cả hai có đó, nhưng không được hiển lộ.
Một khi bạn vận hành trong chiều hướng đó, nhiều điều trở nên rõ ràng cho bạn. Chẳng hạn, nếu một người sắp chết, nếu con mắt thứ ba của bạn vận hành, bạn sẽ lập tức trở nên nhận biết rằng người đó sắp chết. Không phân tích vật lí, không chẩn đoán vật lí nào có thể nói một cách cách chắc chắn rằng người đó sẽ chết. Nhiều nhất, chúng ta có thể nói về xác suất. Chúng ta có thể nói có lẽ người đó sẽ chết, và phát biểu này sẽ có điều kiện: "Nếu như thế và như thế vẫn còn là hoàn cảnh, người đó có thể chết; nếu cái gì đó có thể được làm người đó có thể không chết."
Chẩn đoán y tế chưa thể chắc chắn được về chết. Tại sao? Nhiều phát triển thế vậy mà nhiều bất định thế về chết! Thực sự, y học đang cố thu cái chết lại, can thiệp vào chết, qua các triệu chứng vật lí, và chết là hiện tượng tinh tế, không vật lí. Nó là hiện tượng không thấy được của một chiều khác. Nhưng với con mắt thứ ba vận hành, bạn đột nhiên cảm thấy rằng một người sắp chết. Làm sao bạn cảm thấy điều đó? Chết có tác động. Nếu một người sắp chết, thế thì chết đã thả cái bóng của nó ở đó, và cái bóng đó có thể được cảm thấy bằng con mắt thứ ba bất kì lúc nào.
Khi đứa trẻ được sinh ra, những người đã có nhiều thực hành sâu dùng con mắt thứ ba có thể thấy thời gian chết của nó chính khoảnh khắc đó. Nhưng thế thì cái bóng này rất tinh tế. Khi một người sắp chết trong sáu tháng, thế thì bất kì người nào có con mắt thứ ba vận hành một chút đều có thể thấy cái chết sáu tháng trước khi nó tới. Cái bóng đen lại. Thực sự, quanh bạn cái bóng đen đọng lại và điều đó có thể được cảm thấy, nhưng không bằng hai con mắt này.
Với con mắt thứ ba, bạn bắt đầu thấy hào quang. Một người tới bạn; người đó không thể lừa được bạn, vì bất kì cái gì người đó nói đều vô nghĩa chừng nào nó không tương ứng với hào quang của người đó. Người đó có thể nói người đó là người không bao giờ nổi giận, nhưng hào quanh đỏ sẽ chỉ ra rằng người đó bị chất đầy với giận. Người đó không thể lừa được khi có liên quan tới hào quang của người đó, vì người đó hoàn toàn vô nhận biết về hào quang. Bất kì cái gì người đó nói đều có thể được phán xét qua hào quang của người đó, liệu nó là đúng hay sai. Với con mắt thứ ba bạn bắt đầu thấy phát xạ, hào quang.
Vào thời xưa, đó là cách ai đó được khai tâm. Chừng nào hào quang chưa đúng, thầy sẽ đợi, vì việc hoàn thành ước muốn của bạn không phải là vấn đề. Bạn có thể đã muốn được khai tâm, nhưng điều đó là không đủ chừng nào hào quang của bạn chưa nói rằng bạn đã sẵn sàng. Cho nên trong nhiều năm đệ tử phải đợi cho tới khi hào quang sẵn sàng; điều đó không liên quan gì tới ham muốn của người đó được khai tâm - ham muốn đó là vô tích sự. Đôi khi người ta phải đợi ngay cả trong nhiều kiếp.
Chẳng hạn, Phật cưỡng lại cám dỗ khai tâm cho đàn bà trong nhiều năm. Nhiều sức ép thế dồn lên ông ấy; dầu vậy ông ấy đã bác bỏ điều này. Chung cuộc ông ấy đồng ý khai tâm cho đàn bà, nhưng thế rồi ông ấy nói, "Bây giờ tôn giáo của ta sẽ không sống sau năm trăm năm; ta đã thoả hiệp. Nhưng vì các bà đang ép ta, ta sẽ khai tâm cho đàn bà."
Lí do gì mà tại sao ông ấy không khai tâm cho đàn bà? Một lí do cơ bản là thế này: với đàn ông, năng lượng dục có thể được điều tiết rất dễ dàng. Đàn ông có thể trở nên vô dục rất dễ dàng. Với thân thể đàn bà điều đó là khó vì kinh nguyệt là hiện tượng đều đặn - vô ý thức, không kiểm soát được, không tự nguyện. Xuất tinh có thể được kiểm soát, nhưng kinh nguyệt không thể bị kiểm soát. Hay, nếu người ta cố kiểm soát nó, thế thì nó sẽ có tác động rất xấu lên thân thể.
Khoảnh khắc đàn bà đi vào thời kì kinh nguyệt, hào quang của cô ấy thay đổi hoàn toàn: nó trở nên có tính dục, cáu bẳn, suy nhược, mọi thứ là tiêu cực bao quanh người đàn bà, và điều này xảy ra mọi tháng. Chỉ bởi vì điều này Phật đã không sẵn sàng khai tâm cho đàn bà. Ông ấy nói rằng điều đó là khó vì mọi tháng kinh nguyệt chuyển theo vòng tròn, theo chu kì, và không cái gì có thể được làm một cách tự nguyện. Cái gì đó có thể được làm, nhưng điều đó là khó làm vào thời của Phật. Bây giờ thì nó có thể được làm.
Mahavir từ chối hoàn toàn bất kì khả năng nào về đàn bà được giải thoát khỏi thân thể đàn bà. Ông ấy nói rằng đàn bà phải được sinh ra lần nữa là đàn ông, và chỉ thế thì cô ấy mới có thể được giải thoát. Cho nên mọi nỗ lực phải được chuyển kênh cho đàn bà để đi vào việc sinh mới là đàn ông. Tại sao? Đó là vấn đề về hào quang.
Nếu bạn khai tâm cho đàn bà, mọi tháng cô ấy sẽ tụt xuống và toàn thể nỗ lực sẽ bị mất. Không có phân biệt, không có đánh giá về liệu đàn bà và đàn ông có bình đẳng nhau không; điều đó không phải là vấn đề. Nhưng với Mahavir vấn đề là thế này: làm sao giúp đỡ? Cho nên ông ấy đã tìm ra cách dễ dàng hơn: giúp cho đàn bà được tái sinh là đàn ông. Điều đó dễ dàng hơn. Điều đó ngụ ý rằng đàn bà phải đợi một kiếp khác, và toàn thể nỗ lực phải được hướng tới mục đích rằng cô ấy sẽ được sinh ra trong thân thể nam.
Điều này dường như là dễ với Mahavir hơn là khai tâm cho đàn bà, vì mọi tháng cô ấy quay lại trạng thái nguyên gốc và mọi nỗ lực bị mất. Nhưng hai nghìn năm này đã làm nhiều điều. Đặc biệt, Mật Tông đã làm nhiều.
Mật Tông đã tìm ra những cánh cửa khác, và Mật Tông là hệ thống duy nhất trên thế giới không tạo ra khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Thay vì thế, ngược lại, nó nói rằng đàn bà có thể dễ dàng trở nên được giải thoát hơn, và lí do là cũng vậy thôi, chỉ được nhìn từ một góc độ khác. Mật Tông nói rằng vì thân thể đàn bà được điều chỉnh theo chu kì, cô ấy có thể tách rời bản thân cô ấy khỏi thân thể cô ấy dễ dàng hơn đàn ông. Vì tâm trí đàn ông được tham gia nhiều hơn trong thân thể, đó là lí do tại sao anh ta có thể điều tiết nó. Tâm trí đàn ông được tham gia nhiều hơn vào trong thân thể; đó là lí do tại sao anh ta có thể kiểm soát được dục của mình.
