Chương 3. Tháo vũ trụ ra

Chương 3. Tháo vũ trụ ra

Price:

Read more

Phép màu - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 3. Tháo vũ trụ ra
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Nhân một dịp, Lâm Tế nói: Học sinh thời nay không đạt tới mục đích của họ. Thiếu sót của họ là gì? Nó nằm ở việc không có đức tin vào bản thân họ. Bởi việc thiếu đức tin ông rơi vào trong trạng thái không chắc chắn, trong đó ông tuân thủ mọi thăng giáng trong môi trường xung quanh, tuỳ thuộc bản thân ông vào vô số cuộc cách mạng, để cho ông không thể nào đạt tới tự do. Tuy nhiên, nếu ông thành công trong việc dừng tâm trí lại, vì nó tức khắc lao tới đây đó trong việc tìm của nó, vậy ông không thể nào phân biệt được từ các sư tổ và chư phật. Ông có muốn biết ai là sư tổ và chư phật không? Tất cả các ông đang nghe giáo huấn của ta ở đây trước ta đều là như vậy đấy. Các ông những người theo đạo, không có nhu cầu cho ông cống hiến nỗ lực cho giáo huấn phật giáo. Chỉ làm những điều bình thường mà không nỗ lực đặc biệt nào: làm nhẹ ruột, đi tiểu, mặc quần áo, ăn thức ăn, và khi mệt, nằm ra. Người đơn giản sẽ cười ông, nhưng người trí huệ sẽ hiểu. Người cổ đại nói: Tất cả những người cố gắng bên ngoài đều là ngu xuẩn. Điều đủ là làm người chủ riêng của mình bất kì chỗ nào người ta có thể tình cờ hiện hữu, và thực tại sẽ chiếm ưu thế ở mọi nơi. Vậy người ta sẽ vẫn còn không bị lay chuyển dưới mọi hoàn cảnh.
Lâm Tế nói vào một dịp khác: trong trái tim đỏ của ông, có con người thực mang vị trí không cố định, người bước vào và đi ra qua trán ông. Ta thôi thúc những người đã không trải nghiệm điều này, thử để thấy nó.
Maneesha, Thiền dành cho cái đơn giản, cái bình thường. Nhưng tâm trí con người dành cho chính cái đối lập; nó muốn là phi thường, nó muốn là đặc biệt, nó muốn được nổi tiếng. Sự kính trọng, danh tiếng, tôn kính, giầu có - chúng tất cả đều là ham muốn làm cho bạn thành đặc biệt.
Nhưng là đặc biệt là chống lại tự nhiên. Trong tự nhiên mọi thứ là như nó vậy. Không ai cảm thấy bất kì phức cảm kém cỏi nào, và không ai chịu đựng bất kì phức cảm cao siêu nào. Hoa hồng đẹp vì chúng không đòi bất kì sự cao siêu nào. Có cả nghìn đoá hoa nhưng không có cạnh tranh, mọi thứ đều duy nhất trong tính đơn giản của nó. Chúng không chạy đua marathon, cạnh tranh với nhau để tới trước nhất; chúng được thoả mãn mênh mông như chúng vậy. Trong toàn thể vương quốc con vật - và mọi cây, mọi mây, mọi sao - không ai muốn là cái gì đó khác. Vì cho dù bạn cố là cái gì đó khác, nó sẽ chỉ là giả.
Theo nghĩa này mọi tôn giáo đều phạm phải tội ác lớn chống lại nhân loại, vì tất cả họ đều muốn bạn là thánh nhân, những thánh nhân lớn. Họ có các phân loại về tính khổ hạnh, họ có phân loại về tính kính trọng. Cái gọi là tôn giáo của thế giới là một phần của cùng trò chơi đang được chơi ở bãi chợ, cái đang được chơi bởi các chính khách. Mọi người đều muốn có chức vụ. Người đó sẵn sàng đánh mất bản thân mình, bán bản thân mình, lấy chức vụ. Đó là điều đã xảy ra, và mọi người đều đánh mất tính đơn giản của mình.
Lần đầu tiên trong toàn thể đại học tôi vào kì thi tốt nghiệp. Ông tôi là người rất đơn giản... chẳng biết gì về Thiền, nhưng ông là con người của Thiền. Khi tôi bảo ông rằng tôi được huân chương vàng vì là người thứ nhất trong toàn thể đại học, ông nhìn tôi và ông nói, "Điều đó đơn giản nghĩa là cháu đang học cùng những kẻ ngu; bằng không làm sao cháu có thể xoay xở là thứ nhất được?" Thay vì hài lòng, ông giận tôi, "Cháu không cảm thấy xấu hổ sao? " Tôi nói "Trời, cháu cứ tưởng rằng ông sẽ ca ngợi..."
Ông nói, "Ông sẽ ca ngợi nếu cháu đã trao cơ hội này cho ai đó khác, nhưng bản thân cháu lại vồ lấy huân chương vàng. Điều này là rất vô duyên, không thanh nhã."
Tôi nói, "Ông sẽ hài lòng mà biết rằng cháu đã không mang huân chương vàng về nhà."
Tôi đã vứt nó vào giếng của đại học. Tôi đã nói với ông hiệu phó rằng nó chẳng thành vấn đề với tôi, và để chứng minh điều đó tôi đã ném nó vào chiếc giếng lớn thường cấp nước cho cả đại học. Mọi người nghĩ tôi dở hơi. Ngay cả ông hiệu phó cũng nói, "Điều này mang luận cứ đi quá xa."
Tôi nói, "Nó không phải là luận cứ. Tôi đơn giản nói với thầy rằng tôi không tin vào hệ thống giáo dục cái tạo ra những phân loại: lớp nhất, lớp nhì, lớp ba. Mọi người chỉ là bản thân mình, phân loại này là hiện tượng nguy hiểm."
Ông tôi nói, "Điều đó là tốt, nếu cháu đã ném huân chương vàng đó đi. Cháu đã làm tốt. Và đừng bao giờ làm lại điều như thế nữa."
Tôi nói, "Cháu đã không làm gì cả. Họ đơn giản trao nó cho cháu; đấy không phải là lỗi của cháu. Cháu đã làm mọi thứ để không có nó."
Tôi đã không dự lớp, tôi bị cấm dự các lớp. Tôi chưa bao giờ mua một cuốn sách nào mà đại học qui định. Tôi đã mua những sách lạ chẳng liên quan gì tới kì thi. Ngay cả các giáo sư của tôi cũng lo nghĩ. Họ yêu mến tôi. Họ nói, "Em đang đánh mất cơ hội lớn. Em có mọi cơ hội để là người thứ nhất trong toàn đại học, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thấy em đọc cái gì được qui định."
Cách thức của cuộc sống là kì lạ làm sao. Chính bởi vì điều này mà tôi đã đi tới thành người thứ nhất - vì câu trả lời của mọi sinh viên khác đều có tính lặp lại. Duy nhất câu trả lời của tôi là nguyên bản - nguyên bản theo nghĩa rằng tôi đã trả lời chúng không chỉ cho kì thi, không để thu được cái gì, mà chỉ để tận hưởng việc trả lời... cũng như tôi tận hưởng việc trả lời câu hỏi của các bạn. Tôi thậm chí nói, "Câu hỏi này là tuyệt đối sai, nó không xứng có câu trả lời nào. Và nếu tôi có thể tìm ra người đã hỏi nó, tôi sẽ đánh người đó."
Về sau giáo sư của tôi nói, "Bài thi đó do tôi chuẩn bị, và tôi đã đọc câu trả lời của em. Tôi hiểu rằng em đúng, câu hỏi này là ngu xuẩn."
