Read more
Câu hỏi thứ nhất
Osho ơi,
Tôi đã nghe thầy nói không hỏi xin bất kì
cái gì trong lời cầu nguyện của chúng tôi. Thế thì tại sao Jesus nói với chúng
ta, "Khi ông cầu nguyện, nói: Cho chúng con bánh mì hàng ngày. Tha thứ cho
chúng con về sự xúc phạm của chúng con. Dẫn chúng con không bị cám dỗ, nhưng giải
thoát chúng con khỏi quỉ?" Và bản thân Jesus cũng hỏi, "Cha ơi, nếu
có thể, để nỗi cay đắng này đi qua con, vậy mà không như ý con, mà như ý của
ngài." Xin thầy giải thích.
Dhyan Prabodh, tôn giáo có lịch
sử dài. Nhiều phần của nó chỉ là tàn tích từ quá khứ. Tôn giáo thực, tôn giáo bản
chất là có thể chỉ bây giờ, bởi vì con người đã tới tuổi. Quá khứ của nhân loại
là rất ấu trĩ - không như trẻ con, nhớ lấy, mà ấu trĩ. Và nó nhất định là như vậy;
nó là không tránh khỏi, không thể tránh khỏi. Cho nên tôi không phàn nàn về nó,
tôi đơn giản phát biểu sự kiện rằng bất kì khi nào bạn nghĩ tới tôn giáo, đừng
bao giờ nghĩ dưới dạng quá khứ bằng không bạn sẽ có định hướng sai toàn bộ.
Nghĩ nhiều hơn dưới dạng hiện tại đi.
Khi bạn nghĩ về Lí thuyết Tương
đối, bạn không đem Newton vào. Bạn biết ông ấy đã đóng góp cái gì đó cho sự
phát triển khoa học, nhưng thời của ông ấy qua rồi. Chúng ta biết ơn về bất kì
cái gì ông ấy đã làm, bất kì cái gì ông ấy có thể làm, nhưng với Albert
Einstein, Newton đã kết thúc. Ông ấy sẽ vẫn còn chỉ là một cước chú trong lịch
sử phát triển khoa học.
Cùng điều đó là đúng về tôn
giáo, về mọi nỗ lực con người. Khi bạn đi lên mặt trăng trong con tầu không
gian, người đã phát minh ra xe bò kéo chắc chắc đã đóng góp vô cùng - không có
xe bò kéo chắc đã không có khả năng nào cho con tàu không gian - nhưng bạn
không liên tục tôn thờ người đã phát minh ra xe bò kéo. Bạn thậm chí không nhớ
tên người đó. Và trong khi bạn được tham gia với con tàu không gian, tốt hơn cả
là quên tất cả về xe bò kéo. Chúng sẽ không giúp gì; máy móc của chúng là lạc hậu.
Nhưng về tôn giáo chúng ta
không hợp lí thế - về tôn giáo chúng ta rất tình cảm. Về tôn giáo chúng ta
không khoa học thế - về tôn giáo chúng ta rất phi logic, mê tín.
Tôn giáo đã trải qua hai pha.
Pha thứ nhất là pha của lời cầu nguyện; đó là thời đại xe bò kéo của tôn giáo.
Pha thứ hai là thiền, đó là thời đại con tầu không gian của tôn giáo. Chúng là
các chiều hướng khác toàn bộ. Nguồn gốc của chúng là khác, cách làm việc của
chúng là khác, toàn thể môi trường là khác. Và người ta phải không bị lẫn lộn
giữa hai điều này.
Có nhiều lẫn lộn khắp thế giới,
cho nên để tôi giải thích cho bạn. Và phải rất kiên nhẫn vì tất cả chúng ta đều
bị ước định bởi tôn giáo của lời cầu nguyện. Trọng lượng của chúng là nặng; mọi
con người đều bị nghiền nát dưới trọng lượng trái núi. Và công việc cho thầy đã
trở nên ngày càng khó hơn, vì nó không chỉ là vấn đề giúp bạn có tính thiền:
trước khi điều đó có thể bắt đầu nhiều thứ phải bị phủ định trong bạn, nhiều
rác rưởi phải được dọn sạch ra, nhiều bẩn phải được lau sạch. Toàn thể quá khứ
phải được phá huỷ, chỉ thế thì bạn mới có khả năng giang đôi cánh của bạn tới
chiều hướng bản chất, trưởng thành, người lớn của tôn giáo.
Lời cầu nguyện nghĩa là sợ, do
đó mọi tôn giáo cũ đều hướng theo sợ. Thượng đế của họ không là gì ngoài việc tạo
ra sợ của họ; nó không phải là khám phá, nó là tưởng tượng, nó là phóng chiếu.
Họ đầy sợ; họ cần một hình ảnh người bố để bảo vệ cho họ khỏi mọi loại sợ. Và
có cả nghìn nỗi sợ trong cuộc sống: có lo âu, đau khổ, vấn đề phải được đương đầu,
câu đố không giải được, kẽ hở không bắc cầu qua được; con người bị bao quanh bởi
bóng tối lớn. Con người cần bàn tay bảo vệ; con người muốn có ai đó như điều an
ninh, như điều an toàn.
Từng đứa trẻ được nuôi lớn bởi
bố mẹ. Kinh nghiệm đầu tiên của nó với bố mẹ trở thành rất quyết định, vì nó được
bảo vệ, được thoải mái, được an ủi; mọi nhu cầu của nó được đáp ứng, nó không
phải lo nghĩ, nó không có trách nhiệm, nó được chăm nom. Nó có thể dựa vào bố mẹ.
Nhưng điều này sẽ không là vậy mãi mãi. Sớm hay muộn nó sẽ phải đứng trên đôi
chân riêng của nó.
Khoảnh khắc nó đứng trên đôi
chân riêng của nó một run rẩy lớn nảy sinh trong nó: bây giờ ai sẽ cứu nó? Bây
giờ ai sẽ an ủi nó? Và vấn đề cứ trở nên ngày càng lớn hơn mọi ngày. Khi cuộc sống
tiến triển nó bắt đầu tới gần hơn với cái chết, điều là vấn đề tối thượng cần
được giải. Và có lo âu lớn về cái chết.
Từng đứa trẻ đều bắt đầu rơi lại,
từng đứa trẻ đều bắt đầu đi trở lại trạng thái thơ ấu, vì điều đó dường như là
phần duy nhất của cuộc sống của nó nơi không có một vấn đề gì chút nào. Đây là
việc đi ngược lại.
Việc đi ngược lại này đã được
coi là lời cầu nguyện; nó không phải là lời cầu nguyện. Thế thì người đó quì
trên đầu gối và bắt đầu cầu nguyện tới thượng đế...
Không phải ngẫu nhiên mà mọi
tôn giáo đều gọi Thượng đế là "Cha." Vâng, có vài tôn giáo khác gọi
Thượng đế là "Mẹ" - thì cũng là một cả. Trong các xã hội mẫu hệ Thượng
đế là Mẹ, trong xã hội phụ hệ, Thượng đế là Cha. Một điều là chắc chắn: rằng
Thượng đế phải là bố mẹ tối thượng.
Và thế rồi mọi cộng đồng, xã hội,
nền văn minh đã bịa ra Thượng đế riêng của nó; họ nói, "Thượng đế đã tạo
ra con người theo hình ảnh riêng của ngài." Điều đó là tuyệt đối sai - con
người đã tạo ra Thượng đế theo hình ảnh riêng của mình. Và bởi vì có nhiều loại
người thế trên thế giới, có nhiều hình ảnh thế về Thượng đế.
Nhưng hình ảnh đó là bịa đặt
riêng của bạn; bạn đang cầu nguyện trước bịa đặt riêng của bạn. Lời cầu nguyện
thực sự là một trong những điều ngớ ngẩn nhất có thể có. Cứ dường như bạn đang
cầu nguyện trước gương, nhìn vào mặt riêng của bạn, quì xuống trước hình ảnh
riêng của bạn, hỏi xin ân huệ, và chẳng có gì trong gương ngoại trừ phản xạ của
bạn. Mọi lời cầu nguyện... lời cầu nguyện như vậy chỉ là chưa chín chắn, nó có
tính quay lui.
Điều đó sẽ làm bạn bị tổn
thương, nhưng tôi không thể giúp được điều đó. Tôi phải nói chân lí như nó vậy.
Prabodh, bạn hỏi tôi:
Tôi đã nghe thầy nói không hỏi
xin bất kì cái gì trong lời cầu nguyện của chúng tôi.
Thực ra, khoảnh khắc bạn dừng hỏi
xin, bạn sẽ dừng cầu nguyện. Đó là phương pháp luận đơn giản - tôi đôi khi phải
đi vòng vo một chút, chỉ vậy để cho không làm tổn thương bạn quá nhiều.
