Read more
Câu hỏi thứ nhất
Osho ơi,
Tại sao người Ấn Độ nghĩ về dục dưới dang
nhu cầu thay vì vui thú? Họ cũng nghĩ đồng thời rằng họ đã siêu việt lên trên dục,
nhưng trong thực tại nó chỉ là bị kìm nén. Osho ơi, liệu có tương tự gì giữa mê
tín và siêu việt mà có thể làm lạc lối mọi người không, như thầy đôi khi nói rằng
có tương tự nào đó giữa vị Phật và người điên?
Mukesh Bharti, văn hoá Ấn Độ là
văn hoá mục ruỗng nhất đã từng tiến hoá trên thế giới, mục ruỗng nhất - mục ruỗng
tới chính cốt lõi. Nó mục ruỗng tới mức nó đã quên mất cách chết. Để chết người
ta cần chút ít sống động, và chừng nào bạn chưa biết cách chết, bạn đơn giản sống
thực vật, bạn tù đọng.
Chết là quá trình sống lại.
Cũng như từng cá nhân phải chết đi để được sinh ra lần nữa, từng nền văn hoá phải
chết để được sinh ra lần nữa. Từng xã hội, từng nền văn minh phải đi qua sống tới
chết, từ chết tới sống lần nữa.
Văn hoá Ấn Độ là văn hoá duy nhất
đã không chết trong hàng nghìn năm. Đã có nhiều nền văn hoá trên thế giới:
Assyrian, Babylonian, Hi Lạp, La Mã, Ai Cập. Họ tất cả đã nở hoa, bừng nở: họ
đã đóng góp cho thế giới cái đẹp của họ, điêu khắc của họ, âm nhạc của họ, thơ
ca của họ, sân khấu của họ, và thế rồi họ biến mất không để lại dấu vết gì đằng
sau. Đây là cách nó phải vậy.
Nếu mọi người gia trong gia
đình bạn đều sống - bố bạn và bố của bố bạn và bố của bố của ông ấy cho tới tận
cùng, tới Adam và Eve và Thượng đế Cha - thế thì một điều là chắc chắn: bạn sẽ
bị nghiền nát. Nhiều người già thế, toàn các xác chết, là đủ để nghiền nát đứa
trẻ nhỏ, còn tinh tế như hoa hồng.
Một trong những điều vĩ đại nhất
mà Friedrich Nietzsche đã làm là tuyên bố "Thượng đế chết và con người là
tự do."
Thượng đế như Cha phải chết đi,
bằng không trọng lượng của ông ấy sẽ quá nhiều, nó sẽ quá núi non. Nó sẽ không
cho phép sự tươi tắn của nhân loại, nó sẽ không cho phép thám hiểm, nó sẽ không
cho phép phiêu lưu. Người già sẽ quá thận trọng, quá tinh ranh, quá tính toán,
quá nhiều tính Do Thái. Toàn thể kinh nghiệm của người đó về quá khứ sẽ là đủ để
phá huỷ đứa trẻ. Đứa trẻ cần thám hiểm; và, tất nhiên, khi bạn thám hiểm bạn phạm
nhiều sai lầm – đó là một phần của trưởng thành. Người ta phải được phép phạm
sai lầm. Người ta phải chắc chắn đủ thông minh để không phạm cùng sai lầm lặp
đi lặp lại; người ta nên đủ tính sáng tạo để phát minh các sai lầm mới. Đó là
cách người ta mở rộng, trưởng thành; đó là cách tâm thức trở nên được tích hợp.
Cuộc sống là quá trình thử và
sai. Người già bỏ mọi sai lầm, sai sót. Người đó trở thành quen thuộc để làm điều
đúng tới mức thám hiểm, phiêu lưu biến mất khỏi cuộc sống của người đó. Và bởi
vì nỗi sợ riêng của người đó mà người đó sẽ không cho phép các thế hệ mới đi
vào các hướng mới, vào các chiều mới. Người đó sẽ làm cho họ sợ, người đó sẽ
làm cho họ tê liệt, người đó sẽ làm què quặt họ. Đó là điều đã từng xảy ra ở Ấn
Độ.
Ấn Độ là trường hợp kì lạ. Nó
là phi thường theo cách nào đó: điều này chưa bao giờ xảy ra ở bất kì chỗ nào
khác. Mọi nước, mọi nền văn hoá, văn minh đã sống, đã chết và đã được phục sinh
lại; Ấn Độ vẫn còn như cũ. Nó giống nhiều như hoa nhựa hơn là hoa hồng thực. Nó
quan tâm nhiều tới tính ổn định hơn tính sống động. Chính toàn thể mối quan tâm
của nó là làm sao tiếp tục mãi mãi.
Nhưng đó không phải là điều thực.
Làm sao sống từng khoảnh khắc một cách toàn bộ... Vấn đề không phải là khoảng thời
gian tồn tại, vấn đề là ở chiều sâu. Chỉ những người sống trong chiều sâu mới
biết cuộc sống tất cả là gì. Những người sống trong cuộc sống kéo dài theo chiều
ngang, bề ngoài. Cuộc sống của họ là mặt nạ; không có tính đích thực trong nó.
Do đó, tôi nói văn hoá Ấn Độ không sống không chết nhưng sống trong một loại
đình trệ, trong một loại lấp lửng. Nó là nền văn hoá ma: mọi cái có ý nghĩa, mọi
cái làm cho cuộc sống thành niềm vui, đã bị bỏ đi vì nó là nguy hiểm, và mọi
cái ổn định, thường hằng, đồ nhựa, đã được thu thập vì nó an toàn hơn.
Nhớ lấy, đây là cách thức của
người già. Người già bao giờ cũng nghĩ tới an toàn, an ninh, số dư ngân hàng;
người đó bao giờ cũng nghĩ dưới dạng sợ hãi, vì chết bao giờ cũng đứng trước
người đó.
Trẻ con không bao giờ bận tâm tới
chết, mối quan tâm của nó là sống. Nó quan tâm tới việc đi vào nơi chưa được
thăm dò, đi vào cái không biết; nó sẵn sàng mạo hiểm. Và những người sẵn sàng mạo
hiểm, chỉ họ mới sống thực. Họ có thể không sống lâu, nhưng điều đó không thành
vấn đề chút nào. Chỉ sống một khoảnh khắc với tính đích thực, tính toàn bộ,
tính toàn vẹn là quá đủ. Một khoảnh khắc của kinh nghiệm toàn bộ là lớn hơn nhiều
so với toàn thể vĩnh hằng. Nó chứa toàn thể vĩnh hằng; nó chứa vô thời gian.
Nhưng người ta có thể liên tục sống kiểu thực vật trong hàng nghìn năm như bắp
cải, súp lơ - có vẻ rất linh thiêng, rất thánh thiện.
Bắp cải không là tội nhân và
súp lơ là học giả lớn. Bắp cải trở thành súp lơ qua giáo dục đại học. Súp lơ là
bác học, nhà thượng đế học, người tôn giáo. Nước này đầy những người này, và
gánh nặng của họ là lớn. Ai đó cần giúp cho nước này chết đi để cho nó có thể sống
lại lần nữa. Việc đóng đinh là điều kiện căn bản cho phục sinh. Nghệ thuật sống
được đi trước bởi nghệ thuật chết.
Nước này đang bốc mùi, nhưng nước
này chẳng có gì khác để ba hoa, cho nên nó ba hoa về quá khứ. Nó ba hoa về đồ
giả của nó, nó ba hoa về tính tâm linh của nó - điều toàn là vô nghĩa vì nền tảng
cơ sở bị thiếu và bạn đang nói về ngôi đền. Ngôi đền là có thể, nhưng đầu tiên
bạn phải đặt nền móng cơ bản cùng nhau.