Câu hỏi là, "Khác biệt gì giữa triết học Ấn Độ và triết học phương Tây?" Và một cách tự nhiên tôi nói, "Triết học không có tính địa lí. Triết học đơn giản là triết học. Nó có liên quan gì với Đông và Tây? Nó là quá trình suy nghĩ, người ta có thể làm nó ở bất kì chỗ nào. Nó chẳng liên quan gì tới nơi chốn, tới địa lí. Câu hỏi của thầy là ngớ ngẩn, do đó em sẽ không trả lời nó. Và nếu em có thể gặp thầy, em sẽ đánh thầy."
Ông ấy nói, "Điều tốt là kì thi đó do tôi làm ra, vì bất kì ai khác chắc đã trở nên rất bực. Em đã trả lời hay và tươi tắn, câu trả lời của em đơn giản là câu trả lời; mọi người khác đều trích dẫn sách giáo khoa. Em đã không có ý tưởng về cái gì được viết trong những sách giáo khoa đó, em chưa bao giờ nhìn chúng. Hiển nhiên, em phải là nguyên bản."
Một giáo sư già, người cũng từ Pune, là trưởng khoa triết của đại học Allahabad, Giáo sư R. D. Ranade. Ông ấy là người có thẩm quyền nổi tiếng thế giới về triết học Ấn Độ, và ông ấy cũng nổi tiếng vì chẳng cho người nào đỗ cả. Người ta nói rằng trong cả nghề nghiệp của ông ấy, ông ấy chỉ cho đỗ có ba người. Các giáo sư của tôi lo ngại: "Nếu Ranade đánh trượt em, sẽ rất khó khăn. Cho dù mọi người cho em đỗ, điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì. Vì Ranade có thẩm quyền thế, ông ấy mang trọng lượng nặng hơn ba giám khảo khác."
Nhưng ông ấy cho tôi điểm chín mươi chín phần trăm, và viết tin nhắn cho ông hiệu phó, "Gửi cho cậu sinh viên này thông điệp của tôi rằng tôi yêu mến câu trả lời của anh ta. Lần đầu tiên trong đời mình tôi muốn cho điểm một trăm phần trăm, nhưng điều đó chắc sẽ hơi chút quá nhiều. Để đừng có vẻ quá thiên vị, tôi cắt đi một phần trăm. Nhưng tôi xin lỗi, anh ta xứng đáng một trăm phần trăm - tôi bao giờ cũng muốn các câu trả lời trực tiếp thế với các câu hỏi, không bị nhồi nhét bởi sách giáo khoa, và tôi bao giờ cũng muốn các câu trả lời cô đọng nhất có thể được." Tôi đã được cảnh báo rằng đây là điều ông ấy muốn.
Tôi đã nói, "Đừng lo nghĩ... em có thể trả lời gần như điện tín - chỉ một dòng."
Họ nói, "Em điên! Chúng ta không nói rằng em phải trả lời trong một dòng."
Tôi nói, "Em sẽ xem." Và tôi đã trả lời bằng một dòng. Trong vòng mười lăm phút tôi đã xong hết. Ông giáo sư chịu trách nhiệm trong kì thi đã cố gắng buộc tôi ở lại tại chỗ.
Tôi nói, "Điều này thật lạ. Quyền của em là đi ra bây giờ khi em kết thúc cho câu trả lời."
Ông ấy nhìn vào câu trả lời của tôi và nói, "Trời, đây là câu trả lời à? Em cho câu châm ngôn!"
Tôi nói, "Em muốn kiểm tra Ranade. Vì cả đời ông ấy đã từng muốn những câu trả lời nguyên bản, trực tiếp, đơn giản, ngắn. Để ông ấy tận hưởng sự bằng lòng của trái tim ông ấy. Không thành vấn đề liệu em trượt hay đỗ, đằng nào thì em cũng sẽ là kẻ lang thang. Em sẽ không phục vụ cho chính phủ, em sẽ không làm bất kì kinh doanh nào. Em sẽ vẫn còn trong kinh doanh cổ đại của chư phật." Họ nói, "Em điên. Đấy không phải là kinh doanh." Tôi nói, "Bất kì cái gì giữ người ta bận rộn đều là kinh doanh."
Ranade rất hài lòng, nhưng tin nhắn của ông ấy gây choáng cho ông hiệu phó. Và vì điểm chín mươi chín phần trăm của Ranade, tôi về nhất trong toàn đại học. Cuộc sống là rất kì lạ, nó là điều huyền bí.
Về sau tôi đã gặp Ranade. Ông ấy đã về hưu, rất già. Tôi nói với ông ấy, "Có lẽ thầy sẽ sẽ nhớ tới người xứng đáng một trăm phần trăm, nhưng thầy đã cho anh ta chỉ chín mươi chín phần trăm."
Ông ấy nói, "Tất nhiên là tôi nhớ chứ, vì điều này xảy ra chỉ một lần trong đời tôi. Tôi chưa bao giờ đi ra ngoài ba mươi ba phần trăm. Anh là người đó hả?"
Tôi nói, "Tất nhiên tôi là người đó. Và tôi đã tới để nói với thầy rằng thầy đã không chứng minh được sự vĩ đại của thầy. Thầy đáng phải cho tôi một trăm linh một phần trăm. Sợ của thầy là gì? Thầy sợ rằng mọi người sẽ nghĩ thầy thiên vị tôi chứ gì? Thầy thậm chí đã không biết tôi."
Ông ấy nói, "Không ai nói với tôi theo cách này. Tôi là một giáo sư già, về hưu, được kính trọng."
Tôi nói, "Điều đó không thành vấn đề. Thầy đã biểu lộ điểm yếu của thầy trong việc cắt đi một phần trăm của tôi."
Ông ấy nói, "Anh thực kì lạ. Không ai cãi tôi, đặc biệt sau mười năm. Giờ thì tôi có thể làm được gì?" Tôi nói, "Ít nhất thì thầy cũng có thể nói 'Tôi lấy làm tiếc.'"
Đã có ít nhất hai mươi giáo sư đang ngồi cùng ông ấy. Ông ấy đã trở thành gần như chỗ linh thiêng, nơi mọi loại giáo sư và người trí thực tụ tập lại. Tất cả họ đều choáng.
Tôi nói, "Đừng lo nghĩ về những kẻ ngốc này; chính bởi vì họ mà thầy cắt bỏ một phần trăm của tôi."
Ông ấy nhìn tôi và ông ấy nói, "Tôi lấy làm tiếc, và tôi nó điều đó một cách công khai. Anh xứng đáng một trăm lẻ một phần trăm." Tôi nói với ông ấy, "Giờ thì tôi có thể tha thứ cho thầy."
Tôi nói ở đại học Allahabad. Ông ấy chưa bao giờ tới nghe bất kì giảng viên nào tới thỉnh giảng ở đại học này, nhưng ông ấy đã ngồi ngay hàng đầu trước tôi khi tôi đi vào trong phòng. Mọi người đều ngạc nhiên rằng Giáo sư Ranade cũng đã tới nghe. Tôi đánh mạnh vào hệ thống giáo dục và vào các giáo sư đang hỗ trợ cho nó.
Ông ấy nghe một cách cẩn thận, và khi tôi từ bục giảng bước xuống, ông ấy tới tôi và nói, "Con ơi" - ông ấy gần chín mươi tuổi rồi - "con đúng đấy. Chúng ta đã không có dũng cảm để tranh đấu. Tất cả chúng ta đều biết rằng hệ thống giáo dục của chúng ta chỉ đang tạo ra chỉ các thư kí, nhân viên, bưu tá, trưởng ga. Toàn thể giáo dục của chúng ta đều dựa trên ý tưởng về việc tạo ra kẻ hầu. Và điều con muốn là tạo ra các thầy. Ta tuyệt đối đồng ý với con."