Tôi không thấy rằng có bất kì
Thượng đế nào đã tạo ra thế giới. Tôi chắc chắn kinh nghiệm về phẩm chất của
tính thượng đế trong sự tồn tại, nhưng nó là phẩm chất, không phải là người. Nó
giống yêu nhiều hơn, giống im lặng nhiều hơn, giống niềm vui nhiều hơn, ít giống
người. Bạn chưa bao giờ đi tới gặp Thượng đế và nói "Xin chào" với
ngài, "Ngài khoẻ không?" và "Con đã từng đi tìm ngài hàng nghìn
năm rồi. Ngài đã ẩn ở đâu?"
Thượng đế không phải là người
nhưng chỉ là sự hiện diện. Và khi tôi nói "hiện diện," phải chăm chú
vào, vì bạn có thể liên tục nghe tương ứng theo ước định riêng của bạn. Bạn thậm
chí có thể làm "sự hiện diện" thành cái gì đó có tính đối thể - bạn lại
rơi vào trong cùng cái bẫy. Thượng đế là sự hiện diện tại cốt lõi bên trong nhất
của bản thể bạn: nó là sự hiện diện riêng của bạn. Nó không phải là gặp gỡ với
ai đó khác.
Martin Buber, một trong những nhà
tư tưởng Do Thái lớn của thời đại này, đã viết rằng lời cầu nguyện là đối thoại
giữa "ta" và "người." Không có "người," do đó đối
thoại này là không thể có được. Mọi lời cầu nguyện đều là độc thoại. Và bởi vì
không có "người" nên không có "ta" nữa; chúng có thể tồn tại
chỉ cùng nhau, chúng không thể tồn tại trong tách biệt. Làm sao bạn có thể hình
dung ra sự tồn tại của "ta" mà không có "người"? "Người"
được cần đế đánh dấu đường ranh của cái "ta."
Nhưng Martin Buber theo một
nghĩa nào đó là đúng - ông ấy đang định nghĩa toàn thể quá khứ của tôn giáo. Bản
thân ông ấy bị nặng gánh với quá khứ; ông ấy không bao giờ có thể thoát ra khỏi
bộ da Do Thái của mình. Ông ấy vẫn còn bị giam cầm, ông ấy vẫn còn là một người
Do Thái - người tốt, hay, có năng lực trí tuệ lớn, nhưng vẫn trong tù túng.
Ý tưởng Do Thái về
"ta" và "người" là hình mẫu cơ bản cho lời cầu nguyện.
Không có "ta" bạn không thể cầu nguyện được vì không có ai để cầu
nguyện. Không có "người" bạn không thể cầu nguyện được, vì cầu nguyện
với ai? Và nếu bạn không hỏi xin cái gì, thế thì bạn cầu nguyện về cái gì? Lời
cầu nguyện có nghĩa là hỏi xin, nó là đòi hỏi, dù được nguỵ trang thế nào, dù
được che giấu tinh vi thế nào đằng sau quần áo và mặt nạ đẹp đẽ. Nó là việc hỏi
xin: bạn đang đòi hỏi, bạn đang nói, "Cho tôi cái này! Cho tôi cái
kia!"
Cho nên khi tôi nói không có
Thượng đế, nhớ điều này: tôi thực sự ngụ ý rằng sự tồn tại là đủ lên chính nó.
Nó không cần người sáng tạo. Có tính sáng tạo nhưng không có người sáng tạo.
Phân chia giữa người sáng tạo và tính sáng tạo phải bị làm tan biến, chỉ thế
thì bạn sẽ có khả năng vươn lên những đỉnh núi của thiền. Bằng không bạn sẽ vẫn
còn bị giới hạn vào các hình mẫu ấu trí của quá khứ: quì xuống trước các ảnh
trong đền chùa, trong giáo đường, trong nhà thờ, và làm mọi loại thứ ngu xuẩn.
Nhưng những thứ ngu xuẩn đó
đang được làm bởi hàng nghìn người khác, để cho bạn không bao giờ trở nên nhận
biết rằng bạn là ngu. Khi đám đông ở cùng bạn, khi quần chúng ở cùng bạn, bạn cảm
thấy đang trên đất an toàn. Bạn cảm thấy rung chuyển chỉ khi bạn một mình.
Thiền là kinh nghiệm về tính một
mình. Chỉ những người rất dũng cảm mới có thể đi vào trong chiều hướng đó. Lời
cầu nguyện là hiện tượng đám đông, nó là một phần của tâm trí tập thể. Và khi bạn
ở trong đám đông, chắc chắn niềm tin lớn nảy sinh trong bạn. Nó có tính lây nhiễm,
vì nhiều người thế không thể sai được. Nhưng tôi muốn nói với bạn: bao giờ hoàn
cảnh cũng là quần chúng nhất định sai. Chỉ hiếm khi mới có một cá nhân là đúng,
vì chân lí là đỉnh cao thế, đỉnh núi cao thế, như Everest. Bạn không thể đi tới
Everest cùng quần chúng; không có đủ không gian. Chỉ một người có thể đứng trên
các đỉnh núi cao nhất - một mình.
Thiền là kinh nghiệm về việc là
một mình toàn bộ, hoàn toàn một mình. Lời cầu nguyện là hiện tượng đám đông, nó
là tâm lí số đông. Do đó Hindu giáo, Ki tô giáo, Do Thái giáo, Mô ha mét giáo,
tất cả vẫn còn là những tôn giáo của lời cầu nguyện. Ngay cả hai tôn giáo đã cố
trở thành tôn giáo của thiền cũng đã rơi lại - Phật giáo và Jaina giáo, hai tôn
giáo này đã cố là tôn giáo của thiền. Nhưng duy nhất Phật và Mahavira, hai cá
nhân, mới có thể xoay xở được. Khoảnh khắc họ chết đi tôn giáo của họ bắt đầu
rơi lại vào hình mẫu cũ, quay lui; cả hai tôn giáo này trở thành tôn giáo của lời
cầu nguyện.
Bây giờ người Jaina đang cầu
nguyện trước Mahavira. Điều đó thậm chí còn tồi tệ hơn, vì người Ki tô giáo có
thể có giúp đỡ nào đó từ Jesus nhưng người Jaina không có hỗ trợ nào từ
Mahavira. Các Phật tử, hàng triệu Phật tử, đang cầu nguyện trước tượng Phật. Điều
đó là nực cười, không thể tin được, vì lời cuối cùng của Phật là "Là ánh
sáng lên bản thân ông." Và hiện tượng kì lạ là các tượng Phật đã là tượng
đầu tiên được làm trên thế giới; tượng của ông ấy là tượng đầu tiên được để
trong đền chùa.
Có các đền về Phật với hàng
nghìn tượng. Một ngôi đền ở Trung Quốc có tên là Đền mười nghìn Phật - mười
nghìn tượng Phật trong một ngôi đền. Toàn thể quả núi đã được khắc vào trong một
ngôi đền. Nếu Phật quay lại ông ấy sẽ bắt đầu đập đầu mình, ông ấy sẽ tự tử.
Điều đầu tiên cần được nhớ,
Prabodh: tôi tin vào vũ trụ có tổ chức. Không có phân chia người sáng tạo và
cái được sáng tạo, cái cao hơn và cái thấp hơn, cái thiêng liêng và cái báng bổ,
cái này và cái nọ. Tôi tin vào một tổ chức.
Sự tồn tại phải không được nghĩ
dưới dạng hoạ sĩ và bức tranh của người đó, vì khoảnh khắc bức tranh được hoàn
thành, hoạ sĩ và bức tranh trở thành hai thực thể tách rời. Sự tồn tại phải được
nghĩ chỉ dưới dạng của vũ công và điệu vũ của người đó. Bạn không thể tách rời
chúng ra được; vũ công và điệu vũ là một, Tại đỉnh cao nhất của việc múa, vũ
công biến mất vào trong điệu vũ - không có người múa mà chỉ có điệu múa.
Đó là kinh nghiệm của thiền:
khi bạn làm tan biến bản thân bạn vào trong sự tồn tại, khi giọt sương tuột vào
trong đại dương và trở thành đại dương. Và điều ngược lại cũng đúng: đại dương
tuột vào trong giọt sương và trở thành giọt sương. Chúng không thể được quan niệm
như hai thực thể thêm nữa.
