Chương 5. Bạn phải thấy cho bản thân bạn

Chương 5. Bạn phải thấy cho bản thân bạn

Price:

Read more

Phép màu - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 5. Bạn phải thấy cho bản thân bạn
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Đạo Nguyên viết: Các sư tổ kế tiếp truyền trao một cách cá nhân pháp từ thầy sang đệ tử. Không có việc truyền trao cá nhân, không một sư tổ, thầy hay đệ tử nào có thể là phật hay sư tổ. Điều đó cũng dường như chúng ta làm ra vô số con sông nhỏ nối vào một con sông lớn, hay giữ ánh sáng chiếu ra, làm ra vô số ánh sáng cái nọ tiếp cái kia: chung cuộc, chúng trở thành một. Và không có kẽ hở trong vận hành của việc truyền giữa thầy và đệ tử. Cho nên các sư tổ kế tiếp dành cuộc sống hàng ngày của họ cho việc mặt đối mặt với phật Thích ca mâu ni và được quan sát bởi mặt ông ấy. Bao nhiêu ngày họ đã trải qua, ta không biết. Chúng ta nên nghĩ một cách bình thản và vui mừng về điều này. Mắt và mặt họ là của phật vì họ đã cúi chào mặt của phật và đã truyền mắt của ông ấy vào trong mắt riêng của họ, và ngược lại. Chính là qua việc truyền mà mắt và mặt đã được truyền không dừng cho tới bây giờ. Không có kẽ hở trong việc truyền giữa thầy và đệ tử, cũng như một cây leo cuộn quấn quanh cây khác; Điều đó nói lên, chúng ta mở mắt mình và hiện diện chúng với bản thân chúng, chúng tự nhận bản thân chúng. Cùng điều đó cũng có thể được nói về mặt, tâm trí và thân thể chúng ta. Chừng nào đệ tử chưa gặp thầy mình, anh ta không thể được nói là đệ tử; chừng nào thầy chưa gặp đệ tử của mình, ông ấy không thể là thầy. Cả hai người trong họ đã nhận dược việc truyền trao và đã kế tục pháp bằng việc gặp lẫn nhau. Đó là hình tướng của việc truyền của các sư tổ. Do đó, họ có thể chạm trực tiếp tới mặt cao quí của phật. Vào lúc truyền, mặt chúng ta sẽ thay đổi hoàn toàn. Bản thân da sẽ là gương lớn của chư phật, không có tì vết bên trong hay bên ngoài. Gương lớn cho việc truyền tới bản thân gương lớn. Những người đã từng được trao cho mắt đúng, đủ chân thực để thấy Phật Thích ca mâu ni một cách cá nhân, là thân thiết với ông ấy hơn là với bản thân mình. Mọi người, bất kể cái ta hay người khác, người thấy việc truyền đúng hay việc học thực về việc truyền mới này của Như Lai phải gìn giữ nó một cách cẩn thận.
Maneesha, trước khi tôi đi vào trong những phát biểu nghiêm chỉnh này của học giả Đạo Nguyên, tôi muốn Avirbhava trước hết làm lễ khánh thành.
Nó không phải là con gấu, như tôi đã nói hôm qua - vì trên khắp thế giới tôi bị nhiều vụ kiện chống lại tôi, buộc tội tôi làm tổn thương tới tình cảm tôn giáo của mọi người. Và gấu được con người tôn thờ.
Nó thực sự là con lợn. Tôi phải đề nghị Anando nghiên cứu xem liệu tình cảm trái tim ai đó có bị tổn thương không nếu chúng ta khánh thành Bảo tàng các Thần cổ đại đã chết bằng lợn. Avirbhava sẽ là Tổng giám đốc. Cô ấy hoàn toàn sẵn sàng - với tai lợn và đuôi lợn nữa.
(Avirbhava ăn vận theo kiểu tai lợn và đuôi xoăn.)
Về lợn: "Trong thế giới cổ đại lợn được coi như hiện thân của 'Corn Spirit,' thần chết Osiris. Ông ấy là thần Ai Cập lớn của thế giới ngầm dưới đất và là người phán xét về người chết.
Ở Hi Lạp lợn là linh thiêng với Demeter, nữ thần của đất màu mỡ và nông nghiệp. Và ngày nay chúng được coi như linh thiêng ở New Guinea.
Ở Trung Quốc lợn được coi là món cao lương mĩ vị, như ở nhiều nước khác trong quá khứ nữa, về mặt truyền thống được phục vụ trong các bữa tiệc và yến tiệc, nhất là lễ cưới. Trong khi mọi người ăn thịt lợn nướng, họ có thể xem lợn nhồi trong trung tâm của bàn tiệc. Chăm nom tỉ mẩn luôn được dành ra để chọn đầu lợn có mặt dễ chịu.
