Read more
Sato-Kaiseki bị bối rối nhiều bởi các hệ quả
của lí thuyết nhật tâm của Copernicus, mà, tất nhiên, là không nhất quán với vũ
trụ luận Phật giáo cũ trong đó núi Tu di chiếm trung tâm của vũ trụ. Anh ta lập
luận rằng nếu cách nhìn Phật giáo về vũ trụ mà được chứng minh là sai, ba thế
giới, và hai mươi nhăm dạng của sự tồn tại sẽ bị thu lại thành vô nghĩa - làm
phát sinh sự phủ định bản thân Phật giáo. Cho nên anh ta lập tức đặt ra việc viết
một cuốn sách để bảo vệ lập trường núi Tu di, cứu các nỗ lực của bản thân mình.
Khi anh ta đã hoàn thành công trình này,
anh ta đem nó ngay tới thầy Ekido và trình nó ra một cách đắc thắng.
Sau khi đọc lướt qua vài trang đầu thầy đẩy
nó lại, lắc đầu và nói: 'Ngu xuẩn làm sao! Ông không nhận ra rằng mục đích của
Phật giáo là để làm tan tành ba cõi và hai mươi nhăm dạng của sự tồn tại sao? Tại
sao bám lấy những thứ vô dụng hoàn toàn thế và kho báu núi Tu di? Ngu dốt!'
Điếng người, Kaisenki kẹp vội cuốn sách dưới
nách và nhanh chóng về nhà.
Siêu hình là vô nghĩa, nhưng
cho dù thế nó phải phục vụ cho mục tiêu nào đó, bằng không nó chắc đã không tồn
tại - lâu thế. Con người thấy bản thân mình bất lực - trong một thế giới kì lạ,
không quen thuộc... không chỉ không được biết tới, mà còn không thể được biết nữa.
Bóng tối này, đám mây không biết này, quấy rối tâm trí con người vô cùng. Bằng
cách nào đó con người phải tự an ủi bản thân mình. Bằng cách nào đó con người
phải tạo ra tri thức.
Cho dù rằng tri thức không phải
là tri thức thực, nó sẽ cho cái vẻ rằng bạn có căn cứ. Nó sẽ cho cái vẻ rằng bạn
không tuyệt đối bất lực. Bạn có thể giả vờ qua nó rằng bạn không là người lạ
trong thế giới này - sự tình cờ, sự ngẫu nhiên - nhưng là người chủ. Ít nhất bạn
có thể chơi với từ và làm bất kì cái gì bạn thích với từ và có thể tạo ra ảo tưởng
giả về sức mạnh của bạn.
Đây là điều siêu hình bao giờ
cũng đã từng làm. Nó cho bạn cảm giác về sức mạnh nơi thực ra không sức mạnh
nào tồn tại trong bạn. Nó cho bạn ấn tượng về tri thức nơi không tri thức nào
thực sự tồn tại.
Chính từ 'thượng đế' trở thành
bản chất. Chỉ bằng việc dùng từ ‘thượng đế’, bạn cảm thấy dường như bạn đang
làm cái gì đó, dường như bạn đang có quan hệ với sự tồn tại, dường như bạn
không một mình, đứa trẻ bất lực trên trái đất, nhưng người bố đang chăm nom cho
bạn trên cõi trời - liên tục quan sát, lo nghĩ về bạn, về phúc lợi của bạn.
Đây là thái độ rất trẻ con -
nhưng con người bất lực. Và có rất ít người thực sự trở nên trưởng thành. Con
người vẫn còn trẻ con.
Và nhớ khác biệt giữa tính trẻ
con và hồn nhiên của trẻ con. Có tính trẻ con là bị mắc kẹt ở đâu đó. Giống như
trẻ con là việc đơn giản hồn nhiên, tuôn chảy, không khối chắn nào trong con
người bạn.
Con người vẫn còn trẻ con. Tuổi
tâm lí vẫn còn quanh quãng mười hai; nó không bao giờ đi ra ngoài điều đó. Bạn
có thể trở thành sáu mươi, bẩy mươi, tám mươi - thân thể vật lí của bạn liên tục
chuyển động theo thời gian - nhưng tâm trí bạn bị mắc kẹt đâu đó quanh mười hay
mười hai là nhiều nhất.
Một điều: siêu hình - các từ
như 'thượng đế', 'niết bàn', 'chứng ngộ', gần như trở thành đồ vật. Bạn bắt đầu
tin vào lời. Nếu ai đó đột nhiên kêu lên, 'Cháy!' nỗi sợ nảy sinh trong bạn; bạn
bắt đầu chạy. Bạn tạo ra phiền toái trong bất kì nhà hát nào ban đêm. Khi đèn tắt
đi, đột nhiên tiếng kêu, 'Cháy! Cháy!' và mọi người sẽ bắt đầu chạy.
Chính từ 'cháy' tạo ra ảo tưởng
dường như có cháy và cuộc sống bị lâm nguy. Chính từ 'chanh'... nghĩ về nó, suy
ngẫm về nó, và nước bọn bắt đầu chảy ra trong mồm bạn. Chính từ 'chanh' sao? Nó
chẳng có gì trong nó. Nhưng con người đã trở nên nghiện với từ.
Có một trường phái ngôn ngữ có
tên là Nhóm ngữ nghĩa tổng quát, được Alfred Korzybski sáng lập. Họ có bài hát
nhỏ; nó có liên quan. Bài hát của họ là:
Ồ, từ không là vật,
từ không là vật.
Ồ thành kiến
Từ không là vật.
Đó là giáo huấn bản chất của họ.
Tất nhiên, bạn không thể bị
thiêu cháy bởi từ ‘cháy’, bạn không thể bị ướt từ từ 'nước'. Nhưng từ 'thượng đế',
từ 'tôn giáo', từ 'christ', từ 'phật' thì sao? Bao nhiêu người đã hi sinh mạng
sống của họ cho những từ này?
Ai đó xúc phạm Ki tô giáo - người
đó đang làm gì? Ki tô giáo là một từ - nhưng người Ki tô giáo bị xúc phạm; sẽ
có đổ máu. Nhân loại đã từng đánh nhau và đánh nhau vì từ - 'đất nước', 'tự
do', 'chủ nghĩa xã hội', 'cờ' - và hàng triệu người đã chết. Từ đã trở thành có
ý nghĩa hơn bản thân cuộc sống. Đây là một loại điên khùng.
Cho nên siêu hình không chỉ là
vô nghĩa, nó cũng là điên khùng - tất nhiên, có phương pháp. Nó rất có phương
pháp luận. Các nhà siêu hình liên tục xây những toà nhà chọc trời các từ - tháp
babel. Họ liên tục xây nó.
Và một khi bạn bị mắc vào từ,
thực tại lùi ra xa khỏi bạn. Bạn bắt đầu sống đằng sau bức tường các từ. Và bức
tường các từ là mạnh hơn bất kì bức tường nào. Ngay cả tường đá, các tảng đá,
cũng không mạnh thế.
Sức mạnh của từ nằm trong việc
trong suốt của chúng: bạn có thể liên tục nhìn qua chúng và bạn sẽ không bao giờ
trở nên nhận biết rằng bạn đang nhìn qua từ. Chúng gần như vô hình, trong suốt
- như kính thuần. Bạn có thể đứng gần cửa sổ. Nếu kính thực sự thuần khiết, bạn
sẽ không trở nên nhận biết về kính. Bạn sẽ nghĩ rằng cửa sổ đang mở và bạn đang
nhìn trời và cây và mặt trời lên, và bạn sẽ không bao giờ trở nên nhận biết rằng
có kính giữa bạn và thực tại.
Siêu hình là kính. Nó liên tục
che giấu bạn khỏi thực tại, và nó liên tục bóp méo thực tại.