Cho nên khi tôi nói Thượng đế
không phải là sự hiện diện, tôi ngụ ý ngài không phải là cái gì bên ngoài bạn -
không là người không là sự hiện diện như được quan niệm trong ngôn ngữ của tính
đối thể. Khi tôi nói Thượng đế là sự hiện diện, tôi đơn giản ngụ ý ngài là cốt
lõi bên trong nhất của bản thể bạn - cốt lõi im lặng đó, không gian đó nơi
không ai khác có thể vào bạn; sự riêng tư đó, không gian trong trắng tuyệt đối
thân thiết, lãnh thổ bên trong của bạn, là Thượng đế.
Nhưng lời "Thượng đế"
có thể tạo ra rắc rối cho bạn. Lời rất gây rắc rối vì lời mang theo quá khứ;
chúng được tạo ra bởi quá khứ, chúng bị đè quá nặng bởi quá khứ. Bất kì lời nào
cũng là nguy hiểm, vì nghĩa của nó tới từ quá khứ. Và với tôi vấn đề là: dùng lời
tới từ quá khứ - vì không có lời khác - nhưng cho chúng các chỗ quanh co ngoắt
ngoéo tới mức chúng có thể cho bạn chút ít sáng suốt vào trong nghĩa mới. Lời
là cổ, chai là cổ, nhưng rượu là mới.
Một bà già đang đi cùng con chó
quyết định đi vào trong siêu thị địa phương, siêu thị không cho phép chó vào.
Bà ấy buộc con vật vào vòi nước chữa cháy. Ngay khi con chó được buộc vào thì mọi
chó hoang ở vùng lân cận bắt đầu tới ngửi con vật không được bảo vệ này. Viên cảnh
sát ở góc phố, quan sát điều đã xảy ra, gọi bà già và bảo bà ấy rằng bà ấy
không thể để con chó của mình ở đó một mình được.
Bà ấy hỏi anh ta tại sao, anh
ta đáp, "Thưa bà, con chó của bà đang động đực."
Bà ấy đáp, "Ăn, nó ăn bất
kì cái gì."
Anh ta phản bác lại, "Con
chó phải cho lấy giống."
Bà già đáp, "Nó ăn bánh
mì, bánh ngọt - bất kì cái gì ông cho nó, nó đều ăn."
Thất vọng hoàn toàn, anh ta
nói, "Con chó đó phải cho đẻ!"
Bà già nhìn thẳng vào mắt anh
ta và trả lời, "Thì cho nó đẻ! Tôi bao giờ cũng muốn có một con chó cảnh
sát."
Lời là nguy hiểm... mọi khả
năng của việc bị hiểu lầm.
Bạn nói, Prabodh:
Tôi đã nghe thầy nói không hỏi
xin bất kì cái gì trong lời cầu nguyện của chúng tôi.
Thực ra, đó là cách tôi ngăn cản
bạn khỏi việc cầu nguyện. Nếu bạn không có gì để hỏi xin, sao bạn cầu nguyện?
Thế thì sự hợp lí của nó là gì?
Ngay cả một người như Jesus
theo nhiều cách vẫn còn ấu trĩ. Nhưng điều đó không thể đừng được: ông ấy thuộc
về thời đại xe bò kéo của tôn giáo, ông ấy thuộc về tín ngưỡng Do Thái. Ông ấy
đã sống là người Do Thái, ông ấy đã nói như người Do Thái, ông ấy đã chết như
người Do Thái. Toàn thể việc nghĩ, nhìn, quan sát của ông ấy là thuần Do Thái.
Ông ấy không thực sự trong nổi
dậy, ông ấy không phải là người nổi dậy theo nghĩa đúng của từ này. Ngược lại,
ông ấy đã cố gắng chứng minh rằng ông ấy thuộc vào tín ngưỡng, ông ấy đã cố gắng
chứng minh rằng ông ấy là người đã từng được tiên đoán bởi các nhà tiên tri cổ,
rằng ông ấy đã tới để hoàn thành những lời tiên tri của họ. Bây giờ điều này là
cực kì vô nghĩa! Không ai có thể dự đoán được cho bất kì ai khác; quá khứ là
tuyệt đối bất lực để biết cái gì của tương lai. Tương lai là cái vẫn còn để mở.
Nếu nó có thể được dự đoán nó trở thành bị đóng, nó không còn là tương lai; nếu
bạn có thể dự đoán được tương lai thì nó đã là quá khứ. Bạn đã cắt bỏ tính mở của
nó, nó đã trở thành đóng.
Ông ấy đã cố gắng thuyết phục
người Do Thái rằng "Ta là chúa cứu thế mà các ông đã từng chờ đợi."
Ông ấy đã cố gắng theo đủ mọi cách để đáp ứng cho mong đợi của họ: làn đủ mọi
loại phép màu, cố gắng theo đủ mọi cách để biện minh cho trường hợp của mình.
Đây không phải là cách thức của người cách mạng. Người cách mạng đơn giản ngắt
bản thân mình ra khỏi quá khứ; người đó không liên quan gì tới quá khứ.
Ông ấy vẫn đang cố gắng là nhà
tiên tri theo nghĩa Do Thái. Nhà tiên tri là người tôn giáo với các xu hướng
chính trị, và tôn giáo và chính trị là không trộn lẫn được. Nếu bạn trộn lẫn
chúng, bạn sẽ tạo ra món hẩu lốn. Và đó là điều Jesus đã làm: một mặt ông ấy đã
cố là người tôn giáo, mặt khác ông ấy đã cố chứng minh rằng ông ấy là nhà tiên
tri như các nhà tiên tri cổ. Xu hướng chính trị này với việc biết tôn giáo của
ông ấy trở thành hiện tượng rất lẫn lộn trong ông ấy. Ông ấy đã hoàn toàn bị lẫn
lộn.
Tôi không thấy mấy sáng tỏ
trong ông ấy, ông ấy không trong suốt, ông ấy rất bị che mờ. Bạn có thể thấy điều
đó trong phát biểu riêng của ông ấy. Ông ấy nói, "Cha ơi, nếu có thể, để nỗi
cay đắng này đi qua con..." Đó là ham muốn bên trong nhất của ông ấy. Bằng
không, tại sao ông ấy nói, "Cha ơi, nếu có thể, để nỗi cay đắng này đi qua
con, vậy mà không như ý con, mà như ý của ngài?" Điều này là mâu thuẫn,
mâu thuẫn rõ ràng. Điều này không được nói bởi người đã buông xuôi thực sự. Người
đã buông xuôi thực sự chẳng có gì để nói - bất kì cái gì xảy ra là xảy ra.
Từ đâu mà cái "nếu"
này tới - "nếu có thể"? Ham muốn này có đó rằng "nếu ngài có thể
xoay xở, xin ngài làm đi... nhưng nếu ngài không thể xoay xở được thế thì cũng
được, thế thì bất kì cái gì xảy ra con sẽ chấp nhận." Nhưng có ngần ngại,
có mâu thuẫn. Ham muốn riêng của ông ấy là ở chỗ nỗi cay đắng này phải đi qua
bên cạnh - đau đớn này, việc đóng đinh này, cái chết này, phải đi qua bên cạnh.
Ông ấy thực sự sâu bên dưới đang chờ đợi phép màu, ông ấy đã hi vọng về phép
màu. Ông ấy đã không khác gì mấy với đám đông đã tụ tập ở đó để xem việc đóng
đinh. Ông ấy đã không khác gì mấy với các giáo sĩ và chính quyền mọi người đang
mưu đồ giết ông ấy; nền tảng triết lí của họ là một.
Các giáo sĩ và các tu sĩ cao nhất
của ngôi đền ở Jerusalem đã cố gắng chứng minh rằng người này là giả. Và ông ấy
đã cố chứng minh rằng "Không, ta là đấng cứu thế thực - và vào khoảnh khắc
cuối các ông sẽ thấy, khi bản thân Thượng đế giáng xuống để cứu đứa con duy nhất
của ngài." Và thời gian bắt đầu trôi qua: ông ấy bị đóng đinh, ông ấy bị
treo lên cây chữ thập mà đóng đinh, ông ấy đang chờ phép màu. Không cái gì xảy
ra, mọi mong đợi đều biến thành chua cay. Trong khoảnh khắc đó của nỗi đau khổ
ông ấy kêu lên, "Sao ngài đã bỏ con?"
Nhưng không có ai mà ông ấy
đang gọi tới. Không có người nào bỏ ông ấy cả. Đó là ý tưởng riêng của ông ấy,
nó là phóng chiếu riêng của ông ấy, nó là ảo giác riêng của ông ấy. Trạng thái
này là điên dại! Nhưng ông ấy đang chờ đợi tới khoảnh khắc cuối. Và khi ông ấy
nói, "Nếu điều đó là không thể được, thế thì để cho ý của ngài được thực
hiện," đó là buông xuôi, nhưng không thực - với ngần ngại, chỉ là phương
cách giữ thể diện.