Cuộc sống là hệ thống cấp bậc
các nhu cầu. Đầu tiên nhu cầu vật lí phải được chăm nom, sự tồn tại vật chất phải
được chăm nom tới. Khoa học đáp ứng cho nhu cầu cơ bản. Nếu bạn bỏ lỡ khoa học
bạn sẽ bỏ lỡ tôn giáo. Giữa khoa học và tôn giáo là thế giới của nghệ thuật.
Đây là ba chiều cơ bản của cuộc sống. Khoa học phải chăm nom tới vật chất, tâm
lí, sinh học - nhu cầu hướng ngoại của con người. Tôn giáo phải chăm nom tới
cái bên trong nhất - tính nội tâm, tính chủ thể. Và giữa hai điều này là thế giới
của thẩm mĩ: nghệ thuật, thơ ca, âm nhạc, múa, sân khấu, văn học.
Người đang đói không thể nghĩ tới
thơ ca được. Người đang đói không thể quan niệm được về thiền. Điều đó là không
thể được! Nhưng một bản ngã với truyền thống lâu dài, lâu năm cố che giấu cái
nghèo nàn của nó. Cái gọi là chủ nghĩa tâm linh Ấn Độ, cái gọi là ham muốn của
văn hoá Ấn Độ để hướng dẫn toàn thế giới hướng tới tính tâm linh chỉ là ngu xuẩn.
Nó là cực kì vô nghĩa, nó là rác rưởi. Nhưng đó là phương cách giữ thể diện duy
nhất của họ - họ có thể giữ thể diện chỉ đằng sau tấm màn đó. Họ biết thân thể
họ đang đói, họ biết rằng mọi thứ tuyệt đối cần cho họ là không có sẵn. Họ đang
chết đói, họ ốm yếu, bệnh tật theo mọi cách. Chín mươi tám phần trăm đất nước
đang sống trong trạng thái của kẻ ăn xin. Không ai được nuôi dưỡng tốt: gần như
mọi người đều bị thiếu ăn. Và khi người ta bị thiếu ăn, không chỉ thân thể chịu
thiếu, nhớ lấy; thiếu ăn theo cách thức rất tinh vi phá huỷ năng lực của tâm
trí bạn.
Tâm trí cần chất nuôi dưỡng
riêng của nó, và chừng nào thân thể còn chưa được nuôi dưỡng thích hợp, tâm trí
không thể được nuôi dưỡng. Nhưng đầu tiên thân thể phải được đáp ứng. Khi có
cái gì đó nhiều hơn việc đáp ứng của thân thể, thế thì nó đi tới các tế bào
não. Tâm trí là thứ xa hoa - nó không tồn tại trong con vật, nó là đặc quyền của
con người. Nó đi vào trong sự tồn tại chỉ bởi vì con người có thể xoay xở cho
nhu cầu thân thể của mình một cách toàn bộ tới mức có năng lượng còn được để lại
nhiều, và năng lượng tràn ngập này trở thành não của con người, trở thành tâm
trí con người, trở thành tâm lí con người.
Khi nhu cầu tâm lí được đáp ứng,
được đáp ứng toàn bộ, và lại có nhiều năng lượng sẵn có, năng lượng đó được biến
đổi thành tâm linh, vào trong thiền, trong Phật tính.
Nhưng Ấn Độ ở trong trạng thái
buồn rầu, và điều buồn nhất là ở chỗ người Ấn Độ cố che giấu nó thay vì phơi
bày nó. Họ giận tôi vì tôi đang phơi bày chân lí như nó vậy. Họ giận tôi vì tôi
không cố che đậy nó. Họ sẽ thích tôi, họ sẽ kính trọng tôi, họ sẽ gọi tôi là một
mahatma vĩ đại, hoá thân của Thượng đế và mọi loại rác rưởi, nhưng với một điều
kiện: rằng tôi liên tục che đậy vết thương của họ.
Tôi không thể che đậy vết
thương của bất kì ai. Tôi có thể chữa lành chúng, nhưng quá trình chữa lành là
quá trình khác toàn bộ. Đầu tiên bạn phải phơi các vết thương của bạn ra mặt trời,
ra gió. Bạn phải phơi chúng ra. Điều đó gây đau! Và vết thương đã được giữ bí mật
hàng nghìn năm, đột nhiên bị phơi ra... Bạn không thể tin được vào nó. Bạn bao
giờ cũng tin rằng bạn là người tâm linh lớn, và tôi thấy toàn thể cái giả dối của
nó, tôi thấy đạo đức giả của nó. Và đạo đức giả lớn nhất, điều xảy ra, xảy ra
qua hai phủ nhận: thức ăn và dục. Đây là những nhu cầu cơ bản, và chúng là hai
mặt của cùng một đồng tiền. Chúng không khác lắm đâu.
Thức ăn được cần cho sự tồn tại
của cá nhân. Cá nhân có thể tồn tại mà không có dục. Nó sẽ không có nhiều niềm
vui, nhưng người đó có thể sống được. Nhưng không có thức ăn cá nhân không thể
tồn tại được; người đó sẽ co lại và chết. Nhiều nhất, nếu người đó mạnh khoẻ
hoàn hảo, người đó có thể tồn tại mà không có thức ăn trong ba tháng - chín
mươi ngày - nhưng điều đó nữa cũng chỉ nếu người đó là mạnh khoẻ hoàn hảo và nếu
người đó có quá nhiều thức ăn phụ được tích luỹ trong thân thể mình dưới dạng mỡ
và các thứ khác. Thế thì người đó có thể sống sót trong ba tháng.
Việc sống sót đó, nhớ lấy, chẳng
liên quan gì tới tôn giáo; đó là việc ăn thịt người cực độ: người ta ăn bản
thân mình. Khi bạn nhịn ăn bạn đang ăn thịt riêng của bạn, do đó tôi chống lại
nhịn ăn; đó là loại ăn thịt xấu nhất. Bạn có thể nhịn ăn và mọi ngày - bạn sẽ mất
một ki lô. Trọng lượng đó biến đi đâu? Bạn đang tiêu hoá nó. Trong vòng ba
tháng bạn sẽ chết.
Cá nhân có thể tồn tại chút ít
khi không có thức ăn, người đó có thể tồn tại không có dục - người đó có thể sống
sót - nhưng giống nòi con người, loài người, không thể tồn tại nếu không có dục.
Đó là thức ăn cho loài. Dục là thức ăn cho loài. Không có dục nhân loại sẽ biến
mất. Và những người đã từng thuyết giảng vô dục là kẻ sát hại. Những người đã từng
thuyết giảng vô dục cho nhân loại về căn bản đang chặt tận gốc rễ của nhân loại.
Nếu họ mà được đi theo đúng nghĩa từ này thì sẽ không nhân loại nào còn lại nữa.
Chắc đã không có Mahavira,
không Phật, không Krishna, chắc đã không có Mohammed, không Kabir, không Nanak,
nếu bố mẹ họ đã theo ý tưởng về vô dục. Điều tốt, điều may là bố của Phật đã
không theo ý tưởng ngu xuẩn về vô dục, bằng không thế giới chắc đã bỏ lỡ một
trong những việc nở hoa vĩ đại nhất.
Nếu vô dục kéo dài mãi, thế thì
nhân loại sẽ biến mất. Đó là ý tưởng rất ích kỉ, ích kỉ theo nghĩa rằng bạn chỉ
chăm nom cho bản thân bạn. Người Ấn Độ liên tục nói về tâm linh, vô ngã, và đồng
thời, với cùng bộ mặt, họ liên tục nói về vô dục. Vô dục là ích kỉ, tuyệt đối
ích kỉ. Bố mẹ bạn và bố mẹ họ và các bố mẹ của họ tất cả đã gắn với nhau để cho
sinh ra bạn. Bây giờ, cố là vô dục, ép buộc vô dục, đơn giản có nghĩa là bạn
đang đóng cánh cửa của tương lai nhân loại. Và bạn gọi nó là không ích kỉ sao?