Mọi người bám lấy từ vì họ
không biết thực tại là gì. Cho nên họ bắt đầu tin vào từ - nó là việc tạo ra niềm
tin. Ít nhất nó cho cảm giác rằng bạn biết. Khi bạn dùng từ ‘thượng đế’, đột
nhiên bạn cảm thấy dường như bạn biết thượng đế. Bạn không biết cái gì về thượng
đế, bạn chỉ biết từ 'thượng đế'. Điều đó nữa bạn đã chỉ nghe, nhưng nó đã trở
thành hòn đá nền tảng của bạn.
Một nhà thơ và nhà tư tưởng Hà
Lan, Huub Oosterhuis, đã viết trong nhật kí của ông ấy: Tôi nghe ai đó kêu ‘Thượng
đế’ trong giọng vỡ ra, và tôi thấy ai đó khác thì thầm. Tôi hỏi người đó, 'Bạn
thì thầm cái gì vậy?' Anh ta nói, 'Tôi đang cầu nguyện thượng đế,' nhưng không
ai trong số họ có thể nói cho tôi liệu ngài có nhận câu trả lời nào không. 'Thế
thì tại sao cả hai bạn cứ gọi tới ngài vậy? Khi câu trả lời không bao giờ tới bạn,
tại sao bạn cứ liên tục cầu nguyện?' Tôi hỏi. Cả hai trả lời, 'Giữ im lặng thậm
chí còn tệ hơn.'
Bạn liên tục cầu nguyện, bạn
liên tục tin, vì sống không có niềm tin cần dũng cảm vô cùng. Bạn liên tục cầu
nguyện vì chỉ để giữ yên tĩnh, bạn trở nên sợ hơn.
Bạn có quan sát bản thân mình
không? Đôi khi đi qua phố đơn độc trong đêm tối, bạn bắt đầu hát và huýt sáo. Bạn
đang làm gì? Đó là siêu hình. Bạn đang tạo ra cảm giác rằng bạn không một mình.
Huýt sáo, nghe tiếng nói riêng của bạn, cho cảm giác dường như ai đó khác cũng
đang có đó. Điều đó sưởi ấm bạn.
Hát - và nếu bạn là người tôn
giáo, thế thì cầu nguyện - và bạn cảm thấy rằng thượng đế có đó và mọi sự là ổn
thoả. Trong khoảnh khắc bạn trở nên bị bận bịu trong việc hát, trong việc cầu
nguyện, trong việc thốt ra lời, trong việc huýt sáo. Bạn trở nên bị bận rộn tới
mức bạn quên mất đêm đang tối, và phố là đơn độc và có nguy hiểm ở mọi nơi.
Bởi vì cái chết, con người liên
tục huýt sáo. Việc huýt sáo đó là siêu hình. Người ta liên tục né tránh sự kiện
rằng cái chết hiện hữu. Người ta liên tục né tránh sự kiện là cuộc sống của bạn
có thể chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Có thể không có đấng sáng tạo. Có thể không
có ai đang kiểm soát. Một khi bạn hiểu rằng không có ai đang kiểm soát, bạn sẽ
trong hoảng hốt. Thế thì bất kì cái gì cũng có thể đi sai, bất kì khoảnh khắc
nào, và bạn sẽ không có khả năng ngay cả phàn nàn. Không có ai để phàn nàn với
cả.
Siêu hình tạo ra thế giới mơ
quanh bạn, toàn những từ đẹp - cõi trời, thiên đường, dành cho bạn; địa ngục
dành cho người khác. Địa ngục dành cho kẻ thù, cõi trời dành cho bạn. Đây là những
việc thoả ước.
Các nhà tâm lí đã trở nên nhận
biết về trạng thái nào đó mà mọi đứa trẻ đều phải trải qua. Bạn có quan sát trẻ
nhỏ không? Chúng trở nên nghiện những thứ nào đó - búp bê vải, hay một mảnh
chăn, hay bất kì cái gì cũng được - các thứ không quan trọng. Bất kì cái gì
trong tay, chúng sẽ bắt giữ nó, và dần dần vật nào đó trở thành gần như thiêng
liêng, tôn giáo. Bạn không thể lấy vật đó đi mà không làm tổn thương đứa trẻ.
Nó sẽ đi ngủ cùng búp bê vải. Mọi đứa trẻ đều là một Linus cùng chăn của nó. Điều
đó cho an ninh.
Và vật đó không phải là vật thường
- nó có phẩm chất đặc biệt cho nó. Điều đó phải được hiểu, vì toàn thể siêu
hình là cái chăn của đứa trẻ, con búp bê vải.
Nếu bạn lấy đi con búp bê vải,
đứa trẻ không thể ngủ được; nó thiếu cái gì đó. Cái đó là TM, thiền siêu việt,
của nó. Cái đó là lời cầu nguyện của nó - con búp bê vải đó là thượng đế của
nó.
Với bạn, con búp bê vải đó dường
như là ở ngoài. Với đứa trẻ, nó không ở ngoài con người nó; nó là một phần của
bản thể bên trong nhất của nó. Con búp bê vải đó tồn tại đâu đó ở biên giới của
bên trong và bên ngoài. Bên ngoài là thế giới các vật và bên trong là thế giới
của bản thể bạn, và con búp bê vải đó tồn tại ngay trên đường biên, là bộ phận
của cả hai. Theo nghĩa nào đó, một phần của thế giới; theo nghĩa nào đó, là một
phần của bản thể bên trong nhất của bạn. Đó là điều kì lạ nhất trên thế giới -
nhưng nó cho an ninh, nó bảo vệ bạn. Bạn không bao giờ cảm thấy một mình; bạn
bao giờ cũng bận rộn.
Điều đó trở thành nghi lễ. Điều
đầu tiên vào buổi sáng đứa trẻ sẽ tìm con búp bê vải của nó. Nếu nó có đó thế
thì mọi sự là ổn; mọi thứ đều ở chỗ của chúng. Nó tiếp tục ngủ cùng búp bê; điều
đầu tiên trong buổi sáng, nó tìm con búp bê. Nếu con búp bê vải có đó thế thì mọi
thứ vẫn ổn; không cái gì bị quấy rối. Con búp bê vải đó là thế giới của nó.
Nó đã hệ thống hoá thế giới. Thế
giới là bao la và đứa trẻ bất lực. Nó không thể quán xuyến thế giới được, nhưng
nó có thể quán xuyến con búp bê vải. Với con búp bê vải, nó trở thành người chủ.
Với thế giới, nó chỉ là đứa trẻ bất lực trong tay của những người khác... quá lớn
không thể nào hiểu thấu nổi.
Với con búp bê vải, nó không
còn là đứa trẻ nhỏ; nó là ai đó lớn, ông chủ. Nó có thể làm bất kì cái gì nó muốn
với con búp bê vải: nó có thể ném con búp bê, nó có thể giận con búp bê, nó có
thể đánh con búp bê. Thế rồi nó có thể ca ngợi con búp bê và thuyết phục búp bê
và yêu búp bê và ôm và hôn búp bê. Và bất kì cái gì nó muốn nó đều có thể làm,
và con búp bê vải tuyệt đối bất lực. Nó là người chủ tuyệt đối của tình huống
này.
Mọi siêu hình đều có cùng phẩm
chất này. Thượng đế của bạn hay búp bê vải của bạn... Linus của bạn vẫn đang ôm
giữ một mảnh chăn.
Nếu bạn thực sự muốn biết cuộc
sống là gì, mọi búp bê vải đều cần phải bị bỏ đi, bị làm tan tành. Mọi ảo tưởng
đều phải được làm tan tành để cho bạn có thể trở nên có khả năng biết chân lí
là gì. Mọi việc giả vờ đều phải bị bỏ đi.