Tâm trí đàn bà không được tham gia đến thế vào thân thể. Thân thể vận hành như cái máy tự động - khác biệt, trên một tầng khác biệt, và đàn bà không thể làm được gì về nó. Nó giống như cái máy tự động; nó cứ diễn ra. Mật Tông nói rằng vì điều này đàn bà có thể tách rời bản thân cô ấy khỏi thân thể cô ấy rất dễ dàng. Và nếu điều này trở thành có thể - việc tách rời này, kẽ hở này - thế thì không có vấn đề gì.
Cho nên đó là điều rất ngược đời: nếu đàn bà quyết định là vô dục và tách rời bản thân cô ấy khỏi thân thể cô ấy, cô ấy có thể duy trì sự thuần khiết của cô ấy dễ dàng hơn đàn ông. Một khi tách rời có đó, thế thì cô ấy có thể quên thân thể hoàn toàn. Đàn ông có thể tách rời bản thân anh ta rất dễ dàng, có thể kiểm soát rất dễ dàng, nhưng tâm trí anh ta bị tham gia nhiều hơn vào trong thân thể. Đó là lí do tại sao anh ta có thể kiểm soát, nhưng thế thì anh ta sẽ phải kiểm soát mọi ngày, liên tục. Và vì dục nữ tính là thụ động, rất dễ cho đàn bà được thảnh thơi về dục. Dục của đàn ông là chủ động. Dễ cho anh ta kiểm soát nó, nhưng khó cho anh ta thảnh thơi về nó.
Cho nên Mật Tông đã cố gắng tìm ra nhiều, nhiều cách, và Mật Tông là hệ thống duy nhất nói không có khác biệt, rằng ngay cả cấu trúc nữ tính cũng có thể được dùng. Cho nên Mật Tông là con đường duy nhất đem cho đàn bà trạng thái bình đẳng. Ngoài ra, mọi tôn giáo, dù nó có thể nói bất kì cái gì, sâu bên dưới nó vẫn cảm thấy rằng đàn bà là kém cỏi. Đó có thể là Ki tô giáo, đó có thể là Hồi giáo, đó có thể là Jaina giáo, đó có thể là Phật giáo, nhưng sâu bên dưới họ cảm thấy điều này, và lí do là việc chẩn đoán qua con mắt thứ ba, hào quang - việc hình thành hào quang mọi tháng vào thời gian kinh nguyệt.
Với con mắt thứ ba bạn trở nên có khả năng thấy những thứ có đó, nhưng không thể thấy được bằng mắt thường. Mọi phương pháp về việc nhìn ảnh hưởng tới con mắt thứ ba, vì nhìn ngụ ý năng lượng nào đó di chuyển ra ngoài từ bạn hướng tới thế giới. Nếu bị chặn lại, nếu đột nhiên bị chặn lại, năng lượng này sẽ tìm con đường khác, và con mắt thứ ba ở ngay gần.
Ở Tây Tạng thậm chí đã có giải phẫu về con mắt thứ ba. Đôi khi chuyện xảy ra là con mắt thứ ba của bạn bị chắn lại vì bạn đã không dùng nó trong hàng nghìn năm. Nếu con mắt thứ ba bị chắn lại và bạn dừng mắt của bạn, bạn sẽ cảm thấy sự không thoải mái nào đó vì năng lượng có đó và không có đường để chuyển đi. Ở Tây Tạng họ đã phát minh ra cách nào đó để làm lối chuyển được khai thông. Điều này có thể được làm. Và nếu nó không được làm, thế thì nhiều thứ có thể xảy ra.
Mới hai hay ba ngày trước, một sannyasin - cô ấy ở đây - đã tới tôi. Cô ấy nói, "Có cảm giác rất nóng ở con mắt thứ ba." Và không chỉ có cảm giác đó, da đã trở nên bị bỏng dường như ai đó đã làm bỏng nó từ bên ngoài. Cảm giác này, việc bỏng, là ở bên trong, nhưng da bị ảnh hưởng. Nó đã trở nên hoàn toàn bị bỏng. Cô ấy sợ - cái gì đã xảy ra? Cảm giác là dễ chịu, hơi ấm là rất dễ chịu dường như cái gì đó đang tan ra. Cái gì đó đã xảy ra, nhưng ngay cả thân thể vật lí đã trở nên bị ảnh hưởng, dường như lửa thực đã chạm vào nó.
Lí do? Con mắt thứ ba đã bắt đầu vận hành, năng lượng bắt đầu chuyển trong nó. Nó đã từng lạnh trong nhiều kiếp rồi; năng lượng không bao giờ chuyển qua nó. Khi lần đầu tiên năng lượng chuyển tới, có hơi ấm. Khi lần đầu tiên năng lượng chuyển tới, có cảm giác bỏng. Và bởi vì chỗ chuyển phải được tạo ra và bị ép buộc, nó có thể trở thành giống như lửa. Nó là năng lượng được tập trung nện vào con mắt thứ ba.
Ở Ấn Độ chúng ta đã từng dùng bột gỗ đàn hương và những thứ khác, bơ và những thứ khác, để lên chỗ con mắt thứ ba. Chúng ta gọi biểu hiện này là tilak. Nó được đặt ngay chỗ con mắt thứ ba để cho sự mát mẻ nào đó từ bên ngoài. Cho nên nếu hơi ấm tới từ bên trong và lửa di chuyển bên trong, nó sẽ không ảnh hưởng tới da bên ngoài. Không chỉ da có thể bị bỏng bởi nó, đôi khi thậm chí lỗ hổng đã xuất hiện trên xương sọ.
Tôi đã đọc một trong những cuốn sách sắc sảo nhất về một trong những điều huyền bí rất sâu của sự tồn tại con người trên trái đất. Đã từng có những đề xuất rằng con người tới từ ngôi sao khác nào đó, vì dường nhưng không có khả năng nào để con người đột nhiên được tiến hoá trên trái đất. Dường như là không có khả năng nào về thực tại rằng con người có thể đã tiến hoá từ khỉ đầu chó hay vượn. Và đã không có móc nối, vì nếu con người được tiến hoá từ vượn thành người, phải có móc nối - cái gì đó ở giữa con người và vượn - nhưng không có thứ như vậy. Với mọi dữ liệu và khám phá sẵn có, chúng ta vẫn chưa tìm ra một cấu trúc thân thể, xương sọ hay bất kì cái gì, mà chúng ta có thể nói là móc nối giữa vượn và người.
Tiến hoá có nghĩa là các bước. Vượn không thể đột nhiên thành người được - các giai đoạn phải đã được tuân theo. Nhưng không có bằng chứng, cho nên lí thuyết của Darwin vẫn còn là giả thuyết. Không có các móc nối ở giữa.
Cho nên bao giờ cũng có những đề xuất kì lạ rằng con người phải đã xuất hiện trên trái đất một cách bất thần. Một xương sọ người có từ thời trước rất xa, hàng trăm nghìn năm trước, đã được tìm thấy. Nhưng so sánh với các sọ khác không có gì thiếu trong nó. Nó là cùng kiểu sọ, với cùng não, với cùng cấu trúc. Chúng ta đã không thực sự tiến hoá khi có liên quan tới cấu trúc tâm trí.