Không cái gì đã xảy ra, mọi thứ
được kết thúc. Đám đông chế nhạo và cười vào toàn thể cảnh tượng, mọi người ném
đá, sỉ nhục ông ấy, làm bị thương ông ấy, mọi người về nhà rất thất vọng vì
không cái gì đã xảy ra, được thuyết phục rằng ông ấy là giả. Ngay cả đệ tử
riêng của ông ấy cũng đã trốn mất, khi thấy rằng bây giờ ở lại đó là nguy hiểm.
Nếu họ bị bắt... nếu Jesus không được Thượng đế cứu, ai sẽ cứu họ? Những anh
chàng đáng thương - họ trốn sạch. Và điều đó là logic.
Jesus nói, "Để ý chí của
ngài được thực hiện," chỉ là làm nỗ lực cuối cùng để giữ thể diện. Đây
không phải là cách thức của người buông xuôi. Làm sao bạn có thể buông xuôi
theo phóng chiếu riêng của bạn được?
Do đó, tôi không dạy bạn lời cầu
nguyện; lời cầu nguyện nhất định là đối lập đối xứng. Mong đợi của nó về căn bản
là mâu thuẫn: nó yêu cầu bạn buông xuôi, chỉ thế thì nó mới có thể được đáp ứng.
Và khi bạn buông xuôi, thế thì cái gì có đó còn lại để được đáp ứng? Nếu có đòi
hỏi nào đó vẫn còn cần được đáp ứng, bạn không buông xuôi. Xin thấy ra mâu thuẫn
này.
Lời cầu nguyện đang đòi hỏi cái
gì đó không thể được từ bạn. Bạn có thể đòi hỏi Thượng đế bất kì cái gì, nhưng
trước hết bạn phải buông xuôi một cách toàn bộ. Nhưng nếu bạn buông xuôi một
cách toàn bộ thế thì chẳng có vấn đề gì trong việc hỏi. Việc hỏi sẽ tới từ đâu?
Ai sẽ đòi hỏi? Và nếu bạn vẫn đòi hỏi, việc buông xuôi bị bỏ lỡ, cho nên lời cầu
nguyện không thể được đáp ứng.
Bạn có thấy cơ chế đơn giản của
nó không? Lời cầu nguyện có thể được đáp ứng chỉ nếu bạn không hỏi cái gì.
Nhưng thế thì cái gì có đó để mà được đáp ứng? Bạn đã không hỏi cái gì ngay chỗ
đầu tiên.
Tôi dạy bạn một loại tính tôn
giáo khác toàn bộ. Nó là tính tôn giáo của thiền. Bạn không tôn thờ, bạn không
cầu nguyện; bạn phải đi vào sâu bên trong cái ta riêng của bạn - cuộc hành
trình của tự khám phá. Vấn đề không phải là khám phá Thượng đế. Tại sao bạn
theo Thượng đế? Ngài đã làm cái gì sai với bạn? Tha thứ cho ngài, quên ngài đi!
Việc truy hỏi đầu tiên và xứng
đáng duy nhất là biết: "Tôi là ai bên trong cơ chế thân-tâm này? Tâm thức
này, phép màu này của ý thức là gì?" Phép màu này của nhận biết phải được
khám phá ra. Bạn phải bóc con người bạn ra như người ta bóc hành. Liên tục bóc...
Bạn sẽ thấy hết tầng nọ tới tầng kia. Và cuối cùng, khi mọi tầng đều đã bị bỏ
đi, khử bỏ, bạn sẽ thấy trong tay bạn cái không, thuần khiết, trống rỗng,
shunyata. Đó là cốt lõi bản chất của bạn, trung tâm của cơn xoáy lốc.
Bỏ các tầng của củ hành bạn đã
bỏ cái chai được tạo ra bởi bạn, bởi xã hội, bởi nền văn hoá, bởi quá khứ, bởi
tín ngưỡng, và khi bạn đã bỏ cái chai đi, con ngỗng ở ngoài. Thế thì bạn là vô
hạn như bản thân vũ trụ, vĩnh hằng như bản thân vô thời gian.
Bạn có thể gọi nó là tính thượng
đế - nó là tính thượng đế. Nó là việc nở hoa cao nhất, vĩ đại nhất của bản thể.
Nhưng nó không phải là một Thượng đế ở đâu đó bên ngoài bạn. Bạn không thể cầu
nguyện với nó. Bạn có thể là nó, nhưng bạn không thể cầu nguyện với nó, vì nó
không tách rời.
Bạn hỏi tôi:
Thế thì tại sao Jesus nói với
chúng ta, "Khi ông cầu nguyện, nói... "?
Jesus chưa bao giờ nói điều này
cho bạn. Ông ấy đã nói cho loại người khác. Nếu Jesus tới bạn, nhớ một điều: sẽ
không có khả năng nào cho trao đổi giữa bạn và ông ấy.
Sẽ có kẽ hở của hai nghìn năm.
Và bạn biết rất rõ rằng ngay cả kẽ hở nhỏ giữa bạn và bố bạn cũng gần như không
thể bắc cầu qua được. Nói chuyện với bố bạn, và bạn đang nói với bức tường. Bố
bạn cảm thấy cùng điều đó: nói chuyện với con là không thể được; dường như
không có trao đổi.
Hai nghìn năm là kẽ hở lớn. Nếu
Jesus tới ngay bây giờ, ông ấy sẽ có vẻ giống người lùn so với bạn. Bạn sẽ
không thể nào hiểu được tại sao người nay đã từng được tôn thờ trong hai nghìn
năm... để làm gì? Bạn sẽ không có khả năng đánh giá cao ông ấy chút nào. Bạn sẽ
thấy cả nghìn lẻ một lỗi trong ông ấy, rất dễ dàng. Ngay cả người ngu nhất
trong các bạn sẽ có khả năng thấy: "Đây mà là người chúng ta đã từng tôn
thờ trong hàng nghìn nhà thờ, hàng triệu người đang cầu nguyện ông ấy sao? Đây
là người đó sao?"
Nhưng hai nghìn năm tô vẽ liên
tục... và đó là công trình của nhà thờ, người theo thượng đế học, triết gia, tu
sĩ - họ liên tục làm cho nó được cập nhật, chừng nào họ còn có thể, họ liên tục
đặt vào những lớp sơn mới. Nếu bạn đào sâu vào trong các tầng dày này của đau đớn,
bạn sẽ thực sự lúng túng. Khi bạn khám phá ra Jesus, bạn sẽ rất thất vọng. Bạn
sẽ thấy một người rất bình thường. Vâng, vào những ngày đó ông ấy là phi thường
- đó là vấn đề thời gian thôi. Vào những ngày đó ông ấy đã là phi thường vì mọi
người thậm chí còn lạc hậu hơn nhiều so với ông ấy.
Nhưng bây giờ bạn đi trước ông ấy
hai nghìn năm. Cách ông ấy nói và điều ông ấy nói không dành cho bạn đâu,
Prabodh.
Bạn nói:
Ông ấy nói cho chúng ta...
Không, ông ấy không có ý tưởng
gì về bạn cả. Điều tôi đang nói là tôi nói cho bạn, nhưng điều Jesus nói, ông ấy
nói cho những người của thời ông ấy. Ông ấy không đương đại với bạn, làm sao ông
ấy có thể nói gì với bạn được?
Và đây là một trong những vấn đề
tôi đương đầu mọi ngày, vì những người tới tôi, hoặc họ đang sống với tàn tích
của Jesus hay của Phật hay của Mahavira hay của Krishna hay của Zarathustra. Họ
có tàn tích quá khứ của họ, và tôi là người đương đại! Tôi đơn giản nói cho thế
kỉ hai mươi, và không chỉ cho đám đông của thế kỉ hai mươi mà cho những người
ưu tú của thế kỉ hai mươi - những người có thông minh cao nhất. Do đó, khó hiểu
điều tôi nói.
Bạn sống hàng nghìn năm trước.
Rất khó tìm ra con người đương đại. Ai đó cổ một nghìn năm, ai đó hai nghìn
năm, ai đó ba nghìn năm... Và họ càng già hơn, họ nghĩ họ càng có giá trị hơn.
Người Hindu cố gắng chứng minh rằng Veda của họ là kinh sách cổ nhất, dường như
đây là cái gì đó vẻ vang. Kinh sách cổ nhất đơn giản nghĩa là bạn đã không di
chuyển từ đó, bạn vẫn mang gánh nặng. Các nhà lịch sử nói rằng kinh sách của
người Hindu, Veda, cổ năm nghìn năm. Nhưng người Hindu không sẵn sàng chấp nhận
nó - họ nói chúng cổ ít nhất chín mươi nghìn năm. Chúng càng cổ càng tốt.
