Chương 1. Bắt giữ nguyên lí thứ nhất

Chương 1. Bắt giữ nguyên lí thứ nhất

Price:

Read more

Nguyên lí thứ nhất - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 1. Bắt giữ nguyên lí thứ nhất

Một lần một sư mới hỏi một Thiền sư, "Thưa thầy, nguyên lí thứ nhất là gì?"
Không chần chừ Thầy đáp, "Nếu như ta mà nói cho ông, nó sẽ trở thành nguyên lí thứ hai."
Vâng. Nguyên lí thứ nhất không thể được nói ra. Điều quan trọng nhất không thể được nói ra, và điều có thể được nói ra sẽ không là nguyên lí thứ nhất. Khoảnh khắc chân lí được thốt ra, nó trở thành dối trá; chính việc thốt ra lời là việc làm sai lạc đi. Cũng vậy với Vedas, Kinh Thánh, và Koran, chúng chứa nguyên lí thứ hai, không phải là nguyên lí thứ nhất. Chúng chứa những lời dối trá, không phải là chân lí, vì chân lí không thể được chứa bởi bất kì lời nào dù là bất kì cái gì. Chân lí chỉ có thể được kinh nghiệm - chân lí có thể được sống - nhưng không có cách nào để nói nó.
Lời là tiếng vọng xa xôi, xa xăm của kinh nghiệm thực; và nó là xa xôi với cái thực tới mức nó thậm chí còn tồi hơn là cái không thực vì nó có thể cho bạn việc tin giả. Nó có thể cho bạn lời hứa giả. Bạn có thể tin vào nó, và đó là vấn đề. Nếu bạn bắt đầu tin vào giáo điều nào đó, bạn sẽ liên tục bỏ lỡ chân lí. Chân lí phải được biết bởi kinh nghiệm. Không niềm tin nào có thể giúp bạn dọc đường; mọi niềm tin đều là rào chắn. Mọi tôn giáo đều chống lại tôn giáo - nó phải vậy bởi chính bản chất của mọi sự. Mọi nhà thờ đều chống lại Thượng đế.
Nhà thờ tồn tại vì chúng đáp ứng cho nhu cầu nào đó. Nhu cầu này là: con người không muốn làm bất kì nỗ lực nào; con người muốn lối tắt dễ dàng. Niềm tin là lối tắt dễ dàng.
Con đường tới chân lí là gian nan; nó là nhiệm vụ khó khăn lên dốc. Người ta phải đi qua cái chết toàn bộ - người ta phải phá huỷ bản thân mình hoàn toàn - chỉ thế thì cái mới mới được sinh ra. Phục sinh chỉ có sau đóng đinh.
Để né tránh đóng đinh chúng ta đã tạo ra niềm tin. Niềm tin là rất rẻ. Bạn có thể tin và bạn vẫn còn như cũ. Bạn có thể liên tục tin. Và điều đó không yêu cầu thay đổi căn bản nào trong hình mẫu sống của bạn. Nó không yêu cầu bất kì thay đổi nào trong tâm thức bạn, và chừng nào tâm thức bạn còn chưa thay đổi, niềm tin chỉ là trò chơi. Bạn có thể chơi với nó, bạn có thể lừa dối bản thân bạn, nhưng nó sẽ không nuôi dưỡng bạn.
Quán tưởng rằng một đứa trẻ đang chơi trong vườn nhà, chơi với sư tử tưởng tượng, và thế rồi đột nhiên nó đối diện với một con sư tử thực vừa mới trốn khỏi vườn thú. Bây giờ nó không biết phải làm gì. Nó đơn giản hoảng sợ từ trí thông minh của nó. Nó đờ người ra; nó thậm chí không thể chạy được. Nó là hoàn toàn thoải mái với tưởng tượng, nhưng với cái thực nó không biết phải làm gì.
Đó là tình huống của tất cả những người liên tục chơi với niềm tin, khái niệm, triết lí, thượng đế học. Họ hỏi những câu hỏi chỉ để mà hỏi câu hỏi. Câu trả lời là điều cuối cùng họ quan tâm tới. Họ không muốn câu trả lời. Họ liên tục chơi với câu hỏi, và từng câu trả lời đều giúp cho họ tạo ra thêm các câu hỏi. Từng câu trả lời không là gì ngoài bàn đạp cho nhiều câu hỏi hơn.
Chân lí không phải là câu hỏi. Nó là cuộc truy hỏi! Nó không có tính trí tuệ; nó có tính tồn tại. Việc truy hỏi là đánh cược, đánh cược bằng cuộc đời bạn. Nó cần dũng cảm vô cùng. Niềm tin không cần dũng cảm. Niềm tin là cách thức của kẻ hèn. Nếu bạn là người Ki tô giáo hay người Hindu hay người Mô ha mét giáo, bạn là kẻ hèn. Bạn đang né tránh sư tử thực, bạn đang trốn chạy khỏi sư tử thực. Nếu bạn muốn đối diện với cái thực, thế thì không cần đi tới bất kì nhà thờ nào, không có nhu cầu đi tới bất kì tu sĩ nào, bởi vì cái thực bao quanh bạn bên trong và bên ngoài. Bạn có thể đối diện với nó - nó đã có đó rồi.
Tôi đã nghe:
Một Thiền sư, Shou-shan, được một đệ tử hỏi, "Theo kinh sách, mọi sinh linh đều có bản tính Phật; tại sao nó là vậy mà họ không biết nó?"
Shou-shan đáp, "Họ biết chứ!"
Đây là câu trả lời hiếm hoi, rất hiếm hoi, một câu trả lời lớn. Shou-shan nói, "Họ biết chứ! Nhưng họ né tránh nó." Đó không phải là câu hỏi về cách biết chân lí. Chân lí là ở đây, bạn là một phần của nó. Chân lí là bây giờ, không có nhu cầu đi bất kì đâu. Và nó đã từng ở đây từ lúc bắt đầu, nếu có bất kì bắt đầu nào, và nó sẽ ở đó cho đến cuối cùng, nếu như có bất kì cuối cùng nào. Và bạn đã từng né tránh nó. Bạn tìm cách tránh nó. Khi ai đó hỏi, "Đường tới chân lí là gì?" thực ra người đó đang hỏi, "Đường để tránh chân lí là gì?" Người đó đang hỏi, "Làm sao tôi có thể trốn thoát được?"
Bạn có thể đã không nghe nói:
Lão Bồ đề đạt ma tinh quái nói: "Mọi người đều biết đường, ít người bước nó, và những người không bước cứ kêu đều đều, 'Chỉ cho tôi con đường đi! Đường ở đâu? Cho tôi bản đồ! Nó là đường nào?' "
Những người không bước, họ liên tục đều đặn kêu và hô lên, "Đường ở đâu?" Và tất cả đều biết con đường này vì cuộc sống là con đường, kinh nghiệm là con đường. Sống động là con đường, có ý thức là con đường. Bạn sống động, bạn có ý thức. Đây là nguyên lí thứ nhất.
Nhưng nó không thể được nói ra, và tôi không nói nó!
Và bạn không nghe nó.
Chân lí, bởi chính bản chất của nó, là kinh nghiệm câm. Mọi kinh nghiệm đều câm vì chúng xảy ra chỉ trong im lặng sâu sắc. Nếu bạn yêu người đàn bà, tình yêu xảy ra trong im lặng sâu sắc. Nếu bạn tạo ra thơ ca, nó giáng xuống bạn trong im lặng sâu sắc. Nếu bạn vẽ bức tranh bạn biến mất. Hoạ sĩ không có đó, khi bức tranh được sinh ra, thậm chí không có người chứng kiến nó. Việc đó xảy ra trong im lặng hoàn toàn và tính một mình hoàn toàn.
Nếu bạn có đó thế thì bức tranh không thể có giá trị gì. Nếu nhà thơ có đó thế thì thơ ca sẽ không là gì ngoài thứ kĩ thuật. Nó sẽ có mọi qui tắc được hoàn thành, nó sẽ tuân theo văn phạm, qui tắc của giai điệu, nhưng sẽ không có thơ ca. Nó sẽ là cái xác chết. Nó sẽ không là người đàn bà thực; nó sẽ là một ni cô.
Tôi đã nghe:
Tại một khu cô lập của bãi biển Cannes một cô gái Pháp đẹp gieo mình vào biển. Một thanh niên từ khoảng cách xa để ý tới điều đó và lao vào trong nước để cứu cô ấy, nhưng quá trễ rồi. Anh ta lôi thân thể nửa trần truồng lên bờ và bỏ nó trên cát để đi tìm quan chức nào đó. Khi anh quay lại anh ta khiếp hãi khi thấy một người đang làm tình với cái xác.
"Thưa ông!" anh ta kêu lên, "người đàn bà đó chết rồi!"
"Trời đất!" người này lẩm bẩm, nhảy lên. "Tôi cứ tưởng cô ấy là ni cô."