Cho nên dường như con người đột nhiên xuất hiện trên trái đất. Con người phải đã tới từ hành tinh khác nào đó. Chẳng hạn, bây giờ chúng ta du hành trong không gian, và nếu chúng ta thấy hành tinh nào đó đáng sống, chúng ta sẽ đưa dân tới ở đó; thế thì đột nhiên con người sẽ xuất hiện ở đó. Tôi đã đọc một cuốn sách về một đề xuất như vậy, và tác giả đã tìm thấy nhiều điều để giúp cho giả thuyết của ông ấy.
Có một điều tôi muốn nói cho bạn có kết nối với chuyện nhìn này. Ông ấy đã tìm thấy một hộp sọ ở Mexico và một hộp sọ ở Tây Tạng. Cả hai hộp sọ này đều có lỗ hổng ở chỗ con mắt thứ ba, và các lỗ hổng là tới mức chúng chỉ có thể được tạo ra bằng đạn súng. Các hộp sọ này ít nhất cũng nửa triệu tới một triệu tuổi. Nếu các lỗ hổng mà được tạo ra bởi mũi tên, chúng không thể tròn được. Chúng tròn tới mức chúng không thể đã được tạo ra bởi mũi tên; chỉ viên đạn mới có thể tạo ra được lỗ như vậy. Cho nên tác giả đó cố chứng minh bằng điều này rằng đạn đã tồn tại một triệu năm trước. Bằng không làm sao hai người này đã bị giết?
Nhưng thực sự, điều đó không chứng minh được cái gì về đạn. Bất kì khi nào con mắt thứ ba bị chắn hoàn toàn và năng lượng di chuyển bất thần, lỗ này có thể xuất hiện. Năng lượng cũng giống như viên đạn tới từ bên trong - cũng giống như viên đạn. Nó là lửa được tập trung; nó sẽ tạo ra lỗ hổng.
Hai cái sọ kia với lỗ không chứng tỏ rằng những người đó đã bị giết bởi đạn, nhưng đơn giản là đã có hiện tượng con mắt thứ ba. Con mắt thứ ba bị chắn hoàn toàn; năng lượng trở nên được tập trung. Các mắt đã bị dừng hoàn toàn; năng lượng không thể vận động, và nó trở thành lửa. Thế thì nó bùng nổ. Chính vì vậy chắc đã không có ngẫu nhiên thế, ở Tây Tạng họ đã khám phá và phát minh ra những phương pháp để tạo ra lỗ hổng sao cho năng lượng có thể di chuyển dễ dàng.
Cho nên bất kì khi nào bạn thử việc nhìn này, nhớ điều này: nếu bạn cảm thấy cảm giác bỏng rát, đừng sợ. Nhưng nếu bạn cảm thấy rằng năng lượng đã trở thành lửa lớn dường như viên đạn sống có đó và muốn xuyên thấu hộp sọ - dừng phương pháp này lại và tới tôi ngay lập tức. Đừng làm nó thêm nữa. Nếu bạn cảm thấy dường như viên đạn có đó và nó muốn xuyên thấu xương sọ, dừng lại. Mở mắt ra và chuyển động chúng nhiều nhất có thể được. Lập tức cảm giác này sẽ mất đi, năng lượng sẽ phải di chuyển qua mắt. Và chừng nào tôi chưa nói cái gì đó cho bạn, đừng tiến hành gì, vì đôi khi chuyện xảy ra là hộp sọ bị vỡ.
Không cái gì sai cho dù điều đó xảy ra. Cho dù người ta chết trong việc đó, không cái gì sai, vì người ta đã đạt tới cái gì đó ở bên ngoài chết. Nhưng chỉ để an toàn, dừng lại bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì sai có thể xảy ra - với bất kì phương pháp nào, không chỉ với phương pháp này. Với bất kì phương pháp nào, nếu bạn cảm thấy cái gì đó sai là có thể, dừng lại.
Ở Ấn Độ bây giờ, nhiều phương pháp đang được dạy và nhiều, nhiều người tìm kiếm chịu đựng một cách không cần thiết, vì những người dạy thậm chí không nhận biết về các nguy hiểm. Và những người đi theo, họ đi theo một cách mù quáng. Họ không biết họ đang đi đâu hay họ đang làm gì.
Tôi đang nói về một trăm mười hai phương pháp này đặc biệt vì điều này - để cho bạn trở nên nhận biết về mọi phương pháp, mọi khả năng, những nguy hiểm, và do vậy bạn có thể tìm ra phương pháp nào là phù hợp nhất với bạn. Thế thì nếu bạn tiến hành bất kì phương pháp nào, bạn sẽ đầy nhận biết về điều có thể xảy ra, điều bạn phải nhận biết tới, và khi nào cái gì đó xảy ra cho bạn, bạn phải xử trí nó thế nào.
Câu hỏi thứ hai:
Điều được quan sát thấy là những người thực hành khoa học siêu linh có con mắt căng thẳng và sợ hãi. Xin thầy giải thích điều này chỉ ra cái gì và làm sao vượt qua hiện tượng này.
Những người thực hành thôi miên, mê hoặc, quyến rũ, hay những thứ kiểu thế này sẽ có mắt rất căng thẳng - hiển nhiên, vì họ đang cố chuyển năng lượng của họ qua mắt một cách cưỡng bức. Họ đang đem toàn thể năng lượng của họ tới gần mắt chỉ để ảnh hưởng, gây ấn tượng hay chi phối người nào đó. Mắt của họ sẽ trở thành căng thẳng vì thế thì mắt của họ bị ngập năng lượng, nhiều hơn là chúng có thể chịu đựng. Mắt của họ sẽ đỏ, căng thẳng, và nếu bạn nhìn vào chúng bạn sẽ cảm thấy sự run rẩy bất thần: họ đang dùng mắt của họ theo cách rất chính trị. Nếu họ nhìn bạn, họ đang gửi năng lượng của họ để chi phối bạn. Và qua mắt, việc chi phối rất dễ dàng.
Đây đã là hoàn cảnh với Rasputin, người đã chi phối nước Nga, trước Lenin, chỉ qua mắt của ông ấy. Ông ấy là một nông dân bình thường, vô giáo dục, nhưng có đôi mắt rất từ lực, và ông ấy đi tới biết cách dùng điều này. Khoảnh khắc ông ấy nhìn bạn, bạn sẽ quên mất bản thân bạn, và trong khoảnh khắc đó ông ấy có thể gửi bất kì gợi ý nào cho bạn theo cách viễn cảm và bạn sẽ tuân theo nó. Đó là cách ông ấy đã chi phối Sa hoàng Czar và nữ sa hoàng Czarina, gia đình hoàng gia, và qua họ, toàn thể nước Nga. Không cái gì có thể được thực hiện mà không có ý chí của ông ấy.
Bạn cũng có thể có những con mắt đó; điều đó không khó. Bạn chỉ phải học cách đem toàn bộ năng lượng thân thể của bạn tới mắt. Chúng trở nên bị ngập lụt, và thế rồi, bất kì khi nào bạn nhìn vào ai đó năng lượng của bạn bắt đầu chảy tới người đó. Nó bao bọc người này, xuyên thấu vào tâm trí người này, và trong cơn sốc ngập lụt này, suy nghĩ của người này dừng lại. Và điều này không phải là điều rất hiếm hoi xảy ra với con người, nó xảy ra trên khắp vương quốc loài vật. Có nhiều con vật chỉ nhìn vào con mồi của chúng, và nếu con mồi nhìn vào chúng, con mồi bị đơ người ra. Thế thì mắt của con mồi trở thành cố định; nó không thể di chuyển được, nó không thể thoát được.