Bạn gọi nó là tâm linh sao?
Đây là chủ nghĩa bản ngã thuần
khiết - dường như bạn là trung tâm của toàn thể sự tồn tại, dường như toàn thể
sự tồn tại chỉ vì bạn: vì bạn đã được tạo ra, bây giờ không cần cái gì nữa; cái
toàn thể có thể biến mất.
Nhưng mặc dầu giáo lí này vẫn
tiếp tục, chả ai theo nó. Các giáo lí phi tự nhiên không thể được theo. Đó là một
điều tốt về chúng. Chỉ vài người ngu, điên gàn, người bị ám ảnh, mới có thể cố
theo chúng, nhưng bất kì người thông minh nào sẽ không theo những ý tưởng như
thế.
Những ý tưởng như thế tạo ra
hai loại khó khăn. Một: những người tinh ranh, họ trở thành đạo đức giả. Và những
người hồn nhiên, họ trở nên mặc cảm. Đó là điều đã xảy ra ở Ấn Độ, và cùng điều
đó đã xảy ta trên qui mô rộng hơn khắp thế giới. Bệnh này có tính lây nhiễm. Nó
phải đã bắt đầu ở Ấn Độ; nguồn gốc của nó dường là có tính Ấn Độ. Đó là đóng
góp duy nhất mà Ấn Độ đã làm cho thế giới - một bệnh lây nhiễm tạo ra người đạo
đức giả và người mặc cảm. Cả hai đều là những loài xấu xí. Thế giới không cần
người đạo đức giả không cần người mặc cảm.
Nhưng người đạo đức giả trở
thành tu sĩ, sư, mahatma, hiền nhân, thánh nhân, và người mặc cảm trở thành tín
đồ. Đây là trò chơi cứ diễn ra mãi.
Bạn hỏi tôi, Mukesh Bharti:
Tại sao người Ấn Độ nghĩ về dục
dưới dạng nhu cầu...?
Vì nhu cầu của họ không được
đáp ứng. Họ ở trong mọi loại nhu cầu - với họ dục cũng là một nhu cầu. Người có
nhu cầu có con mắt phóng chiếu nhu cầu của mình ra mọi nơi. Bạn chỉ thấy cái mà
bạn có thể thấy, bạn nghe được chỉ cái mà bạn có thể nghe: bạn liên tục chọn lựa
tương ứng theo nhu cầu của bạn. Với người đói, đàn bà đẹp đơn giản trông như
món ăn ngon. Chính ý tưởng này chỉ ra nơi người ta đang đứng.
Có những cách diễn đạt trong mọi
ngôn ngữ của thế giới về yêu. Mọi người đã bắt đầu dùng từ như "ăn."
- "Anh muốn ăn em," người yêu nói với người đàn bà. Đây là loại yêu
gì vậy? Những người yêu cắn nhau, những người yêu nhai nhau - dường như họ là kẹo
cao su. Những người yêu để lại vết răng cắn trên nhau. Đây là loại thơ ca gì vậy?
Họ cào cấu nhau bằng móng tay... Đây là yêu hay cái gì khác che mặt nạ đằng sau
nó?
Yêu phải chăm nom sâu sắc chứ.
Người ta phải không nghĩ dưới dạng thức ăn, đồ vật, về ăn, cắn chứ - những điều
này là cách diễn đạt xấu.
Nhưng Ấn Độ sống trong đủ mọi
loại nhu cầu. Do đó, dục cũng trở thành chỉ là một nhu cầu, nhiều nhất, việc xả
ra, thuốc an thần - cùng loại xả ra mà bạn cảm thấy khi bạn muốn hắt hơi: gánh
nặng nào đó, căng thẳng nào đó mất đi. Nhưng không có hoàn thành trong nó,
không có hân hoan trong nó.
Người Ấn Độ làm tình dường như
họ là kẻ cắp, dường như họ đang làm cái gì đó sai. Họ làm tình dường như họ
đang chống lại Thượng đế, dường như họ đang phạm tội nào đó.
Tất nhiên họ phải làm tình vì
đó là nhu cầu. Và nó chỉ có thể là nhu cầu chừng nào các nhu cầu khác của họ
còn chưa được đáp ứng. Khi mọi nhu cầu được đáp ứng, yêu bắt đầu có chiều hướng
hoàn toàn khác cho nó - chiều hướng của vui đùa, chiều hướng của nhảy múa và âm
nhạc. Thế thì bạn không dùng nó như việc xả ra, như thuốc an thần, như cái hắt
hơi; bạn bắt đầu chia sẻ. Yêu trở nên nổi bật hơn, dục trở thành phụ. Khi nó là
nhu cầu, yêu chỉ là từ, dục là thứ duy nhất, hoạt động sinh sản là thứ duy nhất.
Và bạn biết điều đó - đó là sự
kiện nổi tiếng được quan sát một cách khoa học trên khắp thế giới - rằng người
nghèo sinh sản nhiều con hơn. Tại sao? Họ không có những khả năng khác để giải
trí cho bản thân họ. Họ không có cái hộp ngốc, cái ti vi - họ không thể ngồi
dính lấy ghế trong sáu tiếng. Thực ra, họ không có ghế! Họ không có tiền để đi
vào khách sạn để tham gia mở hội nào đó, đi xem phim, uống rượu, nhảy múa, ca
hát... Tất cả những khả năng đó bị đóng lại. Toàn thể mệt mỏi của cả ngày, công
việc thường lệ, sự liên tục của cùng một con đường mòn... Khả năng duy nhất,
tiêu khiển tự do sẵn có cho họ, là dục. Điều đó trở thành hành động cuối cùng của
họ trong ngày. Cho nên trước khi đi vào giấc ngủ, họ thành tâm một cách tôn
giáo, một hai phút cho nó, và thế rồi họ rơi vào giấc ngủ như người ngớ ngẩn.
Một đôi mới lấy nhau tiếp một
người độc thân trong căn phòng nhỏ của nhà ngoại ô của họ, rồi cuộc nói chuyện
xoay sang đạo đức dục.
"Vì anh tuyên bố tự do thế,"
người độc thân Ấn Độ thách thức anh chồng, "anh có để cho tôi hôn vú vợ
anh với giá một nghìn ru pi không?"
Không muốn dường như là đoan
trang, và cũng cần tiền thêm, đôi này đồng ý, và chị vợ cởi áo ngoài và nịt vú
ra. Thế rồi ấp mặt vào giữa hai vú cô ấy anh chàng này ì ở đó trong vài phút,
mãi cho tới khi anh chồng trở nên không kiên nhẫn để hoàn thành thương vụ này.
"Làm tới và hôn vú đi," anh ta thúc người độc thân.
"Tôi muốn làm chứ,"
anh chàng này thở dài, "mà tôi thực sự không thể trả tiền được cho điều
đó."
Vấn đề là liệu bạn có thể đảm
đương được cái gì khác không... Do đó, với tâm trí Ấn Độ, dục vẫn còn là hành động
con vật. Nó chưa bao giờ vươn lên cõi giới của cái đẹp thơ ca, nó chưa bao giờ
trở thành yêu. Cho nên bất kì khi nào bạn nói với người Ấn Độ về yêu, anh ta lập
tức hiểu bạn đang nói về dục. "Yêu" tức khắc, tự động được dịch thành
"dục." Không thể nào nói chuyện với người Ấn Độ về yêu. Đây là kinh
nghiệm của tôi khi nói cho hàng triệu người Ấn Độ về yêu. Đây là kinh nghiệm của
tôi khi nói cho hàng triệu người Ấn Độ trên khắp nước. Nói về yêu, và đến lúc lời
này đạt tới nó nó không còn là yêu nữa, nó trở thành dục.