Mọi người liên tục ẩn đằng sau
việc giả vờ của họ. Chúng là các hang động của họ. Không ánh sáng nào đi vào,
không không khí tươi mát nào tới - nhưng bạn cảm thấy được bảo vệ. Niềm tin của
bạn gần như trở thành cái chết của bạn - nhưng dầu vậy bạn vẫn được bảo vệ. Đó
là lí do tại sao tôi bao giờ cũng nói rằng người tôn giáo là người dũng cảm nhất
trên thế giới. Và không có cách khác để sống cuộc sống khác hơn là sẵn sàng đối
diện với nguy hiểm của nó.
Tôi đã nghe một giai thoại:
"Trong vở kịch tiếng Đức cổ,
màn hạ đột ngột và người quản lí nhà hát bước ra trước khán giả, với mức độ cuối
của việc khuấy động.
'Thưa các quí bà và quí ông,'
ông ta nói, 'Tôi đau buồn phải nói với các quí vị rằng nghệ sĩ vĩ đại và yêu mến,
Mendel Kalb, vừa bị cơn đau tim định mệnh trong phòng trang điểm và chúng tôi
không thể tiếp tục được.'
Và rồi thì một người đàn bà
trung niên ghê gớm ở ban công đứng dậy và kêu to, 'Nhanh lên! Cho ông ấy chút
súp gà nào đó!'
Người quản lí, ngạc nhiên, nói,
'Thưa quí bà, tôi nói đó là cơn đau tim định mệnh. Mendel Kalb vĩ đại đã chết.'
Người đàn bà đáp, 'Vậy nhanh
lên! Cho ông ấy súp gà đi.'
Người quản lí rít lên trong thất
vọng, 'Thưa bà! Người này chết rồi! Món súp gà đó sẽ làm được gì tốt?'
Và người đàn bà quát lại, 'Hại
gì?'"
Mọi siêu hình... nhiều nhất, một
điều có thể được nói thêm cho nó - nó không thể gây hại gì. Nó là món súp gà
dành cho người chết. Không cái gì tốt tới từ nó. Không cái gì có thể tới từ nó
- đơn thuần từ, đơn thuần trò chơi của từ. Không cái gì tốt có thể tới từ nó. Tất
nhiên, cũng không hại. Nó là hoạt động vô tích sự; thậm chí không hại nào tới từ
nó.
Và nhớ lấy, cái gì đó có thể có
hại chỉ nếu nó có thể có lợi nữa. Nếu nó không thể có hại, nó không thể có lợi.
Nếu cái gì đó có thể có lợi thế thì nó có thể có hại nữa; thế thì điều đó là tuỳ
vào cách nó được sử dụng. Chất độc là có hại: nó có thể có lợi, nó có thể trở
thành thuốc. Điều đó tuỳ vào cách bạn dùng nó.
Nhưng với siêu hình, chỉ toàn
có từ. Nhưng tâm trí con người có xu hướng tin vào từ. Dần dần quên hoàn toàn rằng
thực tại không phải là ở trong từ; nó ở bên ngoài từ. Nó phải được tiếp cận tới
qua im lặng. Nó phải được tiếp cận qua thiền, không qua tâm trí. Nếu tâm trí bạn
liên tục tạo ra ngày càng nhiều các dòng từ, bạn sẽ liên tục trong hoạt động vô
tích sự - nhiều hối hả về chẳng cái gì.
Nhưng tại sao mọi người bám lấy
thái độ siêu hình? Họ bám, bởi vì nếu họ bỏ thái độ siêu hình đó - họ gọi chúng
là triết học, tôn giáo, Ki tô giáo, Hindu giáo, Phật giáo - nếu họ bỏ chúng, đột
nhiên bạn bị trần trụi. Nếu bạn bỏ chúng, đột nhiên đứa trẻ run rẩy của bạn có
đó - không có con búp bê vải. Nếu bạn bỏ chúng, thế thì bạn không biết bạn là
ai. Nếu bạn bỏ chúng, đột nhiên bạn mất căn cước của bạn. Tên bạn, hình dạng bạn,
mọi thứ bắt đầu biến mất... bạn bắt đầu rơi vào trong vực thẳm - đó là nỗi sợ.
Mọi người liên tục níu bám lấy
từ. Từ tạo ra nhiều từ hơn. Từ tạo ra nhiều câu hỏi hơn và nhiều câu trả lời hơn
lại được cần tới, và thế rồi câu trả lời lại tạo ra nhiều câu hỏi hơn, và cứ
như thế mãi.
Có một câu chuyện về một người
làm công đã bị thương gần chết:
"Một tu sĩ được phái tới,
và ông ta bắt đầu sự chăm sóc bằng việc hỏi, 'Ông có tin vào thượng đế cha
không? Ông có tin vào thượng đế con không? Và ông có tin vào thượng đế thánh thần
linh thiêng không?'
Người này nhìn những người xung
quanh mình và lầm bầm, 'Ở đây tôi đang chết và ông ta hỏi tôi những câu đố."'
Cuộc sống liên tục ở trong tay
của cái chết. Đừng phí thời gian vào từ và câu đố.
Phật thường nói, 'Ta thấy ông
đang trong nguy hiểm lớn, còn ông liên tục phí thời gian vào giải quyết các câu
đố mà chẳng liên quan gì tới thực tại.' Ông ấy thường nói, 'Ông giống như người
đã bị thương bởi mũi tên tẩm chất độc, và đang nằm đó. Thầy thuốc tới và muốn lấy
mũi tên ra khỏi thân thể người đó, nhưng người đó là triết gia lớn và người đó
nói, "Đợi đã. Trước hết tôi phải đi tới kết luận liệu mũi tên này là thực
hay ảo tưởng, liệu thế giới là thực hay ảo tưởng, maya. Trước hết tôi phải đi tới
quyết định liệu mũi tên này đã được bắn vào tôi có do tình cờ không, hay liệu
ai đó đã làm điều đó một cách có chủ định. Tại sao thượng đế đã tạo ra thế giới
này? Có ai đó đã tạo ra thế giới này không?" Nhà triết học bị thương sắp
chết hỏi, "Đợi đã! Trước hết thuyết phục tôi xem liệu cuộc sống có đáng cứu
hay không."'
Phật thường kể câu chuyện này lặp
đi lặp lại, và ông ấy thường nói, 'Khi ta nhìn ông, ta thấy cùng người này
trong ông.'
Cuộc sống của bạn đang lướt qua
nhanh. Nước cuộc sống đang lọt qua ngón tay bạn - bất kì khoảnh khắc nào và cái
chết có thể điểm - và bạn đang cố giải những câu đố siêu hình sao? - Ai đã tạo
ra thế giới này? Liệu bất kì ai đã tạo ra nó hay không? Thượng đế là ai? Hình dạng
của ngài là gì?
Mọi người cứ thường xuyên thảo
luận, tranh cãi. Dường như họ đang né tránh cái gì đó qua những thảo luận này.
Họ đang né tránh sự tồn tại. Họ đang cố gắng vẫn còn bận bịu trong cái gì đó để
cho thực tại của sống và chết không được đương đầu.
Tôi đã nghe một câu chuyện. Nó
cực kì hay. Chuyện xảy ra trong thời trung cổ ở Rome.
"Trở lại thời trung cổ,
giáo hoàng La Mã được một số trong các cố vấn bảo thủ của ông ta thuyết phục
không kéo dài lâu sự hiện diện của người Do Thái ở chính trung tâm và cốt lõi của
thế giới Ki tô giáo. Người Do Thái ở Rome do đó được lệnh bị đuổi khỏi nhà họ
trước ngày nào đó.
Với người Do Thái ở Rome, đây
là thảm kịch lớn, vì họ không còn biết tị nạn ở đâu nơi họ có thể mong đợi được
đối xử khá hơn ở Rome. Họ cầu giáo hoàng xem xét lại, và giáo hoàng, người có
tâm trí công bằng, gợi ý một đề nghị độ lượng. Nếu người Do Thái chỉ định một
trong các thành viên riêng của họ tham gia vào tranh luận với ông ấy theo kiểu
kịch câm, và nếu đại diện người Do Thái thắng trong tranh luận, người Do Thái
có thể ở lại.