Những người thợ săn biết rõ điều này, và thợ săn phát triển đôi mắt rất mạnh mẽ, họ bao giờ cũng đi tìm con vật trong bóng tối. Mắt họ trở thành mạnh mẽ. Kẻ cắp và thợ săn dần dần thu được nhiều năng lượng hơn trong mắt họ một cách tự động, vì công việc của họ.
Đột nhiên một con sư tử tới trước thợ săn, và anh ta không có vũ khí nào và anh ta không thể làm được bất kì cái gì. Thế thì đây là điều bao giờ cũng được làm: thợ săn có thể nhìn chằm chằm vào mắt sư tử, và bây giờ sự việc sẽ tuỳ thuộc vào liệu anh ta có con mắt từ lực nhiều hơn hay sư tử có. Nếu sư tử ít từ lực hơn và thợ săn có thể mang toàn bộ năng lượng của mình vào mắt mình... Và điều đó là dễ dàng, anh ta có thể làm điều này, vì khi chết có đó người ta có thể làm bất kì cái gì. Khi chết có đó thợ săn có thể đưa toàn bộ năng lượng của mình đang lâm nguy ra. Nếu thợ săn có thể nhìn thẳng vào mắt sư tử và quên đi mọi thứ và chỉ nhìn, nếu anh ta có thể chỉ trở thành cái nhìn, thế thì toàn thể năng lượng sẽ chuyển từ mắt anh ta và sư tử sẽ trốn đi. Nó sẽ run rẩy với sợ hãi.
Qua mắt bạn có thể làm cho toàn thể năng lượng của bạn gây ra ngập lụt, nhưng khi bạn làm điều đó mắt bạn sẽ căng thẳng: bạn sẽ không có khả năng ngủ, bạn sẽ không có khả năng thảnh thơi. Cho nên những người đang cố chi phối người khác sẽ bồn chồn. Nếu bạn nhìn vào mặt họ, mắt họ sẽ sống động, nhưng mặt họ sẽ chết. Nhìn vào bất kì người thôi miên nào mà xem: mắt người đó sẽ rất sống động, nhưng mặt người đó sẽ chết, vì mắt người đó đang hút toàn thể năng lượng và không cái gì còn lại ở bất kì chỗ nào khác.
Đừng làm điều này vì chi phối bất kì người nào là vô dụng. Điều hữu dụng duy nhất là chi phối bản thân bạn. Chi phối người khác là vô dụng, phí năng lượng của bạn. Không cái gì được đạt tới qua nó - chỉ một cảm giác bản ngã rằng bạn có thể chi phối. Cho nên điều này là nghệ thuật hắc ám, ác. Đó là khác biệt giữa pháp thuật đen và pháp thuật trắng. Pháp thuật đen nghĩa là dùng năng lượng của bạn, làm phí hoài nó, trong chi phối người khác. Pháp thuật trắng nghĩa là dùng cùng phương pháp, nhưng dùng năng lượng của bạn trong chi phối cuộc sống riêng của bạn, trở thành người chủ của bản thân bạn.
Và nhớ, đôi khi những thứ tương tự xảy ra... Nếu vị phật đi giữa các bạn, các bạn sẽ bị chi phối bởi ông ấy, mặc dầu ông ấy không chi phối bạn. Ông ấy không cố chi phối bạn, nhưng bạn sẽ bị chi phối vì ông ấy là người chủ của bản thân ông ấy. Và ông ấy là người chủ tới mức mọi người quanh ông ấy, bất kì ai đi quanh, sẽ trở thành nô lệ. Nhưng không có nỗ lực có ý thức về phần ông ấy. Thay vì thế, ngược lại, ông ấy sẽ liên tục nhấn mạnh, "Là người chủ riêng của ông - nhớ điều này." Và việc nhấn mạnh này là vì tri thức này.
Phật biết rằng bất kì người nào tới quanh ông ấy sẽ trở thành nô lệ. Ông ấy không làm bất kì cái gì; ông ấy không cố chi phối bất kì người nào, nhưng ông ấy biết điều này sẽ xảy ra. Lời cuối cùng khi ông ấy sắp chết là, "Là ánh sáng chiếu lên bản thân ông." Ông ấy sắp chết, và Ananda hỏi ông ấy, một ngày trước cái chết thực tại của ông ấy, "Khi thầy sẽ không còn nữa, chúng tôi sẽ làm gì?" Ông ấy nói, "Điều tốt là ta sẽ không còn nữa. Thế thì ông có thể là người chủ riêng của ông. Là ánh sáng chiếu lên bản thân ông; quên ta đi. Điều đó là tốt, vì khi ta không còn nữa ông sẽ được tự do khỏi chi phối của ta."
Những người cố chi phối người khác sẽ cố theo mọi cách để làm ra nô lệ từ bạn. Điều đó là ác, quỉ. Những người trở thành người chủ riêng của họ sẽ giúp bạn trở thành người chủ, và họ sẽ cố gắng theo mọi cách để cắt bỏ ảnh hưởng của họ. Điều đó có thể được làm theo nhiều cách.
Chẳng hạn, tôi sẽ kể một sự vụ gần đây. Ouspensky, đại đệ tử của Gurdjieff, đã làm việc dưới Gurdjieff trong mười năm. Rất khó làm việc dưới Gurdjieff. Ông ấy là con người của từ lực vô hạn. Bất kì người nào tới quanh ông ấy đều sẽ bị kéo vào.
Với người như vậy, hoặc bạn bị kéo hoặc bạn trở nên sợ và đi ngược lại họ, nhưng bạn không thể vẫn còn dửng dưng. Bạn hoặc ủng hộ hoặc chống lại; bạn không thể dửng dưng với người như vậy. Và việc chống lại chỉ là biện pháp an toàn. Nếu bạn đi quanh một người có từ lực, hoặc bạn sẽ trở thành nô lệ cho người đó hoặc, chỉ để bảo vệ bản thân bạn, bạn sẽ trở thành kẻ thù, vì đó là việc bảo vệ.
Ouspensky tới ông ấy, ở lại với ông ấy, làm việc cùng ông ấy, và đã không có tri thức lí thuyết nào được truyền đạt. Ông ấy là con người của hành động. Ông ấy sẽ cho kĩ thuật, và người ta phải làm việc. Thế rồi Ouspensky đã đạt tới việc kết tinh nào đó. Ông ấy trở thành con người được tích hợp; ông ấy được biến đổi. Ông ấy chưa chứng ngộ đầy đủ, nhưng ông ấy không ngủ say như chúng ta. Ông ấy ở giữa, ngay trên bờ miệng.
Khi bạn cảm thấy rằng buổi sáng là gần, khi bạn bắt đầu lắng nghe tiếng động báo hiệu buổi sáng là gần, bạn đang ngủ, nhưng không ngủ một cách toàn bộ. Giấc ngủ ngay trên bờ việc ra đi. Bạn chưa thức, bạn có thể rơi lại vào trong giấc ngủ. Bạn ở ngay trên bề mặt, ngay gần việc thức tỉnh.
Và khi Ouspensky ở ngay gần việc thức tỉnh, ông ấy nghĩ rằng bây giờ Gurdjieff sẽ giúp ông ấy nhiều hơn vì đây là khoảnh khắc. Nhưng đột nhiên Gurdjieff bắt đầu cư xử theo cách kì lạ tới mức Ouspensky phải bỏ đi. Gurdjieff thình lình làm các cách thức kì lạ với Ouspensky, làm những điều ngớ ngẩn, mâu thuẫn, vô nghĩa - trên bề mặt - tới mức Ouspensky phải rời bỏ ông ấy theo ý kiến riêng của mình.
