Read more
Phật kính yêu,
Một lần, sau khi Đại Tuỳ Pháp Chân đã trở
thành thầy chứng ngộ, ông ấy nói với các sư của mình, “Ta sẽ không giải thích bất
kì tranh cãi thêm nào; các ông biết đấy, nó chỉ là bệnh tật.”
Vào lúc này, một sư đứng dậy khỏi hội chúng
và tiến tới; Đại Tuỳ Pháp Chân lui về phòng mình.
Một dịp khác, khi Đại Tuỳ Pháp Chân đang
quét sân, Triệu Châu hỏi ông ấy cách biểu lộ prajna.
Đại Tuỳ Pháp Chân nhắc lại, “Làm sao chúng
ta có thể biểu lộ prajna được?” Với điều này, Triệu Châu cười phá lên.
Ngày hôm sau, khi thấy Triệu Châu quét sân,
Đại Tuỳ Pháp Chân hỏi ông ta, “Làm sao chúng ta có thể biểu lộ prajna được?”
Triệu Châu để chổi xuống và cười to, vừa vỗ
tay.
Đại Tuỳ Pháp Chân trở lại phòng mình.
Các bạn và các bạn lữ hành của
tôi,
Tôi thích dùng từ Urdu với cùng
nghĩa, bởi vì chúng có chiều sâu và thi vị... thậm chí chính âm thanh của chúng
cũng làm rung lên tiếng chuông trong trái tim. Nghĩa thông thường là một: bạn
tôi, bạn lữ hành của tôi. Nhưng tôi có một cảm giác dai dẳng bên trong tôi để
cho bạn những lời hàm xúc nhất.
Những lời đó là:
Mehre Hamsafar, Mehre Hamdham,
Mehra Dost.
Mehre Hamsafar có nghĩa là “bạn
lữ hành của tôi.” Mehre Hamdham có nghĩa là “trái tim tôi”. Mehra Dost có nghĩa
là “bạn tôi.” Nhưng khác biệt bao la thế...
Tiếng Anh đã ngày càng trở
thành văn xuôi và ngày càng ít thi vị, bởi một lẽ đơn giản rằng nó đã phục vụ
cho tiến bộ công nghệ khách quan và khoa học. Nó phải xác định, nó không thể có
thi vị được.
Bạn không thể nào viết toán bằng
thơ; cũng không thể viết vật lí lẫn hoá học bằng thơ. Bởi vì yếu tố chiếm ưu thế
này của khoa học và công nghệ, tiếng Anh đã mất đi sức quyến rũ huyền bí của
nó, sự huy hoàng của nó, âm nhạc của nó. Nó phải lấy lại điều đó, bởi vì phía đối
thể của cuộc sống là không đủ. Chừng nào tâm bạn chưa xúc động, lời không mấy
hàm xúc với nghĩa và ý nghĩa.
Năm ngày này đã có ý nghĩa mênh
mông. Người ta có thể nói rằng gần như chưa bao giờ trong lịch sử của loài người
hiện tượng như vậy đã xảy ra. Đây đã là việc tìm kiếm sâu sắc của các thiền
nhân trong hàng nghìn năm, rằng một khi một người trở nên chứng ngộ, một khi một
người trở nên tràn đầy ánh sáng và biết tới cái vĩnh hằng của riêng mình, người
đó biến mất vào trong điều tối thượng, vào trong vũ trụ. Người đó không thể tới
lần nữa qua bụng mẹ của một đàn bà được. Người đó không có ham muốn, người đó
không có khao khát. Người đó không còn có bất kì đam mê nào, điều lôi linh hồn
con người hết lần nọ tới lần kia vào vòng sinh tử.
Nhưng một khi một người đã vượt
ra ngoài tất cả những ham muốn này do tâm trí tạo ra, tham, giận và bạo hành, một
khi người đó đã đi tới chính trung tâm của bản thể mình, người đó được giải
thoát. Được giải thoát khỏi bản thân người đó, được giải thoát khỏi thân thể,
được giải thoát khỏi tâm trí. Lần đầu tiên người đó hiểu rằng thân thể sẽ chỉ
là nhà tù. Bởi vì trực giác của người đó có sáng tỏ tuyệt đối, người đó có thể
thấy rằng thân thể không là gì ngoài bệnh và chết - có thể có vài khoảnh khắc
vui thú, cái liên tục giữ bạn trong thân thể với hi vọng rằng có thêm nhiều vui
thú nữa... Nhưng người ta sớm nhận ra, nếu người ta có thông minh, rằng những
vui thú đó là rất nhất thời, ảo tưởng, chỉ được tạo ra từ cùng chất liệu như tạo
ra giấc mơ.
Khoảnh khắc việc nhận ra này xảy
ra, năng lượng sống của bạn đơn giản giang ra đôi cánh và bay vào trong bầu trời
mở của vũ trụ, để tan biến vào trong điều tối thượng.
Nhưng Phật Gautam là một ngoại
lệ.