Thiền muốn mọi người là niềm vinh quang lên bản thân mình. Đó không phải là thành đạt, đó không phải là cạnh tranh; đó đơn giản là tính nguyên bản. Và tính nguyên bản đã có đó rồi, bạn chỉ phải ném đi mọi rác rưởi mà bạn đã từng thu thập từ người khác. Dù nó có thể có giá trị đến đâu, nó đang phá huỷ bản thể nguyên bản của bạn, che phủ nó bằng bụi; và bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc chừng nào bạn chưa tìm ra bản thể nguyên bản của bạn. Chính việc tìm ra của bạn về bản thể nguyên bản của bạn là điệu vũ, niềm vui tới mức bạn có thể ban phúc lành cho toàn thế giới vậy mà bạn vẫn còn tràn ngập.
Nhân một dịp, Lâm Tế nói: Học sinh thời nay không đạt tới mục đích của họ.
Ngay chỗ đầu tiên, Lâm Tế là một thầy lớn và không thể phạm sai lầm này được. Đây phải là lỗi của người dịch. Ông ấy phải đã nói, "Các đệ tử thời nay," không phải là "học sinh." Học sinh vào đại học, tới trường học, tới cao đẳng, không tới tu viện. Học sinh có mối quan tâm khác toàn bộ, đích xác đối lập với khu vực của Thiền. Họ tích luỹ tri thức. Thiền muốn bạn bỏ mọi tri thức để cho bạn có thể trở thành hoàn toàn thuần khiết và hồn nhiên, để cho bạn có thể nói với cái đẹp vô cùng, "Tôi không biết."
Không việc biết, chỉ hiện hữu, và mọi điều huyền bí của sự tồn tại mở cánh cửa của chúng cho bạn. Với thông thái chúng bị đóng lại, với hồn nhiên chúng mở ra. Ông ấy không thể đã nói, học sinh thời nay; ông ấy không thể dùng cụm từ đó được. Tôi tuyệt đối chắc chắn vì tôi biết Lâm Tế, và bất kì cái gì khác ông ấy đang nói đều tuyệt đối đúng.
Và đó không chỉ là việc vào thời của ông ấy các đệ tử không đạt tới mục đích của họ. Bất kì ai có mục đích để đạt tới đều nhất định thất bại. Trong thế giới của Thiền không có gì để đạt tới. Bất kì cái gì phải xảy ra đều đã xảy ra, bạn chỉ phải khám phá ra nó. Nó không phải là thành tựu. Nó không phải là mục đích ở đâu đó xa xăm, mà bạn phải du hành tới chỗ đó. Nó chỉ ở tronh chính bản thể bạn, trong chính im lặng của bạn. Bạn không phải đạt tới nó. Chính phép màu là bạn đã quên mất nó... theo cách nào bạn đã quên mất bản thân bạn.
Mọi tôn giáo và mọi hệ thống giáo dục - toàn thể xã hội bị uốn theo việc làm sao lãng mọi đứa trẻ nhỏ khỏi bản thể nguyên bản của nó, làm cho nó thành cái gì đó khác hơn điều nó là vậy. Chúng ta đã không có khả năng tạo ra thế giới cho tới giờ nơi con người được chấp nhận như người đó vậy, không có điều kiện nào. Không chỉ điều đó, chúng ta đã tạo ra ước định tới mức bản thân con người không chấp nhận tính nguyên bản của mình. Con người hoài nghi về nó, không chắc chắn về nó, do dự về nó. Tốt hơn cả là lặp lại mật chú từ Phật Gautam, vì điều đó không thể sai được. Là nguyên bản là nguy hiểm - bạn có thể sai. Nhưng người không thể mạo hiểm là sai thì không bao giờ có thể đúng. Phàn nàn của Lâm Tế là:
Thiếu sót của họ là gì? Nó nằm ở việc không có đức tin vào bản thân họ.
Đức tin đó đã bị lấy đi bởi bố mẹ, bởi thầy giáo, bởi các giáo sư, bởi các tu sĩ - tất cả họ đều đã áp đặt ý tưởng, "Có đức tin vào Jesus Christ." Không người Ki tô giáo nào được bảo có đức tin vào bản thân người đó, nhưng được bảo có đức tin vào Jesus Christ, có đức tin vào đại diện của ông ấy.
Ngay bây giờ một cuốn sách nghiên cứu đã được xuất bản giải thích rằng giáo hoàng là người lãnh đạo Mafia lớn nhất thế giới. Nhiều thuốc phiện, nhiều cần sa, nhiều ma tuý đang được bán qua Vatican hơn qua bất kì chỗ nào khác. Mọi tiền đổ vào ngân hàng Vatican - ngân hàng của giáo hoàng - là tiền thuốc phiện. Nhưng tình thế của ông ấy là tình thế đặc biệt. Khu vực tí hon đó ở giữa Rome là một nước có chủ quyền, độc lập, và giáo hoàng là quốc trưởng cũng là trưởng tôn giáo. Cảnh sát là của ông ấy, quân đội của Vatican là của ông ấy, và tất cả họ đều tham gia vào các giao tác vốn là bất hợp pháp ở bất kì chỗ nào.
Mới vài tháng trước, chính phủ Italy đã ban hành lệnh bắt người quản lí ngân hàng này, nhưng họ không thể vào được trong Vatican. Họ đợi bên ngoài, nếu ông ta đi ra ngoài ông ta sẽ bị bắt. Thay vì bắt ông ta hay giúp chính phủ Italy bắt ông ta - vì họ đã thấy rằng ông ta đang biến tiền bẩn thành tiền sạch theo cả triệu - giáo hoàng đề bạt ông ta. Và bây giờ người ta đã thấy rằng giáo hoàng đứng đằng sau toàn bộ khung cảnh.
Ông ấy làm mọi chuyến đi khắp thế giới vì một lí do ngu xuẩn: để hôn đất. Bạn có thể hôn đất ở bất kì chỗ nào - nhiều tuỳ ý, tới sự mãn nguyện trong lòng bạn; không có nhu cầu để phí hoài hàng triệu đô la. Tới thăm Australia, ông ấy đã phí hoài tám triệu đô la. Chủ định là gì? - để hôn đất tại sân bay. Tiền này tới từ đâu?
Và đây là mọi người... tất cả các chính khách của thế giới đều tham nhũng, nhưng chỉ vì họ đang trong quyền lực nên không ai có thể nói rằng họ tham nhũng. Bạn sẽ bị nghiền nát. Điều gần như không thể có là ở trong quyền lực mà không bị làm thành tham nhũng. Tham nhũng là lực dẫn bạn đi: bất kì ai càng tham nhũng càng đạt tới các vị trí cao hơn.
Mọi đứa trẻ đều bị phá huỷ bởi người riêng của nó. Họ không biết một cách có ý thức điều họ đang làm. Các bố mẹ đang phóng chiếu những ham muốn không được hoàn thành lên con cái họ. Bố muốn là bác sĩ nhưng đã không thể thế được; ông ta đã kết thúc bởi việc là cái gì đó khác. Ông ta không thể qua được kì thi và trở thành chỉ là nhà hoá học, nhưng ông ta áp đặt ham muốn trở thành bác sĩ lên con mình. Ông ta cho con mình tới trường với hi vọng lớn rằng đứa con ông ta sẽ đạt tới điều ông ta không thể đạt tới được. Ông ta đang làm điều đó tất cả từ tình yêu vô ý thức của mình, nhưng yêu vô ý thức không phải là yêu - nó là mù. Với mọi ý định tốt, nó gây hại. Đứa con bị ép buộc trở thành bác sĩ, nếu nó được bỏ lại một mình để trưởng thành theo bản tính riêng của nó... người ta không bao giờ biết loại cái đẹp hay niềm vui nào, loại tính cá nhân nào, nó sẽ đóng góp cho thế giới.
