Read more
Câu hỏi thứ nhất
Osho ơi, tôi có mọi bằng cấp mà đại học có
thể cấp cho. Tại sao tôi vẫn dốt?
Ts. Pritam Singh, tri thức
không có năng lực xua tan dốt nát đâu. Tri thức là hiện tượng giả; nó không phải
là trí huệ chút nào, nó chỉ là cái đối lập của trí huệ.
Tri thức là vay mượn, trí huệ
là việc nở hoa của bản thể bên trong nhất của bạn. Bạn có thể vay mượn hoa nhựa,
nhưng nếu bạn muốn có hoa hồng thực thế thì bạn sẽ phải trồng chúng trong bản
thể bên trong nhất của bạn. Không đại học nào có thể cung cấp nó, không kinh
sách nào có thể cung cấp nó, không tính học giả nào có khả năng làm nó. Chúng
toàn là các nỗ lực bất lực, nhưng chúng đã từng lừa dối hàng triệu người trong
hàng nghìn năm. Vâng, chúng làm cho bạn thành thông thái. Là thông thái là một
điều, và biết là khác toàn bộ.
Người mù có thể thông thái về
ánh sáng, nhưng người đó không biết gì về ánh sáng, người đó đã không trải nghiệm
nó. Người đó có thể thu thập đủ loại thông tin về ánh sáng, người đó có thể
tranh cãi, triết lí hoá, tổng hợp hoá, người đó có thể viết các chuyên luận lớn
về ánh sáng, nhưng người đó đã không nếm trải niềm vui của ánh sáng, người đó
thậm chí đã không thấy một tia sáng. Người đó đã không thấy cầu vồng, mầu sắc của
hoa, đôi cánh bướm. Người đó đã không thấy cây xanh, người đó đã không thấy
sao, mặt trời, mặt trăng. Người đó đã bỏ lỡ tất cả những cái đó. Và điều người
đó đã tích luỹ đơn giản là rác rưởi.
Là người dốt nát và có mắt là tốt
hơn là người rất thông thái về ánh sáng và mù.
Những các đại học tồn tại cho
chủ định đó. Không xã hội nào muốn bạn trở nên khôn ngoan: nó chống lại đầu tư
của mọi xã hội. Nếu mọi người khôn ngoan họ không thể bị khai thác được. Nếu họ
thông minh họ không thể bị khuất phục, họ không thể bị buộc vào trong cuộc sống
máy móc, sống như robot. Họ sẽ khẳng định bản thân họ - họ sẽ khẳng định tính
cá nhân của họ. Họ sẽ có hương thơm của nổi dậy quanh họ; họ sẽ muốn sống trong
tự do.
Tự do tới với trí huệ, về bản
chất. Chúng là không thể tách rời, và không xã hội nào muốn mọi người được tự
do. Xã hội cộng sản, xã hội phát xít, xã hội tư bản, Hindu giáo, Mô ha mét
giáo, Ki tô giáo - không xã hội nào thích mọi người dùng thông minh riêng của họ
vì khoảnh khắc họ bắt đầu dùng thông minh của họ, họ trở thành nguy hiểm - nguy
hiểm cho thể chế, nguy hiểm cho những người đang nắm quyền, nguy hiểm cho
"những người có"; nguy hiểm cho mọi loại áp bức, khai thác, mê tín;
nguy hiểm cho nhà thờ, nguy hiểm cho nhà nước, nguy hiểm cho quốc gia.
Thực ra, người trí huệ là bùng
cháy, sống động, bắt lửa. Người đó sẽ thà chết còn hơn bị nô lệ. Chết sẽ không
thành vấn đề mấy với người đó, nhưng người đó không thể bán cuộc sống của mình
cho mọi loại ngu xuẩn, cho mọi loại người ngu. Người đó không thể phục vụ họ.
Do đó, xã hội trong nhiều thời đại đã từng cung cấp cho bạn việc biết giả. Đó
là chính chức năng của trường phổ thông, cao đẳng, đại học.
Chúng không phục vụ bạn, nhớ lấy,
chúng phục vụ cho quá khứ, chúng phục vụ cho các quyền lợi được đầu tư. Tất
nhiên, chúng liên tục thổi phồng bản ngã của bạn ngày càng lớn hơn, chúng liên
tục cho bạn ngày càng nhiều bằng cấp. Tên bạn trở nên ngày càng dài hơn, nhưng
chỉ cái tên - bạn liên tục trở nên ngày một ngắn hơn. Một điểm tới, nơi chỉ có
các chứng chỉ và con người đã biến mất. Đầu tiên con người mang các chứng chỉ,
thế rồi chứng chỉ mang con người. Con người chết lâu rồi.
Ts. Pritam Singh, không thể nào
trở nên trí huệ qua các đại học. Trí huệ cần cách tiếp cận khác toàn bộ, cách
tiếp cận đối lập đối xứng. Tri thức là của tâm trí, trí huệ là trạng thái của
vô trí. Tri thức tạo ra cái chai quanh con ngỗng - cái chai đẹp, được vẽ rất đẹp,
nhưng nó chỉ là cái chai.
Và bên trong không thể có con
ngỗng sống thực được. Bên trong cái chai hoặc bạn có thể có con ngỗng được nhồi
nhét - đó là điều các học giả của bạn là gì, những cà chua nhồi, khoai tây,
nhưng tất cả đều được nhồi, được nhồi bằng đồ đồng nát - hay bạn có thể có con ngỗng được vẽ ở bên trong. Nó sẽ có vẻ đẹp từ bên ngoài, nhưng thực ra bạn đang
mang chỉ cái chai.
Và cái chai trở nên nặng hơn,
vì tri thức có cách riêng của nó để tích luỹ - nó liên tục sản sinh ra bản thân
nó. Tri thức không tin vào việc kiểm soát sinh đẻ chút nào. Nếu bạn biết điều
này, nó sẽ lái bạn vào điều khác, vì từng câu hỏi được trả lời mười câu hỏi mới
nảy sinh. Lại cùng điều sẽ xảy ra: mười câu hỏi được trả lời và bạn có một trăm
câu hỏi sẵn sàng cho bạn. Nó liên tục lan rộng. Nó trở nên ngày một lớn hơn và
bạn mất hút trong nó.
Bạn hỏi tôi:
Tại sao tôi vẫn dốt nát?
Đây là lí do tại sao bạn dốt
nát: bạn còn chưa đi ra khỏi ảo tưởng của tri thức, ảo tưởng của tâm trí.
Thoát ra khỏi tâm trí đi. Tâm
trí là cái chai mà tôi đang nói tới. Khoảnh khắc bạn bỏ tâm trí... và tâm trí
chỉ là ý tưởng của bạn; nó không phải là thực tại, nó là hư cấu, nó chỉ là
hoang tưởng. Nó được làm bằng cùng chất liệu mà mơ được làm. Bạn có thể đơn giản
bước ra khỏi nó.
Và đây là khoảnh khắc đó, Ts.
Pritam Singh, vì đây là cái nhìn vào trong lớn lao, thực ra là nhận ra: "Tại
sao mình vẫn còn dốt nát khi mình đang mang đủ mọi bằng cấp của đại học?"
Chấp nhận sự kiện rằng tất cả những năm đó của việc thu nhận tri thức đã là việc
phí hoài vô cùng. Thoát ra khỏi nó đi! Và khoảnh khắc bạn thoát ra khỏi tâm
trí, bạn thoát ra khỏi cái chai. Thấy chưa?... con ngỗng ở ngoài! Và toàn thể tự
do của bầu trời, và toàn thể tự do của sự sáng suốt...