Gurdjieff không bao giờ bảo ông ấy ra đi. Theo ý kiến riêng của mình, ông ấy đã bỏ Gurdjieff, chống lại thầy, nói rằng thầy đã phát điên. Ông ấy bắt đầu dạy, và ông ấy bao giờ cũng nói, "Tôi dạy theo Gurdjieff, thầy giáo của tôi, nhưng bây giờ thầy điên rồi." Ông ấy sẽ nói, "Theo Gurdjieff thời trước..." Ông ấy sẽ không nói về Gurdjieff thời sau.
Nhưng lí do căn bản tại sao Gurdjieff đã làm điều này là từ bi sâu sắc. Đó là khoảnh khắc mà Ouspensky phải được bỏ lại một mình; bằng không ông ấy chắc đã trở thành người phụ thuộc thường xuyên. Khoảnh khắc tới khi ông ấy phải bị tống ra, và theo cách như vậy mà ông ấy không bao giờ trở nên nhận biết rằng ông ấy đã bị tống ra một cách có ý thức.
Những người như vậy như Phật hay Gurdjieff sẽ tác động tới bạn mà không có nỗ lực có ý thức của họ và bạn sẽ bị kéo hướng tới họ. Nhưng họ sẽ cố bằng mọi cách để bạn không bị kéo theo cách đó: rằng bạn không bị hấp dẫn một cách thôi miên, rằng bạn không bị họ chi phối. Và họ sẽ giúp để làm cho bạn thành người chủ, đứng trên đôi chân riêng của bạn.
Những người đang cố chi phối người khác, mắt của họ sẽ căng thẳng, ác ý. Bạn sẽ không cảm thấy bất kì hồn nhiên nào trong mắt họ, bạn sẽ không cảm thấy sự thuần khiết trong mắt họ. Bạn sẽ cảm thấy sự hấp dẫn, nhưng sự hấp dẫn đó sẽ giống như rượu cồn. Bạn sẽ cảm thấy sức kéo từ lực, nhưng sức kéo đó sẽ không làm cho bạn tự do mà làm cho bạn thành nô lệ.
Nhớ, đừng bao giờ dùng bất kì năng lượng nào để chi phối bất kì người nào. Vì điều này, Phật, Mahavir, Jesus, họ làm điều đó thành vấn đề, và họ liên tục nện, rằng khoảnh khắc bạn đi vào tìm kiếm tâm linh, được rót đầy bằng yêu với mọi người, ngay cả với kẻ thù của bạn - vì nếu bạn được rót đầy bằng yêu bạn sẽ không bị hấp dẫn tới bạo hành bên trong cái muốn chi phối.
Chỉ yêu có thể trở thành thuốc giải độc. Bằng không khi năng lượng tới với bạn và bạn bị ngập tràn với nó, bạn sẽ bắt đầu chi phối. Việc này xảy ra mọi ngày. Tôi bắt gặp nhiều, nhiều người... Tôi bắt đầu giúp họ, họ sẽ trưởng thành một chút, và khoảnh khắc họ cảm thấy rằng năng lượng nào đó đang tới cho họ, họ sẽ bắt đầu chi phối người khác, bây giờ họ sẽ cố dùng nó.
Nhớ, đừng bao giờ dùng năng lượng tâm linh để chi phối. Bạn làm phí hoài nỗ lực của bạn. Sớm hay muộn bạn sẽ lại trống rỗng, và bạn sẽ rơi xuống bất thần. Và đây là phí hoài thuần tuý, nhưng rất khó kiểm soát nó vì bạn trở nên nhận biết rằng bây giờ bạn có thể làm được những điều nào đó. Nếu bạn chạm vào ai đó người bị ốm và người đó trở nên ổn thoả, làm sao bạn kháng cự được việc chạm người khác bây giờ? Làm sao bạn kháng cự lại được?
Nếu bạn không thể kháng cự lại được, bạn sẽ làm phí hoài năng lượng của bạn. Cái gì đó đã xảy ra cho bạn, nhưng bạn sẽ sớm vứt nó đi một cách không cần thiết. Và thực sự, tâm trí là tinh ranh tới mức bạn có thể nghĩ rằng bạn đang giúp người khác bằng việc chữa lành cho họ. Điều đó có thể chỉ là thủ đoạn tinh ranh của tâm trí, vì nếu bạn không có tình yêu, làm sao bạn có thể quan tâm thế tới bệnh tật của người khác, ốm yếu của họ, sức khoẻ của họ? Bạn không bận tâm.
Thực sự, bây giờ đây là quyền năng. Nếu bạn có thể chữa lành, bạn có thể chi phối họ.
Bạn có thể nói, "Tôi chỉ giúp họ thôi mà," nhưng ngay cả trong việc giúp của bạn, bạn đơn giản cố chi phối họ. Bản ngã của bạn sẽ được đáp ứng. Điều này sẽ trở thành thức ăn cho bản ngã của bạn. Cho nên mọi lời bình cổ đều nói cảnh giác. Họ nói cảnh giác bởi vì khi năng lượng tới với bạn, bạn đang ở điểm nguy hiểm. Bạn có thể làm phí hoài nó, bạn có thể vứt nó đi. Khi bạn cảm thấy bất kì năng lượng nào, làm nó thành điều bí mật; không cho phép bất kì người nào biết về nó.
Jesus nói, "Nếu tay phải của ông đang làm cái gì đó, đừng cho phép tay trái biết về điều đó." Trong truyền thống huyền bí Sufi, họ nói rằng khi năng lượng bắt đầu tới, thậm chí đừng cầu nguyện trước người khác, đừng đi tới nhà thờ hồi giáo cùng người khác. Tại sao? Khi năng lượng tới và ai đó đang cầu nguyện, và có nhiều người hiện diện, họ sẽ ngay lập tức cảm thấy rằng cái gì đó đang xảy ra. Cho nên người Sufis nói rằng thế thì bạn nên làm lời cầu nguyện của bạn khuya trong đêm - vào nửa đêm - khi mọi người đang ngủ và không ai có thể nhận biết về điều đang xảy ra cho bạn. Đừng nói cho bất kì ai cái gì đang xảy ra cho bạn.
Nhưng tâm trí chỉ là đồ huyên thuyên. Nếu cái gì đó xảy ra, lập tức bạn sẽ đi và khoe khoang tin tốt lành rằng cái gì đó đã xảy ra cho bạn. Thế thì bạn đã làm phí hoài nó. Và nếu mọi người bị ấn tượng, thế thì mọi thứ bạn thu được là ý kiến tốt của họ và không gì khác. Đây không phải là mặc cả tốt. Đợi đã! Một khoảnh khắc sẽ tới khi năng lượng của bạn trở nên được tích luỹ; nó đạt tới điểm mà nó trở nên được tích hợp, được biến đổi. Thế thì mọi sự sẽ xảy ra quanh bạn mà không có việc làm bất kì cái gì của bạn. Và chỉ thế thì bạn mới có thể giúp được người khác là người chủ riêng của họ - khi bạn là người chủ riêng của bạn.