Dưới dạng một câu chuyện hay,
chuyện kể rằng khi Phật Gautam chết ông ấy lên tới cổng thiên đường. Có nhiều lễ
hội để đón nhận ông ấy, nhưng ông ấy đã từ chối đi vào. Ông ấy khăng khăng, “Chừng
nào mọi người chưa đi qua cổng thiên đường ta không thể vào được. Điều đó chống
lại từ bi của ta.”
Vào khoảnh khắc cuối cùng của
cái chết của ông ấy, ông ấy đã dự đoán rằng ông ấy sẽ quay lại sau hai mươi
nhăm thế kỉ. Tất nhiên, ông ấy chỉ có thể tới theo một cách, và đó là sở hữu
thân thể của ai đó; bụng mẹ không còn có thể cho ông ấy.
Trong bẩy tuần liên tục tôi đã
chứng kiến cuộc thử lửa. Mỗi khoảnh khắc đều dường như là cuối cùng, và mỗi hơi
thở ra không hứa hẹn rằng nó sẽ quay trở lại. Trong bẩy tuần đó, bẩy lần tim
tôi đã biểu lộ triệu chứng không làm việc.
Bác sĩ điều trị của tôi Amrito,
đến cú thứ bẩy đã cho rằng đây là sự kết thúc. Tôi đã bảo anh ấy, “Máy điện tâm
đồ có thể chỉ cho bạn tôi bị mất bao nhiêu nhịp tim, nhưng nó không thể chỉ ra
cho bạn rằng tôi không phải là trái tim - tôi là nhân chứng đằng sau nó. Và nguồn
sống của tôi không phải là trái tim hay thân thể; nguồn sống của tôi là bản
thân sự tồn tại. Tôi tin cậy vào sự tồn tại, và tôi tin cậy rằng đêm tối dài bẩy
tuần này sẽ chấm dứt.”
Đáng ra tôi chẳng bao giờ kể
cho các bạn, nhưng do Katue Ishida... người đàn bà chưa từng biết tới tôi, mới
chỉ thấy ảnh tôi và đôi mắt tôi, và người đàn bà là nhà tiên đoán và nhà nữ
tiên tri nổi tiếng nhưng hiếm khi nói ra. Rất ít người tới điện thờ Shinto cổ
kính của bà ấy trong rừng để hỏi các câu hỏi, về định mệnh của họ, tương lai của
họ. Và phần lớn thời gian bà ấy vẫn còn im lặng; bà ấy chỉ nói khi bà ấy cảm thấy,
“Bây giờ sự tồn tại đã chiếm hữu tôi. Tôi không nói, tôi chỉ cho phép sự tồn tại
nói qua tôi.”
Người phiên dịch tiếng Nhật của
tôi, Geeta, đã đã thông báo cho bà ấy về mọi điều đã xảy ra trong năm ngày cực
kì có ý nghĩa này. Bởi vì lời tiên đoán của bà ấy rằng Phật Gautam đã chiếm hữu
thân thể tôi làm phương tiện, nên tôi đành phải thừa nhận chân lí đó. Nhưng tôi
cũng đã bày tỏ với bà ấy rằng tính cá nhân của tôi và tính cá nhân của Phật
Gautam sai khác nhau hai mươi nhăm thế kỉ. Ông ấy đã là một cá nhân - tôi là một
cá nhân lớn hơn. Tôi có thể là chủ, nhưng vị khách phải nhớ rằng ông ấy không
phải là chủ của tôi.
Tôi chưa hề chấp nhận bất kì ai
làm thầy tôi. Tôi đã phải mất thời gian rất dài để tìm ra bản thân tôi, nhưng
tôi vô cùng hạnh phúc rằng tôi thậm chí không phải nói ‘cám ơn’ với bất kì ai.
Việc tìm kiếm đã tuyệt đối một mình, cực kì nguy hiểm.
Và có những ý kiến theo đó tôi
nhất định là khác với Phật Gautam. Bốn ngày ông ấy ở cùng tôi, và đã thấy rõ
ràng rằng không có khả năng nào cho bất kì thoả hiệp nào.
Thoả hiệp bao giờ cũng đưa bạn
rời xa chân lí. Chân lí không thể là thoả hiệp - hoặc bạn biết nó hoặc bạn
không biết.
Geeta đã thông báo cho Ishida,
và cô ấy rất ái ngại: người đàn bà này sẽ cảm thấy thế nào? Nhưng người đàn bà
này đã chứng tỏ là mạnh mẽ vô biên. Bà ấy nói, “Chẳng thành vấn đề gì. Tôi yêu
thầy bạn và tôi tuyệt đối đồng ý với bất kì điều gì đã xảy ra.” Và thế rồi bà ấy
đột nhiên bắt đầu khóc.
Geeta hỏi bà ấy, “Sao bà khóc?”
Bà ấy nói, “Không có lời. Lần đầu
tiên... liên tục, trong năm ngày, tôi đã nói về thầy bạn, và tôi chẳng biết gì
về người . Tôi chưa từng đọc sách của ông ấy, tôi chỉ thấy đôi mắt ông ấy, và
cánh cửa bên trong tôi đã mở ra và gần giống như trận ngập lụt mà tôi cứ thế
nói ra. Đây là lần đầu tiên trong cả đời tôi...” Bà ấy đang vội vã tới.