Mới hôm nọ tôi đã đọc: Bằng cấp
nghĩa là gì? Tôi có bốn bằng: B.A, M.A., Ph.D., và LL.D. Gắn chúng lại với nhau
và bạn có gì? - BAMAPHDLLD!
Một thanh niên ở đại học có tên
Breeze,
Bị đè xuống bởi các M.A. và
LL.D.
Đổ sập từ căng thẳng
Nói với bác sĩ của mình,
"Điều đó là đơn giản
Ông đang tự giết mình bằng bằng
cấp!"
Một giáo sư rất bối rối, người
bố tương lai, liều lĩnh về đứa con trai, cứ chạy lên xuống tại bệnh viện trong
phòng chờ bệnh viện sản phụ. Cuối cùng bà đỡ đi ra từ phòng đẻ và nói với ông
ta, "Mọi sự xong rồi, Ts. Jones. Chúc mừng!"
Nín lặng trong trạng thái hoảng
hốt toàn bộ ông ta đáp, "Tôi là bố hay là mẹ?"
Đó là điều được ngụ ý:
BAMAPHDLLD
Một đôi giáo sư sống trong vùng
quê, nhận được giấy mời từ quan toà địa phương tới buổi liên hoan hoá trang. Họ
quyết định cải trang đi như bò cái, với chồng đi trước và vợ đi sau.
Buổi liên hoan được tổ chức ở
khu nhà của ông quan toà địa phương, chỉ cần đi qua hai cánh đồng, cho nên họ
nghĩ họ có thể bước qua trong bộ hoá trang.
Họ mới đi được nửa đường qua
cánh đồng thứ nhất thì anh chồng - đi đằng trước - nói với vợ mình, "Đừng
hoảng hốt, em yêu, nhưng có con bò đực nhìn chúng ta."
Thế là họ vẫn bước đi và con bò
đực vẫn nhìn. Thế rồi con bò đực bắt đầu gõ chân xuống đất và làm theo cách của
nó hướng tới họ theo cách thức có nghĩa.
"Nó đang tấn công chúng ta
đấy, em yêu, nó đang tấn công!" anh chồng nói.
"Chúng ta sẽ làm gì?"
cô vợ la lên.
Thế là anh chồng nói, "Anh
sẽ cúi xuống gặm cỏ - em phải tự chống đỡ cho bản thân em!"
Đó là chuyến viếng thăm đầu
tiên của một giáo sư trẻ người Anh sang Mĩ, và trong sự hồn nhiên của mình anh
ta tìm chỗ ở trong chốn lầu xanh của thành phố. Tuy nhiên tiền của anh xanh như
cái nhìn của anh ta, và bà chủ vui vẻ dành cho anh ta một phòng qua đêm.
Khi người bạn hỏi anh ta về chỗ
ăn ở trong lúc ăn trưa ngày hôm sau, người Anh trẻ đáp, "Được, phòng rất
khoe khoang, anh biết đấy, nhưng Gad, dịch vụ phụ nữ kinh làm sao!"
Cái gọi là người có học, học giả, người thông thái liên tục sống trong thế giới các hư cấu riêng của họ. Họ không quan tâm tới thực tại chút nào - họ bị ngắt ra khỏi cái thực. Và chính cái thực mới làm cho đời bạn thành vui vẻ, phúc lạc.
Từ "Thượng đế" không
phải là Thượng đế, từ "yêu" không phải là yêu. Cho nên người nghèo
liên tục nghĩ về từ "Thượng đế" hay từ "yêu" đơn giản bỏ lỡ
cơ hội lớn. Họ có thể đã biết Thượng đế là gì, họ có thể đã trở nên quen thuộc
với điều huyền bí của yêu, nhưng từ này che giấu chân lí; từ này che khuất mắt
họ. Mắt của mọi người thông thái đều bị che phủ bởi các lí thuyết, thượng đế học,
học thuyết, tín điều, tới mức họ không thể thấy được. Họ không trong suốt. Và
trí huệ là trong suốt, cái nhìn không bị che mờ - không bị che mờ bởi mọi ý
nghĩ, không bị che mờ bởi mọi bụi bặm.
Người ta phải lau sạch bản thân
mình mọi khoảnh khắc, vì bụi có xu hướng tụ tập lên gương mọi khoảnh khắc. Nó
là quá trình tự nhiên. Trong khi bạn đang ngồi đây, gương trong phòng tắm nhà bạn
đang tụ bụi lại. Ngay cả trong đêm khi không cái gì xảy ra - ngay cả cửa phòng
tắm và cửa sổ đều đóng - một số bụi vẫn tụ lại, đọng trên gương, vì hạt bụi có
trong bản thân không khí. Mọi ngày vào buổi sáng bạn phải lau sạch gương.
Người ta thậm chí phải tỉnh táo
hơn về tâm trí bên trong, chiếc gương bên trong, năng lực bên trong của phản xạ.
Từng khoảnh khắc bạn đều phải lau sạch bụi. Tôi ưa thích nói nó theo cách này:
từng khoảnh khắc một sannyasin phải chết đi quá khứ và được sinh ra mới. Thế
thì người đó vẫn còn trong suốt, thế thì gương của người đó vẫn còn rõ ràng. Thế
thì không cái gì cản trở viễn cảnh của người đó. Thế thì người đó không là người
Ki tô giáo không là người Hindu, không là người Mô ha mét giáo, không là Phật tử.
Thế thì người đó đơn giản là tấm gương, chỉ là tấm gương, việc soi gương - soi
gương mọi cái đang đó, bên trong và bên ngoài. Từ việc soi gương đó, trí huệ được
sinh ra.
Trí huệ là việc nở hoa của tính
trong suốt của bạn, của tính trong mờ của bạn, của bản thể chói sáng của bạn.
Đó là điều chúng ta đang làm ở đây. Thực ra, chức năng của thầy là hoàn tác lại
điều xã hội đã làm cho bạn. Nó là phản đại học, phản trường học, phản cao đẳng,
vì nó không ở đây để truyền thụ tri thức cho bạn mà để truyền đạt cái gì đó
khác toàn bộ, cái gì đó có chiều hướng khác.
Chính ở đây tạo ra quá trình lẩy
cò trong bạn để cho bạn có thể thoát ra khỏi cái gọi là kinh sách, lời, lí thuyết,
và bạn có thể trở thành chỉ bình thường. Bạn có thể chỉ trở thành bất kì cái gì
bạn đang là vậy mà không có giả vờ gì.
Tôi tán dương tính bình thường
của tâm thức. Tôi không dạy bạn là siêu nhân ở đây. Friedrich Nietzsche đã phát
điên đơn giản vì ý tưởng về siêu nhân. Và ở Ấn Độ nữa, Sri Aurobindo, cả đời
ông ấy đã nuôi dưỡng cho bản ngã Ấn Độ bằng ý tưởng về siêu nhân, về siêu tâm
trí, về siêu tự nhiên.
Tất cả những cái vô nghĩa bí
truyền này đã trở thành gánh nặng lên con người tới mức nó phải bị thiêu cháy
toàn bộ - ít hơn điều đó sẽ không có tác dụng. Lửa được cần để cho mọi thứ có
thể bị đốt cháy có thể bị cháy, và chỉ cái còn lại sẽ là cái ta thực của bạn.
Tôi không bí truyền, tôi không
huyền bí, tôi không dạy bạn về thế giới khác, tôi không dạy bạn siêu tự nhiên,
siêu nhân. Tôi đơn giản tán dương chính cái bình thường của mọi con người,
chính tính bình thường, không chỉ của con người, mà còn của con vật, cây cối,
sông, và đá - tính rất bình thường của tính thượng đế. Với tôi, tính thượng đế
và tính bình thường là tương đương, đồng nghĩa.