Tôi nhớ tới một nhà huyền bí Sufi, Junnaid. Một hôm một người tới ông ấy và người này nói, "Junnaid, thưa thầy, thầy vĩ đại, tôi đã đi tới biết thầy có bí mật bên trong. Mọi người nói thầy có bí mật vàng và rằng thầy đã không kể nó cho bất kì ai mãi cho tới giờ. Tôi sẽ làm bất kì cái gì thầy nói, nhưng nói cho tôi bí mật đó đi." Junnaid nói, "Ta đã từng giữ nó, che giấu nó, trong ba mươi năm, cho nên ông có thể đợi được bao lâu? Ông sẽ phải trải qua việc chuẩn bị. Nó là bí mật ba mươi năm nhưng ta sẽ kể nó cho ông. Nhưng ông sẽ giữ kiên nhẫn được bao lâu?"
Người này trở nên sợ, hoảng hốt. Người này nói, "Thầy gợi ý bao lâu?" Junnaid nói, "Ít nhất ba mươi năm. Nó không quá nhiều đâu, ta không đòi hỏi quá nhiều."
Người này nói, "Những ba mươi năm sao? Tôi sẽ nghĩ về điều đó." Junnaid nói, "Thế thì nếu ông quay lại, ta sẽ không sẵn sàng trao nó cho ông trong ba mươi năm đâu. Nhớ lấy, nếu ông quyết định ngay bây giờ, thế thì được. Bằng không ta cũng sẽ phải nghĩ." Thế là người này đồng ý.
Chuyện kể rằng người này trong ba mươi năm vẫn còn ở cùng Junnaid. Thế rồi ngày cuối cùng tới, và người này tới Junnaid và nói với ông ấy, "Bây giờ trao đổi về bí mật của thầy đi." Junnaid nói, "Ta sẽ trao nó cho ông với một điều kiện: rằng ông sẽ giữ nó như một bí mật. Ông không nói nó cho bất kì người nào. Bí mật này phải chết cùng ông, không được biết tới."
Người này nói, "Sao thầy làm phí cả đời tôi vậy? Ba mươi năm tôi đã chờ đợi bí mật này chỉ để kể cho người khác, và bây giờ lại có điều kiện! Thế thì phỏng hữu dụng gì mà biết nó nếu tôi không thể kể nó cho người khác? Nếu thầy làm ra điều kiện này, thế thì xin đừng kể nó cho tôi; bằng không nó sẽ ám ảnh tôi, tôi sẽ biết cái gì đó mà tôi không thể kể được cho người khác. Cho nên xin hãy đủ tốt bụng và không kể nó cho tôi. Thầy đã làm phí hoài ba mươi năm của tôi. Chút ít cuộc sống còn lại, cho nên xin để tôi sống nó một cách thảnh thơi. Điều này sẽ là quá nhiều, biết cái gì đó mà không kể nó cho người khác."
Bất kì cái gì bạn thu được qua bất kì phương pháp tâm linh nào, để nó vẫn còn là bí mật đi. Đừng liên tục lan truyền nó, đừng cố dùng nó theo bất kì cách nào. Để nó vẫn còn không được dùng, thuần khiết. Chỉ thế thì nó sẽ được dùng cho biến đổi bên trong. Nếu bạn dùng nó ở bên ngoài, đó là việc phí hoài.
Câu hỏi thứ ba:
Thầy đã nhắc tới rằng chuyển động mắt nhanh chỉ ra quá trình tâm trí và rằng nếu chuyển động mắt được dừng lại quá trình tâm trí cũng sẽ dừng lại. Nhưng việc kiểm soát sinh lí các quá trình tâm trí này, việc dừng lại này của chuyển động mắt dường như tạo ra căng thẳng tinh thần như việc xảy ra khi chúng ta giữ cho mắt nhắm dưới khăn che trong thời gian dài.
Đầu tiên, tâm trí bạn và thân thể bạn không phải là hai thứ khi có liên quan tới Mật Tông. Bao giờ cũng nhớ điều đó. Đừng nói, "quá trình sinh lí" và "quá trình tâm trí." Chúng không phải là hai - chỉ là hai phần của một toàn thể. Bất kì cái gì bạn làm về mặt sinh lí đều ảnh hưởng tới tâm trí. Bất kì cái gì bạn làm về mặt tâm lí đều ảnh hưởng tới thân thể. Chúng không là hai, chúng là một.
Bạn có thể nói rằng thân thể là trạng thái rắn đặc của cùng một năng lượng và tâm trí là trạng thái mềm dẻo của cùng một năng lượng - của cùng một năng lượng! Cho nên không thành vấn đề bạn đang làm gì về mặt tâm lí, đừng nghĩ rằng đây chỉ là tâm lí. Đừng tự hỏi làm sao nó sẽ giúp cho bất kì biến đổi nào trong tâm trí. Nếu bạn uống rượu cồn, cái gì xảy ra cho tâm trí bạn? Rượu cồn được đưa vào trong thân thể, không vào tâm trí, nhưng cái gì xảy ra cho tâm trí? Nếu bạn dùng LSD, nó đi vào trong thân thể, không vào trong tâm trí, nhưng cái gì xảy ra cho tâm trí?
Hay nếu bạn liên tục nhịn ăn, việc nhịn ăn được thực hiện bởi thân thể, nhưng cái gì xảy ra cho tâm trí? Hay từ đầu kia: nếu bạn nghĩ các ý nghĩ dục, điều gì xảy ra cho thân thể bạn? Thân thể bị ảnh hưởng ngay lập tức. Bạn nghĩ trong tâm trí về bạn tình dục và thân thể bạn bắt đầu trở nên sẵn sàng.
Có một lí thuyết của William James. Trong phần đầu của thế kỉ này nó rõ ràng có vẻ rất ngớ ngẩn, nhưng theo một nghĩa nào đó nó là đúng. Ông ấy và một nhà khoa học khác có tên là Lange đã đề xuất lí thuyết này mà được biết dưới cái tên lí thuyết James-Lange. Thông thường, chúng ta nói bạn sợ và đó là lí do tại sao bạn chạy và trốn, hay bạn giận và đó là lí do tại sao mắt bạn đỏ lên và bạn bắt đầu đánh kẻ thù.
Nhưng James và Lange đề xuất điều ngược lại hoàn toàn. Họ nói rằng vì bạn chạy đi, đó là lí do bạn cảm thấy sợ; và vì mắt bạn đỏ lên và bạn bắt đầu đánh kẻ thù, bạn cảm thấy giận. Nó chính là cái đối lập. Họ nói rằng nếu điều này không là như vậy, thế thì chúng ta sẽ thấy ngay cả một biểu hiện giận khi mắt không đỏ và thân thể không bị ảnh hưởng và người ta đơn giản giận. Không cho phép thân thể bạn bị ảnh hưởng và thử giận mà xem - thế thì bạn sẽ biết rằng bạn không thể giận được.
Ở Nhật Bản họ dạy trẻ con một phương pháp rất đơn giản để kiểm soát giận. Họ nói, bất kì khi nào bạn cảm thấy giận, không làm bất kì cái gì với giận, cứ bắt đầu lấy hơi thở sâu. Thử điều đó đi, và bạn sẽ không có khả năng nổi giận. Tại sao? Chỉ bởi vì bạn lấy hơi thở sâu, tại sao bạn không thể nổi giận được? Nổi giận trở thành không thể được. Hai lí do... Bạn bắt đầu lấy hơi thở sâu nhưng giận cần một nhịp điệu thở đặc biệt. Không có nhịp điệu đó giận là không thể được. Nhịp điệu đặc biệt trong thở hay thở hỗn độn được cần để giận hiện hữu.