Các lãnh đạo Do Thái tụ tập lại
trong giáo đường đêm đó và cân nhắc đề nghị này. Dường như đây là lối ra duy nhất,
nhưng không ai trong số họ muốn tình nguyện tranh luận. Vì giáo sĩ trưởng đã
nói, 'Không thể nào thắng được tranh luận trong đó giáo hoàng sẽ là cả người
tham gia và giám khảo. Và làm sao tôi có thể đối diện được với khả năng rằng việc
đuổi người Do Thái sẽ là kết quả của thất bại đặc biệt của tôi?'
Người trông giáo đường, người
đã từng yên tĩnh quét sàn trong suốt cuộc họp này, đột nhiên lên tiếng. 'Tôi sẽ
tranh luận,' ông ta nói.
Họ nhìn chằm chằm ông ta một
cách chưng hửng. 'Ông, người phụ trách dọn dẹp chính,' giáo sĩ trưởng nói, 'sẽ
tranh luận với giáo hoàng!'
'Ai đó phải làm chứ,' người
trông nom nói, 'và không ai trong các ông sẽ làm.'
Thế là mặc nhiên không ai khác,
ông phụ trách lau dọn giáo đường được cử làm đại diện của cộng đồng Do Thái và
được chỉ định ra tranh luận với giáo hoàng.
Thế rồi ngày trọng đại của
tranh luận đã tới. Trên quảng trưởng trước thánh Peters là giáo hoàng, được bao
quanh bởi đoàn các hồng y giáo chủ trong bộ lễ phục đầy đủ, với đám đông các
giám mục và các quan chức nhà thờ khác. Tiến vào là người trông giáo đường Do
Thái, được bao quanh bởi vài người lãnh đạo cộng đồng Do Thái, trong bộ quần áo
mầu đen sẫm và chòm râu xám dài của họ. Giáo hoàng đối diện với người trông
giáo đường - và cuộc tranh luận bắt đầu.
Một cách trịnh trọng giáo hoàng
giơ một ngón tay lên và quét ngang qua trời. Không ngần ngại, người trông trông
giáo đường kiên định chỉ tay xuống đất, và giáo hoàng lộ vẻ ngạc nhiên.
Còn trịnh trọng hơn, giáo hoàng
giơ một ngón tay lên lần nữa, gí nó thẳng vào trước mặt người trông giáo đường.
Với nét cười chế nhạo, người trông giáo đường giơ ba ngón tay, chụm chúng trước
mặt giáo hoàng, và nhìn sự ngạc nhiên chạy qua mặt giáo hoàng lần nữa.
Thế rồi giáo hoàng thọc tay sâu
vào trong áo choàng và lấy ra quả táo. Người trông giáo đường ngay sau đó mở
túi giấy được đính từ túi sau hông và lấy ra một mảnh bánh thánh phẳng. Lúc này
giáo hoàng thốt ra một tiếng nói to, 'Đại diện người Do Thái đã thắng cuộc
tranh luận. Người Do Thái có thể ở lại Rome.'
Người trông giáo đường trở lui,
những lãnh đạo người Do Thái bao quanh ông ta, và tất cả đều bước đi môt cách vội
vàng ra khỏi quảng trường. Họ đã đi không sớm hơn những người lãnh đạo nhà thờ
đang chụm lại quanh giáo hoàng. 'Chuyện gì xảy ra vậy, thưa đức giáo hoàng?' họ
hỏi. 'Chúng tôi đã không theo được việc cho và nhận nhanh chóng.'
Giáo hoàng gạt tay còn run run
ngang qua trán. 'Người đối diện ta,' ông ấy nói, 'là một thầy về nghệ thuật
tranh luận. Xem đấy. Ta bắt đầu tranh luận bằng việc quét tay qua bầu trời để
chỉ ra rằng thượng đế cai quản mọi vũ trụ. Không dừng lấy một chút nào, người
Do Thái già kia trỏ xuống đất để chỉ ra rằng dẫu sao đi chăng nữa, quỉ đã được
phân công lãnh địa ở dưới riêng của nó.
'Thế rồi ta giơ một ngón tay
lên để chỉ đã có nhưng chỉ một thượng đế, ra dáng ta sẽ bắt lỗi ông ta về thượng
đế học của riêng ông ta. Vậy mà ông ta ngay lập tức đưa lên ba ngón tay để chỉ
ra rằng một thượng đế có ba biểu hiện - sự chấp nhận rõ ràng về học thuyết ba
ngôi.
'Bỏ thượng đế học, ta đã đưa ra
một quả táo để chỉ rằng các tín đồ mù quáng nào đó của cái gọi là khoa học đã đối
lập với chân lí được khải lộ bằng việc tuyên bố trái đất là tròn như quả táo.
Ngay lập tức ông ta đưa ra miếng bánh mì phẳng không men để chỉ ra rằng đất,
tương ứng với khải lộ, dẫu sao đi chăng nữa cũng là phẳng. Cho nên ta ban cho
ông ta thắng lợi.'
Đến lúc này những người Do Thái
và người trông giáo đường về tới khu người Do Thái. Mọi người vây quanh người
trông giáo đường hỏi, 'Cái gì đã xảy ra?'
Người trông giáo đường nói một
cách đầy phẫn nộ, 'Toàn thể sự việc là vô nghĩa. Nghe đây. Đầu tiên giáo hoàng
vẫy tay như kiểu ông ấy nói người Do Thái phải ra khỏi Rome. Thế là tôi trỏ tay
xuống đất để nói người Do Thái sẽ ở lại ngay chỗ này. Thế là ông ta trỏ ngón
tay vào tôi dường như nói chết bất đắc kì tử đi, nhưng người Do Thái phải ra
đi. Thế là tôi xoè ba ngón tay cho ông ta để nói chết bất đắc kì tử ba lần, người
Do Thái vẫn ở lại. Vậy rồi tôi thấy ông ta lấy ra đồ ăn trưa, cho nên tôi lấy
ra đồ ăn của tôi."'
Toàn thể tranh luận siêu hình
diễn ra như thế này. Những cử chỉ bất lực, cử chỉ vô nghĩa - bạn có thể cho
chúng bất kì nghĩa nào. Những từ trống rỗng - bạn có thể làm cho chúng xuất hiện
theo bất kì cách nào bạn thích. Nó là trò chơi của bạn.
Thực tại không bận tâm về từ của
bạn - điều nhân loại nghĩ, điều tâm trí nhân loại quyết định là chân lí. Chân
lí không lo nghĩ về nó. Nó không phải là vấn đề về việc quyết định của bạn chân
lí là gì. Bạn không lừa được ai ngoại trừ bản thân bạn. Chân lí của bạn là chân
lí của bạn; nó không phải là chân lí.
Bất kì cái gì tâm trí đi tới kết
luận đều là kết luận của tâm trí. Nó chỉ ra cái gì đó về tâm trí; nó không chỉ
ra cái gì về thực tại. Chân lí không phải là sự tin chắc của tâm trí. Chân lí
là việc biến đổi của bản thể.
Ở đây tôi không cho bạn bất kì
siêu hình nào. Mọi người tới tôi và họ hỏi, 'Học thuyết của thầy là gì?' Không
có học thuyết nào ở đây. Mọi học thuyết đều nguy hiểm, vì chúng trở thành giáo
điều. Và mọi học thuyết là nguy hiểm vì chúng trở thành mối bận bịu - nhiều tới
mức toàn thể năng lượng của con người bị phí hoài trong chúng. Bỏ mọi học thuyết,
giáo điều, niềm tin, các ‘giáo’. Phải hết sạch chúng - trẻ trung, tươi tắn. Thế
thì bạn sẽ thông minh.