Nếu tôi phải chọn tôi sẽ bỏ từ
"Thượng đế," vì nó đã thực sự trở thành thượng đế bị nguyền rủa. Chỉ
bình thường thuần khiết... và sống nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, vui vẻ,
nhảy múa, mở hội. Thế thì trí huệ nở hoa. Thế thì xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.
Câu hỏi cuối cùng
Osho ơi, từ bi của thầy hướng tới Ấn Độ,
trong việc đáp lại, đem tới giận dữ và kết án hướng tới thầy. Mọi ngày các báo
chí và tạp chí Ấn Độ đều đầy những chỉ trích hạng ba chống lại thầy. Ngay cả vậy,
thầy vẫn giữ việc nện búa lên nền văn hoá mục ruỗng này. Công việc này là gì? Ấn
Độ có xứng đáng nhiều từ bi thế không?
Chaitanya Keerti, chính bởi vì tôi
đang nói cái gì đó mà Ấn Độ đã quên hoàn toàn. Điều đó gây đau. Ấn Độ đã quên mất
chân lí. Trong hàng nghìn năm nó đã sống trong trạng thái tâm trí mù mờ - không
chỉ thế, nó cũng đã trở thành rất gắn bó với trạng thái mù mờ đó bởi lẽ đơn giản
là nó chẳng có gì để níu bám. Đây là chỗ dựa duy nhất cho bản ngã của nó.
Trong hai mươi hai thế kỉ Ấn Độ
đã từng trong cảnh nô lệ chính trị. Bây giờ, một nước đang tồn tại trong cảnh
nô lệ suốt hai mươi hai thế kỉ không thể có bất kì cội nguồn nào của bản ngã
khi có liên quan tới thế giới chính trị. Nó không thể ba hoa về những người
chinh phục thế giới như Alexander Đại đế.
Trong năm nghìn năm, Ấn Độ đã từng
sống theo cách rất mê tín. Các tu sĩ đã chi phối Ấn Độ nhiều hơn bất kì nước
nào, và họ là những người tinh ranh nhất trên thế giới. Vì việc khai thác, áp bức
của họ, vì việc đầu độc của họ với linh hồn người Ấn Độ trong năm nghìn năm, Ấn
Độ đã không có khả năng tìm ra chân lí theo bất kì cách nào. Họ vẫn đứng như bức
Trường thành Trung Quốc chống lại chân lí.
Đó là vấn đề sống và chết cho
giới tu sĩ. Hoặc chân lí hoặc tu sĩ - cả hai không thể cùng sống sót được,
không có khả năng nào của việc cùng tồn tại. Nếu chân lí thắng, tu sĩ biến mất.
Do đó, chân lí phải không được phép thắng để cho tu sĩ có thể liên tục chi phối.
Không nước nào khác đã từng bị chi phối bởi tu sĩ như Ấn Độ đã bị. Trong năm
nghìn năm việc nô lệ tâm linh...
Không có gì để hỗ trợ cho bản
ngã của quốc gia - không khoa học, không công nghệ, không giầu có, không tự do
chính trị, không dân chủ. Bạn có thể thấy ra vấn đề. Vấn đề là... Nhưng quốc
gia phải phụ thuộc vào những cái ủng hộ nào đó, vì quốc gia không phải là thực
thể thực, nhớ lấy; nó cần sự ủng hộ.
Cá nhân có thể tồn tại không có
bản ngã vì cá nhân là thực thể và thực thể không có nhu cầu của bản ngã. Nhưng
quốc gia, giống nòi, nhà thờ, nhà nước - những cái này không thể tồn tại nếu
không có các bản ngã. Không có bản ngã chúng sẽ rời ra. Chính bản ngã vận hành
như một trung tâm giả và giữ chúng gắn lại với nhau. Do đó, vị Phật có thể tồn
tại mà không có bản ngã nhưng Phật giáo không thể tồn tại được. Krishna có thể
tồn tại mà không có bản ngã nhưng Hindu giáo không thể tồn tại được. Bao giờ
cũng nhớ điều này: thực thể giả cần trung tâm giả, bằng không nó sẽ héo tàn đi.
Ấn Độ như một đất nước, như một
quốc gia, như một giống nòi, có nhu cầu mênh mông bằng cách nào đó để tạo ra một
trung tâm giả. Và không có phương án bình thường sẵn có - tiền bạc, công nghệ,
khoa học, quyền lực chính trị - cho nên điều duy nhất để rơi lại vào là khao khát
tâm linh, thế giới khác. Và nó là dễ dàng, vì thế thì bạn đang giải quyết với
hàng hoá vô hình. Không ai có thể chứng minh được nó, không ai có thể bác bỏ được
nó. Rất dễ sống trong hi vọng về thế giới khác. Nhưng ai sẽ tạo ra hi vọng đó?
Thế thì bạn phải phụ thuộc vào các tu sĩ mánh khoé, người brahmins - họ trở
thành người trung gian. Họ bắt đầu nói về thế giới khác. Họ thậm chí trao cho bạn
bản đồ về thế giới khác; họ không biết bản đồ thế giới, thế giới này... nếu bạn
hỏi họ, "Timbuktu ở đâu?" họ có thể không có khả năng trả lời, nhưng
họ có thể nói cho bạn mọi chi tiết về cõi trời - không chỉ một cõi trời mà bẩy
cõi trời, cõi trời bẩy tầng. Họ có thể kể cho bạn mọi chi tiết, các chi tiết
chi li về bẩy địa ngục. Không có vấn đề về nó; nó là hư cấu tôn giáo.
Người Hindu tin vào bẩy địa ngục.
Người Jaina tin vào ba địa ngục và ba cõi trời. Và có một người vào thời của
Mahavira, người phải đã là một người rất hay - tên ông ấy là Sanjaya
Vilethiputta. Ông ấy nói, "Đây toàn là điều vô nghĩa. Có bẩy trăm địa ngục
và bẩy trăm cõi trời!" Nhưng mọi người nói, "Mahavira nói chỉ ba, người
Hindu nói chỉ bẩy" Sanjaya Vilethiputta nói, "Vì họ chỉ mới đi xa chừng
nấy, tôi đã tìm toàn thể lãnh thổ rồi."
Có lần một tín đồ của
Radhaswami tới tôi. Họ tin vào mười bốn cõi trời, mười bốn tầng của thiên đường.
Tất nhiên, người sáng lập ra tôn giáo của họ đã đạt tới tầng mười bốn. Những
người khác ở đâu đó trên thang: Rama và Krishna và Phật ở đâu đó trên tầng thứ
bẩy; Jesus, Mohammed và Zarathustra đâu đó ở tầng thứ sáu; Nanak, Kabir, Meera,
đâu đó ở tầng thứ năm... vân vân và vân vân, mỗi người ứng với nhu cầu của ông ấy,
và mỗi người ứng với năng lực của ông ấy.
Ông ấy đã mang toàn thể bản đồ.
Ông ấy muốn sự chấp thuận của tôi: tôi nghĩ gì về bản đồ này, tôi nói gì - nó
đúng hay không.
Tôi nói, "Nó tuyệt đối
đúng."
Ông ấy có chút ít choáng vì mọi
người đã bảo ông ấy đừng đi tới tôi vì tôi sẽ quấy rối ông ấy. Và tôi nói, "Điều
đó tuyệt đối đúng. Tôi biết. Guru của ông đã đạt tới tầng thứ mười bốn - tôi đã
thấy ông ta ở đó."