Là sư hay là ni cô là chết rồi. Và có cả triệu cách để chết và không sống.
Chân lí bao quanh bạn. Nó ở trong không khí, nó ở trong hương thơm của hoa, nó là việc chảy của sông, nó ở trong lá xanh, nó ở trong các vì sao, nó ở trong cát bụi, nó ở trong bạn. Chỉ chân lí hiện hữu! Nhưng bạn liên tục né tránh nó và bạn liên tục hỏi các câu hỏi - Làm sao đạt tới chân lí? Bản đồ ở đâu? Nó là đường nào? Và cho dù bản đồ được trao cho bạn, bản đồ không giúp bạn theo bất kì cách nào. Ngay chỗ đầu tiên bản đồ không thể được cho, vì chân lí liên tục thay đổi. Nó không phải là hiện tượng tù đọng; nó liên tục thay đổi. Nó là sống động, nó là việc thở. Nó chưa bao giờ như cũ; nó chưa bao giờ là một cho hai khoảnh khắc tiếp nối nhau.
Ông già Heraclitus nói, "Ông không thể bước vào trong cùng một dòng sông hai lần." Thực ra, bạn thậm chí không thể bước vào dòng sông một lần; sông đang chảy, sông đang chảy nhanh thế. Và không chỉ sông đang chảy, bạn đang chảy. Bạn không thể bước vào trong cùng một dòng sông hai lần: sông thay đổi. Bạn không thể bước vào trong cùng một dòng sông hai lần: bởi vì bạn thay đổi.
Chân lí có tính động. Chân lí không phải là cái gì đó chết. Đó là lí do tại sao nó không thể được chứa trong lời. Khoảnh khắc bạn thốt ra nó, nó đã trôi qua rồi, nó đi ra bên ngoài, nó không còn như cũ nữa. Khoảnh khắc bạn nói nó là vậy, nó không còn là vậy nữa. Lời tụt lại sau.
Để hiện hữu cùng chân lí chỉ có một khả năng: vứt bỏ lời. Ngôn ngữ tụt lại sau. Ngôn ngữ là què quặt. Chỉ im lặng mới có thể đi cùng chân lí, tay trong tay. Chỉ im lặng mới có thể đi cùng chân lí. Chỉ im lặng mới có thể nhanh thế bởi vì im lặng không có trọng lượng để mang. Lời bị chất tải; chúng mang trọng lượng. Cho nên khi bạn đang mang lời, các thượng đế học lớn trong đầu bạn, những trừu tượng lớn, thế thì bạn không thể bước đi cùng với chân lí được. Để bước đi cùng chân lí người ta phải vô trọng lượng. Im lặng là vô trọng lượng; nó không có gì để mang. Im lặng có cánh. Cho nên chỉ trong im lặng chân lí mới được biết tới, và chỉ trong im lặng chân lí mới được truyền được trao.
Sư mới hỏi Thầy:
"Thưa thầy, nguyên lí thứ nhất là gì?"
Anh ta phải đã là người tập sự, người mới bắt đầu; bằng không câu hỏi này là ngu xuẩn, câu hỏi này là ngu xuẩn. Hoặc người ngu có thể hỏi nó hoặc một triết gia có thể hỏi. Câu hỏi này là vô nghĩa bởi vì "thứ nhất" nghĩa là điều nền tảng nhất. Tâm trí không thể chứa được nó, bởi vì nó chứa tâm trí! "Thứ nhất" nghĩa là cái cơ sở; nó ở trước tâm trí, cho nên làm sao tâm trí có thể hiểu được nó? Tâm trí bắt nguồn từ nó, tâm trí là sản phẩm phụ của nó. Con không thể biết được bố; bố có thể biết con. Thực tại có thể biết bạn, nhưng bạn không thể biết thực tại. Bộ phận không thể biết được cái toàn thể; cái toàn thể có thể biết cái bộ phận. Và bộ phận không thể chứa được cái toàn thể. Bây giờ tâm trí là bộ phận rất tí hon. Nó không thể chứa được tính bao la của thực tại. Vâng, người đã hỏi phải đã là người mới.
"Thưa thầy, nguyên lí thứ nhất là gì?"
Và Thầy nói:
"Nếu ta nói cho ông, nó sẽ trở thành nguyên lí thứ hai. "
Thế thì nó sẽ là tiếng vọng, nó sẽ là phản xạ, nó sẽ là ảnh qua gương.
Bạn có biết bạn là ai không? Bạn không biết, nhưng bạn biết ảnh qua gương. Bạn biết tên bạn, bạn biết địa chỉ nhà bạn, bạn biết tên của gia đình bạn, đất nước, tôn giáo, đảng phái chính trị bạn thuộc vào. Bạn biết mặt bạn được phản xạ trong gương. Bạn không biết mặt thực của bạn. Bạn chưa đương đầu với mặt nguyên thuỷ của bạn. Các Thiền sư liên tục kiên trì, họ liên tục gõ búa lên đầu đệ tử của họ, "Nhìn vào mặt nguyên thuỷ của ông - mặt mà ông đã có ngay cả trước khi bố ông được sinh ra, mặt mà ông sẽ có khi ông chết, mặt mà chính là của ông, của ông từ nguyên thuỷ." Mọi điều chúng ta biết về mặt của mình đều không thực sự là mặt của chúng ta. Nó là mặt nạ của thân thể, mặt nạ của tâm trí. Chúng ta không biết ai sống trong thân thể. Chúng ta biết chân lí như thứ gián tiếp, được vay mượn.
Bất kì khi nào cái gì đó được vay mượn nó đều trở thành xấu. Chỉ kinh nghiệm trực tiếp mới đẹp, vì nó giải thoát. Thứ gián tiếp là xấu vì nó trở thành tù túng. Nếu bạn trở nên có tính tôn giáo bạn sẽ được giải thoát. Nếu bạn trở thành người Ki tô giáo hay người Hindu hay người Mô ha mét giáo, bạn sẽ trong tù túng. Mohammed được giải phóng vì với ông ấy Hồi giáo đã là kinh nghiệm trực tiếp. Jesu cũng vậy được giải thoát vì với ông ấy, kinh nghiệm của ông ấy là kinh nghiệm của ông ấy - đích thực của ông ấy. Phật được giải thoát; ông ấy tới theo kinh nghiệm. Nó không được trao tay cho ông ấy bởi ai đó khác - nó không được vay mượn, nó không được nghĩ ra, nó không phải là suy luận tam đoạn luận, nó không phải là suy diễn. Nó là kinh nghiệm!
Cẩn thận với suy diễn. Bạn đã được dạy suy diễn để tránh kinh nghiệm. Có những người nói, "Thượng đế tồn tại bởi vì nếu Thượng đế không có đó, ai sẽ tạo ra thế giới? Thượng đế phải tồn tại bởi vì thế giới tồn tại."
Mới hôm nọ tôi đã đọc một câu chuyện về một giáo sĩ. Chắc phải hoàn toàn không sáng tỏ gì. Các giáo sĩ đều giống điều đó - các tu sĩ. Một người tới giáo sĩ này. Người này là một người vô thần, và người đó nói, "Tôi không tin vào Thượng đế, và ông nói về Thượng đế. Bằng chứng là gì?" Và giáo sĩ nói, "Ông tới sau bẩy ngày đi, và tới mà mặc bộ com lê mới vào." Người này nói, "Nhưng điều đó thì liên quan gì tới câu hỏi của tôi?" Giáo sĩ nói, "Nó có cái gì đó liên quan tới điều đó đấy. Ông cứ đi tới thợ may đi, chuẩn bị bộ com lê mới, và tới sau bẩy ngày."
Người này tới, ngần ngại, bởi vì người đó không thể thấy được mối quan hệ nào giữa câu hỏi của mình và câu trả lời đã được cho. Nhưng người đó vẫn tới; người đó mặc bộ com lê mới. Giáo sĩ nói, "Ai đã làm bộ com lê này?" Và người này nói, "Ông có điên không? Ông đang hỏi kiểu câu hỏi gì vậy? Tất nhiên là thợ may rồi." Giáo sĩ nói, "Bộ com lê ở đây; nó chứng minh rằng thợ may tồn tại. Không có thợ may bộ com lệ sẽ không ở đây. Và đấy là trường hợp với thế giới. Thế giới là đây: phải có thợ may cho nó, đấng sáng tạo chứ."
Đây là suy diễn.
Đổi cảnh. Trong một làng Ấn Độ nhỏ một nhà huyền môn đang ngồi cùng các đệ tử của mình. Họ ngồi một cách im lặng; có im lặng mênh mông. Nó là satsang - các đệ tử đang uống sự hiện diện của thầy. Và một người vô thần tới, một học giả, một nhà logic nổi tiếng, và người đó nói, "Tôi đã tới để hỏi một câu hỏi. Bằng chứng về Thượng đế là gì?" Nhà huyền môn mở mắt ra, và ông ấy nói, "Nếu ông muốn bằng chứng về Thượng đế, nhìn vào trong mắt những người sùng kính đi. Không có bằng chứng khác."