Thông minh không phải là trí tuệ.
Trí tuệ là tri thức được tích luỹ. Thông minh là tính tươi tắn của bạn, tính
trinh nguyên của bản thể bạn, sự hồn nhiên của bản thể bạn.
Người thông minh là người đối
diện với cuộc sống mà không có lời; người tới cuộc sống mà trần trụi mọi niềm
tin; người tới cuộc sống mà không có kinh sách nào; người nhìn thẳng và ngay tức
khắc vào cuộc sống, không mây nào trong tâm trí người đó. Người đó không có gì
để chứng minh. Người đó đã không quyết định cái gì trước. Người đó không có ý
tưởng cố định.
Và thế thì người đó không bao
giờ thất vọng. Người đó đơn giản mở, mong manh, và thực tại xuyên thấu người đó
từ mọi xó xỉnh, từ mọi tế bào của con người. Người đó trở thành giống miếng bọt
biển: người đó được thấm đẫm với thực tại.
Là miếng bọt biển tươi tắn đi -
trống rỗng toàn bộ - để cho bạn có thể thấm toàn thể thực tại đang có đó. Đây
là điều thiền tất cả là gì.
Thiền nghĩa là bỏ tâm trí, bỏ
siêu hình, bỏ học thuyết về thực tại để cho bản thân thực tại có thể xuyên thấu
vào bạn và đi vào bạn.
Một khi bạn trở nên bị nghiện với
học thuyết, thế thì chính trí tuệ đang vận hành, không phải thông minh. Người
thông minh bao giờ cũng tự do; người trí tuệ không bao giờ tự do. Trí tuệ bao
giờ cũng cố gắng để nhất quán với quá khứ. Thông minh bao giờ cũng cố gắng để
đáp ứng với hiện tại. Người trí tuệ sẽ nhất quán. Người thông minh sẽ rất ngược
đời. Người trí tuệ sẽ logic, thực ra quá logic - chẻ đôi sợi tóc, chặt chẻ
logic. Người thông minh không logic; người đó đơn giản thực - và thực tại là
ngược đời. Người đó không có ý tưởng cố định để áp đặt lên thực tại. Người đó
không có phương thức cố định để áp đặt lên thực tại. Người đó linh hoạt, linh động,
như nước. Người đó sẵn sàng đi cùng thực tại. Bất kì hình dạng nào mà thực tại
cho người đó, người đó đều sẵn có. Người đó không bao giờ nói không.
Nhớ điều này. Người trí tuệ bao
giờ cũng vẫn còn với không. Người thông minh sống cùng với có. Người đó nói có
với thực tại, dù nó là bất kì cái gì. Người đó không có tranh đấu. Người đó
không có gì để đè nén thực tại. Người đó là một phần của nó.
Là thông minh là khác toàn bộ với
việc là trí tuệ. Là trí tuệ chỉ là cố gắng, giả vờ rằng bạn thông minh. Nó là
cái thay thế giả. Và một khi bạn trở thành trí tuệ, bạn sẽ trở nên có tính bản
ngã. Một khi bạn trở thành có tính bản ngã, bạn bị đóng.
Nếu bạn là người trí tuệ và cố
gắng giải quyết thực tại, và mang học thuyết nào đó bên trong bạn tương ứng với
điều bạn hi vọng rằng bạn sẽ có khả năng tìm ra chìa khoá và mở chiếc khoá của
thực tại, chìa khoá đó sẽ là chính rào chắn - vì ổ khoá chưa bao giờ bị khoá lại
cả. Cửa đang mở.
Bạn phải đã nghe nói về
Houdini, nhà ảo thuật, người thường thoát ra mọi loại khoá, xiềng xích, xà lim
nhà tù, trong vài phút - nhiều nhất là ba phút. Nhưng một lần, chỉ một lần
trong đời mình, ông ấy đã bị lừa.
Ở Italy ông ấy đang trình diễn
tài năng của mình, và ông ấy không thể ra được trong một giờ. Những người đã tới
xem trở nên lo lắng - nó chưa bao giờ như vậy. Trong vòng ba phút, đôi khi thậm
chí trong vòng vài giây, ông ấy bao giờ cũng ra ngoài. Cái gì đã xảy ra? Và khi
ông ấy ra ngoài sau một giờ, ông ấy vã mồ hôi, hoàn toàn mệt mỏi. Ông ấy có vẻ
kì lạ.
Họ hỏi, 'Cái gì xảy ra vậy?'
Ông ấy nói, 'Mọi người lừa tôi.
Họ đã không khoá cửa. Cửa vẫn mở, và tôi lại cố tìm chìa khoá. Không có ổ khoá,
chỉ một cái lỗ, và trong lỗ đó tôi đã cố mở ổ khoá, ổ khoá không tồn tại.'
Tất nhiên, nếu không có ổ khoá
bạn không thể nào mở được nó. Ông ấy trở nên ngày một lo lắng hơn, và ông ấy
không thể hình dung được rằng họ có thể đã giở thủ đoạn và cửa không được khoá.
Nó là một lỗ hổng đơn giản; không có ổ khoá trong nó, cho nên không chìa khoá
nào khớp.
Jesus nói, 'Gõ cửa, và cửa sẽ mở
ra cho ông.'
Nghĩa cơ bản là, 'Gõ cửa, và bạn
sẽ tìm ra cửa bao giờ cũng mở. Chúng bao giờ cũng vẫn còn mở.'
Trí tuệ cố tạo ra chìa khoá -
vì chìa khoá của bạn, bạn luôn luôn bỏ lỡ. Và một khi bạn có chìa khoá... tất
nhiên, nó có vẻ giống chìa khoá - nó không phải là chìa khoá vì nó chưa bao giờ
khớp, và nó không thể khớp được vì không có ổ khoá, nhưng nó có vẻ giống chìa
khoá... một khi bạn có chìa khoá, bạn liên tục bảo vệ nó. Nó trở thành cái
chăn, con búp bê vải.
Người Hindu liên tục bảo vệ tôn
giáo của họ. Họ không lo lắng thế về việc dùng nó; họ liên tục bảo vệ nó. Người
Mô ha mét giáo liên tục bảo vệ tôn giáo của họ. Người Ki tô giáo liên tục tạo
ra tài liệu rác rưởi. Tôi chưa bao giờ bắt gặp nhiều tài liệu rác rưởi hơn tài
liệu Ki tô giáo - chỉ thứ mục nát đơn giản. Nhưng họ liên tục tạo ra - trong việc
bảo vệ. Họ phải tranh cãi. Họ chưa bao giờ dùng điều họ nói, chìa khoá chưa bao
giờ có ích cho bản thân họ, nhưng họ đang bảo vệ.
Và mọi người tìm ra những cách
kì quặc để bảo vệ chìa khoá của họ và học thuyết của họ. Toàn thể năng lượng của
họ trở nên bị chặn lại trong nỗ lực vô tích sự. Bạn có quan sát không? Nếu bạn
không có học thuyết nào, bạn có thể tận hưởng; điều rất vui là khi mọi người bắt
đầu hợp lí hoá và bảo vệ học thuyết của họ.
Nhiều lần điều đó xảy ra... họ
tới tôi. Một nhà truyền giáo Ki tô giáo tới vài năm trước đây và ông ta bắt đầu
nói về thượng đế học của mình. Trong nửa giờ tôi lắng nghe ông ta, và thế rồi
tôi hỏi ông ta, 'Chỉ một điều tôi muốn hỏi - nó có giúp ích cho ông không? Vì
ông có vẻ gần mất trí.' Bạn phải đã bắt gặp các nhân chứng Jehovah và những người
mất trí khác... Nhưng ông ta không nghe; dường như ông ta không có đó. Ông ta cứ
thao thao nói mãi.