Cùng điều đó là đúng về các tôn
giáo khác, dường như mọi cái cổ là vàng. Thực ra, cuộc sống bao giờ cũng mới,
tươi tắn, tươi tắn như giọt sương trong ánh nắng mặt trời trên lá sen, tươi như
vì sao, tươi như con mắt của đứa trẻ mới sinh, tươi như tiếng hót của chim ngay
bây giờ.
Cuộc sống chỉ biết một thời
gian, đó là bây giờ.
Jesus không nói cho bạn, ông ấy
không thể nói được - ông ấy không có ý tưởng gì về bạn, ông ấy không thể quan
niệm được về bạn. Nhưng ông ấy đang nói cho người riêng của ông ấy, và người của
ông ấy đã sống với những ý tưởng này. Ông ấy diễn giải các khái niệm Do Thái về
tôn giáo.
Ông ấy đang nói, "Cho
chúng con bánh mì hàng ngày. Tha thứ cho chúng con về sự xúc phạm của chúng
con. Dẫn chúng con không bị cám dỗ, nhưng giải thoát chúng con khỏi quỉ."
Bây giờ, với tôi tất cả những
điều đó chỉ là rác rưởi cực kì.
"Cho chúng con bánh mì
hàng ngày."
Trong quá khứ, nhân loại đã từng
rất nghèo. Toàn thể quá khứ đã là việc chết đói dài, đói, bệnh, nạn đói, ngập lụt
- đủ loại bệnh tật. Chính phép màu làm sao con người đã sống sót bằng cách nào
đó.
Ở các nước như Ấn Độ, đó vẫn
còn là hoàn cảnh. Do đó, bạn sẽ thấy một điều xảy ra: cốt lõi thông minh của
thanh niên phương Tây đang chuyển ngày càng nhiều hướng tới thiền, nhưng quần
chúng phương Đông đang quay ngày cành nhiều sang những thứ như Ki tô giáo. Người
Ấn Độ thích Mẹ Teresas ở Ấn Độ hơn tôi. Cũng là tự nhiên, vì bánh mì được cần.
Nếu bạn nhìn quanh Ấn Độ, bạn sẽ thấy chỉ người nghèo được cải đạo sang Ki tô
giáo; không một người giầu nào được cải đạo sang Ki tô giáo. Người ăn xin, con
côi, quả phụ, thổ dân, những người không thể xoay xở thậm chí một bữa ăn hàng
ngày - họ đang được cải đạo sang Ki tô giáo. Nó hấp dẫn họ vì bánh mì là vấn đề
của họ.
Jesus nói, "Cho chúng con
bánh mì hàng ngày."
Chúng ta phải tạo ra nó; không
có người nào đem nó cho chúng ta. Đó là công việc của khoa học; tôn giáo chẳng
liên quan gì tới điều đó. Chúng ta nên bắt đầu những đường phân ranh giới: cái
gì có thể được làm bởi khoa học nên được làm bởi khoa học, cái gì có thể được
làm bởi công nghệ nên được làm bởi công nghệ. Nếu xe hơi của bạn dừng lại và bạn
hết xăng, bạn không quì xuống cạnh xe và bắt đầu cầu nguyện, "Cho chúng
con xăng hàng ngày." Điều đó sẽ là ngu xuẩn như lời cầu nguyện này. Bạn biết
bạn phải tìm trạm xăng! Đây không phải là cách thức - nó sẽ không xảy ra.
Nhưng các tu sĩ đã từng cố gắng
từ lâu để làm ra tôn giáo chi phối cả đời bạn - từ bánh mì cho tới Thượng đế. Họ
rất sợ phân chia; do đó, họ chống lại khoa học, chống lại công nghệ.
Bertrand Russell là đúng khi
ông ấy nói, "Nếu toàn thể nhân loại được nuôi dưỡng tốt, được cho ăn đủ, lời
cầu nguyện kiểu này - 'Cho chúng con bánh mì hàng ngày' - sẽ trở thành tuyệt đối
vô tích sự." Sẽ không có nhu cầu chút nào! Và với điều đó, nhà thờ của bạn,
đền chùa của bạn, tu sĩ của bạn, sẽ bắt đầu mất quyền lực của họ. Họ đã sở hữu
nhân loại bởi lí do đơn giản là họ đã không cho phép khoa học và công nghệ cải
thiện số phận bạn.
Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi đã chống
lại khoa học. chống lại những khoa học rất cần thiết nữa. Ông ấy chống lại tầu
hoả, điện tín, bưu điện, điện. Ông ấy muốn đất nước này sống ít nhất là nguyên
thuỷ như mọi người vẫn sống mười nghìn năm trước. Điều duy nhất mà ông ấy chấp
nhận như phát minh khoa học lớn lao nhất là bánh xe đánh chỉ. Và ông ấy được
tôn thờ như một mahatma.
Với tôi, ông ấy phạm tội, tội
còn lớn hơn tội của Adolf Hitler nhiều. Nhưng tội của ông ấy là rất tinh vi. Bạn
không thể phát hiện được nó bởi vì ông ấy đang nói huyên thuyên theo kiểu tôn
giáo: "Người ta phải tin cậy Thượng đế - tại sao người ta phải tin cậy
khoa học?"
Nhấn mạnh của tôi là: cuộc sống
là hiện tượng đa chiều, và chúng ta nên rất rõ ràng về sự phân chia. Âm nhạc
nên được nhạc sĩ chăm nom, không phải bởi nhà toán học. Nhảy múa nên được chăm
nom bởi vũ công, không bởi nhà hoá học. Thơ ca nên được chăm nom bởi nhà thơ,
không bởi nhà sinh lí học. Khoa học có đóng góp riêng của nó - nó là thông minh
của con người. Không có nhu cầu về bất kì lời cầu nguyện nào, chúng ta có thể
cung cấp cho trái đất này một thiên đường, nhưng chúng ta sẽ không có khả năng
đó chừng nào chúng ta chưa dừng mọi loại vô nghĩa mà chúng ta được chất đầy.
Nhưng đây đã từng là chiến lược
của tu sĩ. Ông ấy có thể chi phối bạn chỉ nếu bạn nghèo, ông ấy có thể chi phối
bạn chỉ nếu bạn chết đói - vì khi bạn nghèo và chết đói và khổ, bạn nhất định sụp
xuống chân ông ấy vì ông ấy là trung gian giữa Thượng đế và bạn. Bạn không biết
địa chỉ nào về nơi Thượng đế sống, ngài nói ngôn ngữ gì. Đó là tri thức chuyên
gia của tu sĩ. Ông ấy biết Thượng đế nói tiếng Phạn, và ông ấy không cho phép bạn
học tiếng Phạn nữa, vì nếu bạn học tiếng Phạn thế thì ông ấy sẽ không được cần
tới. Ông ấy biết Thượng đế nói tiếng Xi ry, tiếng Do Thái; ông ấy sẽ không cho
phép bạn học tiếng Xi ry và tiếng Do Thái. Nếu bạn học chúng thế thì ông ấy sẽ
bị phơi ra, bởi vì chẳng có gì trong tiếng Xi ry hay tiếng Do Thái hay tiếng Phạn,
chẳng cái gì có giá trị gì.
Nhưng nếu bạn không biết những
ngôn ngữ đó bạn vẫn còn là người dốt nát; và ông ấy liên tục giả vờ là người
trí huệ nhất. Ông ấy có thể liên tục dẫn bạn đi - người mù đang dẫn người mù
khác. Và quyền lực của ông ấy phụ thuộc vào bạn, và ông ấy đã trở nên rất tinh
ranh. Hàng thế kỉ khai thác đã cho ông ấy toàn thể mánh khoé, nghệ thuật, cái mẹo
của việc khai thác bạn.
Sigmund Steinberg, nhà nhập khẩu
nổi tiếng găng tay phụ nữ, bất ngờ ghé thăm giáo sĩ của ngôi đền của mình. Nhân
vật đó quá hài lòng khi gặp một giáo dân giầu có không thể tưởng, người thường
làm đóng góp nhiều thay cho điều ông ấy vắng mặt và nhiệt tâm tôn giáo. Tuy
nhiên, lần này, chuyến đi tới ngôi đền dành cho một lí do hoàn toàn tôn giáo, nếu
không nói là bất thường.
"Giáo sĩ ơi,"
Steinberg bắt đầu sau thái độ hoà nhã thông thường, "tôi tới đây để gặp
ông về ai đó gần gũi nhất và thân thiết nhất với tôi. Con chó xù nhỏ bé của
tôi, của riêng tôi, con chó đáng yêu của tôi, ba lần vô địch của tôi, giải ba
Tu viện Westminster Abbey, đang sắp tới tuổi mười ba Tisha B'Av, và tôi muốn,
giáo sĩ ơi, ông nên tỏ chức buổi lễ cho nó."