Họ chỉ biết dục. Yêu không có
hàm nghĩa khác cho họ. Đó là hiểu lầm thế - người ta cảm thấy gần như bất lực.
Nói với người Ấn Độ thực sự là phiền hà.
Bạn có thể nói về Thượng đế, bạn
có thể nói về linh hồn, bạn có thể nói về moksha, niết bàn, bạn có thể nói về
Veda, và sẽ không có hiểu lầm, vì họ giống như vẹt - trong hàng nghìn năm họ đã
từng đọc những lời này.
Không phải là họ sẽ hiểu bạn
đâu, nhưng ít nhất họ sẽ hiểu lời. Khi bạn nói "Thượng đế," họ biết
nghĩa của nó. Họ không biết kinh nghiệm này, nhưng ít nhất nghĩa thì họ biết.
Nhưng khi bạn nói về yêu, ngay cả nghĩa cũng không được biết. Kinh nghiệm về nó
là xa, xa xăm.
Cô ấy vừa kết thúc tắm thì
chuông cửa vang lên. Nhón chân trên ngón chân đi ra cửa trước, rùng mình trong
sự trần truồng núng nính, mạnh khoẻ, cô ấy gọi ra, "Ai đấy?"
"Người mù đây," một
giọng nói ảm đạm vang tới.
Thế là cô ấy nhún vai và mở cửa
bằng một tay trong khi với lấy cái ví bằng tay kia. Khi cô ấy quay ra đối mặt với
người này, anh ta cười toe toét tới tận mang tai. Và cô ấy thấy rằng anh ta
đang ôm một gói lớn trong tay.
"Ông có thể nhìn được!"
cô ấy kêu lên.
"Úi chà," ông ta gật
đầu sung sướng, "và có thể khá rõ nữa. Bây giờ, cô muốn tôi để những miếng
che mù mắt này ở đâu?"
Anh thanh niên lãng mạn ngồi
trên ghế dài công viên với cuộc hẹn gặp đầu tiên. Anh ta chắc chắn cách xử sự
và lời nói có duyên của mình sẽ chinh phục cô ấy khi học nhiều người khác thế.
"Trăng lên tối nay đấy,"
anh ta thì thầm.
"Chắc chắn rồi," cô ấy
đồng ý.
"Sao sáng thực trên trời."
Cô ấy gật đầu.
"Giọt sương nào đó trên cỏ."
"Ai đó làm!" cô ấy
nói một cách phẫn nộ. "Nhưng tôi không là cái loại đó!"
Thực sự khó nói với người Ấn Độ
về yêu - họ chưa bao giờ sống kinh nghiệm này. Mọi điều họ biết là cơ chế dục,
và mọi điều họ biết là tính con vật của dục: đó là kinh nghiệm của họ. Họ không
thể hiểu được dục như vui đùa, vì dục không thể vui đùa được, chỉ yêu mới có thể
vui đùa.
Yêu là vui đùa: nó là trò chơi,
nó có tính chơi đùa. Và tại đỉnh tối thượng của yêu, cùng tính chơi đùa đó trở
thành tính cầu nguyện.
Đây là ba giai đoạn: nhu cầu,
tính chơi đùa, tính cầu nguyện. Và chừng nào bạn chưa kinh nghiệm yêu tại đỉnh
tối thượng của nó, đỉnh cao nhất như lời cầu nguyện, bạn chưa thực sự sống cuộc
sống của bạn; bạn đã bỏ lỡ vấn đề.
Bạn nói, Mukesh Bharti:
Tại sao người Ấn Độ nghĩ về dục
dưới dạng nhu cầu thay vì vui đùa?
Họ không biết gì về vui đùa, về
tính chơi đùa. Họ là những người nghiêm chỉnh - rất linh thiêng, rất tâm linh.
Họ là những cái xác biết đi. Bạn không thể mong đợi chơi đùa từ họ, bạn chỉ có
thể mong đợi mặt dài.
Bạn không thể sống được với các
thánh nhân lâu đâu. Ngay cả ở cùng với một thánh nhân trong hai mươi tư giờ là
sự trừng phạt rồi; nó không phải là phần thưởng vì trong vòng hai mươi tư giờ
ông ta sẽ làm cho bạn cay đắng thế với cuộc sống, ông ta sẽ làm cho bạn buồn thế,
ông ta sẽ làm cho bạn chua cay thế, ông ta sẽ làm cho bạn cảm thấy mặc cảm thế,
bị kết án... Đó là niềm vui duy nhất của ông ta. Người tôn giáo chỉ tận hưởng một
điều: làm cho mọi người buồn, lấy đi tiếng cười của mọi người.
Họ kết án tôi vì tôi đang dạy mọi
người tiếng cười, tôi đang dạy mọi người yêu, tôi đang dạy mọi người cách hân
hoan trong khoảnh khắc này, trong mọi tính bình thường của cuộc sống. Vì không
có loại cuộc sống khác ở bất kì đâu, không có thế giới khác, đây là thế giới
duy nhất! Và chúng ta phải sống thế giới này. Chúng ta phải không hi sinh thế
giới này vì thế giới khác nào đó.
Tôi không dạy hi sinh, tôi
không dạy chủ nghĩa khổ hạnh, tôi không dạy nhịn ăn, tôi không dạy vô dục. Tôi
đang dạy mở hội cuộc sống. Và đó là điều họ đã từng bỏ lỡ hàng nghìn năm.
Họ không thể hiểu được dục như
vui đùa; nó là khổ. Và nếu họ không thể hiểu được nó là vui đùa, họ không thể
hiểu được nó như lời cầu nguyện; điều đó là không thể được.
Bạn nói:
Họ cũng nghĩ đồng thời rằng họ
đã siêu việt lên trên dục, nhưng trong thực tại nó chỉ đã bị kìm nén
Siêu việt lên dục là có thể chỉ
khi dục đạt tới việc nở hoa của tính cầu nguyện. Trước điều đó, dục không thể
được siêu việt. Bạn chỉ có thể nhảy ra ngoài dục từ đường biên đó. Nhưng thế
thì nó không phải là vô dục, nó đơn giản là việc biến mất của bản ngã vào trong
cái toàn thể.
Nó không thực sự là siêu việt
lên dục nhưng trở thành một phần của vũ trụ cực thích toàn thể. Nó đạt tới điều
tối thượng của hợp nhất với cái toàn thể.
Bạn làm gì khi bạn làm tình với
người đàn bà? Bạn cố có việc hợp nhất nào đó với cực đối lập. Trong một khoảnh
khắc hợp nhất xảy ra - hiếm hoi, bởi vì nhiều điều kiện thế phải được đáp ứng.
Chừng nào mọi điều kiện chưa được đáp ứng bạn có thể đơn giản đi qua những cử
chỉ của làm tình. Chỉ thỉnh thoảng mới có đàn ông và đàn bà thực sự trong hoà
điệu - tại một khoảnh khắc, hoà hợp - và thế rồi trong một khoảnh khắc, có niềm
vui cực thích.