Lợn đặc biệt là phổ biến ở các đám cưới vì chúng đại diện cho đức hạnh và khả năng sinh sản. Nói chung, ở Trung Quốc, lợn được tôn kính vì chúng đại diện cho vận may tốt."
Cho nên điều tuyệt đối thích hợp cho Avirbhava là khánh thành bảo tàng bằng tay riêng của cô ấy. Avirbhava, đem lợn tới đi... và khánh thành!
(Avirbhava đặt con lợn hồng mềm cuộn mình trên bục và nó tiến hành đi lạch bạch ngang qua phiến đá cẩm thạch ngay trước chân Thầy, tạo ra tiếng kêu ủn ỉn khi mõm và đuôi nó ngoe nguẩy.)
Tốt đấy.
Giờ chúng ta có thể quay sang chuyện nghiêm chỉnh.
Ngay cả việc khánh thành này sẽ làm tổn thương niềm tin tôn giáo của nhiều người, cho nên sẽ có thêm vài trường hợp nữa. Nhưng đây đã là thần cổ đại đúng để khánh thành bảo tàng này, nơi chúng ta sẽ thu thập mọi thần đã chết mà đã từng được tôn thờ bởi nhân loại ngu xuẩn.
Chư phật đã từng bị ép buộc tôn thờ lợn và không ai đã phản đối. Đá, khỉ, voi - bạn đặt tên cho nó, chúng tất cả đều được tôn thờ ở đâu đó nọ kia. Nhưng không có đâu trong toàn thể lịch sử nhân loại mà con người đã được trao cho chân giá trị là thượng đế. Lần đầu tiên tôi ủng hộ việc cho bạn chân giá trị là thượng đế, và tôi muốn bạn làm ra đồ chơi của mọi cái gọi là thượng đế đã được nhân loại tôn thờ. Nó là việc hạ cấp thế, việc sỉ nhục thế. Nhưng con người đã chấp nhận sự nô lệ mà không nổi dậy chống lại nó.
Nếu đám đông tôn thờ lợn, họ đi theo đám đông, vì đám đông cho họ an ninh và ấm cúng và họ đã không có dũng cảm để nổi dậy. Bảo tàng của chúng ta sẽ chuyên dành cho tất cả những kẻ ngốc đó, người đã tôn thờ con vật thay vì tìm kiếm tâm thức siêu nhân riêng của họ, phật riêng của họ; nhìn vào các nhà thờ hồi giáo và giáo đường Do Thái và đền chùa thay vì nhìn vào trong bản thân họ.
Điều đó sẽ tạo ra vấn đề pháp lí, nhưng điều đó không thành vấn đề. Tôi đã đối diện với các vấn đề pháp lí cả đời tôi rồi. Tôi cực kì thích thú cái ngu xuẩn của bộ máy tư pháp trên khắp thế giới. Họ vẫn bảo vệ cho những người có tình cảm bị tổn thương nếu bạn nói cái gì về lợn. Nhân danh tôn giao đủ mọi loại vô nghĩa đã bị áp đặt lên tâm trí con người.
Chức năng cơ bản của tôi là lấy đi mọi cái vô nghĩa này khỏi bạn để cho bạn có thể đi ra trong niềm vinh quang đầy đủ của bạn - vầng trăng tròn, vị phật, đủ lên bản thân bạn. Tôi không dạy bất kì lời cầu nguyện nào, tôi đơn giản dạy thám hiểm thế giới bên trong. Có kho báu; không trong kinh sách, như Đạo Nguyên đang nói.
Đạo Nguyên viết: Các sư tổ kế tiếp truyền trao một cách cá nhân pháp từ thầy sang đệ tử.
Nó là chân lí một nửa, và chân lí một nửa là nguy hiểm hơn dối trá. Dối trá ít nhất cũng đầy đủ. Chân lí một nửa là rất nguy hiểm vì chúng che giấu dối trá đằng sau chúng, cho nên trên bề mặt có vẻ dường như cái được phóng chiếu là đúng.
Điều ông ấy đang nói - rằng các sư tổ kế tiếp truyền trao một cách cá nhân pháp từ thầy sang đệ tử - có chút ít chân lí trong đó. Điều đó đã từng là vậy với phần lớn các thầy, rằng họ đã nhận được điều tinh tuý, kinh nghiệm, trong sự hiện diện của thầy. Nó đã từng là việc truyền trao giữa hai năng lượng. Nhưng nó không là nguyên lí tuyệt đối mà ông ấy đang làm ra: Không có việc truyền trao cá nhân, không một sư tổ, thầy hay đệ tử nào có thể là phật hay sư tổ.