Giáo sĩ giật mình lùi lại.
"Nhưng ông Steinberg thân mến của tôi, điều đó là không thể được. Trong lịch
sử Do Thái giáo chưa bao giờ có chuyện như vậy. Nó sẽ là vụ bê bối. Ngôi đền sẽ
trở thành trò cười. Giáo phẩm của tôi sẽ bị rút lại. Hội phụ nữ từ thiện sẽ bị
giải tán. Chiến dịch xây nhà sẽ bị dừng lại. Người không phải là Do Thái sẽ như
cuồng loạn. Và ban giám đốc chắc sẽ tóm cổ tôi."
Steinberg thản nhiên. Không nhiều
hơn cái nháy mắt, ông ấy nói thẳng với giáo sĩ lần nữa. "Với cơ hội này, tôi
sẽ cúng dường cho ngôi đền số tiền, bằng tiền mặt, là năm nghìn đô la."
"Ông Steinberg ơi;' giáo
sĩ tươi cười, "sao ông không nói cho tôi ngay từ đầu rằng con chó là chó
Do Thái?"
Những người này đã trở nên thực
sự tinh ranh. Toàn thể nỗ lực của họ là vẫn còn trong quyền lực, và điều cần
thiết nhất để vẫn còn trong quyền lực, để vẫn còn giầu, để vẫn còn trong chi phối,
là giữ cho nhân loại khổ. Đó là chiến lược đơn giản; bất kì người nào có mắt đều
có thể thấy được nó. Cứ nghĩ về một thế giới nơi mọi người đều phúc lạc, cực lạc,
nơi mọi người đang sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc với điệu vũ và với bài
ca... Tôn giáo già của bạn sẽ còn lại được bao nhiêu? Bao nhiêu đền chùa và nhà
thờ và giáo đường sẽ có khả năng sống sót? Chúng sẽ bắt đầu biến đi như khói.
Khi khổ của bạn biến mất, cái gọi
là tôn giáo của bạn sẽ biến mất. Chúng là thuốc phiện cho mọi người; chúng đã từng
giữ cho bạn trong trạng thái vô ý thức tinh vi. Chúng đang cho bạn hi vọng lớn.
Những hi vọng đó không là gì ngoài ma tuý, còn nguy hiểm hơn bất kì ma tuý hoá
chất nào. Chúng đã đánh ma tuý cho toàn thể nhân loại.
Jesus nói, "Cho chúng con
bánh mì hàng ngày. Tha thứ cho chúng con về sự xúc phạm của chúng con."
Xúc phạm gì? Nhưng toàn thể tôn
giáo đã sống với ý tưởng về tội lỗi.
Và tội của Adam và Eve là gì? -
ở chỗ họ đã không vâng lời. Không vâng lời không phải là tội, không vâng lời là
một phần của trưởng thành. Từng đứa trẻ đều phải không vâng lời bố mẹ nó, sớm
hay muộn - và càng sớm càng tốt, vì cuộc sống là ngắn. Bạn phải không phí thời
gian của bạn. Người ta phải học cách nói không một cách dứt khoát, chỉ thế thì
một điểm nảy sinh khi người ta có thể nói có. Không có khả năng nói không,
không ai có khả năng nói có. Không vâng lời là nền tảng trong đó vâng lời thực
nở hoa.
Và nếu bất kì ai chịu trách nhiệm
cho tội lỗi nguyên thuỷ thế thì đó là Thượng đế, không phải là con rắn tội nghiệp
- nó là phúc lành lớn nhất của nhân loại, vị cứu tinh thực đầu tiên, vì nó đã
cám dỗ Adam và Eve và bảo họ không vâng lời. Nó đã là thầy đầu tiên. Không có
nó chắc đã không có nhân loại, không Jesus, không Phật, không Khổng Tử, không
Lão Tử. Toàn thể công trạng phải tính cho con rắn tội nghiệp này. Và nguyên
nhân của toàn thể tội này là bản thân Thượng đế - ngài đã cấm đoán...
Vườn Eden là vườn lớn. Chỉ có
hai cây; ngài sợ Adam và Eve có thể bắt đầu ăn quả của chúng. Một cây là cây
tri thức và cây kia là cây cuộc sống. Bây giờ, tại sao Thượng đế phải sợ họ biết
và sống?
Bạn có thể thấy toàn thể chiến
lược của tu sĩ. Ông ta sợ hai điều: việc biết và việc sống. Ông ta ngăn cản bạn
khỏi việc biết để cho ông ta vẫn còn là người biết, và ông ta ngăn cản bạn khỏi
việc sống để cho bạn bao giờ cũng sụp xuống chân ông ta cầu xin: "Cho
chúng con bánh mì hàng ngày." Ông ta không cho phép bạn sống một cách toàn
bộ, mãnh liệt. Ông ta cản trở bạn theo đủ mọi cách; ông ta làm què quặt bạn,
ông ta làm tê liệt bạn. Và toàn thể câu chuyện bắt đầu trong Vườn Eden.
Thượng đế dường như là tu sĩ thứ
nhất. Tại sao ngài sợ họ biết? Ngài đáng phải ban phúc lành thực sự cho họ chứ;
ngài đáng phải bảo Adam và Eve, "Điều đầu tiên các con phải làm là đi tới
hai cây này; chúng có giá trị nhất. Biết - biết cuộc sống trong tính toàn bộ của
nó, biết điều huyền bí của nó, thám hiểm đi. Đi từ cái biết tới cái không biết,
từ cái không biết tới cái không thể biết - đi trên cuộc hành hương dài. Không
cái gì nên bị bỏ lại mà không được biết. Các con nên trở thành một phần của
toàn thể điều huyền bí của vũ trụ này." Điều đó đáng là lời khuyên đầu
tiên của ngài nếu ngài đã thực sự yêu, từ bi.
Và ngài đáng phải bảo họ,
"Sống đi - và sống một cách đam mê vào, và sống một cách toàn bộ vào! Sống
một cách mãnh liệt, sống một cách cực lạc! Đây là hai cây các con không nên bỏ
lỡ."
Nếu mà tôi ở vị trí của ngài,
đây sẽ sẽ lời khuyên của tôi: "Sống dưới những cây này đi. Các con có thể
tận hưởng các cây khác bất kì lúc nào các con muốn - chỉ để thay đổi các con có
thể đi bất kì đâu - nhưng hai cây này không nên bị quên lãng." Thay vì bảo
họ điều này, Thượng đế nói, "Không được ăn từ cây tri thức." Tại sao?
Ngài có sợ rằng nếu Adam và Eve trở thành người biết thế thì họ sẽ tương đương
với ngài không? Ngài có sợ Adam và Eve trở thành chư Phật, được thức tỉnh
không?
Việc biết tới qua thiền, nhớ lấy.
Cây của việc biết là cây của thiền, và Thượng đế cấm thiền. Việc biết tới khi bạn
đi sâu hơn vào trong bản thể của bạn; khi bạn đã đạt tới chính cốt lõi, việc biết
bùng nổ. Bạn trở nên bị ngập với ánh sáng vô hạn.
Và cùng điều đó là đúng về việc
sống: bạn càng biết nhiều, bạn càng sống nhiều; bạn càng sống nhiều, bạn càng
biết nhiều. Chúng đi cùng nhau, tay trong tay, nhảy múa. Việc biết và việc sống
là hai mặt của cùng một đồng tiền; cả hai xảy ra cho thiền nhân. Nhưng tôn giáo
dựa trên sợ lại sợ cả hai.
Và đây là toàn thể giáo huấn của
tôi ở đây: biết và sống. Sống không sợ, biết không ngại.
Và con rắn dường như là tuyệt đối
đúng vì nó nói với Adam và Eve, "Thượng đế sợ đấy. Nếu các anh chị ăn từ
cây này các anh chị sẽ trở thành giống như các thượng đế - thế thì sẽ không có
tính cao siêu, các anh chị sẽ tương đương với Thượng đế. Và nếu các anh chị ăn
từ quả của cây cuộc sống, các anh chị sẽ trở thành bất tử, cũng như các thần là
bất tử. Và Thượng đế sợ. Ngài muốn giữ các anh chị trong sự khuất phục."
Bây giờ ai đã phạm tội? Ai đã
vi phạm - Thượng đế, hay Adam va Eve? Nhưng Jesus vẫn nghĩ dưới dạng của quá khứ
mục ruỗng. Ông ấy vẫn nghĩ rằng con người đã vi phạm.