Lần nữa, sau một giờ đã trôi
qua, tôi nói, 'Đợi một chút. Ông đang nói về cái gì vậy? Nó có giúp ích cho ông
không?'
Ông ta thú nhận rằng nó đã
không giúp cho ông ta, nhưng ông ta hi vọng nó sẽ giúp ích. Tôi bảo ông ta,
'Cái gì đó đã giúp tôi - ông có thực sự lắng nghe nó không?'
Ông ta nói, 'Tôi sẽ tới vào thời
gian khác nào đó.' Ông ta không bao giờ tới.
Mọi người bám lấy niềm tin của
họ một cách vô vọng. Họ không thuyết phục người khác; thực ra, trong thuyết phục
người khác, họ đang thuyết phục bản thân họ. Một mình, được bỏ lại cho bản thân
họ, họ trở nên sợ hãi. 'Ai biết liệu điều mình đang tin là đúng hay không?' Khi
họ thuyết phục người khác, và ai đó nói, 'Vâng, điều đó đúng,' họ trở nên tự
tin. Bây giờ họ biết rằng họ phải có cái gì đó đúng; bằng không làm sao người
khác bị ấn tượng?
Có lần chuyện xảy ra:
"Hai đệ tử trẻ đang tranh
cãi về lòng mộ đạo tương đối của các thầy giáo giáo sĩ tương ứng của họ.
'Giáo sĩ của tôi,' người thứ nhất
nói, 'là thánh thiện tới mức ông ấy nhận được sự chú ý đặc biệt của trời. Một lần
mùa xuân vừa rồi khi trời mưa khắp thành phố, có một vòng tròn nhỏ quanh đầu
giáo sĩ mà không hạt mưa nào rơi vào và nơi, thay vì thế, tia sáng mặt trời được
chiếu xuống làm sáng lên ông ấy.'
'Hệt như thế,' người thứ hai
nói, 'giáo sĩ của tôi còn ngoan đạo hơn nhiều.'
'Làm sao anh có thể nói được điều
đó?' người thứ nhất nói với giọng bàng hoàng. 'Giáo sĩ của anh thiếu các yếu tố
rất cơ bản của lòng mộ đạo. Giáo sĩ của tôi là vô song. Tại sao, vào ngày Yom
Kippur cuối cùng - ngày linh thiêng nhất trong năm, khi việc nhịn ăn là bắt buộc
- tôi đã thấy giáo sĩ của anh ăn bánh mì kẹp gà.'
'Đích xác,' người thứ hai nói một
cách đắc thắng. 'Trong khi khắp thành phố đó là ngày Yom Kippur, trong vòng
tròn nhỏ quanh đầu giáo sĩ của tôi, đó là ngày hôm sau ngày Yom Kippur."'
Mọi người đi tới những điều dài
dòng ngớ ngẩn để bảo vệ bản thân bọ. Họ liên tục tin vào cái gì đó, vì nếu việc
tin đó bị tan vỡ, họ sẽ rơi vào trong vực thẳm không đáy.
Nhưng vực thẳm không đáy đó là
thực. Một khi bạn chấp nhận nó, mọi sợ biến mất. Một khi bạn chấp nhận rằng cuộc
sống là điều huyền bí và không thể được giải quyết, một khi bạn chấp nhận rằng
cuộc sống về căn bản là không thể biết được, mọi sợ biến mất, và mọi nỗ lực để
biết, và mọi nỗ lực để hình thành ra học thuyết, dừng lại.
Đột nhiên bạn lại là một phần của
thực tại; phân chia không còn đó. Người tìm và cái được tìm là một. Người nghĩ
và cái được nghĩ là một. Người quan sát và cái được quan sát là một. Người thấy
và cái được thấy là một. Đột nhiên phân chia không còn đó. Phân chia được tạo
ra bởi học thuyết của bạn.
Câu chuyện thiền này là cực kì
hay.
Sato-Kaiseki bị bối rối nhiều…
Bị bối rối, vì bất kì niềm tin
nào anh ta đang bám giữ đều sẽ bị đập tan tành bởi các khám phá khoa học. Anh
ta rất bối rối.
…bởi các hệ quả của lí thuyết
nhật tâm của Copernicus,
Mọi tôn giáo của thế giới đều bị
bối rối bởi Copernicus. Ông ấy đã tạo ra một trong những cuộc cách mạng vĩ đại
nhất trong tâm thức con người. Trước ông ấy, mọi tôn giáo đều tin rằng trái đất
là trung tâm của sự tồn tại. Không phải là họ đã biết - đó là một phần của bản
ngã con người để tin rằng trái đất là trung tâm của toàn thể vũ trụ. Nó là một
phần của trò bản ngã.
Nếu trái đất là trung tâm của
toàn thể vũ trụ, thế thì con người là trung tâm của mọi sự sống. Làm sao điều
đó có thể khác được? Khi con người sống trên trái đất, làm sao trung tâm có thể
ở bất kì chỗ nào khác được? Và khi Copernicus nói rằng trái đất không phải là
trung tâm; thực ra, trái đất là chỗ rẩ rất xa xôi, tầm thường, không quan trọng
chút nào, rất không có ý nghĩa; vũ trụ bao la và trái đất không phải là trung
tâm...
… điều này, tất nhiên, là không
nhất quán với vũ trụ luận Phật giáo cũ trong đó núi Tu di chiếm trung tâm của
vũ trụ.
Núi Tu di, trong vũ trụ luận Phật
giáo, là trung tâm của toàn thể vũ trụ. Tất nhiên, các Phật tử cũng bị bối rối.
Người Ki tô giáo đã rất bối rối. Họ đã trừng phạt Copernicus, họ đã trừng phạt
Galileo. Họ đã cố gắng vất vả để dập tắt những khám phá mới này một cách hoàn
toàn, để cho ý tưởng cũ của họ về trái đất là trung tâm, có thể tiếp tục; để
cho ý tưởng của họ về con người là trung tâm sự sống có thể tiếp tục. Nhưng điều
đó là khó. Bất kì khi nào chân lí được khám phá ra, không thể nào buộc nó quay
trở lại trong bóng tối được.
Anh ta lập luận rằng nếu cách
nhìn Phật giáo về vũ trụ mà được chứng minh là sai, ba thế giới, và hai mươi
nhăm dạng của sự tồn tại sẽ bị thu lại thành vô nghĩa…
Người tôn giáo bao giờ cũng sợ.
Nếu cho dù một học thuyết bị chứng minh là sai thế thì toàn thể cấu trúc của họ
bị lung lay. Vì nếu một thứ có thể sai thế thì sao các thứ khác không thể sai?
Nếu Jesus nói rằng trái đất là
phẳng, và về sau chúng ta thấy rằng nó không phẳng, nó tròn, hình tròn, nó là
quả cầu, thế thì người Ki tô giáo trở nên sợ. Nếu con của thượng đế mà dốt tới
mức anh ta không biết rằng trái đất là tròn, thế thì về những thứ khác thì sao?
Anh ta có thể sai về những thứ khác nữa. Và chính lời tuyên bố rằng anh ta là
con trai của thượng đế dường như bị bác bỏ. Ít nhất con trai của thượng đế phải
biết chứ.
Nếu một học thuyết đi sai, nếu
một lỗ hổng được tìm ra, thế thì toàn thể cấu trúc bắt đầu sụp đổ. Cho nên người
tôn giáo liên tục nhấn mạnh về điều bình thường nữa. Tôi bắt gặp một người, một
sư Jain, người đang cố chứng minh rằng người Mĩ và người Nga đã không lên tới mặt
trăng - vì điều đó ngược lại vũ trụ luận của người Jain.
Trong vũ trụ luận của người
Jain, mặt trăng là chỗ cư ngụ của deva, thiên thần. Nếu những người này đã lên
tới đó và đã thấy rằng không có ai, không có devas, thế thì toàn thể vũ trụ luận
của người Jain sụp đổ. Thế thì nói gì tới Mahavir và tri thức của ông ấy, tri
thức tuyệt đối của ông ấy? Sự toàn trí của ông ấy bị tan tành.