Điều này hiển hiên là ngu xuẩn thế - vì ai là thầy của bản thân Phật Gautam? Ông ấy đã nhận được truyền trao từ đâu?
Theo Đạo Nguyên ông ấy cần có thầy - nhưng ông ấy đã không có thầy nào cả. Nó chỉ là chân lí một nửa. Nhưng nửa kia là quan trọng hơn, bởi lẽ đơn giản rằng bạn có thể không tìm ra thầy, nhưng linh hồn vũ trụ bao giờ cũng sẵn có ở mọi nơi.
Người thực sự dũng cảm đơn giản lấy cú nhảy vào trong bản thể vũ trụ mà không bị đẩy bởi thầy. Nó đơn giản tuỳ thuộc vào dũng cảm của bạn.
Là phật là quyền tập ấm của bạn. Chỉ chút ít dũng cảm và bạn có thể tuyên bố bản thân bạn là phật. Nhưng tâm trí do dự, tâm trí nghĩ cả nghìn lẻ một thứ - cái gì sẽ xảy ra cho việc hút thuốc của tôi? Về bạn gái thì sao? Và về số dư ngân hàng thì sao?
Những điều nhỏ bé này tôi cho phép bạn có. Bạn có thể là phật và hút thuốc - điều đó sẽ chỉ đơn giản chỉ ra rằng bạn là phật ngu! Nhưng ngu hay không ngu, không ai có thể lấy đi phật tính của bạn được. Bạn có thể có bạn gái - ngay cả Sardar Gurudayal Singh cũng đang có các bạn gái và anh ấy là phật nổi tiếng, cổ đại. Tôi không nghĩ bản thân anh ấy biết anh ấy già thế nào! Nhưng không có thời gian cho anh ấy già đi. Bạn gái liên tục giữ cho anh ấy tham gia, anh ấy không có thời gian để già đi. Người ta cần thời gian để già đi.
Tôi cho phép các bạn với mọi nhân nhượng mà bạn muốn, trừ vô nhận biết; điều đó tôi không thể cho phép được vì đó là nền tảng cho phật tính. Nếu bạn tỉnh táo và nhận biết và ý thức thì không cần bất kì thầy nào. Năng lượng vũ trụ bản thân nó truyền ánh sáng, mũi tên xuyên thấu vào chính trung tâm của bạn, và bạn trở nên được kết nối với cái toàn thể.
Thầy là cửa sổ nhỏ từ đó bạn có thể thấy bầu trời sao. Nhưng điều đó không có nghĩa là đầu tiên bạn cần cửa sổ, chỉ thế thì bạn mới có thể thấy đêm sao. Tại sao bạn không bước ra khỏi cửa ra vào?
Mulla Nasruddin chết... nấm mồ của ông ấy vẫn tồn tại ở Iran. Ông ấy thường mang cửa nhà mình tới bất kì chỗ nào ông ấy đi, và mọi người sẽ hỏi, "Có chuyện gì vậy? Sao ông mang tấm biển đó? Ông đã trở thành người Ki tô giáo rồi sao?" Nhưng ngay cả Christ cũng chỉ mang cây chữ thập, không phải cái biển. "Nó là cải tiến gì đó với cây chữ thập sao?"
Ông ấy nói "Không, nó chỉ là biện pháp an ninh. Không ai có thể vào trong nhà tôi ngoại trừ đi qua cánh cửa này. Cho nên tôi mang luôn cánh cửa."
Khi ông ấy chết các đệ tử của ông ấy tự hỏi phải làm gì với cánh cửa. Ông ấy đã để lại một lời viết trong đó ông ấy nhắc nhở điều đó: "Cứ để cánh cửa đó trước mồ tôi, khoá nó lại và để khoá vào tay tôi bên trong nấm mồ."
Chúng vẫn còn đó, cánh cửa và nấm mồ; và bộ xương phải có chìa khoá. Ông ấy đang nói, "Nếu cửa bị đóng và chìa khoá ở chỗ tôi, không ai có thể quấy rối giấc ngủ của tôi mãi cho tới ngày phán xử, không ai có thể vào trong nấm mồ." Ông ấy đã lấy biện pháp an ninh. Ngay cả sau cái chết, cánh cửa vẫn bị khoá. Bạn có thể cho rằng điều đó dường như là ngu xuẩn hoàn toàn, nhưng người này đang cười bạn trong mọi hành động của người đó, mọi phát biểu của người đó.