Nhưng ngọn lửa bẩy tuần, đêm
dài của linh hồn đã chứng tỏ là một ân huệ trá hình. Nó đã làm thuần khiết tôi
hoàn toàn. Và năm ngày này của Phật Gautam như Phật Di Lặc - đó là lời tiên
đoán của ông ấy, rằng “Tên ta sau hai mươi nhăm thế kỉ khi ta quay lại, sẽ là
Phật Di Lặc.”
Người bạn - Maitreya (Di Lặc)
có nghĩa là ‘người bạn.”
Điều đó có ý nghĩa về phần ông ấy.
Ông ấy đã nói, thế giới của các guru đã chấm dứt. Thế giới của các thầy và đệ tử
sẽ không còn liên quan chút nào nữa. Thầy có thể vận hành chỉ trong năng lực của
người bạn yêu mến. Và đệ tử phải không là đệ tử, không phải buông xuôi theo bất
kì ai cả, người đó chỉ phải lắng nghe Người bạn. Vấn đề là ở người đó quyết định
phải làm gì hay không làm gì. Không kỉ luật nào có thể được trao, không việc ra
lệnh nào có thể được trao.
Trong thế giới tôn giáo đây là
sự bắt đầu của dân chủ; ngoài ra, mọi tôn giáo đều đã là độc tài, phát xít,
chính thống.
Tôi muốn các bạn ghi nhớ bởi vì
các bạn đã là nhân chứng cho tất cả bẩy tuần và năm ngày này - bẩy tuần của
bóng tối thường xuyên sâu thẳm, và năm ngày này của mặt trời lên, của huy hoàng
buổi sáng, của tiếng chim hót. Lần nữa một sự bắt đầu mới, không chỉ trong tính
cá nhân của tôi mà còn trong tính cá nhân của những người đã nhận lấy nguy cơ
làm bạn lữ hành cùng tôi.
Bình minh mới, con người mới là
tuyệt đối được cần. Có lẽ bạn là con người mới, người sẽ phá huỷ tất cả những
gì mục ruỗng và cũ nát, cái là mê tín và không có gốc rễ trong thông minh. Có lẽ
bạn sẽ là người phá huỷ mọi tôn giáo có tổ chức, bởi vì khoảnh khắc chân lí được
tổ chức lại nó chết.
Tôi đã nghe một câu chuyện cổ.
Một con quỉ mới tới chạy đuổi rất
nhanh theo một con quỉ già và bảo nó, “Ông ngồi im lặng ở đây, còn ở kia trên
trái đất một người đã tìm ra chân lí! Điều đó là nguy hiểm cho nghề nghiệp của
chúng ta. Cái gì đó phải được làm ngay lập tức đi.”
Quỉ già bắt đầu cười. Nó nói,
“Bình tĩnh lại đi. Nguội bớt lại đi, anh bạn trẻ! Ta đã tự mình thu xếp hết cả
rồi. Các học giả, các giáo sĩ, bác học, các tu sĩ - tất cả đều đã tới, và họ sẽ
tổ chức chân lí và đó là cách thức tinh vi nhất để giết chết nó. Bây giờ họ
đang bao quanh người kia. Họ sẽ không cho phép người kia tiếp cận trực tiếp với
nhân loại nữa. Nhân loại phải đi qua việc diễn giải của họ, qua lời bình luận của
họ. Và đối với toàn thể nhân loại bao la này, đó đã là cách thức của ta để tước
đoạt từ họ chân lí: đem tu sĩ vào. Tu sĩ đang trong phục vụ cho ta!
“Mọi tôn giáo có tổ chức, các
nhà thờ, đều đang phục vụ ta. Họ là bức Trường thành Trung Quốc đứng giữa nhân
loại và chân lí tối thượng.”
Mới vài tháng trước đây giáo
hoàng đã đưa vào thế giới một tội mới. Ông ấy đã tuyên bố rằng bất kì ai xưng tội
trực tiếp với Thượng đế đều phạm tội lớn; việc xưng tội phải được thực hiện qua
kênh đúng, qua các linh mục. Bạn không thể trực tiếp bắt đầu viết thư lên Thượng
đế - mọi thư từ đều phải trong sự chăm nom của linh mục!
Và thư này chẳng bao giờ vượt
ra ngoài chỗ đó. Mọi lời cầu nguyện của bạn, mọi việc thú tội của bạn không bao
giờ đi ra ngoài giới tu sĩ.
Đã có thời chuyện xảy ra, một
giáo sĩ và một giám mục rất thân thiện với nhau. Tình bạn của họ phát sinh là bởi
vì cả hai đều thích chơi golf. Họ đã quyết định đi vào Chủ nhật, nhưng giám mục
nói, “Nếu tôi có chậm chút ít, đợi tôi ngay trước nhà thờ, bởi vì Chủ nhật là
ngày xưng tội nữa, và người ta chẳng bao giờ biết bao nhiêu người sẽ tới xưng tội.”