Ông ấy nói, "Ông ngụ ý
gì?"
Tôi nói, "Tôi đang ở tầng
thứ mười lăm, và ông ta bao giờ cũng nài xin tôi, 'Kéo tôi ra khỏi tầng mười bốn
đi!"'
Ông ấy choáng, ông ấy giận.
Nhưng nếu có mười bốn sao không có mười lăm? Chẳng ai có thể chứng minh, chẳng
ai có thể bác bỏ nó.
Tôi đã nghe: ở New York một người
chủ tiệm đang bán cặpp tóc không thấy được. Và, tất nhiên, đàn bà bị hấp dẫn
nhiều lắm - cặp tóc không thấy được mà!
Một người đàn bà nhìn vào cái hộp...
Tất nhiên, khi cặp tóc là không thấy được bạn không thể thấy được chúng - cái hộp
có vẻ trống rỗng. Cô ấy nói, "Chúng có thực ở đó không?"
Chủ tiệm nói, "Chúng phải
có chứ. Không ai đã bao giờ thấy chúng. Thực ra, trong nhiều tháng chúng tôi đã
bán hết hàng trong kho, nhưng chúng đang bán được!"
Khi cái gì đó không thấy được,
bạn có thể liên tục bán nó; không có vấn đề về nó.
Ấn Độ đã từng bán các hàng hoá
không thấy được cho thế giới. Hàng hoá thấy được không có đó. Một cách tự nhiên
họ trở nên giận với tôi vì tôi khăng khăng rằng hàng hoá phải thấy được, rằng bạn
đang mang cái hộp rỗng, rằng không có ngỗng trong cái chai của bạn. Và trong
năm nghìn năm họ đã từng làm kinh doanh tốt thế - và tôi đang phá huỷ chính nền
tảng của họ.
Chaitanya Keerti, điều tự nhiên
là họ trở nên giận tôi. Nhưng giận đơn giản chỉ ra sợ, bao giờ cũng nhớ: giận
là sợ đứng trên đầu của nó. Bao giờ cũng là sợ ẩn đằng sau giận; sợ là mặt kia
của giận. Bất kì khi nào bạn trở nên sợ, cách duy nhất để che giấu sợ là giận
vì sợ sẽ làm bùng nổ bạn. Giận sẽ tạo ra bức màn quanh bạn; bạn có thể ẩn nấp đằng
sau giận. Tâm trí Ấn Độ trở nên thực sự sợ tôi. Và không chỉ tâm trí Ấn Độ mà mọi
tâm trí khác trên thế giới, những người đang làm cùng loại kinh doanh buôn bán
trong các hàng hoá không thấy được. Họ tất cả đang trở nên sợ.
Khi họ trở nên giận tôi, tôi biết
rằng tôi đã đánh đúng điểm. Tôi hân hoan trong việc đó! Họ đã từng giả vờ yêu,
từ bi, thông cảm, hiểu biết, và tôi đang phơi họ ra tới chính cốt lõi của họ.
Không biết điều họ đang làm, họ đang làm điều tôi muốn họ làm. Họ ở trong tay
tôi. Bất kì ai trở nên giận tôi đều bị tôi bắt. Bây giờ người đó sẽ ở trong cơn
xoáy lốc. Tôi sẽ khuấy tung người đó lên, tôi sẽ ám ảnh người đó. Sớm hay muộn
bản thân người đó sẽ ném quần áo của mình đi và đứng trần trong ánh mặt trời.
Đó là điều đang xảy ra. Khi họ giận tôi họ thực sự biểu lộ điều họ đã bị phơi
ra.
Và cách duy nhất để phòng thủ
là phải hung hăng. Họ đang phòng thủ bản thân họ, nhưng họ có thể phòng thủ bản
thân họ chỉ nếu họ trở nên hung hăng. Giận của họ đơn giản chỉ ra sự bất lực của
họ.
Tôi đã nghe một câu chuyện hay,
một câu chuyện cổ:
Một người tới Trung Quốc. Khi
người đó vào nước này - đấy phải là một câu chuyện cổ, cổ điển - ngay trên biên
giới người đó thấy một đám đông. Hai người gần như sẵn sàng giết lẫn nhau. Họ
hò hét, nhảy lên, làm mọi loại cử chỉ giận dữ, kiếm tuốt trần trong tay họ.
Nhưng không cái gì thực đã xảy ra, dường như nó là bộ phim, dường như nó chỉ là
vở kịch. Ông ấy thậm chí không thể phát hiện được giận dữ gì trên mặt họ. Mắt họ
vẫn bình thản và yên tĩnh, mặt họ thảnh thơi. Họ có vẻ rất định tâm và tiếp đất.
Vậy sao có mọi la hét và vung gươm, nhảy tới nhảy lui và chạy vào nhau? Và
không ai bị đánh, và không ai ngăn cản bạn nữa. Đám đông đơn giản đứng đó chứng
kiến toàn thể khung cảnh.
Người này trở nên hơi chút mệt
mỏi sau một lúc, hơi chút chán nữa. Người ta cần cái gì đó kích động, cái gì đó
phải xảy ra. Thế rồi một người trở nên giận; mặt người đó trở nên đỏ, mắt người
đó trở nên cháy rực. Và đám đông giải tán! Trận đánh nhau chấm dứt ở đó.
Người mới tới không thể tin được
điều đó, người đó không thể hiểu được cái gì đã xảy ra. Người đó hỏi một người,
"Vấn đề là gì vậy? Tôi không thể theo dõi được toàn thể trình tự này. Họ
đã sẵn sàng giết nhau, nhưng khi thời gian cho hành động thực tới - một người
đã trở nên thực sự giận, đã mất bình thản của mình - sao đám đông giải tán
đi?"
Đám đông nói, "Họ cả hai đều
là các đạo sĩ, tín đồ của Lão Tử, và đây là tiêu chí trong trường phái Đạo; rằng
khoảnh khắc một người trở nên giận, người đó thua cuộc. Không cần đánh nhau -
người đó đã biểu lộ bất lực của mình, người đó đã biểu lộ sợ của mình. Thế là đủ!
Giận của người đó chỉ ra rằng người đó là kẻ hèn. Bây giờ phỏng có ích gì; người
kia đã thu được thắng lợi, người đó là người chinh phục - người đó vẫn còn bình
thản. Người đó không thể bị làm sao lãng khỏi trung tâm của mình. Người đó
không thể bị kéo ra khỏi nền tảng của mình. Người đó vẫn còn được hợp nhất."
Chaitanya Keerti, tôi biết điều
đang xảy ra trên khắp Ấn Độ: hàng nghìn người đang viết chống lại tôi, quát lên
với tôi. Họ đang mất cái gọi là bình thản của họ - cái là rởm, vì chỉ bình thản
rởm mới có thể bị mất. Toàn thể ý tưởng của họ về dung thứ, toàn thể ý tưởng của
họ về chấp nhận người khác, về chấp nhận các quan điểm khác nhau, bị mất. Một
người, người chưa bao giờ đi ra khỏi phòng mình là đủ để tạo ra rối loạn trong
toàn thể nước này.
Nhưng đó là hiện tượng có ý
nghĩa. Nó chỉ ra rằng tất cả năm nghìn năm kia của tâm linh hư huyễn đã không
làm cái gì tốt cho Ấn Độ. Đó là điều tôi muốn chỉ cho toàn thế giới. Họ đang
làm cho quan điểm của tôi được nhấn mạnh. Tôi đang phát biểu quan điểm, họ hỗ
trợ cho luận cứ. Họ đang hỗ trợ tôi!