Toàn thể cách tiếp cận của Thiền chỉ là việc là bản thân bạn - rất bình thường, không được biết tới, vô danh nhưng hoàn toàn mãn nguyện. Có đức tin vào bản thân mình, bạn không cần có đức tin vào Jesus Christ hay vào Krishna hay vào Moses. Có đức tin vào bản thân bạn là đơn giản - chỉ phải có đức tin vào bản thân bạn thôi. Biết hoàn toàn rõ rằng bạn đang đi vào trong lãnh thổ không biết. Có thể có nguy hiểm phía trước, bạn đang đi vào trong bất an ninh, nhưng nhận thách thức của việc là bản thân bạn làm cho bạn thực sự sống động. Và khi bạn đạt tới, khi bạn khám phá ra bản thân bạn, bạn đang trên đỉnh cao nhất của tâm thức.
Các tổng thống và vua và nữ hoàng và thủ tướng sẽ không bao giờ biết về điều đó. Biết nó, là nó, việc thảnh thơi vô cùng kéo tới. Bạn không đi đâu cả, bạn chỉ ở đây. Bạn bao giờ cũng ở đây. Tâm thức của bạn không bị ô nhiễm. Bất kì cái gì đã xảy ra cho bạn đều đã không để lại dấu hiệu nào trên tâm thức của bạn. Mọi dấu hiệu đó chỉ ở trên tâm trí, và tâm trí không phải là bạn.
Bởi việc thiếu đức tin ông rơi vào trong trạng thái không chắc chắn... Hiển nhiên - nếu bạn không có đức tin vào bản thân bạn, bạn sẽ phải có đức tin vào ai đó khác. Làm sao bạn có thể biết rằng người khác là đúng? Làm sao bạn có thể biết rằng Jesus Christ là đứa con duy nhất của Thượng đế?
Tôi thường kể về một sự vụ nhỏ đã xảy ra ở Baghdad. Một người công bố, "Ta là nhà tiên trí cuối cùng sau Mohammed. Ta đem tới chế độ tôn giáo cuối cùng từ bản thân Thượng đế."
Bây giờ điều không thể được đối với người Mô ha mét giáo là chấp nhận có ai đó sau Mohammed. Trước Mohammed bạn có thể nói về Phật, về Jesus - không thành vấn đề. Nhưng Mohammed là từ cuối cùng. Người này bị bắt và bị đem tới trước Vua của Baghdad. Ông ta lại lặp lại, "Không ai nghe ta, nhưng ta nói cho các ông rằng ta là nhà tiên tri cuối cùng! Giờ thời đại đã đổi rồi, Thượng đế gửi sứ giả mới tới. Ta đem thông điệp cuối cùng. Mohammed lạc hậu rồi."
Thực ra ông ta là phải. Mohammed lạc hậu rồi, mọi người đều lạc hậu. Nhưng nhấn mạnh của ông ta rằng ông ta là nhà tiên tri do đích thân Thượng đế phái tới... người Mô ha mét giáo là người không rất hào phóng hay từ bi. Họ không tin vào lí lẽ, họ tin vào chiếc kiếm. Đó là lí lẽ duy nhất của họ: bất kì ai, người có thể chặt đầu của người khác, đều là đúng.
Một cách tự nhiên Omar, ông vua, nói, "Bắt tên này và tống nó vào tù, và trong bẩy ngày cho nó đối xử đặc biệt. Chừng nào nó chưa thú nhận rằng nó không phải là nhà tiên tri, rằng Mohammed là nhà tiên tri duy nhất và cuối cùng, tra tấn nó. Sau bẩy ngày ta sẽ tới thăm."
Họ trói người này vào một cái cột và trong bẩy ngày họ đánh anh ta; máu rỉ ra từ mọi lỗ chân lông anh ta. Anh ta không được ăn hay uống gì. Sau bẩy ngày nhà vua tới và hỏi người này, "Mi đã đổi ý chưa hay vẫn khăng khăng thế?"
Người này nói, "Khi tôi tới đây thông điệp cuối cùng của Thượng đế là, 'Nhớ lấy, con sẽ bị đánh, con sẽ bị ném đá, con có thể bị đóng đinh.' Cho nên cả bẩy ngày này ông đã chỉ chứng minh rằng ta là nhà tiên tri! Chỉ những nhà tiên tri mới bị đối xử theo cách như vậy." Omar nói, "Điều này là trường hợp khó đây."
Vào lúc này một người khác, bị trói ở cột khác, cũng bị tra tấn ở đó trong suốt một tháng, la lên, "Người kia là sai, thưa Omar. Đừng tin nó! Ta chưa bao giờ phái bất kì ai tới sau Mohammed! Đích thân ta đã tới." Người đó là bản thân Thượng đế. Người đó đã bị giam một tháng trước đó.
Nếu bạn không có đức tin vào bản thân bạn, bạn sẽ có đức tin vào người điên nào đó, người tuyên bố là sứ giả của Thượng đế hay bản thân Thượng đế, hay tuyên bố rằng người đó là hoá thân. Nhưng sâu bên dưới sẽ có hoài nghi - làm sao bạn có thể tin được rằng người đó không điên? Lâm Tế đang nói:
Bởi việc thiếu đức tin ông rơi vào trong trạng thái không chắc chắn, trong đó ông tuân thủ mọi thăng giáng trong môi trường xung quanh, tuỳ thuộc bản thân ông vào vô số cuộc cách mạng, để cho ông không thể nào đạt tới tự do. Tuy nhiên, nếu ông thành công trong việc dừng tâm trí lại, vì nó tức khắc lao tới đây đó trong việc tìm của nó, vậy ông không thể nào phân biệt được từ các sư tổ và chư phật.
Sư tổ là tương đương với thầy, người sáng lập của trường phái Thiền nào đó. Khi tâm trí bạn im lặng và mọi rung động của ý nghĩ không còn có đó, bạn là một với chư phật và với các thầy. Không có gì để phân chia. Ở vị trí này đôi khi ngay cả người lành mạnh nhất cũng công bố rằng họ là phật, rằng họ là Thượng đế, nhưng đây là tình huống khác toàn bộ. Người điên biểu lộ mọi dấu hiệu của điên, người đó không toả ra phật tính. Người đó không có hương thơm của những chiều cao đó, mà bạn cũng không thể thấy được trong mắt người đó chiều sâu thái bình.
Có những khoảng khắc trong thiền mà bạn là phật. Phân biệt duy nhất giữa người điên và người là phật thực là ở chỗ phật từ bi, đáng yêu, và không công bố rằng mình là đứa con duy nhất của Thượng đế. Ông ấy nói, "Ta là phật và ông là phật, dù ông biết điều đó hay không." Người điên tuyên bố, "Ta là phật duy nhất - ông chỉ là con người bình thường, được làm từ bùn. Thượng đế thổi hơi vào trong ông và ông bắt đầu chạy đây đó."