Và quả là chậm thật và giáo sĩ
bắt đầu cảm thấy rằng dòng người xưng tội dài thế... ông ta đi vào nhà thờ từ cửa
sau, đi vào phòng nơi giám mục đang nghe việc xưng tội. Có bức vách; người xưng
tội đứng sau bức vách. Chỉ có một cửa sổ nhỏ để cho tu sĩ có thể nghe thấy, và
có thể trao cho người đó sự trừng phạt về tội của người đó.
Giáo sĩ nói, “Chúng ta bị muộn
rồi. Tôi gợi ý một điều - tôi không biết việc xưng tội này là gì, nhưng ông làm
điều đó một hay hai lần và thế rồi tôi sẽ làm thay. Ông sẵn sàng đi, và tôi sẽ
kết thúc dòng người này trong giây lát.”
Thế là ông ta quan sát; một người
tới và nói, “Con đã phạm tội cưỡng hiếp.” Giám mục nói, “Đặt mười đô la vào hộp
từ thiện và đừng bao giờ làm điều như vậy nữa. Và năm lời cầu nguyện ‘Hail
Marys’.”
Giáo sĩ nói, “Đừng lo nghĩ -
ông đi và chuẩn bị sẵn sàng - đây chỉ là vấn đề kinh doanh!”
Một người khác tới và anh ta
nói, “Con cũng phạm tội hãm hiếp hệt như anh chàng đi trước.” Nhưng anh ta
không biết rằng bây giờ giám mục không có đó.
Giáo sĩ nói, “Hai mươi đô la.”
Người này nói, “Nhưng con vừa nghe thấy - với người thứ nhất cha nói chỉ mười
đô la thôi!”
Giáo sĩ nói, “Mười đô la trả
trước, cho nên con không cần tới xưng tội và phí thời gian. Và mười lời cầu
nguyện ‘Hail Marys’ - bây giờ xéo đi!”
Chức năng của tu sĩ không phải
là để chuyển đổi bạn vào trong bàn tay của vũ trụ. Ngược lại, ông ấy đang trong
đủ mọi cách để ngăn cản bạn không cho bạn mở mắt ra và thấy các vì sao, không
cho mở tai ra và nghe thấy tiếng gió thoảng qua rặng thông. Ông ấy không cho
phép bạn thấy cái đẹp của hành tinh này, cái đẹp của bầu trời. Ông ấy cũng chẳng
giúp đưa bạn vào bản thể bên trong nhất của bạn nơi là nhà vĩnh hằng của bạn.
Ông ấy đang khai thác.
Con người mới, nhân loại mới có
nghĩa là người tôn giáo cá nhân, không được tổ chức theo bất kì học thuyết, triết
lí, giáo phái nào, mà đơn giản trong hài hoà với sự tồn tại. Và cách duy nhất để
hài hoà với sự tồn tại là điều chúng ta đã gọi ở phương Đông, thiền, trong đó
không tu sĩ nào được cần tới . Một mình bạn là đủ cho bản thân bạn.
Maneesha đã đem tới vài giai
thoại, đối thoại Thiền nhỏ, hay. Các bạn đừng bị mắc vào lời, bởi vì Thiền nói
ngôn ngữ hoàn toàn khác. Bên cạnh lời còn có dòng suối thường xuyên chảy của ý
nghĩa vô lời. Chừng nào bạn chưa trở nên có khả năng đi qua lời tới vô lời bạn
sẽ chẳng bao giờ có thể hiểu được Thiền.
Thiền là tôn giáo thuần khiết nhất. Nó không phải là nhà thờ có tổ chức. Nó kính trọng cá nhân. Nó không có bất kì tu sĩ, nó không có bất kì kỉ luật nào để bị ép buộc lên bạn; nó cũng không có bất kì đạo đức nào mà bạn phải buông xuôi theo. Nó cho bạn sáng suốt và nhận biết. Và qua nhận biết của mình bạn phải quyết định về đạo đức của bạn, trách nhiệm của bạn, kỉ luật của bạn, chính cách sống của bạn. Nó là cách thức khác toàn bộ để đem bạn vào hài hoà với vũ trụ.
Nó dạy bạn thảnh thơi. Nó dạy bạn không bơi ngược dòng - bạn sẽ không bao giờ thắng được. Cứ đi theo dòng sông, trôi nổi, tận hưởng mọi thứ tới trên đường: cây và sao trong đêm, và mặt trời mọc và mặt trời lặn, và hàng nghìn hoa. Và dòng sông... ngay cả dòng sông nhỏ nhất cũng đạt tới đại dương. Cho nên đừng lo nghĩ. Dù lớn hay nhỏ, không thành vấn đề. Mọi giọt sương chung cuộc đạt tới đại dương, và đại dương là chỗ nghỉ ngơi tối thượng của chúng ta.
Một chút ít ghi chép về tiểu sử của Đại Tuỳ Pháp Chân*, một Thiền sư nổi tiếng.
Đại Tuỳ Pháp Chân (780-862) là đệ tử nổi tiếng của Bách Trượng. Vào độ tuổi hai mươi chín, ông ấy trở thành sư, và học tập cả kinh lẫn giới luật. Ông ấy dành một số thời gian với Bách Trượng, trở nên chứng ngộ, và thế rồi làm một nơi tu ẩn dật trên đỉnh đồi. Về sau ông ấy tới Núi Đại Tuỳ, tại đó ông ấy dẫn giải về Thiền, chẳng hạn, “Trăm nghe không bằng một thấy; trăm thấy không bằng một làm.” Ông ấy trở về cuộc sống thế tục đôi khi, thế rồi lại cạo đầu lần nữa, và chết như một sư.