Một người đã gợi ý rằng tôi nên
được cho điều trị sốc, sốc điện. Đây mới thực là văn hoá Ấn Độ. Người khác đã gợi
ý tôi nên bị trục xuất ngay lập tức khỏi đất nước. Đây là bao dung, chấp nhận
quan điểm khác. Người thứ ba đã gợi ý tôi nên bị ném xuống biển A rập - thậm
chí không trong Ấn Độ dương, vì tôi có thể đầu độc Ấn Độ dương - trong biển A rập.
Đây là nước không bạo hành, nước của người thấy và hiền nhân, của các thánh
nhân, mahatmas... và mọi loại dodos.
Bò quanh tới cửa sổ phòng ngủ,
các thám tử tư Ấn Độ thấy vợ của khách hàng của họ đang trong giường với người
đàn ông khác.
"Hệt như tôi đã ngờ,"
thám tử Ấn Độ thứ nhất nói. "Chúng ta đi theo dõi hắn."
"Ý hay," thám tử Ấn Độ
kia đáp. "Anh nghĩ hắn sẽ được kết thúc sớm thế nào?"
Một guru Ấn Độ đi du hành, Đức
Swami Etceterananda Paramahansa, người sáng lập ra đạo tràng Cứt Bò Thiêng, vịnh
Miami, vừa nóng vừa mệt vừa khát tới một trang trại nhỏ và hỏi xin người nông
dân đồ uống, do lòng từ thiện của anh ta.
"Ngài uống chút rượu bia
chứ, thưa đức guru?" người nông dân hỏi.
Guru Ấn Độ tái nhợt,
"Không, tôi không uống đâu, người anh em," ông ấy nói một cách nghiêm
khắc, "vì tôi đã lấy lời thề. Không một giọt đồ uống ma quỉ nào qua được
môi tôi. Một cốc sữa tươi, lành sẽ là đủ cho tôi."
Thế là người nông dân, cũng hơi
thích đùa, lấy một cốc sữa và té chút rượu rum vào trong nó. Ông ấy trao nó cho
guru, ông này uống một mạch, chép môi, ngước mắt lên trời và nói, "Ôi, Trời!
bò cái gì thế này!"
Thời gian nghỉ hè là thời gian
rám nắng khi có liên quan tới Joan, một thư kí có thân hình cân đối đáng ngưỡng
mộ, và cô ấy dành gần mọi ngày ở trên mái của khách sạn Taj Mahal ở Bombay, thấm
đẫm các tia nắng mặt trời ấm. Cô ấy mặc bộ đồ tắm ngày thứ nhất, nhưng từ ngày
thứ hai cô ấy quyết định rằng không ai có thể thấy cô ấy phơi ra ở đó, và cô ấy
tụt ra khỏi nó để cho rám nắng tất cả.
Cô ấy đã gần bắt đầu thì nghe
thấy ai đó đang chạy lên cầu thang. Cô ấy đang nằm sấp, cho nên, kéo chiếc khăn
tắm lên che đít, cô ấy tiếp tục nằm tựa như trước. "Tôi xin lỗi, thưa
cô," người trợ lí quản lí nhỏ bé của khách sạn bối rối nói, vẫn còn thở
phì phì do chạy lên cầu thang, "khách sạn không bận tâm việc phơi nắng của
cô trên mái, nhưng chúng tôi đánh giá rất cao việc mặc bộ đồ áo tắm của cô như
cô đã mặc hôm qua."
"Điều đó tạo ra khác biệt
gì?" Joan hỏi khá nhạt nhẽo. "Không ai có thể thấy tôi ở đây trên
này, và bên cạnh đó tôi còn phủ cả khăn tắm nữa."
"Tôi biết, tôi biết,"
người Ấn Độ nhỏ bé bối rối nói, "nhưng chừng nào cô chưa mặc bộ đồ tắm, bữa
tối không thể bắt đầu được. Và ông thống đốc Bombay thết tiệc bữa tối lớn cho mọi
người đáng kính của thành phố."
Người đàn bà không thể nào hiểu
nổi. "Nhưng có chuyện gì vậy?" cô ấy nói. "Tôi chẳng thấy vấn đề
gì cả. Sao bữa tối không thể bắt đầu được? Nó có gì liên quan tới bộ đồ tắm của
tôi?"
"Vâng, thưa bà," người
nhỏ bé bối rối nói. "Bà đang nằm trên cửa sổ mái nhà của phòng ăn tối!"
Bây giờ, làm sao bữa tối có thể
bắt đầu được? Mọi người Ấn Độ sẽ nhìn hướng lên cõi trời - họ bao giờ cũng nhìn
hướng lên cõi trời. Và cảnh tượng như thế! Họ không thể bỏ lỡ nó được. Nhưng họ
sẽ giả vờ - họ sẽ quì trên đầu gối tay chắp lại có vẻ hướng tới Thượng đế. Họ sẽ
không nhìn thẳng lên cửa sổ mái nhà, họ sẽ không nói rằng họ đang tận hưởng cảnh
đó, họ sẽ làm lời cầu nguyện dài, dài tới mức họ sẽ quên mất hoàn toàn về bữa tối.
Và mọi người sẽ giả vờ rằng mình không nhìn vào người đàn bà nằm trần truồng
trên mái.
Nước này là nước của những kẻ
giả vờ, và tôi đang làm tổn thương họ. Và tôi muốn làm tổn thương họ, vì đó là
cách duy nhất để kéo mủ ra khỏi các vết thương cũ hàng thế kỉ của họ. Họ giận
tôi, họ kết án tôi. Điều đó chỉ ra rằng tôi đang trên đường đúng. Họ không thể
bỏ qua tôi được. Hoặc là họ phải ở cùng tôi hoặc họ phải chống lại tôi - cách
nào tôi cũng sẵn lòng - nhưng tôi thích nó là hiện tượng có tính quyết định.
Cho dù vài người thông minh ở
cùng tôi - và họ đang ở cùng tôi - chúng tôi có thể biến đổi toàn thể nền văn
hoá mục ruỗng này và cho nó cuộc sống mới. Điều đó cần từ bi. Năm nghìn năm của
nô lệ tâm linh, chính trị, kinh tế... Chaitanya Keerti, bạn nghĩ còn cần lí do
nào khác cho tôi để từ bi hướng tới nền văn hoá này?
Nhưng họ sẽ không dễ dàng thay
đổi đâu. Thay đổi là gian nan; nó đi ngược lại khuynh hướng của bạn, nó đi ngược
lại thói quen của bạn, nó đi ngược lại tàn tích của bạn. Và tàn tích của Ấn Độ
là rất dài. Họ đang chịu đựng từ quá khứ - họ chỉ có quá khứ.
Nhớ một điều: đứa trẻ chỉ có
tương lai, nó không có quá khứ. Do đó, đứa trẻ không bao giờ nghĩ dưới dạng
hoài niệm. Không có gì ở lưng nó. Nó tươi tắn tới mức nó không có kí ức. Thanh
niên sống trong hiện tại. Hiện tại là đẹp thế; quá khứ chỉ là thời thơ ấu, nhiều
nhất là việc chuẩn bị. Và thanh niên không bận tâm tới tương lai - người ta bắt
đầu nghĩ về tương lai khi hiện tại bắt đầu trượt khỏi bàn tay của người ta.
Người già chỉ nghĩ về quá khứ;
ông ấy không có tương lai. Chỉ có cái chết, đêm tối chờ đợi ông ấy. Ông ấy muốn
né tránh nó. Cách duy nhất là quay lưng lại với tương lai và nhìn vào quá khứ.