Nếu bạn bắt đầu lấy hơi thở sâu thì giận không thể ló ra được. Nếu bạn lấy hơi thở sâu một cách có ý thức, thế thì giận không thể diễn đạt bản thân nó được. Nó cần việc thở khác mà phải được phép. Bạn không cần làm nó; giận sẽ tự nó làm điều đó. Với thở sâu bạn không thể giận được.
Và thứ hai, tâm trí bạn dịch chuyển. Khi bạn cảm thấy giận và bạn bắt đầu lấy hơi thở sâu; tâm trí bạn được dịch chuyển từ giận sang việc thở. Thân thể không trong trạng thái giận, và tâm trí đã dịch chuyển sự tập trung của nó hướng tới cái gì đó khác. Thế thì khó mà giận được. Đó là lí do tại sao người Nhật Bản là người có kiểm soát nhất trên trái đất. Nó chỉ là việc huấn luyện từ thời thơ ấu.
Khó mà tìm ra sự vụ như vậy ở bất kì chỗ nào khác, nhưng ở Nhật Bản điều đó xảy ra ngay cả ngày nay. Nó đang xảy ra ngày càng ít đi vì nước Nhật Bản đang trở nên ngày càng ít tính Nhật Bản. Nó đang trở nên ngày một phương Tây hoá hơn, và các phương pháp và cách thức truyền thống đang trở nên mất dần đi. Nhưng nó đã xảy ra, và nó vẫn xảy ra ngày nay.
Một trong những người bạn của tôi đã ở đó ở Kyoto, và anh ấy viết cho tôi bức thư nói, "Tôi đã thấy hiện tượng đẹp thế hôm nay mà tôi muốn viết về nó cho thầy. Và khi tôi quay lại, tôi muốn hiểu làm sao điều đó là có thể. Một người bị một chiếc xe đâm phải. Anh ta ngã xuống, đứng dậy, cám ơn người lái xe, và đi mất - anh ta cám ơn người lái xe!"
Ở Nhật Bản điều đó không khó. Anh ta phải đã lấy vài hơi thở sâu, và thế thì điều đó là có thể. Bạn được biến đổi sang thái độ khác, và bạn thậm chí có thể cám ơn người vừa suýt giết bạn, hay người đã cố giết bạn.
Các quá trình sinh lí và quá trình tâm lí không phải là hai thứ, chúng là một, và bạn có thể bắt đầu từ cực nào cũng được để ảnh hưởng và thay đổi cực kia. Và bất kì khoa học nào cũng sẽ làm điều đó. Chẳng hạn, Mật Tông tin sâu sắc vào thân thể. Chỉ triết học là mơ hồ, hão huyền, theo lời; nó có thể bắt đầu từ cái gì đó khác. Ngoài ra, bất kì cách tiếp cận khoa học nào đều nhất định bắt đầu từ thân thể vì cái đó ở trong tầm với của bạn. Nếu tôi nói về cái gì đó ở bên ngoài tầm với của bạn, bạn có thể nghe nó, bạn có thể thu thập nó vào kí ức của bạn, bạn có thể nói về nó, nhưng không cái gì xảy ra. Bạn vẫn còn như cũ. Thông tin của bạn được tăng lên, nhưng hiện hữu của bạn thì không. Tri thức của bạn liên tục tăng lên, nhưng hiện hữu của bạn vẫn còn là cùng thứ xoàng xĩnh nghèo nàn; không cái gì xảy ra cho nó.
Nhớ, thân thể là cái ở bên trong tầm với của bạn; ngay bây giờ bạn có thể làm cái gì đó với nó và thay đổi tâm trí bạn qua thân thể. Dần dần bạn sẽ trở thành người chủ của thân thể, và thế thì bạn sẽ trở thành người chủ của tâm trí. Và khi bạn trở thành người chủ của tâm trí, bạn sẽ thay đổi tâm trí dần dần, và bạn sẽ đi ra ngoài nó. Nếu thân thể thay đổi, bạn đi ra ngoài thân thể. Nếu tâm trí thay đổi, bạn đi ra ngoài tâm trí. Và bao giờ cũng làm cái gì đó mà bạn có thể làm.
Chẳng hạn, bạn có thể không có khả năng trở thành người chủ của giận, như vị phật, ngay bây giờ. Làm sao bạn có thể thế được? Nhưng bạn có thể thay đổi việc thở của bạn và thế thì bạn có thể cảm thấy tác động tinh tế, sự thay đổi. Làm nó đi. Nếu bạn cảm thấy được chất đầy với đam mê, đam mê dục, lấy vài hơi thở sâu và cảm thấy hiệu quả: đam mê sẽ tan dần.
Vợ của Aldous Huxley, Laura Huxley, đã viết một cuốn sách hay - chỉ là những phương cách đơn giản để làm những điều nào đó. Nếu bạn cảm thấy giận, Laura Huxley nói, làm căng mặt bạn ra. Bạn có thể căng mặt theo cách như vậy - chẳng hạn, trong buồng riêng của bạn - để cho không ai sẽ có khả năng nhìn thấy.
Một người đang ngồi ngay trước bạn và bạn cảm thấy giận - cho nên chỉ căng mặt. Liên tục căng mặt nhiều nhất có thể làm được, và thế rồi đột nhiên thả lỏng và cảm thấy khác biệt. Cơn giận sẽ trôi qua. Hay nếu nó còn chưa qua, làm điều đó lần nữa. Liên tục làm nó - hai lần, ba lần... Cái gì xảy ra? Nếu bạn căng cơ mặt và bạn liên tục thắt chặt và làm căng chúng, năng lượng mà đã định trở thành giận nay chuyển vào mặt.
Và rất dễ để nó chuyển vào trong mặt. Khi bạn giận, bạn cảm thấy thế nào? Bạn cảm thấy bạn muốn đánh ai đó bằng nắm đấm. Năng lượng có đó, cho nên dùng nó đi. Nếu bạn có thể dùng nó, nó tan đi. Mặt bạn sẽ trở nên được thảnh thơi, và người khác thậm chí sẽ không có khả năng biết rằng bạn đã giận. Dường như là không cái gì đã xảy ra cho bạn. Và một khi bạn biết những điều này, bạn trở nên ngày càng nhận biết rằng năng lượng có thể được biến đổi, được làm chệch hướng, được kiểm tra, được xả ra, hay bị ngăn cản khỏi xả ra, hay được dùng theo cách khác. Nếu bạn có thể dùng năng lượng của bạn, bạn trở thành người chủ. Thế thì một ngày nào đó bạn có thể không dùng nó chút nào; bạn có thể bảo tồn nó.
Bài tập này không tốt cho vị phật - siết chặt nắm đấm. Điều này là không tốt cho vị phật vì điều này đang làm phí hoài năng lượng. Nhưng điều này là tốt cho bạn. Ít nhất người khác được cứu khỏi bạn, và cái vòng luẩn quẩn được cứu. Nếu bạn nổi giận, người đó sẽ nổi giận, và không có kết thúc cho điều đó. Điều đó có thể quấy rối bạn cả đêm, và nó có thể đeo bám nhằng nhẵng cả tuần. Và thế thì, vì việc đeo bám này, bạn có thể làm nhiều điều bạn không bao giờ có ý định làm. Đừng nói rằng đây chỉ là tâm lí. Bạn có tính sinh lí, cho nên cái gì có thể được làm? Bạn là con người thể chất; bạn không thể phủ nhận sự kiện đó. Dùng năng lượng này đi. Không có nhu cầu phủ nhận nó.