Niềm vui cực thích là gì? Sự biến
mất của bản ngã trong một khoảnh khắc. Nhưng ngay cả một khoảnh khắc cũng là cực
kì có ý nghĩa, quí giá - quí hơn nhiều so với bất kì viên Kohinoor nào. Cùng điều
này xảy ra ở mức độ sâu của lời cầu nguyện. Với lời cầu nguyện bạn không cố gặp
gỡ với người khác, nhưng bạn cố gặp gỡ với vũ trụ. Người khác đã trở thành chỉ
là cửa sổ. Bạn không còn bị gắn bó với khung cửa sổ. Bạn đi qua cửa sổ này vào
trong thế giới của sao, mây, chim. Bạn đi ra ngoài. Yêu dạy bạn cách đi ra
ngoài cửa sổ và đạt tới các vì sao. Một khi bạn đã lấy chuyến bay này, cửa sổ bị
bỏ lại xa đằng sau. Một khi bạn rời khỏi cửa sổ, phép màu xảy ra. Vì bản ngã của
bạn đã được tạo khung bởi cửa sổ này. Một khi bạn bỏ lại cửa sổ đằng sau, bản
ngã của bạn cũng bị bỏ lại đằng sau. Bản ngã cần người khác: khi người khác
không còn đó, bản ngã không còn đó.
Các nhà tâm lí nói bản ngã tới
về sau. Đầu tiên, bạn bắt đầu cảm thấy sự hiện diện của người khác. Đứa trẻ đầu
tiên cảm thấy sự hiện diện của mẹ, bố, anh, chị, tường, bức tranh - bất kì cái
gì bao quanh nó. Dần dần, dần dần nó trở nên nhận biết về sự kiện: "Mình
tách rời khỏi tất cả những cái này. Đôi khi mẹ có đó và đôi khi mẹ không có đó,
nhưng mình bao giờ cũng ở đây." Đầu tiên kinh nghiệm về người khác đi vào,
và thế rồi bản ngã nảy sinh.
Nó là cùng một điều trong lời cầu
nguyện: đầu tiên sự biến mất của người khác - thứ tự đảo ngược lại - và thế rồi
bản ngã tan biến. Một khi bạn đã bỏ lại cái khung, cái khung nhỏ của người yêu
và người được yêu, và bạn đã đưa bản thân bạn vào trong cõi bên kia, việc tan
biến xảy ra. Phật gọi điều đó là niết bàn. Từ này hay: niết bàn đơn giản nghĩa
là "việc dừng lại của cái khung." Cũng hệt như bạn thổi tắt ngọn đèn
và đột nhiên cái khung biến mất vào trong cái toàn thể, điều như vậy cũng là
trong trạng thái tối thượng của yêu. Thế thì người ta biết sự siêu việt. Siêu
việt lên trên bản ngã trở thành siêu việt trên dục.
Nhưng nhớ lấy, nó không chống lại
dục. Thực ra, bạn đã biến đổi dục tạm thời của bạn thành dục vũ trụ, bạn đã trở
thành một với cực thích của bản thân sự tồn tại. Bây giờ nó sẽ có đó từng khoảnh
khắc - bạn không thể đánh mất nó được. Bây giờ con ngỗng thực sự ở ngoài! Bạn
không thể đi vào cái chai lần nữa.
Siêu việt trên dục là hiện tượng
khác toàn bộ với kìm nén nó. Nhưng kìm nén có thể cho bạn cảm giác rằng bạn đã
siêu việt lên.
Bà giúp việc chạy xô tới viên cảnh
sát. "Tôi bị cưỡng hiếp! Tôi bị tấn công," bà ấy kêu lên. "Nó lột
quần áo tôi ra, nó làm tôi ngạt thở với những cái hôn nồng nàn. Thế rồi nó làm
tình đam mê điên dại với tôi!"
"Bình tĩnh lại đi bà, bình
tĩnh bản thân bà lại, thưa bà," viên sĩ quan nói. "Mọi việc này xảy
ra khi nào?"
"Hai mươi ba năm trước và
tháng chín này," bà già nói.
"Hai mươi ba năm trước rồi
sao?" anh ta kêu lên. "Làm sao bà mong đợi tôi bắt được người nào về
cái gì đó người đó đã làm từ hai mươi ba năm trước?"
"Ồ, tôi không muốn anh bắt
người nào cả, ngài sĩ quan," bà già nói. "Tôi chỉ muốn nói về điều đó
thôi, có vậy thôi."
Bạn sẽ ngạc nhiên rằng mọi cái
gọi là thánh nhân của bạn đều nói chống lại dục. Tại sao? Nếu họ đã siêu việt
lên, tại sao có ám ảnh này với dục?
Trong kinh sách Ấn Độ, bạn sẽ
thấy những mô tả khiêu dâm về đàn bà mà bạn sẽ ngạc nhiên. Trong so sánh
Playboys và các tạp chí giống thế không là gì cả. Bạn có thể đi và xem
Khajuraho, Konarak, Puri - những ngôi đền - và bạn sẽ thấy rằng cái gọi là văn
học khiêu dâm của bạn chỉ mới là bắt đầu. Khajuraho có điêu khắc khiêu dâm nhất
mà đã từng tồn tại ở bất kì đâu trên thế giới. Và phải mất hàng trăm năm để làm
vì nó là điêu khắc đá, nó không chỉ là chụp ảnh người mẫu truồng trong tạp chí Playboy.
Hàng trăm năm làm việc, hàng nghìn thợ điêu khắc phải đã làm việc về nó. Và
không một ngôi đền đâu, hàng trăm đền. Và tại sao lên trên các đền thờ? Những đền
đó có cái gì liên quan tới nó?
Chúng có cái gì đó liên quan tới
nó. Các thánh nhân cần nó, những người tôn giáo cần nó. Đây là những hoang tưởng,
đây là điều họ đang thấy bên trong bản thân họ. Họ muốn chúng được phóng chiếu.
Và ở kinh sách Ấn Độ bạn sẽ ngạc nhiên mà chú ý rằng các thần Ấn Độ là những thần
phạm tội hãm hiếp nhất trên thế giới. Họ không bằng lòng với những người đẹp
cõi trời, họ liên tục giáng xuống thế gian và dụ dỗ, hãm hiếp đàn bà thế gian.
Họ trở nên mệt mỏi với người đẹp cõi trời bởi lẽ đơn giản là người đẹp cõi trời
có chút ít nhạt nhẽo - nhạt nhẽo theo nghĩa họ không bao giờ trở nên già, họ
bao giờ cũng vẫn còn như cũ. Họ không vã mồ hôi, do đó họ không cần tắm. Thân
thể họ không bình thường; họ được làm bằng vàng và bạc. Bây giờ bạn có thể làm
gì với người đàn bà có thân thể bằng vàng và bạc, mắt bằng ngọc lục bảo và kim
cương? Sớm hay muộn bạn sẽ phát mệt mỏi. Nó là đồ chơi, nó không phải là đàn
bà. Cô ấy không bao giờ chì chiết bạn, cô ấy không bao giờ ném gối vào bạn.
Không đóng kịch, không cuộc sống!
Họ giáng xuống trái đất. Mọi
devas của người Ấn Độ, các thần của người Ấn Độ, đều rất dục, dục ám ảnh. Và
các thánh nhân của bạn người đã viết ra các kinh sách này mô tả đàn bà bằng những
lời đẹp đẽ thế. Điều đó chỉ ra tâm trí của họ. Nhưng đồng thời họ giả vờ rằng họ
đang kết án dục, họ đang nói cho bạn những điều này để cho bạn có thể vẫn còn
nhận biết về họ.
Bà cô cả thuê một luật sư trẻ để
chuẩn bị di chúc của bà ấy. "Tôi có mười nghìn ru pi để dành," bà ấy
giải thích, "và tôi muốn chi nó cho bản thân tôi. Không ai trong thị trấn
này đã bao giờ chú ý gì tới tôi, nhưng họ sẽ bất chợt chú ý và lưu ý khi tôi chết."
Để làm ấm chủ đề này bà ấy cười
khúc khích, "Tôi muốn chi toàn bộ tám nghìn ru pi cho lễ tang lớn nhất,
khác thường nhất mà thị trấn này đã bao giờ thấy."