Thượng đế tồn tại trong con mắt của người sùng kính. Thượng đế tồn tại trong cái nhìn của những người yêu. Nó là kinh nghiệm về cốt lõi sâu nhất của bản thể bạn, trái tim. Không có bằng chứng khác. Thượng đế không phải là khái niệm. Thượng đế là thực tại, là kinh nghiệm, kinh nghiệm chủ thể sâu sắc, kinh nghiệm sâu sắc nhất. Tất cả các cái khác đều là ngoại vi. Thượng đế là kinh nghiệm về trung tâm bên trong nhất của bạn. Khi bạn được định tâm bạn biết.
Nhưng bạn đã được dạy tin vào Thượng đế của các triết gia. Đó là cách để né tránh Thượng đế thực! Thượng đế thực là rất hoang dã! Thượng đế thực là rất điên khùng! Thượng đế thực là rất không biết và không thể nào biết được. Và Thượng đế thực không thể bị kiểm soát. Thượng đế thực có thể sở hữu bạn; bạn không thể sở hữu được cái thực. Đó là nỗi sợ: tâm trí bao giờ cũng sợ bất kì cái gì mà có thể sở hữu nó. Tâm trí liên tục giở trò chơi với lời, ý tưởng, triết lí. Nó có thể vẫn còn là chủ ở đó. Với cái giả, tâm trí là chủ; với cái thực, tâm trí trở thành tớ, và tâm trí không muốn trở thành nô lệ. Cho nên tâm trí hoàn toàn mãn nguyện với cái gián tiếp.
Thượng đế của bạn là gián tiếp. Yêu của bạn là gián tiếp. Thơ của bạn là gián tiếp. Múa của bạn là gián tiếp. Hát của bạn là gián tiếp. Và tất nhiên mọi thứ gián tiếp làm cho bạn thành gián tiếp; thế thì bạn mất mọi tính nguyên bản.
Tôn giáo không liên quan gì tới logic. Tôn giáo có cái gì đó liên quan tới nguyên lí thứ nhất. Logic xử trí cho cái gián tiếp. Logic xử trí với đồ đồng nát, đã dùng rồi - được nhiều người dùng. Logic xử lí với suy diễn. Và nhớ, nó là tốt khi có liên quan tới thế giới con người của các rác rưởi trí tuệ; khoảnh khắc bạn đi ra ngoài biên giới đó logic thất bại hoàn toàn, nó ngã sóng soài trên đất.
Tôi đã nghe một giai thoại rất hay:
Đoàn đi săn đã cắm trại trong lãnh thổ nguy hiểm và để tự bảo vệ mình khỏi thú hoang họ dựng hàng rào cao quanh trại. Để thực sự chắc chắn, họ đào một hố sâu quanh hàng rào. Một tối một thành viên của nhóm, là một giáo sư triết học và nhà logic nổi tiếng, bất cẩn đi ra ngoài đi dạo buổi tối mà không có súng và bị một con sư tử tấn công. Ông ta bỏ chạy trở về trại với sư tử đuổi theo sau và ngã nhào xuống hố. Bạn ông ta bên trong nghe thấy tiếng la hét thất thanh từ bên ngoài, và khi họ chạy ra để xem họ thấy người đáng thương này - triết gia đáng thương này - đang chạy vòng trong hố bị sư tử đuổi theo sau. "Coi chừng, nó ở bên phải đằng sau anh đấy," họ la hét xuống cho ông ta.
"Được rồi," triết gia kêu lên về phía sau. "Tôi đang chạy một vòng trước nó rồi."
Logic là vô nghĩa khi có liên quan tới sống. Sống là không logic chút nào; sống là phi logic. Logic là do người làm ra, được cái chết tạo ra bởi tâm trí con người. Sống là ngớ ngẩn.
Cho nên nếu bạn đi qua suy diễn bạn sẽ đạt tới cái gián tiếp. Nếu bạn đi qua kinh nghiệm bạn sẽ đạt tới cái trực tiếp.
Và tôn giáo là gốc rễ. Nhà thờ không gốc rễ. Từ "radical-gốc rễ " nghĩa là "thuộc vào gốc rễ". Tính tôn giáo là gốc rễ, tôn giáo là nổi dậy. Và nhà thờ không có tính nổi dậy; họ là chính thống. Do đó, tôi sẽ nhắc lại lần nữa, mọi nhà thờ đều chống lại tôn giáo. Mọi cái gọi là người tôn giáo đều chống lại tôn giáo. Họ quan tâm tới thực thể giả; họ quan tâm tới đồng tiền giả, tiền giả mạo. Đó là lí do tại sao nhiều người thế có vẻ có tính tôn giáo và thậm chí không có một dấu vết nào của tôn giáo trên thế gian. Nhiều người thế nói về Thượng đế, nhưng nó vẫn còn là nói chuyện trống rỗng.
Bạn đã bao giờ cảm thấy Thượng đế chưa? Bạn đã nghe thấy từ này lặp đi lặp lại và lặp đi lặp lại. Bạn phát chán với từ này. Nó đã gần như trở thành từ bẩn thỉu. Từ chính thời thơ ấu mọi người đã từng ước định bạn về từ này. Bạn đã bao giờ có thoáng nhìn nào về Thượng đế không?
Đây là cái gì đó rất kì lạ. Làm sao chúng ta có thể bỏ lỡ được ngài? Nếu ngài là tính toàn bộ, nếu ngài là ở khắp chốn, làm sao chúng ta có thể bỏ lỡ ngài được? Làm sao đã bao giờ việc bỏ lỡ ngài trở thành có thể cho chúng ta được? Chúng ta phải đã từng làm công việc lớn lao để bỏ lỡ ngài. Chúng ta phải làm nhiều việc để bỏ lỡ ngài. Chúng ta phải thực sự né tránh ngài. Chúng ta phải tạo ra nhiều rào chắn và cản trở và chướng ngại để cho ngài không thể đạt tới chúng ta được.
Và thế rồi những từ trống rỗng này: Thượng đế, tình yêu, lời nguyện. Toàn những từ đẹp đẽ đã trở thành trống rỗng. Mọi thứ xấu xí là rất thực. Chiến tranh là rất thực; yêu là rất không thực. Tính điên là rất thực; thiền là rất không thực. Cái đẹp không có đó chút nào; cái xấu, ở mọi nơi. Bạn có thể bắt gặp cái xấu bất kì khoảnh khắc nào. Và Thượng đế là đẹp, Thượng đế là chân lí, Thượng đế là yêu.
Vậy thì cái gì đã xảy ra?
Chúng ta đã được huấn luyện về những từ trống rỗng, và chúng ta đã trở nên được mãn nguyện với những từ trống rỗng này.Vứt bỏ việc mãn nguyện này đi! Nếu bạn thực sự muốn biết cái gì đang đó, trở nên không hài lòng với mọi điều bạn đã từng được dạy, trở nên không hài lòng với mọi điều bạn đã được giáo dục! Trở nên không hài lòng với giáo dục của bạn, với xã hội của bạn, với cấu trúc quyền lực quanh bạn, nhà thờ, các tu sĩ. Trở nên không hài lòng đi! Trở nên không hài lòng với tâm trí riêng của bạn. Chỉ trong không hài lòng đó mà một khoảnh khắc tới khi bạn trở nên có khả năng vứt bỏ mọi tâm trí này và mọi cái vô nghĩa này cùng nó... và đột nhiên Thượng đế có đó, nguyên lí thứ nhất có đó.
Một thanh niên ngây thơ đã sống cuộc sống được đùm bọc chung cuộc quyết định anh ta không thể sống như thế thêm nữa. Anh ta thu xếp cuộc hẹn với bác sĩ và trút ra toàn thể bầu tâm sự.
"Đó là cô gái này mà tôi đã đi cùng," anh ta nói. "Tôi ngờ cô ấy nhịn ăn, nhưng tôi chưa bao giờ mơ cô ấy là người điên vì dục. Mọi đêm bây giờ trong nhiều tuần liên tiếp đến cuối, tôi cố ngừng chuyện lãng mạn, nhưng tôi đã không có đủ sức mạnh ý chí. Tôi có thể làm gì được? Sức khoẻ của tôi không thể duy trì được nhịp điệu."
"Tôi hiểu," bác sĩ nói một cách dứt khoát. "Kể cho tôi điều xảy ra; anh có thể tin cậy tôi."
"Thế này, mọi đêm tôi lái xe đưa cô ấy đi trong xe của tôi. Chúng tôi đậu xe ở phố hẻo lánh nào đó. Thế rồi cô ấy bảo tôi choàng cánh tay quanh cô ấy. Và thế rồi, mọi đêm, cô ấy với qua và giữ tay tôi."
"Rồi sao?"
"Ông ngụ ý gì với 'rồi sao'?" anh thanh niên hổn hển. "Có gì thêm nữa sao?"