Từ tiếng Anh 'Adam' nghĩa là bùn. Thượng đế đã làm ra con người từ bùn. Ở Mĩ chúng ta có tâm xã, Rancho Rajneesh. Trước khi chúng ta đi tới đó nó có tên là Big Muddy Ranch (Trại Bùn Lớn). Tôi bao giờ cũng tự hỏi, có lẽ Thượng đế lấy mọi bùn từ Big Muddy Ranch và đã tạo ra nhân loại. Đã không có bùn nào tại Big Muddy Ranch đó, nó là sa mạc. và chắc chắn nó lớn, một trăm hai mươi sáu dặm vuông.
Mọi từ... chẳng hạn 'human being' - 'human' bắt nguồn từ 'humus', và 'humus' nghĩa là bùn. Các tôn giáo đã giáng cấp con người thành búp bê, được làm từ bùn. Đó là sự phân biệt - người điên, người tự tuyên bố mình là nhà tiên tri hay đấng cứu thế hay Christ không nói rằng bạn cũng là Christ. Ông ấy muốn là đặc biệt, đó là dấu hiệu chắc chắn của tính điên.
Phật là tuyệt đối lành mạnh. Ông ấy biết rằng ông ấy là phật và ông ấy biết bạn cũng là phật. Bạn chỉ đang ngủ. Có lẽ bạn chưa quyết định để thức dậy, nhưng đó là tự do của bạn để làm như vậy.
Bạn có thấy khác biệt không? Người điên muốn là đặc biệt; phật là không đặc biệt. Ông ấy tuyên bố phật tính của mọi thứ sống - không chỉ con người, mà ngay cả cây thông và bụi hồng. Chúng đang trên đường tới phật tính; sớm hay muộn chúng cũng sẽ là người. Nhưng dù chúng biết điều đó hay không, điều đó không thành vấn đề. Khi có liên quan tới bản tính cốt lõi nhất của chúng, nó vẫn còn như nhau.
Khác biệt giữa phật và phần còn lại của sự tồn tại đơn giản là ở chỗ phật đã thức tỉnh tới thực tại của ông ấy. Cho nên phật liên tục cố gắng đánh thức bạn dậy; tạo ra các phương cách, phương pháp, biết hoàn toàn rõ rằng bạn đang ngủ, rằng bạn chỉ cần chút nước lạnh vã vào mắt bạn. Nhưng người điên không tin rằng bạn cũng là phật.
Jesus Christ thuộc vào loại người điên, vì phát biểu của ông ấy rằng ông ấy là đứa con duy nhất của Thượng đế, và bạn chỉ là cừu. Ông ấy là người chăn cừu; ông ấy sẽ dẫn bạn đi và, nếu ông ấy dẫn bạn, bạn đang trên con đường đúng - có đức tin vào ông ấy đi! Nếu bạn đi lạc lối bạn sẽ bị lạc. Thực ra ông ấy đang nói, "Đừng có đức tin vào bản thân ông. Trao đức tin của ông cho ta, ta là người duy nhất được kết nối trực tiếp với Thượng đế. Có tin cậy vào ta đi." Không phật nào sẽ nói điều đó.
Trong con mắt của phật điều này là cực kì vô nghĩa. Đây là khác biệt giữa Ki tô giáo, Hindu giáo, Do Thái giáo, Mô ha mét giáo - mọi tôn giáo của thế giới ở một bên - và Thiền, đứng một mình, trong lành mạnh hoàn toàn. Thiền nói rằng tất cả các bạn đều có tâm thức phổ quát. Không ai là đặc biệt. Vài người đang ngủ và vài người đã thức, không có mấy khác biệt.
Ông có muốn biết ai là sư tổ và chư phật không? Tất cả các ông đang nghe giáo huấn của ta ở đây trước ta đều là như vậy đấy.
Tôi có thể chấp nhận Lâm Tế là thầy đích thực. Ông ấy biết điều ông ấy nói, vì ông ấy không đặt bản thân mình lên trên người khác. Ông ấy chỉ nói rằng tất cả chúng ta đều là một phần của một tâm thức.
Các ông những người theo đạo, không có nhu cầu cho ông cống hiến nỗ lực cho giáo huấn phật giáo. Chỉ làm những điều bình thường mà không nỗ lực đặc biệt nào: làm nhẹ ruột, đi tiểu, mặc quần áo, ăn thức ăn, và khi mệt, nằm ra. Người đơn giản sẽ cười ông, nhưng người trí huệ sẽ hiểu. Người cổ đại nói: Tất cả những người cố gắng bên ngoài đều là ngu xuẩn.
Chính ý tưởng trở thành phật là ngu xuẩn, vì bạn là phật rồi. Vấn đề là thức dậy, không phải là trở thành.
Điều đủ là làm người chủ riêng của mình bất kì chỗ nào người ta có thể tình cờ hiện hữu, và thực tại sẽ chiếm ưu thế ở mọi nơi. Vậy người ta sẽ vẫn còn không bị lay chuyển dưới mọi hoàn cảnh.
Lâm Tế nói vào một dịp khác: trong trái tim đỏ của ông, có con người thực mang vị trí không cố định, người bước vào và đi ra qua trán ông. Ta thôi thúc những người đã không trải nghiệm điều này, thử để thấy nó.
Một cước chú: "Ở Trung Quốc, trái tim được tin là chỗ của ý nghĩ, của thông minh, và tương đương phương tây của nó là tâm trí. Con người thực mang vị trí không cố định là tâm trí mà, tương ứng với Hoàng Bá, cũng còn được biết tới là Obaku, không có vị trí không có chiều hướng vì nó là mênh mông như không gian."
Cước chú này phải là từ người dịch. Tim đỏ không ngụ ý tâm trí. Trong truyền thống Thiền tim đỏ đơn giản là cái mà lương y và nhà sinh lí học biết, cái đang quản lí thân thể. Tim đó là trung tâm của thân thể. Để hoàn thành phân biệt này, đằng sau tim này có tim khác mà ở Trung Quốc họ thường gọi là "tim bên trong."
Ở Ấn Độ mới mấy năm trước, đã có một người, Brahma Yogi, người đã thực hành gần nửa thế kỉ để đem việc thở của mình tới dừng lại hoàn toàn. Nhịp tim của ông ấy biến mất, mạch của ông ấy biến mất. Ông ấy có khả năng vẫn còn ở vị trí này trong mười phút. Ông ấy đã được kiểm tra ở nhiều viện y học, và các bác sĩ trên khắp thế giới đã cho ông ấy giấy chứng tử. Trong mười phút đó họ không thể tìm ra bất kì dấu hiệu nào của sự sống. Chính thoả thuận của ông ấy là ông ấy sẽ ra khỏi thân thể, và, "Nếu các ông không tìm thấy dấu hiệu sự sống, các ông phải viết giấy chứng tử cho tôi theo y hệt cách các ông làm cho bất kì người chết nào."
Họ không thể nào tin được rằng người này có thể quay lại. Ông ấy đã đi quá xa: không mạch, không nhịp tim, không thở. Ông ấy được khám nghiệm với các dụng cụ rất chính xác, nhưng không có dấu hiệu của sự sống. Vậy mà sau mười phút ông ấy bắt đầu hoạt động trở lại. Từ từ việc thở quay lại, tim bắt đầu vận hành lại, máu bắt đầu chảy. Các bác sĩ này không thể tin được vào điều đó, nhưng họ phải tin. Ông ấy đã được cho hàng trăm giấy chứng tử, không người nào trên thế giới được nhiều giấy chứng tử thế, và từ những người rất lỗi lạc. Bình thường một giấy chứng tử là đủ!