"Thế này," luật sư
nói, "đó là nhiều tiền để trả cho chôn cất trong những miền này. Nhưng đó
là tiền của bà, thưa bà, và bà có quyền chi nó theo bất kì cách nào bà thích.
Bây giờ, thế còn hai nghìn kia thì sao?"
"Tôi sẽ chăm nom cái
đó," bà già đáp lại với nụ cười mở rộng. "Tôi chưa bao giờ trên giường
với đàn ông và tôi định thử ít nhất một lần trước khi tôi hết thời. Như anh có
thể thấy tôi không nhiều nhặn gì để nhìn, nhưng tôi hình dung hai nghìn ru pi
tôi có thể kiếm được cho tôi một người đủ trẻ và đủ đẹp trai để làm hài lòng
tôi."
Đêm đó anh luật sư về báo cáo lại
cuộc nói chuyện với vợ mình. Khi họ thảo luận về tình huống này, chị vợ tình cờ
nhắc tới nếu có được hai nghìn ru pi thì tốt làm sao. Vài phút sau họ đã trên
đường tới nhà của bà cô, chị vợ lái xe. Khi anh luật sư bước xuống xe, anh ta
hướng dẫn vợ mình, "Đón anh sau hai tiếng nhé."
Trở lại vào giờ đã nói trước,
chị vợ bấm còi. Không đáp ứng từ ngôi nhà. Thế là cô ta nhấn còi to hết cỡ thật
lâu. Cửa sổ tầng trên được nâng lên và chàng luật sư thò đầu ra. "Quay lại
sau bốn ngày nhé," anh ta kêu lên. "Bà ấy quyết định để cho uỷ ban
thành phố chôn bà ấy."
Đây là những người, người thực.
Đừng bị lừa bởi bộ mặt của họ. Nhìn sâu vào bên trong họ và bạn sẽ thấy tính
điên khùng vô cùng. Kìm nén đem tới điên khùng, siêu việt đem tới Phật tính.
Vâng, Mukesh Bharti, tôi đã nói
có tương tự nào đó giữa vị Phật và người điên. Tương tự này là ở chỗ vị Phật đi
ra ngoài tâm trí, và người điên rơi xuống thấp hơn tâm trí. Và cùng sự tương tự
tồn tại giữa siêu việt trên dục và kìm nén dục. Siêu việt là đi ra ngoài dục -
và để đi ra ngoài người ta phải đi qua; dục phải được dùng như chiếc thang - và
kìm nén là rơi xuống bên dưới dục.
Kìm nén tạo ra thần kinh. Siêu
việt đem tới việc nở hoa - việc nở hoa của mọi cái là tốt nhất trong bạn, việc
nở hoa của moi cái là con người thực của bạn. Nó là việc toả ra của niềm huy
hoàng ẩn kín.
Câu hỏi thứ hai
Osho ơi,
Gần đây thầy nói rằng thầy yêu Wilhelm
Reich. Tôi đã nghiên cứu và viết về ông ấy trong nhiều năm. Trong khi ý tưởng của
thầy - dục tương đương năng lượng, sống trong bây giờ và Thượng đế là cuộc sống
- phù hợp với ý tưởng của ông ấy, thầy đi xa bên ngoài ông ấy. Ông ấy bị giới hạn
theo cách nào vậy?
Edward Mann, tôi cũng đã đọc cuốn
sách của bạn về Wilhelm Reich. Tôi cũng nhớ bạn đã trích dẫn tôi trong cuốn
sách đó.
Wilhelm Reich và ý tưởng của
tôi có sự tương tự bên ngoài nào đó, nhưng nhớ lấy, nó là bên ngoài. Wilhelm
Reich là nhà tư tưởng, không phải thiền nhân, và đôi khi nhà tư tưởng dò dẫm
trong bóng tối có thể tìm ra đôi điều, họ có thể loạng choạng với phải đôi điều.
Nhưng để có mắt là hiện tượng khác toàn bộ.
Vâng, thỉnh thoảng bạn có thể
tìm ra cánh cửa cũng bằng việc dò dẫm trong bóng tối - ngay cả người mù cũng có
thể tìm ra nó - nhưng để có mắt và có ánh sáng và đi thẳng tới cửa mà không dò
dẫm là hiện tượng khác toàn bộ.
Wilhelm Reich chắc chắc được
tôi ca ngợi, được ca ngợi vì một hiện tượng đơn giản là ông ấy không phải là
thiền nhân vậy mà ông ấy đã loạng choạng vớ được cái gì đó chỉ các thiền nhân mới
có thể bắt gặp. Và đó là giới hạn của ông ấy nữa: ông ấy chỉ là nhà tư tưởng.
Cho nên điều ông ấy nói ông ấy không thể thuyết giảng được. Điều ông ấy thuyết
giảng ông ấy không thể thực hành được. Thực ra ông ấy làm chính điều đối lập lại
nó. Cái mù của ông ấy phải được tìm trong cuộc sống của ông ấy, không trong lời
ông ấy.
Vợ của Wilhelm Reich viết về
ông ấy rằng ông ấy là người đàn ông ghen tuông nhất. Bây giờ điều đó là không
thể được. Nếu một người đã siêu việt lên trên dục, thế thì ghen tuông là không
thể được. Và ông ấy liên tục nói về gạt bỏ tính sở hữu, ghen tuông, nhưng về vợ
mình, ông ấy rất nghi ngờ. Cuối cùng họ phải li thân, và nguyên nhân của li
thân là Wilhelm Reich. Ông ấy đã xía vào với đủ loại đàn bà. Ông ấy có nhiều
chuyện tình nhân danh tự do, nhân danh yêu, nhân danh không sở hữu, nhân danh
tình bạn và chia sẻ, nhưng cũng điều đó là không được phép với vợ ông ấy.
Ngay cả ông ấy đi ra ngoài
thành phố, ông ấy cũng bảo bạn mình để mắt tới vợ ông ấy. Vợ của Wilhelm Reich
bản thân bà ấy là nhà phân tâm. Điều này bà ấy không thể nào hiểu nổi. Nhưng
tôi có thể thấy tại sao nó đã xảy ra - ông ấy chỉ là nhà tư tưởng.
Nhà tư tưởng bao giờ cũng tinh
ranh. Với bản thân mình họ sẽ tìm đủ loại cớ, nhưng với người khác sẽ có một
chuẩn khác toàn bộ. Đó là chỗ ông ấy bị giới hạn. Và bởi vì ông ấy không phải
là thiền nhân, ông ấy không thể biến đổi được năng lượng dục của ông ấy thành
có tính chơi đùa, thành có tính cầu nguyện, và chung cuộc thành sự tồn tại cực
thích.
Đó là lí do tại sao ông ấy đã
phát điên. Chơi với lửa là nguy hiểm. Nếu bạn không hiểu bản chất của nó tốt
hơn cả là để nó một mình. Dục là lửa vì nó là cuộc sống: chơi với nó mà không
hiểu biết toàn thể quá trình biến đổi của nó thì chắc chắn là nguy hiểm. Và
nguy hiểm đó đã xảy ra cho ông ấy.
Ông ấy đã ở trên đường đúng nhưng
ông ấy mù. Ông ấy cần một nền tảng trong thiền. Ông ấy đáng trở thành vị Phật,
nhưng ông ấy đã trở thành chỉ là người điên.
Bạn nói, Edward:
Trong khi các ý tưởng của thầy
- dục tương đương năng lượng...
Đây không phải là ý tưởng của
tôi, đây là kinh nghiệm của tôi.