Đó là điều đã xảy ra cho tôn giáo.
Khoảnh khắc từ "tôn giáo" được thốt ra bạn nhớ tới những mặt dài trong nhà thờ, chính các tu sĩ có vẻ buồn bã, chính các nhà thượng đế học rất nghiêm trang, cố chẻ đôi sợi tóc, chặt chẻ các từ trừu tượng, chẳng ai biết tại sao, để làm gì. Tôn giáo bị phá vỡ. Tôn giáo của các triết gia bị phá sản. Tôn giáo của người trí thức không còn liên quan nữa; nó đã mất mọi liên quan.
Tôn giáo cũ chết rồi! Và điều tốt là nó chết. Thượng đế cũ chết rồi! Và điều tốt là nó chết vì bây giờ cánh cửa mở ra và chúng ta có thể tìm Thượng đế mới, một Thượng đế thực hơn, không có tính quan niệm, nhiều tính tồn tại hơn, không triết lí, một Thượng đế có thể được thấy, được yêu, được sống, một Thượng đế có thể biến đổi cuộc sống của bạn, một Thượng đế thực sự là cuộc sống và không gì khác.
Một loại tôn giáo khác toàn bộ được cần trên thế giới, một tôn giáo ở mức độ sâu nhất, một tôn giáo có máu, có cuộc sống, một tôn giáo có trái tim vẫn còn đập. Tôn giáo cũ đơn giản chết, và mọi người đang tôn thờ cái xác. Và những người mang cái xác này, dần dần, trở thành cũng giống như cái xác họ đang mang.
Nguyên lí thứ nhất nghĩa là tôn giáo ở mức độ sâu nhất, tôn giáo mà bạn có thể kinh nghiệm trong cốt lõi bên trong nhất của bạn, trong lãnh thổ của bản thể bạn. Bạn là điện thờ cho nguyên lí thứ nhất. Không Kinh Thánh, không Koran, không Veda. Bạn là điện thờ cho nguyên lí thứ nhất. Cho nên cách duy nhất để đạt tới cái thực là đi vào bên trong, là đi vào trong. Quay vào trong.
Đó là điều thiền tất cả là gì. Đó là lí do tại sao Thiền không quan tâm tới bất kì giáo điều nào. Nó quan tâm tới việc giúp bạn để làm nổi bật bản thể riêng của bạn.
Khi tổ thứ năm của Thiền, Hoằng Nhẫn, được hỏi tại sao ông ấy đã chọn Huệ Năng làm người kế thừa của mình trong số năm trăm sư trong tu viện của ông ấy, ông ấy đáp: "Bốn trăm chín mươi chín đệ tử của ta đã hiểu Phật giáo rất rõ, và duy nhất Huệ Năng đã không có hiểu biết về nó dù là bất kì cái gì. Ông ấy không phải là người để được đo bằng bất kì chuẩn thông thường nào. Do đó, y bát của truyền trao đích thực được trao cho ông ấy."
Bởi vì ông ấy "không có hiểu biết về nó dù là bất kì cái gì". Hiểu biết trí tuệ không phải là hiểu biết. Nó là lừa dối, nó là ảo tưởng, nó là mơ, nó là cái thay thế. Bởi vì bạn đang bỏ lỡ cái thực và bởi vì bạn không đủ dũng cảm để chấp nhận sự kiện là bạn đang bỏ lỡ cái thực, bạn thay thế nó. Đó là hoa nhựa. Bạn thay thế nó bằng thứ giả và thế rồi bạn cảm thấy rất thoải mái. Bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn có nó. Và bạn không có nó! Tay bạn trống rỗng.
Bốn trăm chín mươi chín đệ tử đó của Hoằng Nhẫn đều là các học sĩ. Trong nhiều năm họ đã nghiên cứu, họ đã nghiên cứu mọi kinh sách. Họ có mọi kinh sách trên lưỡi mình. Và ông ấy đã chọn một người không có hiểu biết dù nó là bất kì cái gì. Người mà ông ấy chọn, Huệ Năng, đã không được biết tới chút nào trong thiền viện. Thậm chí không ai đã nhận biết rằng ông ấy đã tồn tại ở đó.
Khi Huệ Năng đã tới với Thầy, Thầy đã hỏi ông ấy một điều: "Ông có thực sự muốn biết không? Ông có muốn không? Ông có muốn biết về chân lí không, hay ông muốn biết bản thân chân lí?" Và Huệ Năng nói, "Tôi sẽ làm gì bởi việc biết về chân lí? Cho tôi cái thực đi." Và Thầy nói, "Thế thì vào bếp và dọn sạch gạo cho khỏi lộn xộn - và đừng bao giờ tới ta lần nữa. Bất kì khi nào khoảnh khắc đúng tới ta sẽ gọi ông."
Mười hai năm trôi qua, và Huệ Năng đơn giản làm việc trong bếp, ở hậu phòng. Mọi người thậm chí đã không biết về ông ấy. Không ai biết tên ông ấy. Ai bận tâm nghĩ về một người đơn giản cứ làm việc trong bếp từ sáng tới muộn trong đêm? Thiền viện đã không nhận biết. Đã có những học sĩ lớn, người nổi tiếng; trên khắp Trung Quốc tên của họ đều được biết tới - có những lễ hội trong đạo tràng. Ai bận tâm tới Huệ Năng?
Mười hai năm trôi qua, và thế rồi một hôm Thầy tuyên bố, "Thời gian của ta đã tới và ta sẽ rời khỏi thế giới này, cho nên ta phải chọn một đệ tử làm người kế tục của ta. Bất kì người nào nghĩ bản thân mình sẵn sàng, có khả năng trở thành người kế tục của ta, phải viết ra bốn câu thơ ngay trước cửa phòng ta để chỉ ra hiểu biết của mình. Học sĩ lớn nhất tới đó trong đêm và viết bốn dòng, những dòng hay, thực sự hay, rất bản chất về nguyên lí thứ hai. Bạn không thể lên cao qua tâm trí hơn điều đó. Ông ấy viết: "Tâm trí tựa gương. Bụi tụ lên nó. Lau sạch bụi, và ông biết cái đang đó." Đúng hoàn hảo, tuyệt đối được. Cái gì hơn có thể có đó?
Toàn thể thiền viện xôn xao. Mọi người thảo luận, tranh cãi liệu Thầy có chọn người này làm người kế tục hay không. Và mọi người đều cố cải tiến nó, nhưng không ai có thể tìm được cái gì sai trong nó. Không có gì sai...
Đó là một trong những điều khó nhất về trí tuệ. Cái gì sai trong hoa nhựa? Không cái gì sai. Theo một cách nào đó - trong nhiều cách - nó có thể tốt hơn hoa thực. Hoa thực được sinh ra buổi sáng và đến tối nó qua rồi. Hoa nhựa ổn định hơn, thường hằng hơn - cho ý tưởng về cái vĩnh hằng! Hoa thực là nhất thời. Hoa thực được sinh ra và chết đi, và hoa nhựa không biết tới chết. Nó là cái gần nhất mà bạn đi tới cái vĩnh hằng. Và cái gì sai trong nó? Nó có thể có nhiều mầu sắc hơn cái thực - có thể có nhiều mầu sắc hơn vì nó ở trong tay bạn để làm nó như vậy. Và bạn có thể làm nó thơm nữa; không có vấn đề gì về điều đó. Nhưng cái gì đó cơ bản bị thiếu; nó là chết.
Không ai có thể tìm ra cái gì sai. Và mọi người đều cố cải tiến nó, nhưng họ toàn là những trí thức. Bạn không thể cải tiến nhiều hơn điều đó; đây là điểm cuối cùng mà tâm trí có thể với tới. Và điều đó dường như logic: " Tâm trí tựa gương. Bụi tụ lên gương và thế thì nó không thể phản xạ được" - đó là điều đã xảy ra cho tâm trí.
Thế rồi hai, bốn sư thảo luận về nó, và họ đi qua Huệ Năng, đang làm công việc trong bếp. Ông ấy nghe thấy điều đó - họ đang nói về những câu hay này, điều bản chất của mọi kinh sách - và ông ấy cười. Trong mười hai năm không ai đã bao giờ thấy ông ấy cười. Ông ấy cười. Những sư kia nhìn ông ấy, và họ nói, "Cái gì? Sao ông cười?" Và ông ấy nói, "Toàn điều vô nghĩa. Điều đó không đúng." Họ không thể tin được vào tai họ. Người này, người giã gạo, trong mười hai năm chỉ giã gạo... Không ai đã bao giờ thấy ông ấy ngay cả đang thiền.
Làm sao bạn có thể thấy Deeksha đang thiền? Không thể được.