Tôi không thấy... bất kì cái gì
bạn đang làm đều tự nhiên. Bạn phạm phải vi phạm nào? Bản năng mà bạn đang sống
được tự nhiên trao cho. Dục của bạn là món quà từ tự nhiên, niềm vui của bạn
trong thức ăn nuôi dưỡng là một phần của tự nhiên của bạn. Bạn muốn sống đẹp, bạn
muốn yêu và sống thoải mái. Bạn muốn có vườn đẹp quanh nhà bạn, bạn muốn có bể
bơi nước ấm. Bạn muốn yêu người đàn ông hay đàn bà. Tôi không thấy có vi phạm
nào. Bạn không phạm tội nào, bạn đơn giản tuân theo bản tính của bạn, xu hướng
tự phát của bạn.
Nhưng tôn giáo đã kết án bạn,
hoàn toàn kết án bạn. Họ đã kết án mọi thứ là tự nhiên, và qua kết án đó họ đã tạo
ra mặc cảm trong bạn. Toàn thể trái tim bạn đầy mặc cảm. Mặc cảm đó kéo bạn lại;
nó không cho phép bạn sống bất kì cái gì một cách toàn bộ. Nó không cho phép điệu
vũ của bạn đạt tới đỉnh của nó, cao trào của nó. Nó không cho phép bạn hát và
kêu và hân hoan. Nó kìm nén bạn.
Tôi không thể hỗ trợ cho bất kì
kiểu ý tưởng nào như vậy.
Jesus nói, "Dẫn chúng con
không bị cám dỗ..."
Ông ấy đang nói về cám dỗ gì?
Cám dỗ gì có đó? Cuộc sống đơn giản thế! Nhưng bạn có thể dán nhãn là cám dỗ,
thế thì chúng trở thành cám dỗ.
Chẳng hạn, tôi được sinh ra
trong gia đình người Jaina - không may, nhưng chẳng cái gì có thể được làm về
nó. Người ta phải chọn một quốc gia không may này khác. Mãi cho tới tám tuổi
tôi đã không nếm cà chua đáng thương nào, vì người Jaina là tuyệt đối ăn chay
và cà chua đáng thương có mầu của thịt - chỉ mầu sắc! Không có gì trong nó,
nhưng chính mầu sắc là đủ cho người Jaina cảm thấy kinh tởm. Cà chua không được
mang vào nhà tôi; tôi đã không nếm chúng.
Khi tôi được tám tuổi, tôi đi
ăn ngoài trời với vài người bạn Hindu. Tôi là người Jaina duy nhất và họ toàn
là người Hindu. Và mãi cho tới lúc đó tôi đã không ăn ban đêm nữa, vì người
Jaina không ăn ban đêm - đó là tội lớn vì trong đêm muỗi có thể rơi vào thức ăn
của bạn, sâu bọ nào đó có thể bò vào, và một cách không chủ ý bạn có thể ăn cái
gì đó đang sống. Điều đó sẽ lôi bạn xuống địa ngục. Cho nên người ta phải ăn
trong ngày khi ánh sáng là tuyệt đối rõ ràng. Người ta thậm chí phải không uống
nước trong đêm, vì trong đêm - ai biết? - không có nỗ lực có ý thức về phần bạn,
cái gì đó có thể bị giết.
Cho nên tôi đã không ăn trong
đêm và tôi đã không nếm món cà chua mãi cho tới mười tám tuổi. Chúng là cám dỗ
lớn. Tôi đã thấy cà chua ở chợ, và chúng thực sự cám dỗ - ngồi có tính thiền thế,
định tâm thế, tiếp đất thế. Khoai tây cũng không được phép trong gia đình người
Jaina vì chúng mọc dưới đất, và bất kì cái gì mọc trong bóng tối đều nguy hiểm
cho ăn vì nó sẽ mang bóng tối tới linh hồn bạn.
Khi tôi đi cùng nhóm ăn ngoài
trời này tới ga trên núi, tất cả bạn bè tôi đều thích thú lắm với cảnh núi non
và cái đẹp và lâu đài tới mức không ai vội vàng chuẩn bị thức ăn. Và tôi đã là
người lười từ chính lúc đầu - tôi không thể nấu thức ăn được. Tôi có thể nấu
nhiều thứ khác... nhưng tôi không thể nấu thức ăn được, thậm chí không nấu được
nước trà cho tôi. Cho nên tôi phải đợi cho bất kì khi nào họ quyết định.
Tôi cảm thấy đói - cuộc hành
trình, việc đi lại, và không khí tươi mát của vùng núi. Tôi cảm thấy đói và đêm
tới gần hơn, và tôi cũng cảm thấy sợ: "Cái gì sẽ xảy ra? Nếu họ nấu thức
ăn trong đêm, thế thì tôi sẽ phải ngủ không có thức ăn." Và dạ dầy tôi
đau.
Thế rồi họ bắt đầu nấu thức ăn.
Và cám dỗ lớn: cà chua, khoai tây, và mùi thơm của thức ăn. Tôi vẩn vơ giữa cám
dỗ và đức hạnh. Một khoảnh khắc tôi quyết định "Tốt hơn cả là đi ngủ một
đêm mà không ăn - người ta không thể chết được - thay vì chịu địa ngục và ngọn
lửa địa ngục chỉ vì vài quả cà chua và khoai tây."
Nhưng thế rồi cơn đói là quá
nhiều. Và thế rồi biện minh bắt đầu tới với tôi: nếu mọi bạn tôi đều xuống địa
ngục, tôi sẽ làm gì trên cõi trời? Tốt hơn cả là ở cùng bạn bè dưới địa ngục
hơn là ở cùng những thánh Jaina ngu xuẩn trên cõi trời. Ít nhất ở địa ngục mình
cũng có thể nấu cà chua, khoai tây, mình có thể ăn ngon, có đủ lửa. Thậm chí
tôi có thể nấu được ở đó!
Và tất cả họ đều thuyết phục
tôi: "Không có ai khác ở đây, và chúng tôi sẽ không nói với gia đình bạn
đâu. Không ai sẽ bao giờ đi tới biết rằng bạn đã ăn trong đêm, rằng bạn đã ăn
cà chua hay khoai tây."
Miễn cưỡng, ngần ngại, tôi đồng
ý. Nhưng tôi không thể ngủ được cho tới khi tôi nôn ra vào giữa đêm. Không ai
nôn cả - tất cả họ đều ngủ và ngáy - chỉ mỗi tôi nôn. Đó là do tâm lí của tôi,
vì tôi đã chịu đựng từ ý tưởng rằng tôi đã phạm tội. Không phải là cà chua làm
tôi nôn đâu, đó là thái độ của tôi. Và ngày hôm đó sự việc trở thành rõ ràng,
tuyệt đối rõ ràng, rằng bạn có thể sống cuộc sống một cách toàn bộ chỉ nếu bạn
bỏ mọi thái độ. Bằng không bạn sẽ sống một cách bộ phận, và sống một cách bộ phận
là không sống chút nào.
Tôi không thể hỗ trợ cho lời cầu
nguyện này.
Jesus nói, "Dẫn chúng con
không bị cám dỗ..."
Một điều là chắc chắn: rằng
Jesus đang cảm thấy cám dỗ này, bằng không sao có lời cầu nguyện này? Ông ấy cảm
thấy rằng Thượng đế đang dẫn ông ấy đi vào trong cám dỗ. Và nếu Thượng đế đang
dẫn đi, sao không buông xuôi? Thế thì lời cầu nguyện thực chắc đã là: "Dẫn
chúng con thực sự vào trong cám dỗ toàn bộ. Khi ngài dẫn đi, sao làm nó nửa vời?
Khi ngài đã quyết định dẫn đi, thế thì dẫn chúng con đi một cách toàn bộ!"
Ông ấy bị cám dỗ; lời cầu nguyện
của ông ấy là khẳng định tuyệt đối về cám dỗ của ông ấy. Và điều đó là tự nhiên
- ông ấy là con người hệt như bạn, sống động như bạn. Và ông ấy phải đã cảm thấy
mọi cái thích tự nhiên, cái không thích. Ông ấy phải đã yêu mọi thứ, ông ấy phải
đã ưa thích mọi thứ. Nhưng ông ấy sợ - quá khứ đè nặng lên ông ấy.
"Dẫn chúng con không bị
cám dỗ, nhưng giải thoát chúng con khỏi quỉ."
Không có quỉ, do đó không cần
được giải thoát khỏi bất kì cái gì. Chỉ có một thứ và đó là trạng thái vô ý thức,
không biết, vô nhận biết. Tôi sẽ không gọi nó là quỉ - nó là tình huống, thách
thức, phiêu lưu. Nó không phải là quỉ. Sự tồn tại không phải là quỉ, sự tồn tại
là cơ hội cho trưởng thành. Và, tất nhiên, cơ hội để trưởng thành là có thể chỉ
nếu bạn bị cám dỗ theo cả nghìn cách, nếu bạn được gọi bởi khát vọng không biết,
nếu ham muốn vô cùng trong này nảy sinh để khám phá... Và điều duy nhất mà có
thể ngăn cản bạn là vô thức, vô nhận biết. Điều đó nữa cũng là thách thức lớn -
để chinh phục.