Và một phân biệt rõ ràng phải
được nhớ. Với Wilhelm Reich đây là ý tưởng. Người mù có thể có ý tưởng về ánh
sáng, nhưng điều đó sẽ không giúp cho người đó. Người điếc có thể có ý tưởng về
âm nhạc, nhưng điều đó sẽ không làm cho người đó hiểu âm nhạc, kinh nghiệm về
âm nhạc. Tôi không có ý tưởng nào, đây là kinh nghiệm của tôi. Bất kì cái gì
tôi nói cho bạn tôi không nói nó như một triết gia.
Tôi không phải là nhà tư tưởng
chút nào; với tôi suy nghĩ là hoạt động phẩm chất rất thấp. Điều tôi nói là việc
trải nghiệm của tôi. Cho nên đây không phải là ý tưởng của tôi về dục, đây là
kinh nghiệm thực tại. Và tôi không cố truyền bá cho bạn, tôi đơn giản mời bạn tới
trải nghiệm điều tôi đã trải nghiệm. Cho nên tôi không đòi hỏi bạn tin vào tôi.
Wilhelm Reich là người cuồng
tín. Ông ấy muốn các tín đồ của ông ấy tin vào ông ấy, tin ông ấy một cách tuyệt
đối. Ông ấy rất độc tài. Ông ấy sẽ không cho phép bất kì hoài nghi nào trong
tâm trí của bất kì ai, và ông ấy thường xuyên sống trong sợ hãi - sợ hành hạ,
dường như ông ấy liên tục bị hành hạ, dường như ai đó theo dõi ông ấy. Đây là dấu
hiệu của tâm trí cuồng tín.
Ông ấy có khả năng trưởng
thành, nhưng ông ấy cần mảnh đất đúng. Điều đó bị thiếu. Giá mà ông ấy là một
trong các sannyasin của tôi, chắc một loại người khác toàn bộ đã được sinh ra từ
ông ấy.
Ông ấy sống trong chai. Con ngỗng
không thể thoát ra được. Và ông ấy trở nên quá gắn bó với cái chai - ý thức hệ
của ông ấy, triết lí của ông ấy. Và nỗi sợ thường xuyên này về bức hại, nghi ngờ
đã đưa ông ấy tới điên.
Bạn nói:
... ý tưởng của thầy - dục
tương đương năng lượng, sống trong bây giờ và Thượng đế là cuộc sống - phù hợp
với ý tưởng của ông ấy...
Chúng chỉ dường như phù hợp
thôi.
Sống trong bây giờ, làm sao bạn
có thể cảm thấy bị hành hạ được? Hành hạ bao giờ cũng sẽ là ngày mai. Ngay khoảnh
khắc này làm sao bạn có thể cảm thấy bị hành hạ được? Nó có thể xảy ra chỉ
trong khoảnh khắc tiếp.
Cả đời mình ông ấy đã nói về sống
trong bây giờ, nhưng đó là chỉ nói, đơn thuần nói; ông ấy chưa bao giờ sống
trong bây giờ. Ông ấy nghĩ về bản thân ông ấy theo hình mẫu ngu xuẩn cũ, như là
một nhà tiên tri.
Ý tưởng Do Thái ngu xuẩn này về
việc là nhà tiên tri đã hành hạ nhiều người ở phương Tây. Ki tô giáo, Mô ha mét
giáo, Do Thái giáo - cả ba tôn giáo đã được sinh ra bên ngoài Ấn Độ, đã xoay
quanh ý tưởng về nhà tiên tri. Sigmund Freud có cùng thái độ, và Wilhelm Reich
đã là đệ tử của Sigmund Freud. Thế rồi Carl Gustav Jung có cùng ý tưởng - ông ấy
cũng là một tín đồ của Sigmund Freud. Thế rồi Adler có cùng ý tưởng - ông ấy
cũng là một tín đồ của Sigmund Freud. Tất cả sản phẩm phụ của tâm trí Do Thái.
Tất cả họ đều nghĩ dưới dạng việc cứu rỗi toàn thể nhân loại tuỳ thuộc vào họ.
Đó là sống ở đâu đó khác, không
ở trong bây giờ.
Mới hôm nọ, Sheela mang tới một
bản tường trình từ một người thượng đế học Ki tô giáo - một bản tường trình chống
lại tôi. Ông ta phải đã tới với các ý tưởng hình thành từ trước, và bị rất lẫn
lộn. Ông ta không thể xoay xở được với các ý tưởng đã có từ trước và ông ta
không thể buông bỏ được chúng. Cho nên ông ta nhạt nhoà: một điều ông ta nói chống
tôi, một điều ông ta ủng hộ tôi. Và ông ta lâm vào đống lộn xộn thế. Nhưng tôi
thích một điều ông ta nói - mặc dầu ông ta nghĩ ông ta đã làm một phê bình rất
có ý nghĩa.
Ông ta nói: khoảnh khắc Osho chết,
toàn thể phong trào của ông ta sẽ biến mất như bong bóng xà phòng.
Tôi thích điều đó! Đó là cách
nó phải vậy! Tại sao nó phải tiếp tục? Để làm gì? Không có lí do. Tôi sống bây
giờ, tôi không quan tâm tới tương lai chút nào. Làm sao lại thành vấn đề liệu
phong trào của tôi biến mất như bong bóng xà phòng hay không? Tôi thích bong
bóng xà phòng! Chúng trông đẹp trong ánh mặt trời. Và chúng nên biến mất để cho
vài người khác có thể làm ra các bong bóng xà phòng khác. Tôi không độc quyền về
chúng. Thực ra, thế giới chắc đã tốt hơn nếu bong bóng xà phòng được Jesus tạo
ra đã biến mất cùng ông ấy. Thế thì những giáo hoàng Polack này chắc đã không ở
đây. Bây giờ họ đang làm nhiều om sòm về bong bóng mà không có đó. Bong bóng xà
phòng mà Phật đã tạo ra, giá mà nó đã biến mất, chắc đã là phúc lành lớn cho
nhân loại, vì mọi sư Phật giáo này và những nhà thượng đế học, và mọi loại người
ngu... Chúng ta chắc đã được cứu khỏi họ!
Mới hôm nọ tôi đọc một kinh
sách Phật giáo. Kinh sách Phật giáo nói rằng có ba mươi ba nghìn qui tắc cho từng
sư Phật giáo để tuân theo. Ba mươi ba nghìn qui tắc! Ngay cả nhớ chúng bạn sẽ cần
máy tính. Và loại qui tắc nào? Tôi sẽ nói cho bạn chỉ một qui tắc thôi. Khi sư
Phật giáo đi bồn cầu ông ấy phải mở nắp của bồn cầu rất chậm rãi; không được
gây tiếng động nào. Tại sao? - vì bao giờ cũng có ma đói ăn cứt. Và nếu chúng
ăn cứt của bạn, bạn chịu trách nhiệm; thế thì bạn sẽ khổ trong các kiếp tương
lai của bạn. Những người vĩ đại chưa! Các qui tắc tôn giáo vĩ đại!
Nhưng ý tưởng này về nhà tiên
tri, người cố giải quyết khổ của mọi người, người tới để cứu rỗi nhân loại...
Và bạn không thể thấy được một sự kiện đơn giản rằng Jesus tới và người Ki tô
giáo vẫn cứ ba hoa rằng ông ấy tới để cứu rỗi cho nhân loại, nhưng việc cứu rỗi
nhân loại vẫn chưa xảy ra. Hai nghìn năm đã trôi qua. Ông ấy đã chứng tỏ là một
nhà tiên tri rất bất lực. Loại cứu rỗi nào đã xảy ra? Người Jaina nói rằng
Mahavira tới để nâng nhân loại lên. Nhân loại ở chỗ nó đang vậy. Phật đã tới để
chuyển giao cho mọi người...