Và người ta chẳng bao giờ biết... Người này, đã trở nên chứng ngộ hay cái gì đó? Nhưng họ không thể tin được điều đó. Và họ là các học sĩ, cho nên họ cười vào cái ngớ ngẩn của nó, và họ nói, "Mọi học sĩ lớn đều có đó, và ông, người giã gạo, trong mười hai năm không ai đã trông thấy ông đọc kinh sách, nghiên cứu - không ai đã bao giờ thấy ông ngồi bên cạnh Thầy, truy hỏi về bất kì cái gì - ông có thể cải tiến nó được sao?" Ông ấy nói, "Tôi có thể làm được, nhưng có một vấn đề. Tôi không biết viết. Tôi biết từ mười hai năm trước, tôi vẫn thường viết một chút, nhưng tôi đã quên."
Điều này xảy ra, việc dỡ bỏ này xảy ra. Dỡ bỏ là quá trình trở nên được chứng ngộ. Vì bạn đã học những cách sai, và những cách sai đó là rào chắn, chúng phải được dỡ bỏ. Bạn được sinh ra đã chứng ngộ, và thế rồi bạn bị buộc vào trong không chứng ngộ. Thế rồi bạn được ước định cho một xã hội không lành mạnh. Thế rồi bạn bị ép buộc phải điều chỉnh theo xã hội không lành mạnh. Nếu bạn vẫn còn khổ không có gì ngạc nhiên trong điều đó. Bạn sẽ vẫn còn khổ bởi vì đây không phải là bản tính thực của bạn. Đây không phải là việc nở hoa của bản thể bạn.
Cho nên ông ấy nói, "Tôi không biết viết. Tôi đã hoàn toàn quên mất rồi. Nếu ông biết viết, tôi có thể nói cái gì đó; ông đi và viết ra nó." Và ông ấy đã không đi tới đó; ông ấy đơn giản nói, "Tâm trí không là gương chút nào. Bụi có thể đọng vào đâu? Người biết nó là biết nó."
Tâm trí không phải là gương. Bụi có thể đọng ở đâu? Người đi tới biết điều này phải đã biết, đã nhìn vào trong cốt lõi sâu nhất của bản thể mình.
Và khi những lời này được viết lên cửa nhà Thầy, Thầy trở nên rất giận. Nghe cho chăm chú vào. Thầy trở nên rất giận. Thầy nói, "Đem ngay Huệ Năng này tới, và ta sẽ đánh anh ta." Và các học sĩ rất hài lòng; họ nói, "Đó là cách đáng phải vậy. Đem thằng cha đó lại."
Anh chàng này được đem tới, và Thầy đưa anh ta vào bên trong và nói với anh ta, "Vậy là ông đã có được nó! Bây giờ ông trốn khỏi thiền viện đi. Đây là y bát của ta, ông là người kế tục ta. Nhưng nếu ta nói điều đó cho mọi người, họ sẽ giết ông. Việc chấp nhận người giã gạo làm trưởng thiền viện sẽ là quá nhiều ngược với bản ngã của họ. Ông đơn giản trốn đi. Đó là lí do tại sao ta giận, ta xin lỗi. Ta phải như vậy. Ông đơn giản trốn đi khỏi thiền viện này xa nhất có thể được. Ông là người kế tục của ta, nhưng những người này sẽ giết ông."
Các học giả là rất, rất tham vọng và chính trị. Bạn có thể đi tới bất kì đại học nào và bạn có thể thấy. Bạn có thể đi tới bất kì viện hàn lâm nào và bạn có thể thấy. Bạn sẽ không bao giờ thấy mọi người ở bất kì chỗ nào khác nói xấu sau lưng nhiều như trong đại học. Từng giáo sư đều chống lại tất cả mọi người, và từng người đều cố kéo mọi người khác xuống, và từng người đều nghĩ mình là người duy nhất có khả năng là phó hiệu trưởng hay hiệu trưởng. Và tất cả đều là kẻ ngu.
Huệ Năng này đã trốn đi. Trong hai, ba ngày mọi người mới có được ý tưởng rằng cái gì đó đã xảy ra. Huệ Năng mất, và y bát của thầy bị mất. Họ bắt đầu tìm ông ấy. Học sĩ lớn nhất, người đã viết những câu đầu tiên, đi tìm. Huệ Năng bị bắt trong rừng, và Huệ Năng khi bị bắt đã nói, "Ông có thể lấy y bát này. Ta không quan tâm tới y bát chút nào; cái này tuyệt đối không cần thiết. Ta hài lòng với giã gạo. Bây giờ ta đang cố trốn thoát và ẩn trốn chẳng vì lí do gì. Ông lấy y bát đi."
Ông ấy bỏ y bát trên mặt đất, và học sĩ này cố nhặt lấy nó, nhưng nó quá nặng. Ông ta không thể nhặt được nó. Ông ta ngã ra đất vã mồ hôi, và ông ta nói với Huệ Năng, "Tôi xin lỗi. Tôi đã tới vì y bát, nhưng ngay cả y cũng không sẵn sàng đi cùng tôi. Tôi không có khả năng. Và tôi biết điều đó rằng tôi không có khả năng vì mọi điều tôi biết là lời và lời và lời. Tôi xin lỗi... và xin dạy tôi cái gì đó."
Và Huệ Năng nói, "Dạy là vấn đề của ông; ông đã dạy cho bản thân ông quá nhiều. Bây giờ thì quên điều được dạy đi, dỡ bỏ đi. Bây giờ vứt mọi điều ông biết đi. Tri thức là rào chắn trong việc biết."
Đó là lí do tại sao Thầy nói "... và duy nhất Huệ Năng không có hiểu biết về nó dù là bất kì cái gì." Khi bạn không có bất kì hiểu biết trí tuệ nào, sẽ nảy sinh hiểu biết lớn mà không từ tâm trí, điều là bản thể toàn bộ của bạn. Hiểu biết đó cho bạn nguyên lí thứ nhất, hương vị thứ nhất về đạo.
Tôi đã nghe:
Một người chủ ngựa giầu có chết và để lại một gia sản lớn cho một đại học. Tuy nhiên một điều khoản trong di chúc là ở chỗ trường phải trao bằng Tiến sĩ danh dự cho con ngựa yêu thích của ông ấy. Từ đó cả đại học xôn xao về nhận số tiền này - nó thực sự là số tiền lớn - ông chủ nhiệm khoa đặt ra ngày cho con vật này nhận bằng Tiến sĩ danh dự.
Cơ hội bất thường này được báo chí tham dự, và một trong các phóng viên đã hỏi ông chủ nhiệm khoa, "Ông có phản ứng gì với việc thu xếp kì lạ này?"
"Này," ông chủ nhiệm khoa đáp, "theo kinh nghiệm của tôi, tôi đã trao nhiều bằng cấp rồi. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng đây là lần đầu tiên tôi đã trao bằng cho một con ngựa nguyên vẹn."
Mọi người khác đều là lừa, không phải là ngựa nguyên vẹn.
Tâm trí không thể có bất kì tiếp xúc nào với thực tại. Sống trong tâm trí là sống như kẻ ngốc. Sống với tâm trí, trong tâm trí, như tâm trí, là sống cuộc sống ngu xuẩn. Khoảnh khắc bạn trở nên được lỏng ra chút ít khỏi tâm trí: là mở hội. Khoảnh khắc bạn trở nên được lỏng ra chút ít khỏi tâm trí: là niềm vui. Một chút ít bạn trở nên được lỏng ra khỏi tâm trí: và là Thượng đế. Và đột nhiên các cánh cửa mở ra. Chúng chưa bao giờ bị đóng; chỉ tâm trí bạn đang chắn đường.
Tâm trí có thể cho bạn nguyên lí thứ hai. Nguyên lí thứ nhất là có thể chỉ qua vô trí. Thiền nghĩa là trạng thái của vô trí. Thiền không có nghĩa "nghĩ về". Thiền nghĩa là không nghĩ chút nào. Tất nhiên nó không ngụ ý rơi vào giấc ngủ. Nó ngụ ý rơi vào thức tỉnh. Nó ngụ ý các ý nghĩ phải biến mất và chỉ tâm thức thuần khiết nên có đó, hiện diện, hiện diện chói sáng: bạn thấy; có sáng tỏ, trong suốt.
Các ý nghĩ không cho phép bạn thấy. Hay, cho dù chúng cho phép, chúng bóp méo. Hay chúng diễn giải. Chúng chưa bao giờ cho phép thực tại tới với bạn còn nguyên chất. Chúng trang điểm cho nó, chúng thay đổi, chúng tô mầu nó. Chúng làm cho nó thành tiêu hoá được với bạn. Chúng làm nó tương ứng với bạn. Và bạn là giả, bạn là mặt nạ, cho nên khi thực tại bị cắt đi theo bạn nó trở thành không thực.
Đó là lí do tại sao Thầy nói, "Nếu ta nói cho ông Nguyên lí thứ nhất nó sẽ trở thành nguyên lí thứ hai. Nó là câu hỏi trí tuệ: "Nguyên lí thứ nhất là gì?" Nếu Thầy trả lời nó, cái đầu sẽ nhận câu trả lời - và cái đầu sẽ xoay triết lí quanh nó và nó sẽ trở thành nguyên lí thứ hai.