Ông ấy đang nói rằng mọi uyên bác này, mọi kinh sách này không giúp ích gì. Bạn sẽ phải làm cái gì đó, bạn sẽ phải đào vào trong bản thể riêng của bạn. Bạn không thể chỉ giống như con vẹt liên tục lặp lại kinh dài. Chúng sẽ không là giải thoát của bạn, chúng là cảnh nô lệ của bạn. Chỉ hành động với nhận biết - hành động gì không thành vấn đề; hành động bình thường nhất với nhận biết trở thành mang tính tôn giáo, bởi vì nó bắt đầu có duyên dáng của riêng nó, và có cái đẹp chính là siêu việt.
Để chứng minh điều này, bản thân ông ấy đã đi vào trong cuộc sống đời thường, vào bãi chợ, và đã sống nhiều năm ở bãi chợ, chứng minh rằng việc thoát lên núi và tu viện không phải là con đường đúng. Bạn có thể đi tới đó để học thiền. Một khi bạn đã học được nó bạn phải quay lại thế giới để chia sẻ, chia sẻ chứng ngộ của bạn.
Trước khi chết, ông ấy đã lên núi lại, cạo đầu lần nữa, và chết như một sư.
Một phát biểu hay:
“Trăm nghe không bằng một thấy; trăm thấy không bằng một làm.”
Lời kinh:
Maneesha đã hỏi,
Phật kính yêu,
Một lần, sau khi Đại Tuỳ Pháp Chân đã trở thành thầy chứng ngộ, ông ấy nói với các sư của mình, “Ta sẽ không giải thích bất kì tranh cãi thêm nào; các ông biết đấy, nó chỉ là bệnh.”
Mọi triết lí, mọi siêu hình, mọi lí thuyết, theo những người đã chứng ngộ, đều chẳng là gì ngoài bệnh của tâm trí, khao khát của tâm trí. Nếu bạn khao khát quá nhiều, bạn có thể mang máu tới tâm trí riêng của bạn, tới thân thể riêng của bạn. Nó là bệnh. Suy nghĩ, theo các thầy đã chứng ngộ, là bệnh.
Sẽ là việc hay nếu bạn thửa phân chia từ disease ngay từ gốc rễ cơ sở của nó. Nó có nghĩa : dis-ease (không-thoải mái). Mọi suy nghĩ đều là dis-easy (không thoải mái). Nó là sự tra tấn liên tục bên trong, nó là giờ phút xô đẩy thường xuyên của các ý nghĩ giống như giao thông. Và bạn thậm chí không có lấy một khoảnh khắc ngơi nghỉ. Thậm chí trong đêm các ý nghĩ trở thành mơ - nhiều hình ảnh hơn, nhiều mầu sắc hơn, nhiều say mê hơn. Bạn trở nên bị cuốn hút thế...
Có lẽ bạn chưa bao giờ quan sát: ban ngày, khi bạn thức, đôi khi bạn có thể hoài nghi, “Thế giới đang bao quanh mình là thực hay là ảo, ảo giác, ảo vọng?” ít nhất hoài nghi cũng là có thể.
Nhưng trong giấc mơ bạn không thể hoài nghi rằng nó là mơ; lôi cuốn thế. Trạng thái của việc này không phải là trạng thái mạnh khoẻ, không phải là trạng thái toàn thể; nó là ốm yếu. Nó là không thoải mái.
Cho nên khi Đại Tuỳ Pháp Chân đã trở thành thầy chứng ngộ, ông ấy đã nói với các sư của mình, “Ta không định giải thích gì thêm nữa về bất kì tranh luận nào; các ông biết đấy, đây chỉ là bệnh.”
Đi ra ngoài các ý nghĩ và bạn đi vào trong thế giới của mạnh khoẻ thực, của tính toàn thể thực.
Vào lúc này, một sư đứng dậy khỏi hội chúng và tiến tới; Đại Tuỳ Pháp Chân lui về phòng mình.
Việc thầy trở về phòng mình đơn giản có nghĩa, “Về phòng các ông đi và ngồi trong im lặng.” Chỉ trong im lặng của tâm người ta nghe thấy điều thiêng liêng, người ta cảm thấy điều thiêng liêng - không bao giờ trong các ý nghĩ.
Một dịp khác, khi Đại Tuỳ Pháp Chân đang quét sân, Triệu Châu hỏi ông ấy cách biểu lộ prajna.
Đại Tuỳ Pháp Chân nhắc lại, “Làm sao chúng ta có thể biểu lộ prajna được?” Với điều này, Triệu Châu cười phá lên.