Tôi muốn đặt dấu chấm hết cho mọi
thứ vô nghĩa này. Tôi không ở đây để giải thoát cho bất kì ai. Sao tôi phải giải
thoát cho bạn? Bố mẹ bạn đã làm điều đó rồi! Tôi không có trách nhiệm. Tôi
không chịu trách nhiệm cho bất kì ai - cho bất kì nhân loại nào, cho bất kì
tương lai nào. Tôi tận hưởng khoảng khắc của tôi, và những người muốn tận hưởng
khoảnh khắc này, bong bóng xà phòng đẹp này trong ánh mặt trời, có thể tận hưởng.
Nhưng ông ấy nghĩ - nhà thượng
đế học Ki tô giáo người tới từ Đức chỉ để nghiên cứu điều đang xảy ra ở đây - rằng
tất nhiên nó có vẻ đẹp bây giờ, nhưng khi Osho chết nó sẽ biến mất.
Nó phải biến mất chứ. Tôi sẽ
làm mọi thu xếp cho nó biến mất. Nó phải không còn lại cho dù một khoảnh khắc,
vì điều đó sẽ là thứ chết.
Wilhelm Reich đã sống với sứ mệnh
nhà tiên tri này. Và mọi nhà tiên tri theo cách nào đó đều điên, chút ít thần
kinh. Ngay cả người tốt, ngay cả người như Jesus, cũng có chút ít chiều hướng
thần kinh: "đứa con duy nhất của Thượng đế." Nhìn chứng thần kinh đó.
Vậy ra mọi người khác là gì - con hoang sao?
Jesus nói rằng ông ấy được sinh
ra từ người mẹ đồng trinh. Vô nghĩa làm sao! Thần kinh nào đó, vệt thần kinh
nào đó! Tấm đá không tuyệt đối sạch... tàn tích nào đó từ quá khứ. Và ông ấy
đang đợi phép màu. Tại chính khoảnh khắc cuối cùng, trên cây chữ thập, ông ấy
đã chờ đợi. Và ông ấy đã hét vào Thượng đế, "Sao ngài đã bỏ rơi con?"
Bạn thấy mong đợi không? Bạn thấy đòi hỏi không? Ông ấy thất vọng, ông ấy giận:
"Sao ngài đã bỏ con?" Ông ấy phải đã chờ đợi sâu bên dưới để phép màu
xảy ra, rằng Thượng đế sẽ giáng xuống và cứu đứa con trai duy nhất của ngài.
Nhưng không Thượng đế nào đã giáng xuống vì làm gì có Thượng đế. Điều đó là
không thể được. Và ông ấy liên tục cầu nguyện, giơ cả hai tay lên trời và gọi,
"Abba ơi, Cha ơi." Đây là thái độ trẻ con. Nhưng đây là điều đã xảy
ra trong quá khứ.
Với tôi nó là hiện tượng khác
toàn bộ. Tôi muốn làm việc đứt đoạn hoàn toàn với quá khứ. Tôi không là nhà
tiên tri, tôi không là đấng cứu thế, tôi không là con trai duy nhất của Thượng
đế, tôi đã không tới để làm thu xếp cho việc cứu rỗi của bạn. Không có nhu cầu
- con ngỗng ở ngoài!
Edward Mann, Wilhelm Reich đã sống
trong phản ứng, không trong nổi dậy. Và phân biệt là tinh tế. Ông ấy đã phản ứng
lại. Nhưng khi bạn phản ứng cái gì đó bạn vẫn còn bị gắn bó với nó, bạn không
thể tự do khỏi nó. Phản ứng là một loại gắn bó tiêu cực.
Tôi không phản ứng, tôi đơn giản
ngắt kết nối. Tôi gián đoạn với quá khứ vì đó là cách duy nhất để sống bây giờ.
Tôi không có quá khứ và không có tương lai. Khoảnh khắc này là tất cả!
Câu hỏi cuối cùng
Osho ơi, tôi không có câu hỏi nào. Dầu vậy
có một câu hỏi... Thầy có thể nói cái gì đó điên rồ mà không có chủ định không?
Dhyan Madia, và bạn nghĩ tôi đã
từng làm gì suốt từ đầu? Bạn có cho rằng có bất kì chủ định nào không? Bạn có
thể tìm ra người điên rồ nào hơn tôi không?
Tôi hoàn toàn điên rồ, và tôi
chẳng có chủ định chút nào. Tôi chỉ tận hưởng bản thân mình. Tôi thích nói, cho
nên tôi thích nói... Do đó, tôi có tự do mà không nhà tư tưởng nào đã bao giờ
có thể có, bởi vì ông ấy phải nhất quán. Tôi không bận tâm chút nào tới bất kì
nhất quán nào. Khoảnh khắc tôi đã nói cái gì đó, nó được kết thúc; thế thì tôi
không nhìn lại. Tôi chưa bao giờ đọc bất kì cuốn sách nào của tôi - tôi thậm
chí không nhớ tên.
Nếu ai đó hỏi tôi, "Osho
ơi, thầy đã nói điều này trong sách kia..." Tôi nói, "Thực thế à? Điều
đó phải đã được ai đó khác nói đấy chứ. Người đó đã chết lâu rồi."
Cho nên mọi thứ mà tôi đang nói
là vô chủ định - vô chủ định như hoa hồng, như con chim tung cánh, như các vì
sao, như giọt sương trong ánh mặt trời buổi sáng. Chủ định gì? Tôi không trong
bất kì cách thức có chủ định nào. Nó là niềm vui cực kì.
Ba người Polacks, Madia, đang đứng
bên ngoài nhà thổ thảo luận về họ sẵn lòng trả giá nào để có phục vụ bên. Họ
quyết định rằng một người trong số họ nên đi vào bên trong, còn hai người kia đợi
bên ngoài.
Nửa giờ sau, người đi vào trong
bước ra với nụ cười toác miệng trắng răng trên khuôn mặt.
"Chuyện gì xảy ra vậy? Nó
giống cái gì?" bạn anh ta hỏi.
"Thế này, tôi trả năm
zlotys, đi vào trong phòng và người đàn bà gợi tình cao lớn này đang đợi tôi.
Cô ấy cởi quần áo tôi ra, lồng hai khoanh dứa quanh chim tôi và tiến hành ăn dần
chúng. Thật tuyệt!"
Người Polack thứ hai, hài lòng
với báo cáo của người bạn mình, đi vào bên trong. Một giờ sau anh ta bước ra, một
cái cười toe toét ngoác miệng hiện lên trên mặt anh ta.
"Chuyện gì xảy ra vậy?"
hai người kia hỏi.
"Thế này tôi trả mười
zlotys, và nó hệt như anh bạn đầu của chúng ta. Nhưng lần này cô ấy để bốn
khoanh dứa vào chim tôi và ăn chúng rất rất chậm." Người Polack thứ ba, đến
lần này rất hứng tình, chạy xô vào nhà thổ và mười lăm phút sau bước ra với bộ
mặt dài, buồn bã.
"Thế nào," bạn anh ta
hỏi, "cái gì sai? Cái gì xảy ra?"
"Thế này, người Polack buồn
bã bắt đầu, "Nó bắt đầu thì tuyệt. Tôi trả hai mươi zlotys và cô ấy để sáu
khoanh dứa quanh chim tôi, thêm một thìa kem trứng lớn."
"Úi chao!" các bạn
kêu lên.
"Đấy chưa là tất cả
đâu," người thứ ba tiếp tục, "một nhúm lạc nghiền, bánh xốp đường, nước
sốt sô cô la nóng, và trên chóp có dâu tây đỏ đẹp."
"Có vẻ oách ghê," một
trong hai người kia nói. "Thế thì cái gì có thể làm cho anh buồn thế?"
"Thế này, nó có vẻ ngon đéo
chịu được, tự tôi đã ăn nó!"
..............................
0 Đánh giá