Cái thực, chân lí không thể được truyền đạt qua lời. Nó có thể được truyền đạt - vâng, nó có thể được truyền đạt - nhưng cách thức truyền đạt nó là khác toàn bộ. Nó giống như bệnh sởi: bạn nhiễm chúng. Không ai có thể trao chúng cho bạn, nhưng bạn có thể bị nhiễm chúng. Chân lí không thể được dạy nhưng có thể bị nhiễm.
Nhìn tôi đây. Tôi có bệnh sởi. Bây giờ, nếu bạn không chống cự, bạn sẽ bị nhiễm nó, cho nên hạ thấp sự chống cự của bạn xuống đi. Nếu bạn chống lại, bạn có thể không bị nhiễm nó. Nếu bạn thực sự bướng bỉnh và cứng rắn và bạn đóng bản thể bạn hoàn toàn, toàn bộ, nếu bạn không mong manh chút nào, bạn sẽ không bị nhiễm nó.
Nhưng tôi không thể trao nó cho bạn được. Bạn có thể nhiễm nó, hay bạn có thể không nhiễm nó, nhưng tôi không thể trao nó cho bạn.
Nó không thể được trao, nhưng nó có thể được nhận, và đó là toàn thể nghệ thuật ở cùng với thầy: để học cách nhận. Vì thầy sẽ không cho. Thầy không thể cho được, thầy làm nó thành sẵn có. Thầy là tác nhân xúc tác, thầy là sự hiện diện. Cái gì đó là có thể quanh thầy. Bạn phải mong manh, bạn phải ở trong thái độ buông xuôi, bạn phải ở trong thái độ cảm nhận: bạn phải có nữ tính.
Huệ Khả, Thiền sư khác, đi lên phía bắc tới H'sin-yeh, nơi ông ấy bắt đầu dạy, và trong số những người tới nghe ông ấy có Tao-ho, một thầy giáo danh tiếng, một tác giả rất nổi tiếng, một học sĩ có tiếng về triết lí Phật giáo.
Nhưng giáo huấn của Huệ Khả không giống như giáo huấn của bất kì trường phái Phật giáo khác nào, và Tao-ho rất bối rối...
Giáo huấn là ngớ ngẩn, gần như báng bổ, bởi vì Huệ Khả hay nói, "Giết bố mẹ ông." Một lời nói hay - nhưng đừng hiểu nó theo từng chữ. Bố mẹ là ở bên trong bạn. Bạn có thể hỏi những người T.A. - người phân tích giao tác - Transactional Analysis. Bố mẹ là ở bên trong bạn. Mẹ, bố - các ước định của họ là ở bên trong bạn. Họ liên tục kiểm soát bạn từ bên trong bạn. Cho nên khi Huệ Khả nói, "Giết bố mẹ ông; chỉ thế thì mới tới ta," ông ấy đã thốt ra một sáng suốt lớn lao.
Đó là điều Jesus nói. Người Ki tô giáo vẫn chưa có khả năng giải thích điều dó. Ông ấy nói, "Chừng nào các ông còn chưa ghét mẹ ông, chừng nào các ông còn chưa ghét bố ông, ông không thể tới ta được." Ghét sao? Và việc thốt ra này lại tới từ người nói, "Thượng đế là tình yêu" sao?
Và Huệ Khả hay nói, "Nếu ông gặp Phật trên đường, giết ông ta ngay lập tức!" Bởi vì khi bạn bắt đầu thiền bạn sẽ gặp bố mẹ bạn, bạn sẽ gặp tất cả những người đã từng có quan hệ với bạn. Bạn sẽ phải giết họ, bạn sẽ phải ngắt kết nối bản thân bạn với họ; bạn sẽ phải học tính một mình. Và chung cuộc bạn sẽ gặp Phật, thầy của bạn, và bạn phải giết thầy nữa.
Nhưng đây là những điều nguy hiểm mà nói ra. Và cách ông ấy thường nói chúng. Học sĩ Tao-ho trở nên rất giận. Ông ta nói, "Người này sẽ phá huỷ mọi tôn giáo." Đó là điều mọi người nói về tôi.
... Ông ta quyết tâm phá huỷ học thuyết không linh thiêng này và để mục đích đó được toả ra cho nhiều học trò giỏi nhất của ông ta để tranh cãi với Huệ Khả...
Huệ Khả là người kế tục của Bồ đề đạt ma, và tất nhiên ông ấy là người kế tục xứng đáng, của một Thầy lớn. Ông ấy là một đệ tử lớn. Huệ Khả bị người này Tao-ho công kích theo nhiều cách, và ông ta thường phái đệ tử của mình tới tranh cãi và đánh bại người này.
... Tao-ho đợi việc quay về của họ với mong đợi lớn về nghe thấy rằng họ đã có chiến thắng đáng kể với kẻ dính mũi vào việc người khác đáng ghét này, nhưng họ đã không quay lại...
Không một người nào đã quay lại. Bất kì ai đi tới Huệ Khả đơn giản biến mất. Những người này là người nguy hiểm. Người ta nên tránh họ nếu người ta thực sự muốn tránh họ. Thỉnh thoảng bạn có thể đi như địch thủ, và bạn có thể rơi vào tình yêu với họ. Và những người này giống như rồng; một khi bạn ở gần họ, họ sẽ hút bạn vào.
... Ông ta phái các phái viên khác, và cả những người khác này, chẳng ai quay lại để báo cáo thắng lợi được mong đợi. Chỉ sau khi một thời gian đã trôi qua ông ta mới gặp một số các sứ giả của mình và nói với họ: "Ta đã mở mắt các ông cho Đạo; sao các ông lại là những phái viên không trung thành vậy?"
Một người trong số họ nói với những người còn lại: "Con mắt nguyên thuỷ là hoàn hảo trong bản thân nó, nhưng giáo huấn của thầy đã làm cho chúng tôi thành nửa mù."
"Con mắt nguyên thuỷ là hoàn hảo trong bản thân nó." Từng đứa trẻ được sinh ra với con mắt nguyên thuỷ đó - nó hoàn hảo - con mắt hồn nhiên đó. Nó là hoàn hảo! Nó không cần cải tiến! Và toàn thể nỗ lực của mọi thầy suốt nhiều thời đại đã là một; bất kì cái gì xã hội đã làm, họ phải hoàn tác lại. Bất kì cái gì xã hội đã đặt vào trong tâm trí bạn, họ phải lấy nó đi. Họ phải giải thôi miên cho bạn, họ phải giải ước định cho bạn. Họ phải làm cho thời thơ ấu của bạn lần nữa thành sẵn có cho bạn.
Nhưng nhớ, tôn giáo không phải là việc dạy, nó không phải là việc học. Bạn có thể lây nhiễm nó. Vâng, nó giống như bệnh sởi. Và bạn phải ở trong tâm trạng để nhiễm nó. Tâm trạng đó là điều được ngụ ý bởi việc là đệ tử. Đệ tử đơn giản biểu lộ cử chỉ, một cử chỉ lớn, một đại thủ ấn - Mahamudra, rằng "Tôi sẵn sàng, thưa thầy," rằng "Tôi mở," rằng "Tôi sẽ không chống lại. Nếu thầy định giết tôi, tôi sẵn sàng. Bất kì điều gì thầy dự định làm với tôi, tôi sẵn có - tính sẵn có của tôi là toàn bộ." Đó là mọi điều một đệ tử phải làm. Và thầy phải không làm gì cả; thầy chỉ ở đó.
Thầy ở đó - người đã trở nên chứng ngộ, người đã đi tới biết bản tính thực của mình - hiện diện của thầy, và tính sẵn có của đệ tử, và cái gì đó bắt lửa, cái gì đó đơn giản xảy ra. Và đó là nguyên lí thứ nhất. Nó không thể được hỏi, nó không thể được trả lời. Cái mà có thể được hỏi và cái mà có thể được trả lời sẽ là nguyên lí thứ hai; nó sẽ là bản sao giấy than, tiếng vọng.
Tất nhiên, các tu sĩ không thích nghĩa nổi dậy được trao cho tôn giáo. Họ sẽ không thích mọi người trở nên thức tỉnh. Các chính khách cũng không thích điều đó. Chính khách và tu sĩ là mưu đồ rất, rất cổ đại chống lại hồn nhiên của con người. Họ làm biến chất. Toàn thể kinh doanh của họ tuỳ thuộc vào điều này: rằng con người vẫn còn vô ý thức, rằng con người không trở nên nhận biết. Bởi vì khoảnh khắc con người nhận biết, con người là tự do - tự do khỏi mọi chính trị và tự do khỏi mọi tôn giáo. Con người có tính tôn giáo, nhưng tự do khỏi mọi tôn giáo. Bạn không thể nói rằng người đó là người Mô ha mét giáo, bạn không thể nói rằng người đó là người Hindu.