Người Jain tuyên bố rằng
Mahavir biết mọi thứ của quá khứ, của hiện tại, của tương lai. Không có gì che
giấu được với ông ấy; tri thức của ông ấy là toàn trí, tuyệt đối. Ông ấy là
không thể sai được. Cho nên phải làm gì bây giờ? Nếu mọi người đã lên tới mặt
trăng - như họ đã lên - thế thì toàn thể triết lí của người Jain đột nhiên bị đập
tan tành.
Cho nên sư Jain này đang cố gắng
chứng minh rằng họ đã không lên tới. Ông ta đang cố gắng chứng minh rằng họ đã
lừa dối toàn thế giới; rằng trên truyền hình, mọi người đang thấy không cái gì
ngoài cảnh diễn trong phòng quay; rằng không ai đã đạt tới đó.
Cùng điều đã xảy ra khi Copernicus
chứng minh rằng trái đất không còn là trung tâm; mặt trời là trung tâm. Tu di
là khái niệm phật giáo. Tu di nghĩa là có một quả núi, bất di bất dịch, cao nhất
trong sự tồn tại, là trung tâm của thế giới. Bây giờ cái gì sẽ xảy ra cho Tu
di?
Sato-Kaiseki này đã bị rất bối
rối. Nếu một khái niệm bị chứng minh là sai thế thì cái gì sẽ xảy ra cho các
khái niệm khác?
…hai mươi nhăm dạng của sự tồn
tại sẽ bị thu lại thành vô nghĩa - làm phát sinh sự phủ định bản thân Phật
giáo. Cho nên anh ta lập tức đặt ra việc viết một cuốn sách để bảo vệ lập trường
núi Tu di, cứu các nỗ lực của bản thân mình.
Khi anh ta đã hoàn thành công
trình này, anh ta đem nó ngay tới thầy Ekido và trình nó ra một cách đắc thắng.
Nhưng thiền sư là những người
hiếm hoi. Nếu cho dù có một giáo hoàng như thiền sư, toàn thể xung đột giữa
khoa học và tôn giáo chắc đã được tránh. Nó vẫn còn tiếp tục bởi vì các giáo
hoàng Ki tô giáo vẫn cứ ngu xuẩn. Họ liên tục nói những điều vô nghĩa. Bất kì
cái gì mới được lộ ra, họ liên tục né tránh nó. Họ tụt lại sau nhân loại. Kẽ hở
giữa họ và nhân loại là gần hai nghìn năm. Họ vẫn sống tronb thời đại của
Jesus. Giá mà thậm chí có một giáo hoàng như thầy Ekido, mọi sự chắc đã khác
toàn bộ.
Đệ tử này đã rất hài lòng rằng
anh ta đã chứng minh được. Tất nhiên, anh ta đã chứng minh chỉ về mặt logic -
chẻ tư sợi tóc. Anh ta đã không thể chứng minh được theo bất kì cách nào khác.
Việc chứng minh này không thể nào có tính thực nghiệm; nó chỉ có thể có tính
logic.
Thầy nhìn vào cuốn sách trong
tay.
Sau khi đọc lướt qua vài trang
đầu thầy đẩy nó lại, lắc đầu và nói: 'Ngu xuẩn làm sao! Ông không nhận ra rằng
mục đích của Phật giáo là để làm tan tành ba cõi và hai mươi nhăm dạng của sự tồn
tại sao? Tại sao bám lấy những thứ vô dụng hoàn toàn thế và kho báu núi Tu di?
Ngu dốt!'
Điếng người, Kaisenki kẹp vội
cuốn sách dưới nách và nhanh chóng về nhà.
Đây là hương vị của người chứng
ngộ... vị thơm.
Người ta phải gạt bỏ mọi học
thuyết, kinh sách, lí thuyết, vì về căn bản người ta phải gạt bỏ bản ngã riêng
của mình. Người ta phải gạt bỏ mọi tôn giáo để có tính tôn giáo thực sự. Người
ta phải gạt bỏ mọi lí thuyết để đi tới đối diện với chân lí.
Thiền sư là hiếm hoi trong toàn
thể lịch sử tôn giáo. Họ đã đốt kinh sách riêng của họ. Họ đã đốt tượng phật vì
đêm lạnh và không có gỗ khác sẵn có trong đền chùa. Những người hiếm hoi... Tôn
thờ Phật, bạn không thể tìm ra nhiều người yêu mến, tin cậy. Họ tôn thờ Phật,
nhưng nếu thời điểm tới và đó là mùa đông và đêm rất lạnh, họ có thể đốt Phật
chỉ để giữ cho bản thân họ ấm, mà không một chút xíu mặc cảm. Đến sáng họ sẽ lại
tôn thờ Phật.
Rất khó hiểu, nhưng đây là cách
chứng ngộ là vậy.
Nếu bạn đã trở nên nhận biết,
thế thì bạn không níu bám lấy những thứ ngu xuẩn. Nếu bạn đã trở nên nhận biết,
thế thì nhận biết là thứ duy nhất có giá trị; thế thì mọi thứ khác là vô giá trị.
Thầy nói, 'Ai bận tâm về Tu di?
Toàn điều vô nghĩa. Ai bận tâm về siêu hình, vũ trụ luận, triết lí? Toàn điều
vô nghĩa. Tốt! Cứ hài lòng rằng Copernicus đã lật đổ nó. Ông ấy đã làm việc
hay. Ban phúc cho ông ấy.'
Vì về căn bản toàn thể nỗ lực
là làm sao thoát ra khỏi tâm trí. Bất kì khi nào bạn bám lấy giáo điều, bạn
đang bám lấy tâm trí bạn. Bất kì khi nào bạn bám lấy học thuyết, bạn đang bám lấy
từ.
Ông ấy là đúng khi ông ấy nói:
'Ngu xuẩn làm sao! Ông không nhận
ra rằng mục đích của Phật giáo là để làm tan tành ba cõi và hai mươi nhăm dạng
của sự tồn tại sao? Tại sao bám lấy những thứ vô dụng hoàn toàn thế và kho báu
núi Tu di? Ngu dốt!'
Khi Phật chết, Ananda bắt đầu
kêu và khóc. Ông ấy đã sống bốn mươi năm cùng Phật, như cái bóng, và ông ấy
nói, 'Tôi không thể đạt tới được, và bây giờ thầy đang ra đi. Thầy đã ở cùng
tôi hai mươi bốn giờ một ngày trong bốn mươi năm và thế nữa tôi đã bỏ lỡ. Giờ
không có hi vọng nào. Khi thầy không có đây, trong hết kiếp nọ tới kiếp kia tôi
sẽ ở trong bóng tối, vẩn vơ đây đó. Và giờ dường như không có khả năng nào cho
tôi. Mọi cánh cửa đều bị đóng. Tôi vẫn chưa đạt tới.'
Phật mỉm cười và nói, 'Có thể
khi ta đi rồi, ông sẽ có khả năng đạt tới nó. Như ta thấy điều đó, ta đã trở
thành sự cản trở. Ông bám vào ta quá nhiều. Cho nên nhớ một điều này: khi ta mất
đi rồi, để ta đi hoàn toàn. Ông không níu bám. Ông bỏ ta hoàn toàn - và là ánh
sáng lên bản thân ông.'
Và tương truyền là ngày hôm sau
Ananda đã trở nên chứng ngộ. Phật chết, bây giờ không có cái gì để níu bám -
rào chắn cuối cùng rơi rụng đi...
Thiền sư nói, 'Nếu ông gặp Phật
trên đường, giết ông ta ngay lập tức.' Vì ông ấy đẹp thế, đáng yêu thế, bạn có
thể bắt đầu bị gắn bó với ông ấy. 'Giết ông ta ngay lập tức.'