Prajna có nghĩa là trí huệ tối thượng. Một cách tự nhiên Triệu Châu đã cười phá lên - điều tối thượng không thể nào được đem vào lời, và nó không thể nào được làm thành lời giải thích. Chỉ việc hỏi câu hỏi này chứng tỏ bạn dốt. Và trong dốt, trong mù, thậm chí không thể nào chỉ được ra cho bạn rằng trí huệ tối thượng đã có tại chính trung tâm của bản thể bạn, đang chờ đợi, như một tiềm năng để được lớn lên, để được hỗ trợ, để được nuôi dưỡng. Và chẳng mấy chốc xuân tới và bản thể bạn bắt đầu nở thành hàng nghìn bông hoa.
Ngày hôm sau, khi thấy Triệu Châu quét sân, Đại Tuỳ Pháp Chân hỏi ông ta, “Làm sao chúng ta có thể biểu lộ prajna được?”
Triệu Châu để chổi xuống và cười to, vừa vỗ tay.
Đại Tuỳ Pháp Chân trở lại phòng mình.
Chắc chắn Đại Tuỳ Pháp Chân còn chưa đi tới điểm mà ông ấy có thể hiểu rằng có những điều không thể nào được hiểu, và có những bí ẩn bao giờ cũng vẫn còn là bí ẩn. Bạn có thể sống chúng, bạn có thể hát chúng, bạn có thể nhảy múa chúng, nhưng bạn không thể nào giải thích được chúng.
Ai có khả năng giải thích cái đẹp là gì? Ai có khả năng giải thích chân lí là gì? Những bí ẩn này đã từng được nhiều người trải nghiệm, hàng nghìn người suốt các thời đại ở mọi nơi trên thế giới - nó không phải là độc quyền của ai .
Nhưng dẫu vậy, bất kì khi nào một người đã đi tới đỉnh cao này của tâm thức nơi điều huyền bí được hiển lộ ra, người đó ngay lập tức hiểu rằng không có cách nào để đem những điều huyền bí này xuống đất nơi việc giải thích là có thể, nơi tranh luận là có thể, nơi các hệ thống triết lí có thể được tạo ra.
Những người đã biết tới điều huyền bí, tới điều kì diệu, đều tiến lên trước, đi sâu hơn vào trong những điều huyền bí này của sự tồn tại. Điều huyền bí tối thượng là tính thiêng liêng của sự tồn tại.
Buson đã viết:
Hoa nở trên cây lê -
và người đàn bà dưới ánh trăng
đọc thư ở đó
Bài cú nhỏ này không phải là thơ thường. Chúng đơn giản phác hoạ một cảnh nhỏ mà đã đem tới kinh nghiệm nào đó về cái đẹp, chân lí, tình yêu, tới trái tim nhà thơ.
Hoa nở trên cây lê -
và người đàn bà dưới ánh trăng
đọc thư ở đó...
... Và im lặng tràn đầy.
Maneesha đã hỏi:
Phật kính yêu,
Dù có hay không có bất kì ai khác thường trú trong Thầy, dù chúng tôi biết tới Thầy dưới bất kì cái tên nào, Thầy là quí giá vô hạn với chúng tôi. Như Katue Ishida đã nói về Thầy, “Chúng ta phải bảo vệ con người này.”
Làm sao chúng tôi có thể làm điều đó tốt nhất được?
Maneesha, nếu bạn thực sự muốn bảo vệ tôi, cách duy nhất là trưởng thành lên, chín chắn hơn, được hợp nhất nhiều hơn, hài hoà hơn với điệu vũ của điều thiêng liêng.
Không phương tiện thông thường nào sẽ có thể nuôi dưỡng tôi được. Nhưng nếu tôi có thể thấy điệu vũ của bạn, nếu tôi có thể cảm thấy tình yêu của bạn, nếu tôi có thể thấy trong mắt bạn ngọn lửa mát dịu của việc chia sẻ vô điều kiện, bạn có thể có khả năng đi theo chỉ dẫn của Ishida để cứu con người này.
Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh.
Mendel Kravitz tới bác sĩ Floss, nha sĩ.
“Ông Kravitz,” Floss nói, “Tôi rất tiếc phải nói ông cần phải khám toàn diện về răng - bên nọ sang bên kia và từ trên xuống dưới. Ông sẽ tốn năm nghìn đô la.”
“Rất tiếc à? Ông rất tiếc sao? Tôi mới rất tiếc chứ!” Mendel kêu lên. “Những năm nghìn đô la sao? Tôi không thể đảm đương được điều đó!”
“Thôi được,” Floss nói, “Tôi có thể giới thiệu cho ông một nha sĩ khác người này chắc chắn lấy rẻ hơn nhiều.”
Thế là Mendel đi tới gặp bác sĩ Decay, ông này cũng cố vấn cho ông ta rằng ông ấy sẽ làm cùng việc cho Solly Saperstein.
“Chỉ cần gọi điện cho Solly thôi,” bác sĩ Decay nói, “và nếu ông thoả mãn với điều ông ấy nói, chúng tôi có thể thu xếp điều gì đó cho ông.”
Mendel điện thoại tới Solly.