Gọi Thiền nhân là Phật tử là sai. Nó là sai như gọi người Sufis là người Mô ha mét giáo. Nó là sai khi gọi người Hassid giáo là người Do Thái. Người thực đơn giản là người thực. Thiền, Sufi, hay Hassid, không là Phật tử không là người Mô ha mét giáo không là người Do Thái.
Nhưng tu sĩ này sẽ không thích điều đó. Điều đó sẽ phá huỷ toàn thể kinh doanh của ông ta. Nó sẽ triệt phá toàn thể cửa hàng của ông ta, toàn thể thị trường.
Hai người phục vụ đang đứng ở bàn mà một khách hàng rất giầu đã rơi vào giấc ngủ. Một người nói, "Tôi đã đánh thức anh ta hai lần rồi. Bây giờ tôi sẽ đánh thức anh ta lần thứ ba."
"Sao anh không tống cổ hắn ra?" người phục vụ kia hỏi.
"Thằng quỉ tôi sẽ tống," người phục vụ thứ nhất nói. "Tôi được điều tốt đi cùng tôi. Cứ mỗi lần tôi đánh thức anh ta, anh ta lại trả tiền hoá đơn."
Nếu nhân loại vẫn còn ngủ, nếu nhân loại vẫn còn vô thức và bị thôi miên, thế thì chính khách có thể vẫn còn trong quyền lực và tu sĩ có thể liên tục khai thác bạn. Nếu nhân loại trở nên thức dậy, thế thì sẽ không cần các tu sĩ và chính khách này. Sẽ không có nhu cầu nào về bất kì đất nước, nhà nước nào, và sẽ không cần nhu cầu về bất kì nhà thờ nào, bất kì Vatican, bất kì giáo hoàng nào. Nhu cầu này sẽ biến mất. Sẽ có phẩm chất khác toàn bộ cho tâm thức con người.
Phẩm chất đó cần được sinh ra. Chúng ta đã đi tới điểm đó trong tiến hoá của tâm thức con người nơi tâm thức mới này là được cần vô cùng, được cần một cách liều lĩnh - tâm thức mới này mà làm cho con người được tự do khỏi chính trị và tự do khỏi tôn giáo.
Và để tôi nhắc bạn lặp đi lặp lại, điều đó sẽ là thế giới tôn giáo duy nhất: tự do khỏi các tôn giáo, nhưng không tự do khỏi tôn giáo; tự do khỏi các nhà thờ, giáo điều, nhưng không tự do khỏi nguyên lí thứ nhất; tự do khỏi mọi nguyên lí thứ hai.
Một cô gái nói chuyện với bạn cô ta, cô này vừa mới đính hôn với một người chào hàng.
"Anh ấy trông được chứ?" bạn hỏi.
"Trông đấy, anh ấy sẽ không bao giờ nổi bật trong đám đông."
"Anh ấy có tiền không?" bạn tiếp tục.
"Nếu anh ấy có, anh ấy sẽ không tiêu nó đâu."
"Về thói quen xấu của anh ấy thì sao. Anh ấy có thói quen xấu nào không?"
"Ồ, anh ấy uống kinh khủng," cô dâu tương lai nói.
"Tớ không hiểu cậu," bạn nói. "Nếu cậu không thể nói được cái gì tốt về anh ấy, thế thì sao cậu cưới anh ấy?"
"Anh ấy ở trên đường mọi lúc," cô ta đáp, "và tớ sẽ không bao giờ thấy anh ấy."
Đó là điều tốt duy nhất về nó - và đó là điều tốt về Thượng đế của các tu sĩ: bạn sẽ không bao giờ thấy ngài. Đó là lí do tại sao bạn liên tục đi theo các tu sĩ. Để tránh Thượng đế bạn đi theo tu sĩ. Để tránh Thượng đế bạn đọc Kinh Thánh. Để tránh Thượng đế bạn tụng Vedas. Để tránh Thượng đế bạn trở thành học giả, nhà tư tưởng. Để tránh Thượng đế bạn đang làm mọi thứ mà là có thể.
Nhưng tại sao bạn muốn né tránh Thượng đế? Tại sao ngay chỗ đầu tiên bạn muốn né tránh Thượng đế? Có lí do. Chính ý tưởng về Thượng đế tạo ra nỗi sợ vô cùng vì Thượng đế sẽ có nghĩa là cái chết cho bản ngã của bạn. Bạn sẽ không tồn tại nếu Thượng đế có đó.
Nhà huyền môn vĩ đại người Ấn Độ Kabir đã nói, "Nhìn điều nực cười của nó đi. Khi tôi hiện hữu, Thượng đế không hiện hữu; bây giờ Thượng đế hiện hữu, tôi không hiện hữu. Bất kì cách nào cuộc gặp gỡ đã không xảy ra." Bởi vì để gặp gỡ, hai là được cần. "Khi tôi hiện hữu, Thượng đế không hiện hữu; bây giờ Thượng đế hiện hữu, tôi không hiện hữu."
Nỗi sợ là ở chỗ bạn sẽ phải làm mất bản thân bạn. Bạn sợ chết; đó là lí do tại sao bạn sợ Thượng đế. Và đó là lí do tại sao bạn sợ yêu, và đó là lí do tại sao bạn sợ mọi thứ lớn lao. Bạn bị quá gắn bó với bản ngã giả này - cái không bao giờ cho bất kì cái gì ngoài khổ, ngoài đau, nhưng ít nhất cho bạn cảm giác rằng bạn hiện hữu. Quan sát đi. Suy ngẫm về nó đi.
Nếu bạn muốn hiện hữu, thế thì bạn bao giờ cũng rơi vào trong bẫy của tu sĩ. Thực ra bạn không hiện hữu. Toàn thể ý tưởng này là khái niệm giả. Làm sao bạn có thể hiện hữu được? Sóng tồn tại, nhưng không tách rời khỏi đại dương. Cho nên chúng ta tồn tại không tách rời khỏi đại dương tâm thức. Đó là điều Thượng đế là gì. Lá tồn tại, nhưng không tách rời khỏi cây. Mọi thứ tồn tại, nhưng không cái gì tồn tại một cách tách rời. Không người nào là hòn đảo, và không bộ phận nào có thể tồn tại một cách độc lập. Chúng ta tồn tại trong sự liên thuộc sâu sắc. Chúng ta là thành viên của nhau, của lẫn nhau. Chúng ta lan toả vào nhau. Toàn thể sự tồn tại này là việc lan toả lớn. Cây lan toả vào bạn; bạn lan toả vào cây. Sao lan toả vào bạn; bạn lan toả vào sao. Bạn lan toả vào đất; đất lan toả vào bạn. Mọi thứ đều được lan toả.
Thượng đế là tính toàn bộ này. Bạn không thể tồn tại một cách tách biệt được. Nếu bạn muốn tồn tại một cách tách biệt, thế thì bạn là chính khách. Mọi chính trị không là gì ngoài cái bóng của bản ngã. Thế thì bạn sẽ sống trong khổ và trong điên.
Nhưng nếu bạn nhìn, nếu bạn quan sát sâu sắc, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn không hiện hữu! Không phải là bạn phải tan biến đi! Đơn giản bạn không hiện hữu. Chỉ là khái niệm giả mà bạn đã từng mang, khái niệm rằng bạn hiện hữu. Bất kì khoảnh khắc im lặng nào và bạn đột nhiên sẽ thấy có trống rỗng bên trong bạn, tính không bên trong bạn. Phật đã gọi tính không này là anatta, không hiện hữu, shunya, tính không. Nếu bạn nhìn vào bên trong, bạn sẽ không thấy bản thân bạn. Đó là lí do tại sao mọi người không nhìn vào bên trong; họ sợ.
Có lần chuyện xảy ra tôi du hành cùng với Mulla Nasrudin trong tầu hoả. Người soát vé tới và Nasrudin trở nên rất cuống. Anh ta nhìn vào trong va li, anh ta lật tung mọi thứ, anh ta nhìn vào giường, lật mọi thứ lên, anh ta nhìn vào trong nhiều túi, và anh ta bắt đầu vã mồ hôi và anh ta không thể tìm được vé đâu. Tôi thấy rằng anh ta đã không nhìn vào trong một túi, cho nên tôi bảo anh ta, "Nasrudin, anh đã không nhìn vào cái túi kia." Anh ta nói, "Đừng nhắc tới nó." Tôi nói, "Nhưng tại sao? Vé có thể có đó." Anh ta nói, "Đừng nhắc tới nó chút nào đi. Nếu tôi nhìn vào trong nó và không tìm thấy vé, tôi sẽ ngã chết thôi. Tôi sẽ chết bất đắc kì tử! Tôi không thể nhìn vào đó được! Nếu vé không có đó, thế thì kết thúc rồi. Vẫn còn hi vọng rằng nó có thể có đó."