Trở nên ý thức nhiều hơn, trở
nên nhận biết nhiều hơn, trở nên sống động hơn đi. Để cho mọi nước cam lồ của bạn
chảy. Đừng giữ bản thân bạn lại. Kính trọng bản tính của bạn, yêu bản thân bạn,
và đừng lo nghĩ về những thứ không cần thiết. Không lo nghĩ, đi vào trong chiều
dầy của cuộc sống, thám hiểm nó. Vâng, bạn sẽ phạm nhiều sai lầm - vậy thì sao?
Người ta học qua phạm sai lầm. Vâng, bạn sẽ đi vào trong nhiều sai sót - vậy
thì sao? Chính là chỉ bằng việc đi vào trong sai lỗi mà người ta đi tới cánh cửa
đúng. Trước khi người ta gõ và cánh cửa đúng, người ta phải gõ cả nghìn cánh cửa
sai. Đó là một phần của trò chơi, một phần của vở kịch.
Ông và bà Goldberg tằn tiện và
tiết kiệm để cho đứa con trai cả của họ vào đại học. Ít nhất, họ có tiền và quyết
định cho nó vào trường nội trú trí thức miền Đông tốt. Họ tiễn nó lên tầu hoả,
và nói lời chào tạm biệt nó đầy nước mắt.
Vài tháng sau, cậu trở về nhà
nhân dịp kì nghỉ Christmas. Bố mẹ quá vui mừng đón con họ Sammy quay về với họ.
Bà mẹ đón mừng cậu với: "Samelah, ồ, mừng quá gặp con."
"Mẹ ơi' cậu đáp, "đừng
gọi con là Samelah. Sau rốt, con là người lớn bây giờ, và con ước mẹ sẽ gọi con
là Samuel."
Bà ấy xin lỗi và hỏi, "Mẹ
hi vọng con chỉ ăn thức ăn kiêng trong khi con ở xa chứ?"
"Mẹ ơi, chúng ta đang sống
trong thời đại hiện đại, và điều hoàn toàn phi lí là bám lấy các tín ngưỡng thế
giới cổ. Con mê đắm với mọi kiểu thức ăn, dù ăn kiêng hay không ăn kiêng, và
tin con đi, tốt hơn cả là mẹ thôi nó đi nếu mẹ vẫn ăn kiêng."
"Được, nói cho mẹ, ít nhất
thỉnh thoảng con có đi tới giáo đường để đưa ra lời cầu nguyện cám ơn
không?"
Cậu con trai đáp, "Thực sự,
mẹ có cảm thấy một cách trung thực khi đi vào trong giáo đường mà mẹ giao thiệp
với số phần trăm lớn những người không phải Do Thái là điều đúng cần làm không?
Một cách trung thực, mẹ ơi, hỏi con điều đó thực sự là không công bằng."
Tại điểm này, bà Goldberg, nén
lại giận dữ, nhìn vào đứa con trai cả của mình và nói, "Nói cho mẹ,
Samuel, con vẫn còn được cắt bao qui đầu chứ?"
Quá khứ liên tục treo quanh bạn.
Nó là cầm tù. Nếu bạn là người Do Thái hay người Ki tô giáo hay người Hindu hay
người Jaina hay Phật tử, bạn không thực sự là người. Bạn chết rồi, bạn là cái
xác - dù có cắt bao qui đầu hay không.
Người ta trở nên sống động chỉ
khi người ta tự do hoàn toàn với quá khứ. Ở trong hiện tại là cách duy nhất để
sống động.
Prabodh, những lời cầu nguyện
này không là gì ngoài phóng chiếu và ham muốn của những người có xu hướng sợ sệt.
Tôi dạy bạn yêu chứ không sợ.
Trong mọi ngôn ngữ của thế giới,
người tôn giáo được gọi là sợ thượng đế. Điều đó là cách diễn đạt xấu; nó nên bị
bỏ đi. Điều không thể được cho người tôn giáo là sợ thượng đế vì người đó không
thể có sợ được. Người tôn giáo đơn giản sống một cách đáng yêu - không từ sợ.
Đây là tất cả những lời cầu
nguyện từ sợ:
"Cho chúng con bánh mì
hàng ngày. Tha thứ cho chúng con về sự xúc phạm của chúng con. Dẫn chúng con
không bị cám dỗ, nhưng giải thoát chúng con khỏi quỉ."
Bỏ mọi thứ này đi. Sống động
hơn chút ít đi, đương đại hơn chút ít đi.
Henry tham gia chuyến đi săn đầu
tiên của mình. Khi anh ta quay lại văn phòng của mình, đối tác của anh ta
Morris không thể đợi để nghe được tất cả về chuyến đi. Henry bảo anh ta,
"Này, tôi đi vào rừng cùng người hướng dẫn. Anh biết tôi, hai phút trong rừng,
tôi bị lạc. Tôi bước đi cực kì yên tĩnh, thì đột nhiên một con gấu lớn nhất mà
anh đã từng thấy đứng ngay trước tôi. Tôi quay xung quanh và chạy nhanh nhất có
thể được và con gấu kia, nó chạy thậm chí còn nhanh hơn.
"Ngay khi tôi cảm thấy hơi
thở nóng hổi của nó trên cổ tôi, nó trượt chân và ngã. Tôi nhảy qua suối và cứ
chạy, nhưng tôi mất hơi và chắc là con gấu đang lại gần tôi lần nữa. Nó gần như
ở trên tôi thì nó lại trượt chân và ngã. Tôi tiếp tục chạy và cuối cùng tôi thấy
bản thân mình ở chỗ trống của rừng. Con gấu đang chạy nhanh hết sức nó và tôi
biết tôi không còn cơ hội. Tôi thấy một thợ săn khác và kêu lên xin giúp đỡ và
ngay lúc đó con gấu lại trượt chân và ngã. Người hướng dẫn của tôi có thể nhắm
và anh ta bắn con gấu và giết nó."
Morris nói, "Henry, đó
đúng là một câu chuyện. Anh là người rất bạo dạn. Nếu điều đó xảy ra cho tôi,
tôi chắc đã vãi ra quần."
Henry nhìn anh ta và nhún vai,
"Morris, anh nghĩ gì về con gấu cứ trượt chân hoài?"
Con người đã sống trong sợ hãi
- đây là lúc đặt dấu chấm hết cho nó. Nhân loại cần bình minh mới, một cái nhìn
mới toàn bộ.
Jesus nói Thượng đế là yêu. Tôi
muốn thay đổi nó. Tôi muốn nói yêu là Thượng đế. Khi bạn nói Thượng đế là yêu,
yêu chỉ một trong các phẩm chất của Thượng đế; ngài có thể có các phẩm chất
khác: trí huệ, công bằng, vân vân. Với tôi, yêu là Thượng đế; tính thượng đế chỉ
là một trong các phẩm chất của yêu. Không có Thượng đế khác hơn hương thơm của
yêu. Nhưng hương thơm có thể nảy sinh chỉ trong thiền sâu sắc, không trong lời
cầu nguyện. Lời cầu nguyện bốc mùi của sợ.
Tôi biết hoàn toàn rõ rằng nói
cái gì ngược lại Jesus hay Phật hay Krishna làm tổn thương bạn, nhưng tôi không
thể đừng được nó. Nếu nó gây đau, nó gây đau. Và thay vì cảm thấy chua cay về
điều tôi nói, suy ngẫm về nó đi, thiền về nó đi. Vì tôi không quan tâm tới biện
minh chống lại bất kì ai. Tôi có tình yêu vô cùng với Jesus, Phật, Mahavira,
Krishna. Họ là những người đẹp, nhưng thời của họ đã chấm dứt rồi.
Chúng ta cần sáng suốt mới,
cánh đồng cỏ mới, chiều hướng mới. Và những chiều hướng mới này nhất định đi
ngược lại tâm trí cũ rích, mục ruỗng của chúng ta. Cho nên khi nó gây đau, nhớ
lấy: không phải là chân lí gây đau bạn - chính dối trá riêng của bạn mà bạn đã
từng níu bám vào mới gây đau. Bất kì khi nào bạn phải chọn giữa chân lí và dối
trá, dũng càm và chọn chân lí đi, vì đó là cách duy nhất để sống, cách duy nhất
để biết, cách duy nhất để hiện hữu.
..............................
0 Đánh giá