“A, vâng,” Solly nói. “Răng tôi ấy. Thế này, nha sĩ đã làm công việc này thời gian trước đây. Quãng hai năm sau tôi tới ở với con gái tôi ở Hollywood. Vâng, nó đã lấy chồng là một ngôi sao điện ảnh - nhiều tiền, ông có thể hình dung ra! Chúng nó sống trong một khách sạn sang trọng tại Beverly Hill, với tất cả mọi tiện nghi. Nhiều đồ uống, một phòng cho riêng tôi, và tôi bơi trong bể bơi khách sạn hàng ngày. Tôi có bể bơi cho riêng mình, và tôi quen bơi truồng. Ông thấy thế nào?”
“Tốt thôi, Solly,” Mendel nói, “nhưng răng của ông thì sao?”
“Tôi đang kể cho ông đây!” Solly đáp. “Ông đã hỏi tôi, và tôi đang kể cho ông!
“Một hôm khi tôi đang trong bể bơi, một cô gái đẹp nhảy vào bể bơi. Và cô ấy cũng không có quần áo gì . Cô ấy bơi lại gần tôi, tôi ngượng quá, tôi không biết phải làm gì. Nhưng cô ấy vẫn cười, và cứ tiến tới mỗi lúc một gần hơn. Thế rồi cô ấy đặt tay lên tôi!”
“Thế rồi sao?” Mendel kêy lên.
“Thế này, thế rồi,” Solly tiếp tục, “lần đầu tiên trong hai năm răng tôi hết đau hẳn!”
Chàng da đen Big Black Leroy đang lau cửa sổ trên tầng thứ tám mươi ba của toà nhà chọc trời ở New York. Bỗng nhiên anh ta mất thăng bằng và ngã khỏi giàn giáo, nhưng anh ta xoay xở tóm được bậu cửa sổ và treo người ở đó trên đầu ngón tay, la hét lên xin cứu.
“A, Lạy chúa!” Leroy kêu lên, “Tôi vẫn chưa sẵn sàng cho chúng vào Ngọc Môn* đâu! Cứu tôi với!”
Vào lúc đó, Thánh Herbert, thiên thần, bay qua trên bầu trời.
“Chào, Leroy!” Thánh Herbert nói, bay lượn lờ bên cạnh anh ta. “Con có niềm tin vào Chúa không?”
“Con chắc chắn là có chứ!” Leroy lắp bắp.
“Được” Herbert nói, “thế ta sẽ dạy cho con cách bay. Bây giờ biểu lộ niềm tin của con và bỏ một tay ra khỏi bậu cửa đi.”
“Con không thể làm điều đó được!” Leroy lắp bắp. “Không cách nào cả!”
“Có đấy, con có thể làm được,” Thánh ngắt lời. “Bây giờ, biểu lộ niềm tin của con đi!”
Xanh người vì sợ, Leroy nhắm mắt lại và từ từ buông bỏ tay trái xuống.
“Thế là tốt đấy, Leroy,” Thánh Herbert nói, vỗ nhẹ lên đầu anh ta, “rất tốt. Bây giờ ta muốn con buông bỏ cả tay kia nữa.”
“Ah, Lawd!” Leroy kêu lên. “Con không thể làm được điều đó!”
“Con có thể làm được điều đó, Leroy,” Herbert nói. “có niềm tin, cầu nguyện Chúa - và buông bỏ!”
Leroy buông tay ra và rơi từ tầng tám mươi xuống đất.
“Ấy cha,” Thánh Herbert nói, bay đi. “Mình chưa bao giờ làm giống như người da đen.”
Hồng y giáo chủ Catzass gặp người bạn cũ, Buster, từ thời còn ở trường phổ thông.
“Chào, Buster,” Catzass nói. “Anh làm gì trong những ngày này?”
“Tôi là nhà logic,” Buster đáp, bắt tay hồng y giáo chủ.
“Thật thế sao?” Catzass đáp. “Nhà logic là cái gì trên thế gian này?”
“Thế này,” Buster nói, “tôi là một loại nhà trị liệu. Tôi giúp mọi người bằng việc làm cho mọi sự thành rõ ràng.”
“Thật thế sao?” Catzass đáp, “Công việc diễn ra thế nào?”
“Thế này,” Buster đáp. “Chẳng hạn - anh có một bể cá nhỏ trong phòng, đúng không?”
“Lạ quá nhỉ!” Catzass kêu lên. “Đúng đấy tôi có đấy, làm sao anh biết được?”
“Đừng bận tâm,” Buster nói, “và tôi suy ra rằng vì anh có bể cá nên anh thích cá.”
“Lạ thật! Catzass kêu lên. “Vâng, tôi quả có thích cá. Anh rất giỏi.”
“Vâng, mà không chỉ có thế,” Buster tiếp tục, “nhưng tôi còn suy luận ra rằng vì anh thích cá, nên anh có lẽ có sở thích về nàng tiên cá.”
“Kì lạ thế!” Catzass kêy lên, “Thực sự, tôi đã có tưởng tượng ghê gớm về tiên cá suốt cả đời.”
“Và,” Buster tiếp tục, “bởi vì anh thích tiên cá, nên tôi suy ra rằng anh cũng thích đàn bà nữa!”
“Lạy Chúa!” hồng y giáo chủ than. “Tôi thấy rằng anh thực sự là chuyên gia đấy. Tôi có một khao khát bí mật về đàn bà. Anh là nhà trị liệu vĩ đại!”