Đó là lí do tại sao mọi người không nhìn vào bên trong: một hi vọng có thể có đó. Ngày bạn nhìn vào trong, bạn không hiện hữu. Ngày bạn nhìn vào trong, đột nhiên có trống rỗng bao la... và nó là phúc lạc vô cùng, đẹp, an bình. Bạn không có đó; thế thì không có tiếng ồn.
Đó là điều Huệ Năng ngụ ý khi ông ấy nói, "Không có gương của tâm trí. Bụi có thể đọng vào đâu? Biết điều này là biết tất cả."
Nhìn vào trong đi. Mọi người nghĩ "Chúng ta tồi" vậy làm sao cái xấu có thể đọng lại được? Mọi người nghĩ "Chúng ta tốt," nhưng làm sao điều đó là có thể được? Bạn không có đó; làm sao bạn có thể là tốt được? Mọi người nghĩ "Chúng ta là đạo đức và vô đạo đức và thế này thế nọ," nhưng mọi thứ treo trên ý tưởng về "tôi". Là tốt thì cái "tôi" được cần tới trước hết, là đạo đức thì cái "tôi" được cần trước hết. Là tội nhân hay là thánh nhân thì cái "tôi" được cần trước hết. Không có cái "tôi" bạn sẽ không có gì để treo bất kì cái gì lên. Bạn sẽ treo tính tốt của bạn, tội lỗi của bạn hay tính thánh thiện của bạn ở đâu?
Đó là lí do tại sao Thiền liên tục nhấn mạnh không có người nào là tội nhân và không có người nào là thánh nhân, không cái gì là tốt và không cái gì là xấu. Mọi phân biệt đều là do bản ngã được tạo ra. Phân biệt được tạo ra để cho bản ngã có thể tồn tại qua sự phân biệt. Khi bạn nhìn vào bên trong không có thánh nhân không có tội nhân, không tốt không xấu - không sống không chết. Mọi phân biệt biến mất.
Trong tính không đó người ta trở thành một với Thượng đế. Một là một với Thượng đế - một đã hiện hữu từ chính lúc ban đầu.
Cho nên nỗi sợ là ở chỗ nếu bạn muốn biết Thượng đế bạn sẽ phải biến mất; cho nên bạn không nhìn vào trong bản thể riêng của bạn. Nỗi sợ là ở chỗ nếu bạn nhìn vào bên trong bản thân bạn bạn có thể trở nên hạnh phúc...
Mọi người liên tục nói rằng họ muốn trở nên hạnh phúc, nhưng hiếm khi tôi bắt gặp một người thực sự muốn hạnh phúc. Mọi người níu bám lấy khổ của họ. Lại cùng trò chơi. Với khổ bạn có cái gì đó để làm. Với khổ, có bận rộn nào đó. Với khổ bạn có thể né tránh bản thân bạn, bạn được thu hút vào. Với vui chẳng có gì cùng nó để được thu hút, không có đâu mà đi. Trong vui bạn lại tản mác và biến mất. Trong khổ bạn có đó - bạn có rất nhiều ở đó. Khổ cho bạn một kinh nghiệm rất vững chắc rằng bạn hiện hữu. Khi bạn hạnh phúc, bạn bắt đầu biến mất. Khi bạn thực sự hạnh phúc, bạn không hiện hữu, lần nữa bạn không hiện hữu. Trong trạng thái phúc lạc, lần nữa bạn biến mất.
Bạn nói về cõi trời, nhưng bạn liên tục tạo ra địa ngục vì chỉ trong địa ngục bạn mới có thể tồn tại. Bạn không thể tồn tại trong cõi trời. George Bernard Shaw tương truyền đã nói, "Nếu tôi không là người thứ nhất trong cõi trời, thế thì tôi sẽ không đi lên cõi trời đâu. Tôi muốn ở địa ngục, nhưng tôi muốn là người thứ nhất; tôi không muốn là người thứ hai." Địa ngục là được, nhưng bản ngã nói, "Là người thứ nhất, là người lãnh đạo." Địa ngục là được nếu bản ngã còn lại; cõi trời là không được nếu bản ngã phải bị vứt bỏ.
Bạn muốn ở trong cõi trời với bản ngã của bạn. Bạn đang đòi hỏi điều không thể được. Điều đó không thể xảy ra được.
Tôn giáo tồn tại trên trái đất là giả, nó là việc giả vờ, nó chỉ vì nhân danh, nhưng nó đáp ứng cho đòi hỏi của bạn. Nó hoàn thành đòi hỏi nào đó, điều bạn muốn giả vờ rằng bạn có tính tôn giáo. Bạn không muốn trở nên có tính tôn giáo nhưng bạn muốn giả vờ. Và bạn muốn giả vờ theo cách mà ngay cả bản thân bạn cũng không thể bắt được bạn đang giả vờ. Bạn muốn giả vờ theo cách mà bạn không hề bắt gặp việc giả vờ của bạn, cho nên một cấu trúc lớn được tạo ra. Và cấu trúc lớn đó là nhà thờ. Tránh cấu trúc đó đi nếu bạn thực sự muốn trở nên có tính tôn giáo. Và chừng nào bạn chưa có tính tôn giáo bạn không hiện hữu!
Bây giờ để tôi nói cho bạn điều ngược đời này: Bạn chỉ hiện hữu khi bạn không hiện hữu, bởi vì bạn chỉ hiện hữu khi bản ngã đã biến mất và bạn là Thượng đế. Đó là nguyên lí thứ nhất. Tôi không nói điều đó cho bạn, và bạn không nghe nó từ tôi.
Chuyện xảy ra:
Chiếc xe đột nhiên hỏng máy giữa chừng không đâu cả. Anh ta bò dưới gầm xe để xem trục trặc là gì. Cô ấy bò dưới gầm xe để giữ đèn pin cho anh ta. Thực là ấm cúng ở dưới đó và, sau một chốc, họ quên mất việc sửa xe. Đột nhiên một tiếng nói cất lên, "Hai anh chị nghĩ anh chị đang làm gì vậy?"
Nhìn lên họ thấy viên cảnh sát làng.
"Sao, chúng tôi đang chữa trục sau mà," anh thanh niên lắp bắp.
"Được, trong khi anh chị chui xuống đó, anh chị có cái nhìn tốt hơn và phanh nữa đi," viên cảnh sát đáp. "Xe anh chị đã ở chân núi trong cả nửa giờ qua rồi."
Đó là điều đã xảy ra cho nhà thờ. Jesus không có đó, Phật không có đó. Mọi người đang làm cái gì đó khác nhân danh Jesus, nhân danh Phật, và họ nghĩ Phật có đó. Nhà thờ là chỗ cuối cùng nơi bạn có thể gặp Jesus, và đền chùa, chùa Phật giáo, là chỗ cuối cùng nơi bạn có thể gặp vị Phật. Nhưng bạn đi vào nhà thờ, bạn đi vào đền chùa... và bạn nghĩ bạn đang đi tới Phật và tới Jesus.
Bạn là những kẻ giả vờ lớn lao. Bạn muốn giả vờ. Bạn muốn được kính trọng. Bạn muốn chứng tỏ với mọi người rằng "Chúng tôi là người tôn giáo." Cho nên chúng ta đã tạo ra tôn giáo chủ nhật; mọi chủ nhật bạn đi. Sáu ngày dành cho thế giới; một ngày - cũng chẳng phải cả ngày đâu - một hay hai giờ - dành cho Thượng đế. Như trong trường hợp cái gì đó đi sai hay có thể thực sự Thượng đế hiện hữu hay có thể người ta sống sót qua cái chết. Đây toàn là những điều có lẽ. Và có lẽ chưa bao giờ thay đổi cuộc sống của bất kì ai; chỉ điều chắc chắn mới làm thay đổi cuộc sống của ai đó.
Do đó mới có nhấn mạnh của tôi, nếu bạn không thể tìm ra một thầy sống, tiếp tục tìm và kiếm đi. Bao giờ cũng có thầy sống ở đâu đó chỗ này chỗ khác; thế gian chưa bao giờ trống rỗng họ. Nhưng đừng bao giờ đi tới những chỗ mà theo thói thường bạn mong đợi họ. Họ không hiện hữu đâu. Jesus không ở trong giáo đường. Phật không ở trong bất kì ngôi đền Hindu nào; ông ấy được sinh ra là người Hindu, nhưng ông ấy không ở trong bất kì ngôi đền Hindu nào. Jesus là người Do Thái, nhưng ông ấy không ở trong giáo đường Do Thái. Và điều như vậy bao giờ cũng là hoàn cảnh. Đừng liên tục tôn thờ các ý tưởng. Tìm thực tại sống đi.
Và khoảnh khắc bạn tìm ra một thực tại sống, trở nên mong manh đi, trở nên mở đi. Và bạn sẽ có nguyên lí thứ nhất, điều không thể được nói, nhưng bạn có thể có được nó.

0 Đánh giá

Ads Belove Post