Hiển nhiên ông ấy đã chứng minh bên ngoài việc hoài nghi rằng điều bạn gọi là chết là không thực. Chỉ tim ngoài của ông ấy dừng lại. Tim trong, cái bạn còn chưa tìm ra, có năng lực đi ra ngoài thân thể. Đôi khi một cách ngẫu nhiên, trong thôi miên sâu, việc xảy ra là bạn đột nhiên thấy bản thân mình nổi trên thân thể mình. Thân thể bạn đang nằm trên sàn, và bạn có thể thấy nhà thôi miên đang ngồi đó bên xác chết của bạn.
Nếu hoài nghi nào đó nảy sinh trong khoảnh khắc này, thế thì cái chết sẽ xảy ra. Nhưng nếu bạn đang trong thôi miên, hoài nghi không thể nảy sinh được. Bạn đã tin cậy vào người thôi miên bạn, và vì hoài nghi không nảy sinh, khi người này gọi bạn quay lại, thân thể bạn - thể tinh tú, thể bên trong, cái ta - dần đi xuống và đi vào trong thể vật lí của bạn.
Đó là kinh nghiệm cực kì hay, nhưng nguy hiểm nữa. Nếu ai đó cố đánh thức bạn trong khi bạn ở ngoài, người đó sẽ nghĩ rằng bạn chết và bắt đầu chuẩn bị đám tang. Nếu bạn trở nên sợ bạn có thể quên cách bạn đã đi ra; thế thì làm sao quay lại được? Đi vào và ra khỏi thân thể không phải là một phần của tri thức, nó không phải là kĩ thuật. Vâng, nếu bạn làm nó thành một điểm thực hành nó, bạn có thể trở nên có khả năng đi ra khỏi thân thể và trở lại bất kì khi nào bạn muốn, nhưng không theo cách bình thường. Đôi khi trong tai nạn xe hơi cái ta bên trong của bạn bị rung chuyển nhiều tới mức nó rời khỏi thân thể. Nhưng vì ham muốn của bạn, bạn bị gắn với thân thể, và bạn sẽ bị kéo lại vào trong nó.
Nếu một thiền nhân được kết thúc hoàn toàn với mọi ham muốn ở vào trong tai nạn như vậy, người đó có thể không trở lại thân thể chút nào. Mọi người sẽ nghĩ đó là cái chết ngẫu nhiên, nhưng nó không phải là ngẫu nhiên, nó là rất có ý định. Người này đã quyết định không quay lại. Nhưng không ai có thể bắt giữ được người đó để đem người đó ra toà án.
Ở đây trong phòng Phật này điều đó có thể xảy ra nhiều lần, nhưng đừng nói về điều đó cho bất kì ai. Nếu bạn đôi khi cảm thấy rằng bạn lơ lửng, đừng lo nghĩ. Chỉ một cú đánh trống của Nivedano và bạn sẽ nhảy lại vào trong thân thể bạn. Đó là lí do tại sao nói bạn chết đi lại an toàn thế, vì tôi biết bạn không thể đi xa được trong hai phút. Bạn sẽ chỉ ở đây, lơ lửng. Chỉ một cú đánh trống to và bạn sẽ vội vàng trở lại, "Mọi người đều quay lại, mình làm gì ở đây? Thân thể mình kia." Nhanh lên, vì ai đó khác có thể đi vào.
Đó là vấn đề duy nhất tôi phải theo dõi thường xuyên - rằng không ai đi vào trong thân thể của ai đó khác. Cho nên nếu một ngày nào đó bạn cảm thấy thích nổi, thế thì nổi đi, nhưng ở gần gần thôi. Đừng đi ra đi dạo buổi tối, chỉ để xem cái gì đang xảy ra bên ngoài cổng - điều đó có thể nguy hiểm. Đến lúc bạn quay lại ai đó khác có thể đã vào rồi. Bạn cũng có thể vào, nhưng đó là tình huống rất khó khăn khi có hai linh hồn trong một thân thể.
Thỉnh thoảng những trường hợp đó có xảy ra, thế thì bạn nói người này bị ma ám. Nhưng thực tại là ở chỗ ma mất lối vào thân thể nó sau sự cố nào đó, hay không biết cách đi ra khỏi thân thể.
Kinh nghiệm của tôi về việc ra khỏi thân thể là rơi từng trên cây. Tôi hay thiền ngay sau đại học, nơi có một gò nhỏ đẹp và ba cây cao, rất im lặng, và không ai thường hay tới đó. Tôi thường ngồi trên một cây và thiền. Một hôm tôi đột nhiên thấy rằng tôi đang ngồi trên cây và đồng thời thân thể tôi đã ngã xuống và đang nằm trên đất. Trong một chốc tôi không thể thấy được làm sao đi vào nó lần nữa. Chỉ là tình cờ mà một người đàn bà thường mang sữa tới đại học từ làng bên cạnh thấy thân thể tôi đang nằm đó, cho nên cô ấy tới gần. Cô ấy phải đã biết rằng trong tình huống mà thân thể bên trong trở nên tách rời với thân thể bên ngoài, nếu bạn cọ vào giữa đôi mắt, con mắt thứ ba, đó là cánh cửa. Linh hồn đã rời đi sẽ có thể đi vào.
Cho nên cô ấy cọ vào con mắt thứ ba của tôi. Tôi có thể thấy việc cọ của cô ấy vào trán tôi, và khoảnh khắc tiếp tôi mở mắt ra và cám ơn cô ấy và hỏi cô ấy làm sao cô ấy biết làm điều đó.
Cô ấy đã đơn giản nghe nói về điều đó. Đó là một làng nguyên thuỷ, nhưng cô ấy đã nghe ý tưởng truyền thống rằng con mắt thứ ba là chỗ mà người ta rời đi và là chỗ người ta có thể quay lại.
trong trái tim đỏ của ông, có con người thực mang vị trí không cố định, người bước vào và đi ra qua trán ông.
Chỗ đó ở trên trán được gọi là con mắt thứ ba trong yoga.
Ta thôi thúc những người đã không trải nghiệm điều này, thử để thấy nó.
Lâm Tế đang nói đó là một kinh nghiệm cực kì có ý nghĩa, vì thế thì không luận cứ nào được cần cho bạn để được thuyết phục rằng bạn không là thân thể này - rằng bạn là thể tinh tú, vô hình. Bên trong thân thể này đang che giấu thân thể khác; đằng sau trái tim này trái tim khác đang đập, điều mà y học có thể một ngày nào đó khám phá ra. Nhà huyền môn bao giờ cũng nhấn mạnh nó có đó. Nó ở trong tay bạn nếu bạn muốn thực nghiệm.
Cứ thiền, cảm thấy thân thể bạn nằm đó. Cảm thấy rằng từ trán bạn, linh hồn bạn đi lên, lơ lửng trong không trung; nhưng đừng đi quá xa. Và bao giờ cũng nhớ tới trán, con mắt thứ ba, là cửa qua đó bạn đi ra và quay lại đi vào. Kinh nghiệm này tạo ra thuyết phục. Thế thì nó không còn là đức tin nữa. Thế thì bạn biết rằng bạn là bất tử, rằng thân thể này chỉ là cái túi, cái chuồng. Nhà thơ, Juo, đã viết:
Bên ngoài nắm giữ của thời gian,
cuộc sống hàng ngày của tôi.
Tôi coi khinh tình trạng, thoát ra khỏi
vũ trụ.
Phủ nhận nhân quả,
Như bầu trời trưa.
Nghề lên xuống của tôi: chư phật
Không sư tổ nào có thể truyền đạt nó.