Đứa trẻ nhìn vào tương lai, người già nhìn vào quá khứ; thanh niên vẫn còn
trong hiện tại.
Cùng điều đó là đúng cho văn
hoá. Khi một nền văn hoá rất mới nó nhìn vào tương lai. Nó có khát vọng vô cùng
về các vì sao, nó trưởng thành, nó mở rộng. Khi một nền văn hoá vẫn còn thực sự
trẻ trung - thực ra là điều rất hiếm khi xảy ra, nó chưa xảy ra - thế thì nền
văn hoá vẫn còn trong hiện tại. Và khi nền văn hoá trở nên già, nó bắt đầu nghĩ
dưới dạng hoài niệm, về quá khứ, thời đại vàng son mà không còn nữa.
Về mặt cá nhân cũng vậy, thanh
niên là hiện tượng mới. Trong quá khứ đứa trẻ thường đi từ thời thơ ấu sang tuổi
già; thanh niên không phải là giai đoạn chút nào. Ở các nước nghèo nó vẫn vậy.
Bạn có thể thấy các bộ lạc nguyên thuỷ của các nước nghèo, trẻ con sáu tuổi,
năm tuổi, làm việc như người già. Bẩy tuổi, tám tuổi, và chúng đã thiêu cháy
các lo nghĩ. Chúng sẽ không có cơ hội để là trẻ. Do đó, trong quá khứ đã không
có kẽ hở thế hệ. Kẽ hở thế hệ là hiện tượng mới, một hiện tượng rất có ý nghĩa.
Đây là lần đầu tiên nó đã xảy ra, đây là lần đầu tiên chúng ta có khả năng đảm
đương nó. Nó thuộc vào xã hội giầu có, nó thuộc vào tính giầu nào đó, khi kẽ hở
thế hệ xuất hiện.
Đứa trẻ và người già đang đối
diện với nhau - Không có kẽ hở. Đứa trẻ nhìn về tương lai, người già nhìn về
quá khứ. Do đó, bạn bao giờ cũng tìm ra tình bạn lớn giữa trẻ con và người già.
Họ đối diện lẫn nhau. Điều đó bao giờ cũng là hoàn cảnh - trẻ con và người gia
sống cùng nhau. Không có kẽ hở.
Thanh niên là hiện tượng mới
trên thế giới. Người đó không là đứa trẻ không là người già. Người đó phá vỡ tảng
băng mới. Người đó cố gắng sống bây giờ, ở đây. Vâng, vài cá nhân trong quá khứ
đã sống trong tính trẻ trung thường xuyên đó, nhưng chỉ những cá nhân, không phải
là nền văn hoá. Có khả năng bây giờ là ngay cả nền văn hoá có thể bắt đầu sống trong
hiện tại. Nhiều cá nhân sẽ được cần để chuẩn bị nền tảng cho các nền văn hoá sống
trong hiện tại.
Khái niệm Ấn Độ về thời gian sẽ
chỉ ra cho bạn nhiều điều. Nó nói thời đại tốt nhất đã qua rồi, nó đã là thời đại
thứ nhất, thời đại vàng; họ gọi nó là satya yuga, thời đại của chân lí. Nó là
tiền lịch sử. Vào thời đó cuộc sống là đẹp nhất, nó là đỉnh vàng. Thời gian bước
đi trên bốn chân - nó rất ổn định. Thế rồi suy sụp bắt đầu.
Ý tưởng Ấn Độ về thời gian là
chống lại Darwin, phản khoa học, hoàn toàn vô nhân. Thế rồi suy sụp bắt đầu -
thời đại của suy sụp, không của tiến hoá, không của tiến bộ - mọi thứ bắt đầu
co lại. Thời gian bắt đầu bước đi trên ba chân. Mọi sự trở thành lờ mờ, không
cân bằng - nó được gọi là treta, "ba chân." Thế rồi mọi thứ suy sụp
thêm: thời gian chỉ có hai chân, điều đó thậm chí trở thành khó hơn. Nó được gọi
là dwapar, "thời gian hai chân." Và bây giờ là thời đại thứ tư và cuối
cùng, thời đại bị lên án nhất - nó được gọi là kali yuga. Bây giờ cả ba chân đã
biến mất. Thời gian đang đứng trên một chân, sẵn sàng đổ bất kì lúc nào, bị ngã
đổ. Thời gian chỉ một chân, và một chân đó đã ở trong nấm mồ.
Đây là cách nhìn rất tăm tối và
ảm đạm. Đây là cách nhìn của một nước già, cổ đại, mục ruỗng. Ấn Độ cần việc
tái sinh, nó cần thời thơ ấu mới. Nó sẽ bảo vệ các ý tưởng của nó vì nó đã quen
thế với những ý tưởng đó. Chúng là kho báu duy nhất của nó! Cho nên khi tôi
đánh vào những ý tưởng này tôi có vẻ như là kẻ thù. Bạn có vẻ giống kẻ thù, và
kẻ thù đang được coi là bạn. Nhưng điều này là tự nhiên, điều này là logic. Nó
có thể được hiểu.
Một người đào mồ, bị cuốn hút
sâu sắc trong công việc, một buổi chiều đã đào một hố sâu tới mức anh ta không
thể nào trèo ra được khi anh ta kết thúc.
Hoàng hôn buông xuống và lạnh lẽo
của buổi tối, tình thế khó khăn của anh ta trở nên càng không thoải mái hơn.
Anh ta kêu lên nhờ giúp đỡ và cuối cùng đã hấp dẫn sự chú ý của một người say
đang loạng choạng bên cạnh.
"Cho tôi ra khỏi đây với!"
người đào hố cầu xin. "Tôi lạnh!"
Người say nhòm vào trong cái mồ
mở và cuối cùng nhận ra người đào mồ đang run bắn trong bóng tối. "Nào,
không ngạc nhiên là ông bị lạnh, ông bạn," người say nói, vừa đá một số mảng
cỏ xốp vào trong hố, "ông không bị bẩn gì dính lên ông đâu!"
Bây giờ, nếu bạn hỏi người say,
người đó sẽ có logic riêng của mình. Người đó sẽ thấy thực tại qua việc say
riêng của mình.
Người Ấn Độ trở nên giận vì họ
đã trở nên quen với việc được ca ngợi liên tục. Không ai đã bao giờ phê phán họ.
Không ai đã bao giờ chỉ ra cho họ rằng "Các bạn đang sống cái chết, không
phải cuộc sống. Các bạn đang co lại và chết. Các bạn đã đánh mất sự sôi nổi,
say mê, thích thú để sống một cách đích thực, để sống một cách toàn bộ."
Họ đã từng được ca ngợi. Sự nhợt
nhạt của họ đã được cho là hào quang của tính linh thiêng. Thái độ phản cuộc sống
của họ đã được nâng lên thành các hoang tưởng tâm linh lớn lao. Kinh nghiệm
điên dại của họ đã được gọi là samadhi. Tính điên của họ đã được kính trọng dường
như là cái gì đó của cõi bên kia đã giáng xuống trong họ.
Việc nói lắp bắp được coi là bí
truyền; mọi người liên tục tìm nghĩa trong nó.
Người ngu đã từng được tôn thờ,
kẻ tự bạo đã được coi là người khổ hạnh, kẻ tàn bạo đã được coi là thánh nhân lớn.
Suy đồi đủ mọi kiểu đã được cho nghĩa rộng có tính tâm linh. Bây giờ, phơi bày
toàn thể dối trá này của hàng nghìn năm là mạo hiểm.