Cuối chiều đó, Hồng y giáo chủ Catzass ở trong phòng riêng của Giáo hoàng Polack.
“Này, giáo hoàng,” Catzass nói, “ hôm nay tôi mới gặp một người bạn cũ, một nhà logic.”
“Thật sao?” Polack nói. “Nhà logic là gì?”
“Thế này,” giáo hoàng nói, “anh ta là một loại nhà trị liệu. Và anh ta làm cho mọi thứ thành rõ ràng.”
“Thật sao?” giáo hoàng đáp. “Giống cái gì?”
“Tôi sẽ chỉ ra cho ông,” Catzass nói. “Chẳng hạn - ông có bể cá trong phòng, đúng không?”
“Không tôi không có,” giáo hoàng Polack nói.
“Được,” Hồng y giáo chủ Catzass suy diễn, “thế ông phải là người đồng dục!”
Nivedano...
( ( ( ( . ) ) ) )
Nivedano...
( ( ( ( . ) ) ) )
Im lặng. Nhắm mắt lại, cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.
Đây là khoảnh khắc bạn có thể nhìn vào trong với toàn bộ tâm thức của bạn, và với sự khẩn thiết dường như đây sắp là khoảnh khắc cuối cùng của bạn. Bạn phải tìm ra trung tâm bản thể bạn - với bất kì giá nào.
Đi mỗi lúc một sâu hơn - giống như mũi tên, xuyên thấu vào chính trung tâm của bản thể bạn. Đó là nơi bạn là phật. Đó là nơi cánh cửa của mọi điều huyền bí của sự tồn tại mở ra. Đó là nơi lần đầu tiên bạn đi tới biết về cái vĩnh hằng của bạn, bản thể vũ trụ của bạn.
Bạn là ở bên ngoài sống và bên ngoài chết.
Cái gì còn lại? - chỉ là nhân chứng thuần khiết.
Đó là phẩm chất duy nhất trong phật - chỉ là nhân chứng. Đó là điều thuần khiết nhất trong toàn thể thế giới.
Quan sát rằng bạn không phải là thân thể. Quan sát: bạn không là tâm trí.
Cái gì còn lại? - chỉ nhân chứng.
Và nhân chứng này là bản tính tối thượng của bạn. Nhân chứng này làm bạn thành phật.
Để làm nó rõ ràng hơn, Nivedano...
( ( ( ( . ) ) ) )
Thảnh thơi, nhưng nhớ bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng thuần khiết. Và dần dần niềm vui sâu sắc sẽ nảy sinh trong bạn, phúc lạc, cực lạc, an bình tới qua hiểu biết.
Bạn đã về tới nhà.
Thính phòng Phật này đã trở thành cái hồ tâm thức hội nhập từng người lại với nhau theo cách dòng sông hội nhập vào đại dương.
Buổi tối này thật đẹp theo cách riêng của nó, nhưng việc làm sâu sắc thêm tâm thức, việc hội nhập vào trong cái toàn thể bao quanh bạn, đã làm cho nó thành một trong những buổi tối oai nghiêm nhất trên thế giới.
Khoảnh khắc này có sự huy hoàng, kì diệu, bởi vì bạn đang đứng tại chính cánh cửa
của mọi phép màu,
của mọi điều là kì diệu,
của mọi điều là điều huyền bí.
Và mọi điều được tổ hợp lại này không là gì ngoài những khía cạnh khác nhau của tính thiêng liêng lan toả khắp sự tồn tại.
Thu lấy nhiều im lặng nhất có thể được, nhiều hương thơm nhất có thể được. Và thuyết phục phật đi cùng với bạn, để cho ông ấy không bị ẩn kín tại trung tâm mà đi tới chu vi của bạn trong các hoạt động, trong hành động thường ngày, trong điệu bộ, trong lời nói, trong im lặng. Khi phật rót đầy bạn một cách toàn bộ, bạn đã đi tới việc nở hoa. Tiềm năng của bạn đã trở thành thực tại.
Nivedano...
( ( ( ( . ) ) ) )
Quay lại. Nhưng quay lại không là cùng người đã đi vào.
Quay lại như phật,
với im lặng và an bình lớn lao,
với cái đẹp và duyên dáng,
với trái tim nhảy múa cùng niềm vui,
biết rằng tại chính trung tâm của bản thể bạn
- gần thế -
là cánh cửa tới điều thiêng liêng.
Một vài phút nữa, chỉ ngồi nhớ lại và nhắc nhở bạn về con đường hoàng kim mà bạn đã đi qua để gặp phật của bạn, và trên cùng con đường hoàng kim đó bạn đã quay lại.
Khác biệt giữa chu vi và trung tâm của bạn mỗi ngày một ít đi, từng li một. Mùa xuân không còn rất xa xôi nữa.
khi đột nhiên
chu vi và trung tâm
sẽ trở thành một.
Đó là khoảnh khắc của chứng ngộ,
khoảnh khắc của thức tỉnh,
khoảnh khắc của việc trở thành phật.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Phật.
0 Đánh giá