Nếu bạn nhắm mắt lại, đôi khi bạn có thể cảm thấy việc căng nào đó tụ tập ở đó, hay sự không thoải mái. Thế thì có những điều nào đó bạn có thể làm. Một, khi bạn nhắm mắt, không trở nên căng thẳng về nó, để cho chúng thảnh thơi. Bạn có thể nhắm mắt lại một cách cưỡng bức - thế thì bạn sẽ bị căng thẳng. Thế thì mắt bạn sẽ bị mệt mỏi và bên trong bạn sẽ cảm thấy không thoải mái. Thả lỏng mặt, thả lỏng mắt, và để chúng được nhắm lại. Tôi nói, để chúng được nhắm lại; không nhắm chúng. Thả lỏng! Cảm thấy được thả lỏng. Thả mí mắt xuống và để cho mắt được nhắm. Không ép buộc chúng! Nếu bạn ép buộc chúng, điều đó là không tốt.
Nếu bạn không thể cảm thấy được sự khác biệt, thế thì làm điều này: đầu tiên buộc chúng nhắm lại. Để cho toàn thể mặt bạn trở thành căng thẳng, căng cứng, và thế rồi nhắm mắt lại một cách cưỡng bức. Trong vài khoảnh khắc vẫn còn căng cứng, thế rồi thả lỏng. Thế rồi lại nhắm mắt một cách thả lỏng. Thế thì bạn sẽ cảm thấy khác biệt. Không căng cứng để làm bất kì cái gì - điều đó sẽ làm bạn mệt.
Hai, khi mắt được nhắm lại và mặt bạn được thả lỏng, nhìn dường như mọi thứ đã trở thành tối. Tối sâu thẳm bao quanh bạn. Tưởng tượng bạn đang ở giữa chỗ tối, trong tối sâu thẳm, mượt như nhung, được bao quanh bởi nó, trong đêm tối, sâu thẳm. Liên tục cảm thấy tối này. Điều đó sẽ giúp cho mắt bạn dừng chuyển động của chúng. Không cái gì để được nhìn, mắt sẽ dừng lại. Ở trong tối.
Bạn có thể làm điều đó trong phòng tối. Mở mắt ra, nhìn vào cái tối, thế rồi nhắm chúng lại và cảm thấy tối. Lại mở mắt ra, cảm thấy tối; nhắm mắt lại, cảm thấy nó bên trong. Tối là việc thảnh thơi sâu sắc. Tối bên ngoài và bên trong bạn; mọi thứ là chết - tối và chết. Cả hai có quan hệ với nhau. Đó là lí do tại sao chúng ta vẽ chết là mầu đen, tối. Trên khắp thế giới chết được vẽ bằng mầu đen, và mọi người sợ tối.
Khi làm kĩ thuật này, cảm thấy tối, yêu tối, và cảm thấy bên trong rằng bạn sắp chết. Tối có khắp xung quanh, và bạn đang chết. Mắt sẽ dừng lại. Bạn sẽ cảm thấy rằng chúng không thể chuyển động được: chúng sẽ dừng lại. Trong việc dừng lại đó, đột nhiên năng lượng sẽ bật lên và bắt đầu nện vào con mắt thứ ba. Khi nó bắt đầu nện, bạn sẽ nghe thấy nó, bạn sẽ cảm thấy nó. Hơi ấm sẽ tới, lửa sẽ theo sau - lửa linh động cố tìm ra con đường mới.
Đừng sợ. Giúp nó, hợp tác với nó, để nó chuyển động, trở thành nó. Và khi con mắt thứ ba mở ra lần đầu tiên, tối sẽ biến mất và sẽ có sáng - sáng không có nguồn. Bạn đã thấy sáng, nhưng bao giờ cũng có nguồn. Hoặc nó tới từ mặt trời hoặc từ các ngôi sao hoặc từ trăng hoặc từ đèn, nhưng nguồn nào đó có đó.
Khi năng lượng của bạn di chuyển qua con mắt thứ ba, bạn sẽ đi tới biết ánh sáng không nguồn. Nó không tới từ bất kì nguồn nào, nó đơn giản có đó, không tới từ bất kì đâu. Đó là lí do tại sao Upanishads nói rằng Thượng đế không giống như mặt trời hay như ngọn lửa. Ngài là sáng vô nguồn. Không có nguồn ở bất kì chỗ nào, đơn giản sáng có đó, dường như đó là buổi sáng.
Mặt trời không lên, nhưng đêm đã biến mất. Ở giữa có rạng đông - trước rạng đông. Hay vào buổi chiều, mặt trời đã lặn và đêm còn chưa tới. Ngay ở giữa có lề. Đó là lí do tại sao người Hindus đã chọn sandhya làm thời gian đúng cho thiền. Sandhya là thời gian ở giữa - không đêm không ngày, chỉ là đường phân chia. Tại sao? Chỉ như biểu tượng. Sáng có đó, nhưng không có nguồn. Cùng điều đó sẽ xảy ra ở bên trong, sáng sẽ có đó mà không có nguồn. Đợi nó; đừng tưởng tượng nó.
Điều cuối cùng cần được nhớ: bạn có thể tưởng tượng bất kì cái gì, cho nên điều nguy hiểm là nói cho bạn nhiều thứ. Bạn có thể tưởng tượng chúng. Bạn sẽ nhắm mắt và bạn sẽ cảm và tưởng tượng rằng bây giờ con mắt thứ ba đã mở ra hay đang mở, và bạn có thể tưởng tượng ánh sáng nữa. Đừng tưởng tượng; chống lại tưởng tượng. Nhắm mắt lại. Đợi! Bất kì cái gì tới, cảm nó, hợp tác với nó, nhưng đợi. Đừng nhảy lên trước; bằng không thì không cái gì sẽ xảy ra. Bạn sẽ có giấc mơ - mơ đẹp, tâm linh, nhưng không cái gì khác.
Mọi người liên tục tới tôi và họ nói, "Chúng tôi đã thấy cái này và chúng tôi đã thấy cái kia." Nhưng họ đã tưởng tượng nó - vì nếu thực sự họ đã thấy, họ chắc đã được biến đổi. Nhưng họ không được biến đổi. Họ vẫn là cùng người đó, bây giờ chỉ lòng tự hào tâm linh được thêm vào. Họ có một số giấc mơ - mơ đẹp, tâm linh: ai đó đang thấy Krishna chơi sáo, ai đó thấy ánh sáng, ai đó thấy kundalini dâng lên. Họ liên tục thấy nhiều thứ, và họ vẫn còn như cũ - tầm thường, ngu xuẩn, đờ đẫn. Không cái gì đã xảy ra cho họ; họ liên tục kể lại rằng điều này đang xảy ra, điều kia đang xảy ra, nhưng họ vẫn còn như cũ - giận, buồn, trẻ con, ngu xuẩn. Không cái gì đã thay đổi.
Nếu bạn thực sự thấy ánh sáng, cái có đó đang chờ đợi bạn, được thấy qua con mắt thứ ba, bạn sẽ là người khác. Và thế thì bạn không cần nói cho bất kì ai. Mọi người sẽ đi tới biết bạn là người khác. Bạn thậm chí không thể che giấu được điều đó; nó sẽ được cảm thấy. Dù bạn đi tới bất kì chỗ nào, người khác sẽ cảm thấy rằng "Cái gì đó đã xảy ra cho người này."
Cho nên đừng tưởng tượng; đợi đi, và để mọi thứ lấy tiến trình riêng của nó. Bạn làm kĩ thuật này, và thế rồi đợi, Đừng nhảy lên trước.

0 Đánh giá

Ads Belove Post