Nhưng tôi sẵn lòng nhận mạo hiểm
này vì tôi chẳng có gì để mất - con ngỗng ở ngoài! Tôi chẳng có gì để mất. Nhiều
nhất họ có thể giết tôi; điều đó sẽ không giúp cho họ. Thậm chí cái chết của
tôi sẽ là sự giúp đỡ vô cùng cho họ. Nó có thể gây choáng cho họ ra khỏi cái vô
nghĩa của họ. Nó có thể đem họ ra khỏi sự ngẩn ngơ của họ, giấc ngủ của họ.
Do đó, Chaitanya Keerti, tôi vẫn
đang tiếp tục. Họ có thể liên tục chỉ trích tôi. Chỉ trích của họ là căn bản vì
cách tiếp cận khẳng định cuộc sống của tôi. Họ đã sống một triết lí phủ định cuộc
sống. Họ đang chống lại mọi cái cho bạn niềm vui; họ đè nén, kìm nén; họ sôi
lên bên trong, nhưng họ liên tục mang cái chăn che đậy. Không ai muốn phơi bầy
sự trần trụi của mình. Và khi cái chăn của bạn được tôn thờ nhiều thế, và không
chỉ ở Ấn Độ mà khắp trên thế giới...
Có nhiều người ngu trên thế giới
tới mức bất kì người Ấn Độ nào cũng có thể tìm được các đệ tử. Điều đó không
thành vấn đề chút nào. Chỉ việc là người Ấn Độ của bạn là đủ, và bạn là guru.
Tôi đã thấy những điều như vậy xảy ra trước mắt tôi.
Một trong các đệ tử của tôi,
Nirmala Srivastava, bây giờ trở thành người lãnh đạo tâm linh lớn. Bây giờ tên
cô ấy thật dài: Đại Đức Jagatjanani - "Người mẹ của toàn thế giới " -
Mataji Nirmalaji Srivastavaji.
Cô ấy có thời đã du hành cùng
tôi trong xe hơi, và tôi đi qua đạo tràng của Muktananda. Mọi người ở đạo tràng
của Muktananda đã mời tôi tới đó trong năm phút, chỉ để uốn chén trà. Và đó là
cuộc hành trình dài cho nên tôi nói, "Chẳng hại gì trong việc đó." Đằng
nào thì tôi cũng thích uống trà! Thế là tôi ở lại năm phút.
Nirmala gặp Muktananda. Cô ấy
không thể tin được rằng người có vẻ ngu xuẩn này - kinh tởm, ít nhiều là anh hề
- đã trở thành người lãnh đạo tâm linh lớn.
Sau tuần trà, khi chúng tôi vào
lại xe cô ấy nói, "Nếu người này có thể trở thành người lãnh đạo tâm linh,
thế thì tại sao tôi không thể?"
Tôi nói, "Bạn có thể chứ."
Và cô ấy đã trở thành một người lãnh đạo tâm linh.
Có một người ở đây từ
Australia, người đã hỏi tôi một câu hỏi - vì bây giờ anh ấy ở Australia, làm
công việc tâm linh lớn lao. Anh ấy đã hỏi tôi: "Thỉnh thoảng thầy nói về
đàn bà, Rabiya el-Adawiya. Thầy nghĩ gì về Mataji Nirmala Deviji? Cô ấy cũng là
cùng loại như Rabiya el-Adawiya không?" Người đàn ông này ở đây.
Tôi biết hoàn toàn rõ - trong
mười năm cô ấy đã là học trò của tôi. Chẳng có gì trong điều đó, không tính tâm
linh, không tính thiền... nhưng cô ấy có được ý tưởng này từ Muktananda. Và nó
không phải là trường hợp duy nhất.
Bạn phải đã nghe tới tên của một
yogi sardar lớn ở Mĩ, Yogi Bhajan. Ông ấy chỉ là người khuân vác tại sân bay
Delhi. Ông ấy thấy Muktananda đi tới cùng vài trăm người Mĩ... Tất nhiên vào
lúc đó tên ông ấy là Sardar Harbhajan Singh; ông ấy là người khuân vác nghèo,
nhưng chắc chắn ông ấy còn tốt hơn Muktananda nhiều, ấn tượng hơn. Ý tưởng tới
trong tâm trí ông ấy, "Nếu kẻ ngu này có thể là một paramahansa, a
satguru, vân vân, vân vân, thế thì sao mình phí thời gian chỉ để là một người
khuân vác?" Ông ấy bỏ việc này, đi sang Mĩ, và bây giờ là người lãnh đạo
tâm linh vĩ đại nhất của cấp bậc Sikh ở bán cầu phương Tây.
Mới vài ngày trước, ông ấy quay
lại Delhi cùng với mọi đệ tử của ông ấy. Một trong những ông chủ của ông ấy, là
một người yêu tôi, đi ngang qua. Ông này thấy ông ấy đang ngồi trên bãi cỏ của
khách sạn Delhi Taj Mahal cùng đệ tử của ông ấy. Ông này không thể nào nhận ra
được ông ấy, ông ấy đã thay đổi nhiều thế. Ông này nghĩ, "Một mahatma lớn."
Nhưng Yogi Bhajan là người đơn
giản theo cách đó, đơn giản hơn Muktananda hay Nirmala Devi. Ông ấy phái một đệ
tử đi theo ông chủ để nói cho ông này, "Tới phòng tôi đi. Tôi có cái gì đó
để nói cho ông."
Ông chủ không thể hiểu được tại
sao người yogi lớn này gọi mình; ông này xúc động, kích động. Ông này đi vào
trong phòng, Yogi Bhajan đi vào và ông ấy nói, "Ông chủ, ông không nhận ra
tôi à? Tôi chỉ là Sardar Harbhajan Singh nghèo, người khuân vác của ông. Ông đã
quên tôi hoàn toàn rồi sao?"
Thế rồi ông này có thể nhận ra
khuôn mặt. Ông này nói, "Nhưng cái gì đã xảy ra? Ông đã trở thành nhà yogi
lớn thế với bao nhiêu đệ tử!"
Thế là ông ấy kể lại câu chuyện...
rằng đó là do Muktananda. Toàn thể công trạng thuộc về Muktananda!
Người Ấn Độ không thể bỏ được
rác đó một cách dễ dàng vì đó là rác duy nhất họ có khả năng bán cho thế giới.
Họ không thể gạt bỏ được phân đó. Nó bốc mùi! Nhưng nó bán được. Có hàng triệu
người trên thế giới đang khao khát nó và họ không biết đi đâu. Ấn Độ đã trở
thành niềm hi vọng của họ... và họ sẽ bị khai thác.
Họ giận tôi, mọi guru của Ấn Độ
đều giận tôi, vì tôi không thuộc vào tín ngưỡng của họ. Tôi không ở đây để khái
thác bất kì ai, tôi không ở đây để ép buộc truyền bá lên bạn: văn hoá Ấn Độ,
tôn giáo Ấn Độ, và mọi điều vô nghĩa đó. Tôi ở đây chỉ để giúp bạn được tự do
khỏi Ki tô giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo. Tôi ở đây để giúp bạn là bản
thân bạn, chỉ là bản thân bạn.
Sannyasin của tôi không phải là
tín đồ của tôi, họ chỉ là bạn tôi. Tôi yêu họ, họ yêu tôi, nhưng không có cấp bậc.
Tôi không linh thiêng hơn bạn, hay cao hơn bạn. Điều đó đi ngược lại đầu tư Ấn
Độ. Họ nhất định chống lại tôi, Chaitanya Keerti. Tôi đang khẳng định cuộc sống,
họ đã từng phủ nhận nó từ lâu.