Thiền sư nói, 'Nếu tình cờ ông
thốt ra tên Phật, lau sạch, súc miệng ông cho kĩ, ngay lập tức!'
Họ ngụ ý gì? Và họ liên tục tôn
thờ, và họ liên tục đặt hoa dưới chân Phật, và họ liên tục cúi lạy, và họ liên
tục buông xuôi theo ông ấy. Họ liên tục tụng, 'Buddham sarnam gachhami: Con qui
y chân ngài, thưa phật.' Họ liên tục nói điều đó. Điều này có vẻ rất ngược đời,
nhưng nếu bạn có thể thấy ra vấn đề, nó là đơn giản.
Người ta kính trọng người chứng
ngộ vì ông ấy đã chỉ ra con đường. Người ta cảm thấy biết ơn vì ông ấy đã chỉ
ra con đường trong bóng tối, ông ấy đã trở thành ánh sáng trong bóng tối -
nhưng người ta không bao giờ níu bám lấy ông ấy. Vì nếu bạn níu bám, thế thì
cùng người đã trở thành cánh cửa lại trở thành bức tưởng. Bạn đã lỡ.
Đệ tử rời khỏi nhà thầy trong một
đêm tối. Anh ta sợ. Thầy nói, 'Đợi đã, đừng sợ. Ta sẽ cho ông chiếc đèn.'
Thầy đưa cho anh ta chiếc đèn.
Đệ tử này rất sung sướng; anh ta tự tin hơn. Khi anh ta bước xuống khỏi nhà thầy,
thầy gọi anh ta lại và thổi tắt đèn. Đệ tử nói, 'Cái gì thế? Thầy làm gì thế?
Đêm rất tối.'
Thầy nói, 'Chư phật chỉ có thể
chỉ ra con đường, nhưng ông phải đi một mình - và với ánh sáng riêng của ông.
Là ánh sáng lên bản thân ông đi.'
Và đừng lo về những thứ vô tích
sự - thượng đế, niết bàn, moksha, chân lí tuyệt đối, người tạo ra thế giới, cõi
trời và địa ngục - toàn lí thuyết và lí thuyết và lí thuyết. Toàn từ.
Cảnh giác với từ. Gạt sang bên
mọi từ để cho bạn có thể ngay lập tức ở trước thực tại.
Thực tại là ở đây bây giờ. Bạn
đang bỏ lỡ nó bởi vì các ý tưởng siêu hình của bạn.
Trong con người bạn, có hai khả
năng: một là trí tuệ, cái kia là thông minh. Trí tuệ mang nam tính, thông tin
mang nữ tính. Trí tuệ năng nổ, thông minh thụ động. Trí tuệ bạo hành, thông
minh bất bạo hành. Trí tuệ cố gắng xuyên thấu vào thực tại một cách cưỡng bức -
đó là điều khoa học đang làm. Đó là việc cưỡng bách thực tại; nó là xấu. Thông
minh đơn giản mở ra cánh cửa và chờ đợi ánh sáng tới. Nó có tính cảm nhận như
đàn bà. Nó giống như bụng mẹ - chỉ cảm nhận, thụ động.
Cho phép thông minh của bạn cai
quản bạn đi. Đừng cho phép trí tuệ của bạn chế ngự bạn.
Bạn có quan sát không, rằng bất
kì khi nào bạn rơi vào yêu, người đàn bà bắt đầu chế ngự bạn một cách không có
chủ ý? Bạn có thể là người vĩ đại trong thế giới, nhưng với người yêu của bạn,
bản ngã bạn đơn giản biến mất. Thậm chí người đàn bà rất mảnh mai và mong manh
sẽ chế ngự người đàn ông mạnh nhất trong thế giới.
Chuyện có lần đã xảy ra:
"Một nhà vua lập dị phái
người hầu cận đi khắp vùng quê. Anh ta đi phỏng vấn những chủ gia đình, và với
mọi đàn ông là chủ trong nhà, anh ta sẽ cho một con ngựa. Với mọi người đàn ông
sợ vợ anh ta sẽ cho một con gà.
Mọi nơi người hầu này đi, anh
ta đều trao gà, chưa bao giờ có cơ hội trao ngựa cho bất kì ai. Cuối cùng anh
ta tới một nhà của người nông dân lực lưỡng với khuôn mặt không cạo râu lông
tua tủa, một giọng nói trầm sâu, và cơ bắp như bò đực. Trong hậu cảnh là người
vợ gầy gò và mảnh khảnh của anh ta.
Người hầu nói, 'Có phải ông là
chủ gia đình không, thưa ông?'
Người nông dân ngửa đầu lại và
gầm lên với tiếng cười, 'Ông cá à, anh chàng nhỏ bé!' anh ta nói. 'Điều tôi nói
quanh đây, đang diễn ra.' Và anh ta mở và đóng nắm tay, kích cỡ bắp đùi.
Người hầu bị thuyết phục. 'Anh
được ngựa,' anh ta nói. 'Anh muốn ngựa nâu hay ngựa xám?'
Người nông dân ngả đầu ra sau
và kêu lên, 'Tilda, chúng ta lấy ngựa nâu hay ngựa xám?'
Và người hầu nói, 'Anh được gà
thôi.'
Điều đó xảy ra tương ứng với luật
vĩnh hằng nào đó. Nữ tính là mạnh hơn. Nhưng điều đó rất ngược đời: nữ tính có
vẻ rất không có sức mạnh - chỗ đó lại là mạnh. Trong chính tính không mạnh là sức
mạnh. Nữ tính có vẻ mảnh mai - chính xác chỗ đó là sức mạnh và mạnh mẽ.
Mọi người đều có cả hai bên
trong họ. Đàn ông có đàn bà bên trong mình và người đàn ông, và đàn bà có người
đàn bà bên trong cô ấy và người đàn ông. Bây giờ điều đó là tuỳ ở bạn. Đây là
cách việc hội tụ phải được thay đổi. Trí tuệ mang nanm tính; thông minh mang nữ
tính. Tâm trí có tính nam; thiền có tính nữ, cảm nhận, thụ động.
Nếu bạn liên tục níu bám lấy
trí tuệ bạn sẽ bỏ lỡ, vì thực tại mở cánh cửa của nó chỉ cho những người thụ động
- thụ động, tỉnh táo... nhưng tuyệt đối thụ động, không làm gì cả. Thay đổi hội
tụ từ trí tuệ sang thông minh đi. Thay đổi hội tụ từ ý nghĩ sang cảm nhận đi.
Chân lí không bao giờ có thể được
biết; nó chỉ có thể được cảm. Bạn không thể đi vào chân lí; bạn chỉ có thể sẵn
có cho nó tới với bạn. Không ai đã bao giờ đạt tới thượng đế; bất kì khi nào bạn
sẵn sàng, thượng đế đạt tới bạn.
Nếu bạn cố làm ra nó qua trí tuệ,
bạn sẽ trở thành người siêu hình, triết gia, người hệ thống hoá, nhà logic -
nhưng bạn sẽ bỏ lỡ. Bạn sẽ bỏ lỡ một cách tuyệt đối. Bỏ mọi logic, mọi việc hệ
thống hoá, mọi thứ chẻ tư sợi tóc. Bỏ mọi tính năng nổ đi. Cái chủ động phải bị
loại bỏ. Trở thành thụ động.
Ngồi im lặng, thật im lặng - và
chờ đợi. Và đột nhiên một ngày nào đó, khi bạn thực sự được lắng đọng trong
tính thụ động của bạn, khi bạn thực sự được định tâm trong tính cảm nhận của bạn,
khi bạn chỉ là cánh cửa, lối mở, thượng đế tới với bạn, niết bàn xảy ra cho bạn.
..............................
0 Đánh giá