Ông ấy đang nói rằng nhân quả là cơ sở của khoa học, nhưng bản thể bạn không ở trong khu vực nhân quả. Bạn không được gây ra bởi bất kì cái gì, bạn ở đây từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng. Và kinh nghiệm về điều này là cái gì đó mà ngay cả chư phật cũng không thể diễn đạt được. Ông ấy đang nói, "Tôi là nhà thơ nghèo. Đừng mong đợi tôi diễn đạt điều tôi đã trải nghiệm. Ngay cả chư phật vĩ đại cũng thấy bản thân họ bất lực khi liên quan tới việc diễn đạt nó." Shutaku đã viết:
Với tất cả những năm này, Thiền chắc chắn của tôi:
Tôi không tồn tại, thế gian không tồn tại.
Kinh gọn trong hộp,
roi móc trên tường,
tôi nằm an bình trong ánh trăng,
hay, nghe nước nào đó
bắn toé trên đá, ngồi dậy:
không ai có thể mua
vui thú đến dường này:
vân hoa ngang rêu bậc cửa,
triệu đồng tiền!
Trong đơn giản tuyệt đối, trong im lặng thế... Bạn không còn là con người hữu tử nữa. Mọi ngày tôi đều nhắc bạn về tính bất tử của bạn, về hư cấu của cái chết. Nó không bao giờ xảy ra, nó chưa bao giờ xảy ra. Bạn ở bên ngoài việc huỷ diệt.
Maneesha đã hỏi:
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Tôi tưởng tượng rằng xu hướng của chúng tôi để đặt bản thân mình xuống là sản phẩm của việc ước định của chúng tôi, và cái gì đó lạ thường với con người hiện đại. Nhưng ngay cả trong thời của Lâm Tế dường như đó là chướng ngại chính cho việc nhận ra bản thân mình nữa.
Xã hội của những người không chứng ngộ có thể tồn tại chỉ nếu mọi người đều bị làm cho cảm thấy không thích hợp không?
Có, Maneesha. Loại xã hội này có thể tồn tại chỉ nếu nó làm cho bạn cảm thấy không thích hợp. Loại xã hội này, cấu trúc này, cần những người đang khổ, hay bị làm cho khổ, từ sự kém cỏi, người sâu bên dưới đang mang một ước định rằng họ là vô giá trị, không xứng đáng. Loại xã hội này có thể tồn tại chỉ nếu nó làm cho mọi đứa trẻ thành không thích hợp, vì xã hội này cần khai thác, xã hội này đã đầu tư bản thân nó vào việc khai thác con người. Nó không và nó không thể cho phép mọi người là bản thân họ, vì nếu mọi người là bản thân mình, không thể có bất kì tổ chức tôn giáo nào để khai thác bạn - không Ki tô giáo, không giáo hoàng, không vua không nữ hoàng, không người lãnh đạo. Vì thế thì cá nhân là đủ cho bản thân người đó, người đó không cần bất kì người lãnh đạo nào.
Tất cả những cái gọi là người vĩ đại này - chính khách, tu sĩ - tồn tại vì mọi đứa trẻ đã bị làm què quặt, đã không được phép trở thành cá nhân theo quyền riêng của nó. Bằng không nó sẽ không theo bất kì người nào. Nó sẽ theo bản thân nó, nó sẽ đi theo các chiều hướng là chọn lựa riêng của nó. Nó sẽ không cần bất kì hướng dẫn nào và sẽ không cần bất kì bản đồ nào và sẽ không cần bất kì nhà độc tài nào. Loại xã hội này có thể tồn tại chỉ nếu trẻ em theo số đông bị ép buộc để cảm thấy không thích hợp.
Và nỗ lực của tôi ở đây là cho bạn chân giá trị bị quên lãng của bạn. Đây là bước cách mạng nhất, bởi vì nếu bạn có thể nhớ được chân giá trị bị quên lãng của bạn, tính tâm linh của bạn, sự vĩnh hằng của bạn, bạn sẽ được tự do khỏi mọi nhà thờ, khỏi mọi quốc gia. Bạn sẽ được tự do khỏi mọi loại ý thức hệ ngu xuẩn và mê tín. Tâm thức bạn sẽ là việc bùng nổ của ánh sáng tới mức mọi thứ là giả sẽ biến mất.
Thế thì bùng nổ này tạo ra phản ứng dây chuyền - và đó là nỗ lực của tôi. Nó có thể làm thành phản ứng dây chuyền.
Tôi đang làm mọi nỗ lực để có các nhóm nhỏ các sannyasins toả ra trong mọi nước. Toàn thế giới có thể được biến đổi nếu chúng ta có chỉ vài người ở mọi nơi, những người có thể trở nên rực cháy. Thế thì ngọn lửa của họ sẽ di chuyển như lửa hoang, phá huỷ mọi loại nô lệ và mọi loại xiềng xích và cầm tù - tạo ra bầu trời mới, tự do mới cho con người.
Bạn đúng rồi. Vào thời của Lâm Tế cũng cùng điều này là hoàn cảnh. Toàn thể quá khứ của nhân loại là quá khứ của nô lệ tâm lí, nô lệ vật lí. Chỉ vài người như Phật Gautam hay Lâm Tế hay Ba Tiêu, trong hàng nghìn năm giữa hàng triệu người, đã có khả năng thoát ra khỏi cảnh nô lệ tâm lí. Những người này bao giờ cũng bị xã hội coi là nguy hiểm.
Bây giờ nhiều nghị viện trên thế giới, không xác định được tôi là nguy hiểm thuộc loại nào, vẫn có cảm giác vô ý thức rằng con người này là nguy hiểm và phải không được phép vào nước họ. Họ không biết đích xác họ đang nói tới nguy hiểm gì. Tôi hoàn toàn sửng sốt rằng trong các nghị viện lớn này không một người nêu ra câu hỏi, "Các ông ngụ ý nguy hiểm gì? Người này là nguy hiểm gì với bất kì ai?" Không, điều đó đơn giản được chấp nhận. Người ta coi đương nhiên là, "Người này là nguy hiểm."
Nhưng tôi biết họ đúng. Họ đang gọi tôi là nguy hiểm mà chẳng biết điều đó. Tôi tự gọi mình là nguy hiểm bởi vì tôi biết tôi là nguy hiểm. Tôi đang chuẩn bị cho tình huống còn nguy hiểm cho toàn thể xã hội hơn cả các nhà khoa học hạt nhân đang tạo ra. Vũ khí hạt nhân của họ nhiều nhất có lẽ sẽ không bao giờ được dùng; sớm hay muộn chúng sẽ bị ném vào đại dương. Nhưng tôi đang tạo ra một loại nổ khác toàn bộ - không phải là nổ nguyên tử, mà là nổ của tâm thức vũ trụ. Nếu lửa này lan rộng, đột nhiên bạn sẽ thấy rằng những người lãnh đạo lớn kia chỉ là người thường, cũng như bạn, nhưng là kẻ giả vờ, kẻ mạo danh. Bạn sẽ thấy rằng các vua và nữ hoàng tất cả đều hư huyễn, khai thác xã hội trong hàng nghìn năm. Bạn sẽ thấy rằng các tu sĩ đang dối trá và dối trá liên tục về mọi thứ. Cái nhìn này, nếu nó lan rộng, nhất định tạo ra con người mới và xã hội mới. Con người mới chỉ có thể là người chứng ngộ. Con người mới chỉ có thể là phật.
Và nếu có chỉ vài chư phật trên khắp thế giới, chúng ta có thể tạo ra đám cháy lớn.