Nirmala gặp bạn cô ấy Vimala
trên phố một buổi chiều và để ý rằng Vimala đã đi dọc phố bán đồ bà bầu.
"Cậu biết đấy,"
Nirmala nói, "Tớ sẽ cho bất kì cái gì để có em bé. Nhưng tới đoán điều đó
là vô vọng."
"Tớ biết cách cậu cảm rồi,"
Vimala nói. "Chồng tớ đã làm theo cách đó nữa, nhưng bây giờ mọi sự tốt
lành. Thực ra, tớ có thai tám tháng rồi."
"Cậu đã làm gì?"
"Tới đi tới Swami
Etceterananda."
"Ồ, chúng tớ đã thử điều
đó rồi," Nirmala đáp. "Chồng tớ và tới đã đi tới đó trong sáu
tháng."
"Đừng có ngu xuẩn,"
Vimala bảo cô ấy. "Đi một mình thôi!"
Và họ sẽ tìm ra mọi loại luận cứ
chống lại tôi. Họ là những người giỏi biện luận. Trong nhiều thế kỉ họ đã không
làm gì ngoài tranh biện. Nhưng luận cứ của họ sẽ không giúp cho họ vì tôi không
biện luận theo bất kì triết lí nào; bằng không họ sẽ có khả năng phủ nhận tôi.
Tôi biện luận theo sự tồn tại, và ở đó họ lúng túng.
Nếu đó chỉ là biện luận triết
lí thì đã không có vấn đề gì. Ấn Độ đã biết tới nhiều triết lí. Phật đã biện
minh chống lại Veda và đã không có vấn đề gì. Mahavira đã biện minh chống lại
Upanishad; đã không có vấn đề gì. Shankara đã biện minh chống lại Phật và
Mahavira; đã không có vấn đề gì. Ramanuja đã biện minh chống lại Shankara; đã
không có vấn đề gì. Đó là sự kiện được chấp nhận, nếu bạn biện minh chỉ theo
quan điểm triết lí, không ai lo nghĩ, vì đó chỉ là không bản chất; nó không tạo
ra thay đổi gì trong đời người ta.
Tôi không biện minh theo triết
lí. Tôi không triết lí chút nào, tôi mang tính tồn tại toàn bộ. Đó là chỗ họ thấy
nó khó. Họ đang thấy nó tuyệt đối khó để quyết định cách đối phó với tôi, làm
gì với tôi. Do đó mới có giận dữ, do đó mới có kết án, do đó mới có đủ mọi loại
chỉ trích hạng ba. Chúng đơn giản chỉ ra thực tại của họ. Những chỉ trích hạng
ba đó mà họ liên tục làm chống lại tôi đơn giản mang thực tại của họ lên bề mặt.
Chúng chỉ ra sự trần trụi của họ, cái xấu của họ. Và điều đó phục vụ cho chủ định
của tôi.
Những người bán bất động sản ở
Bombay đã trải qua những cuộc sống không bị giới hạn toàn bộ bởi sự kiện buồn tẻ.
Một trong những quí ông này đang trưng bày một số tài sản cho một khách hàng có
thể, một người giầu, và ông ấy lấy mọi kiểu nói.
Ông ấy kết thúc với, "Tại
sao, bầu khí hậu là tốt nhất ở trong nước! Ông có biết không? - không ai đã bao
giờ chết ở đây."
Và vừa lúc đó một đám tang đi
vào tầm nhìn, nỗi đau thương chầm chậm diễn ra trên phố và biến mất ra ngoài tầm
nhìn. Nhân viên bất động sản ngạc nhiên một giây, nhưng anh ta nhanh chóng phục
hồi.
Bỏ mũ ra, anh ta nói một cách
nghiêm nghị, "Người làm dịch vụ lễ tang đáng thương - đói tới chết."
Người Ấn Độ là láu lỉnh trong
biện luận. Nếu tôi biện luận họ chắc đã tìm ra cả nghìn lẻ một luận cứ. Nhưng
tôi không biện luận, tôi đơn giản chỉ lên trăng. Ngón tay của tôi không phải là
luận cứ của tôi mà chỉ là chỉ báo. Đừng bám lấy ngón tay của tôi, nhìn trăng
thôi. Và đó là lúc trăng nên được nhìn.
Bạn hỏi tôi, Chaitanya Keerti:
Ngay cả vậy, thầy vẫn giữ việc
nện búa lên nền văn hoá mục ruỗng này...
Tôi sẽ liên tục nện búa. Nó mục
ruỗng tới mức có mọi hi vọng rằng chúng ta có thể gạt bỏ nó. Nó đang tan rã
theo cách riêng của nó; chỉ chút ít nện búa được cần. Tôi sẽ đánh nó một cách
tàn nhẫn.
Và bạn hỏi:
Công việc này là gì?
Đây là công việc của những người
như tôi. Nó bao giờ cũng là công việc của những người như tôi.
Socrates được toà án ở Athens bảo,
"Nếu ông dừng nói về chân lí, chúng tôi có thể thả ông. Ông sẽ không bị để
phải chết." Socrates từ chối, và lời ông ấy dùng đã là rất hay. Ông ấy
nói, "Đó là việc của tôi. Tôi không thể dừng nói về chân lí được. Cũng như
tôi thở, tôi nói về chân lí. Đó là việc của tôi."
Tôi sẽ tiếp tục. Việc nện búa của
tôi sẽ trở nên ngày càng kịch liệt hơn vì tôi phải đem ngày càng nhiều rác rưởi
lên bề mặt. Việc nện búa của tôi sẽ đi sâu hơn. Nó là việc nện búa giải phẫu -
nhiều phần mục ruỗng của đất nước trời đánh này phải được loại bỏ. Nó không cần
cái gì ít hơn điều đó. Thuốc sẽ không giúp gì, nó cần mổ. Và tôi đang chuẩn bị
bàn mổ...
Điều đó sẽ là cuộc phiêu lưu lớn.
Nhưng ngay cả bệnh nhân chết, chẳng có gì hại được làm. Ít nhất sẽ có không
gian nào đó, ít nhất sẽ có ít đám đông người hơn. Và bệnh nhân đằng nào cũng chết.
Đất nước này đang sống sự tồn tại sau khi chết. Nó đã chết lâu từ trước rồi:
cái ngày nó bắt đầu ý tưởng rằng chúng ta đang suy sụp, rằng thời đại vàng mất
rồi, rằng chúng ta đang rơi ngày càng sâu hơn vào trong bóng tối và địa ngục,
nó đã mất mọi phẩm chất của cuộc sống. Kể từ đó nó đã sống sự tồn tại sau cái
chết.
Nỗ lực của tôi là để cho đất nước
này cái chết thực để cho việc sinh thực trở thành có thể. Phục sinh là có thể
chỉ sau khi đóng đinh. Không có cách khác. Chết là cách thức cho sống quay lại,
cho nên đừng sợ chết! Thực ra, sống và chết là không đối lập, chúng là không
mâu thuẫn nhau. Chúng giống như hai cánh - chúng giúp lẫn nhau, chúng là các phần
bù.
Tôi dạy bạn sống một cách toàn
bộ, và tôi cũng dạy bạn chết một cách toàn bộ. Tính toàn bộ phải là hương vị của
người tôn giáo thực. Và khi tôi nói "người tôn giáo thực" tôi không
ngụ ý gì siêu nhiên, cái gì cao hơn, linh thiêng hơn - tôi đơn giản ngụ ý cuộc
sống hồn nhiên, cuộc sống bình thường. Tôi tán dương cái bình thường, tôi ca ngợi
cái bình thường, tôi tôn thờ cái bình thường.
..............................
0 Đánh giá