Điều đó chưa bao giờ được thử, nhưng nó giống như... không ai biết về năng lượng nguyên tử mãi cho tới khi nó được thử ở Hiroshima và Nagasaki. Không ai có thể hình dung rằng một nguyên tử nhỏ bé mà bạn không thể thấy được lại đang mang nhiều năng lượng tới mức nó có thể phá huỷ một thành phố lớn như Nagasaki, với dân số một trăm nghìn người, hay Hiroshima, một thành phố thậm chí còn lớn hơn. Trong toàn thể lịch sử không ai đã bao giờ mơ rằng nguyên tử đang mang nhiều năng lượng thế.
Giờ tôi đang nói với bạn rằng nếu nguyên tử vật chất có thể bùng nổ và phá huỷ nhiều thế... việc bùng nổ sáng tạo và có ý thức của người sống có thể còn nhiều hơn bao nhiêu nữa. Nó có thể bùng nổ cho hàng triệu người đột nhiên vào kỉ nguyên mới của chứng ngộ.
Tất cả những tiềm năng của họ phải trở thành thực tại. Bạn sẽ thấy hàng nghìn nhà thơ, bạn sẽ thấy hàng nghìn nhạc sĩ, bạn sẽ thấy hàng nghìn nhà điêu khắc, hàng nghìn nhà khoa học người đã ngủ say và đã chỉ là thư kí hay hiệu trưởng - người chưa bao giờ biết rằng tiềm năng của họ là tiềm năng của phật.
Chúng ta phải tạo ra điều tôi gọi là hiệu ứng dây chuyền, hiệu ứng lẩy cò. Bây giờ tất cả các bạn đang ngồi im lặng thế, và tôi có thể cho một cái lẩy cò...
(Thầy làm cử chỉ cù hướng tới Avirbhava người đang la hét. Mọi người cười.)
Trước khi chúng ta làm việc thiền, có vài tiếng cười nhé. Và tiếng cười này có cái đẹp, vì nó không có lí do.
(Tiếng cười tiếp tục.)
Tôi chưa kể chuyện cười đâu nhé!
(Nhiều tiếng cười vui vẻ hơn.)
Bạn đã bao giờ nghe tiếng cười như thế trước chuyện cười chưa? Hôm nay các bạn đã vượt qua Sardar Gurudayal Singh rồi. Ngay cả anh ấy cũng có vẻ phân vân. Giờ yên lặng lại đi, để tôi có thể đọc chuyện cười!
Ông Samosa, một trong những doanh nhân thành công nhất của Pune, là nhà chế tạo chất liệu cao su.
Ông ấy mời khách từ Hội nghị quản lí quốc tế tới thăm cơ xưởng của ông ấy. Một cách đầy tự hào, ông ấy giới thiệu các sản phẩm khác nhau, mọi thứ từ bánh xe kéo cho tới đầu vú chai sữa em bé. Ông ấy đặc biệt tự hào về máy làm bao cao su tự động đầy đủ, với máy thử không rò rỉ đặc biệt.
Bên cạnh máy này, một người đàn ông đang ngồi và cẩn thận đục lỗ trong bao cao su bằng chiếc kim.
"Anh ta đang làm để làm gì vậy?" một trong các vị khách hỏi, "Nó là một phần của kiểm thử chất lượng sao?"
"Không," Samosa đáp một cách tự hào, "chúng tôi đang cố thúc đẩy sinh sản em bé Hindu."
Gertie Gusher đã từng đi lừa quanh những người đàn ông khác, và chồng cô ta, Gary, nhà triệu phú dầu hoả Texas, đem cô ta ra toà và yêu cầu li dị.
"Trên nền tảng nào?" quan toà Grump hỏi. "Huỷ hợp đồng," Gusher đáp.
"Thưa ông," quan toà nói, "ông không sở hữu vợ ông, cho nên ông không thể đối xử với cô ấy như một mảnh tài sản."
"Có thể không," người bán dầu lầu bầu, "nhưng tôi chắc có độc quyền khoan chứ!"
Hai con sâu, Wilbur và Wallace, ở chung một hố dưới đất của sân golf Sunnyvale Golf Course.
Một hôm, chúng lập kế hoạch đi luồn lách qua sân golf, cho nên Wilbur đi trước để xem thời tiết như thế nào.
Vào lúc này, hai người đàn bà đang chơi ngay trên đầu chúng, và một trong số họ thấy cần đi tè khẩn cấp.
"Đừng lo," chị đối tác nói, "không có ai quanh đây cả, chị có thể tè, cứ tè đi." Ngay lúc đó, Wilbur thò đầu ra khỏi hố.
Bị thấm đẫm bởi ngập nước tiểu, Wilbur nhanh chóng luồn xuống đất.
"Tớ thấy trời mưa," Wallace nói với anh bạn ướt sũng.
"Trời chắc chắn mưa rồi," Wilbur đồng ý, vừa lau khô mình với chiếc khăn. "Thực ra, trời mưa nặng tới mức chim làm tổ lộn ngược!"
Bà già Grumblebum, một người giầu có mắc chứng nghi bệnh, đi tới khám bác sĩ để chữa cho bệnh tưởng tượng mới nhất của bà ấy.
Bác sĩ Spook hoàn toàn chán ngán với cái túi già này, và cố bảo bà ấy là bà ấy hoàn toàn khoẻ. Nhưng bà Grumblebum khăng khăng rằng có cái gì đó sai với bà ấy. Thất vọng, bác sĩ Spook bảo bà ấy là ông ta sẽ phải làm vài xét nghiệm, cho nên ông ta đưa cho bà ấy một chén nhựa nhỏ và bảo bà ấy tạo ra mẫu nước tiểu.
Khi bà ấy quay lại năm phút sau, ông ấy tiếp đó yêu cầu bà ấy tạo ra mẫu phân trong cùng cái chén.
"Tốt," Spook nói khi bà Grumblebum quay lại. "Giờ thọc ngón tay của bà vào trong chén, khuấy nó lên và rồi uống tất cả chỗ đó."
Làm một cách vâng lời như bác sĩ bảo mình, bà Grumblebum để đồ pha chế xuống. Ngay lập tức, bà ấy nôn oẹ dữ dội. "Ah-ha!" bác sĩ Spook kêu lên. "Hệt như tôi đã ngờ. Rối loạn dạ dầy!"
Bây giờ, Nivedano... đánh trống.
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Thu lấy tâm thức của bạn, nhận biết của bạn, vào trong tim bạn, tim đỏ của Lâm Tế. Nó có đó vị phật của bạn đang ẩn nấp. Việc khám phá là rất đơn giản. Chỉ đi ngày càng sâu hơn. Đừng sợ vì không có gì để sợ trong thế giới này. Và đặc biệt khi bạn đang đi vào bên trong bạn không gặp bất kì ai trên đường. Bạn sẽ gặp chỉ bản thân bạn. Để việc gặp gỡ này là việc hân hoan, việc về nhà.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi. Buông bỏ. Chỉ là chết. Đây đơn giản là cách để tập trung năng lượng của bạn vào chính trung tâm của bản thể bạn. Khoảnh khắc này bạn là phật. Để khoảnh khắc này trải ra suốt cuộc đời bạn. Cứ liên tục nhắc nhở bản thân bạn rằng bạn là ai. Và việc nhắc nhở này sẽ đem tới cách mạng; không chỉ cho bạn, mà bất kì ai tới quanh bạn đều sẽ cảm thấy cái đẹp, cái duyên dáng, phúc lạc và ngọn lửa. Trong ngọn lửa này mọi thứ là giả đều bị thiêu cháy, và chỉ vàng ròng nở hoa trong cái đẹp vô cùng là còn lại. Điệu vũ nảy sinh trong bạn chẳng vì lí do đặc biệt nào.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại. Ngồi xuống trong vài khoảng khắc nhớ lại không gian bạn đã từng ở.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post