Hành động này cũng đơn giản là cười vào cái ngu xuẩn của bạn. Bạn nghĩ gì về an ninh của bạn, số dư ngân hàng của bạn? Bạn có thể phá sản. Bạn nghĩ gì về an ninh của bạn, chồng bạn, vợ bạn? Nếu người nào trong các bạn đủ thông minh, người đó sẽ trốn mất.
Không có an ninh. Cho dù bạn mang cánh cửa vẫn không có an ninh; thực ra nó làm cho bạn mong manh hơn. Trộm không bận tâm về việc vào qua cửa này. Thực ra họ không bao giờ vào qua cửa; họ chỉ làm cái lỗ trên tường theo cách riêng của họ.
Nhưng phần khôi hài nhất là...một đêm mùa đông lạnh lẽo một kẻ trộm mò vào nhà Mulla Nasruddin. Mulla Nasruddin mở một mắt ra và nhìn vào tên trộm. Tên trộm bắt đầu run - người ngủ mà có một mắt mở? Giờ anh ta không thể đi vào, thậm chí không thể đi ra. Anh ta sợ quá, nhưng Mulla nói, "Đừng lo, ta tới cùng ông."
Anh ta nói, "Ở đâu?"
Mulla nói, "Vào trong nhà nơi ông định đi."
Tên trộm nói, "Ông dường như điên! Tôi là kẻ trộm!"
Mulla nói, "Ta không quan tâm ông là ai. Trong ba mươi năm qua ta đã từng nhìn quanh trong ngôi nhà này, và ta chưa bao giờ thấy cái gì. Giờ chúng ta làm đối tác đi - bất kì cái gì được tìm thấy chúng ta chia năm mươi-năm mươi. Ông đến đúng lúc đấy, vì ta đang trở nên chán nản." Tên trộm nói, "Trời ơi!"
Nhưng anh ta phải đi vào, và chẳng có gì. Mulla đi theo anh ta cùng chiếc đèn để chỉ cho anh ta đường đi ở mọi nơi. Tên trộm muốn trốn bằng cách nào đó, vì với chiếc đèn Mulla sẽ thấy mặt anh ta. Sáng mai cả thành phố sẽ biết rằng anh ta là kẻ trộm.
Mulla nói, "Đừng lo, đó là lí do tại sao ta đã mở chỉ một mắt. Ta không nhìn vào ông. Mối quan tâm của ta là việc làm đối tác của chúng ta."
Anh ta nói, "Đối tác gì vậy? Không có gì để tìm ra cả."
Nasruddin nói, "Đó là điều ta đã cố gắng nói cho ông, nhưng ông không chịu nghe."
Tên trộm nói, "Tôi muốn đi!"
Nasruddin nói, "Đi đâu?"
"Tôi đi về nhà tôi."
Nasruddin nói, "Tôi cũng đi cùng. Các đối tác phải sống cùng nhau chứ!"
Tên trộm nói, "Trời, đây là khó khăn. Tôi có vợ."
Nasruddin nói, "Đừng lo về điều đó, ta sẽ chăm nom cô ấy. Ông chỉ làm việc của ông và ta sẽ chăm nom cho vợ ông."
Người này, người có ngôi nhà trống rỗng đang mang cánh cửa đi khắp nơi, bất kì chỗ nào người đó đi, đang nêu ra một phát biểu theo cách riêng của người đó. Con người của thông minh mênh mông. Người đó đang nói rằng chỉ duy nhất cánh cửa và không cái gì khác. Cứ nhìn qua cánh cửa này và toàn thể bầu trời mở ra. Bằng việc mang theo cánh cửa người đó đang nói rằng người đó là thầy, cánh cửa tới tính thiêng liêng. Nhưng người đó là người duy nhất.
Đạo Nguyên vẫn là một học giả. Tôi tự hỏi làm sao ông ấy không thể thấy được điểm đơn giản khi ông ấy nói:
Không có việc truyền trao cá nhân, không một sư tổ, thầy hay đệ tử nào có thể là phật hay sư tổ.
Về phật thứ nhất thì sao? Và nếu điều đó có thể xảy ra cho Phật Gautam mà không có thầy nào, tại sao nó không thể xảy ra cho bất kì ai khác?
Trở nên chứng ngộ là quyền tập ấm của mọi người, nó không là độc quyền của các Phật. Những phát biểu này chỉ ra rằng Đạo Nguyên vẫn đang học kinh sách. Ông ấy chưa là phật.
Cuối cùng ông ấy đã trở thành phật, sau khi ông ấy đã đi lạc lối không cần thiết mang tải trọng kinh sách Phật giáo. Cuối cùng, khi ông ấy được kết thúc và chán ngán với kinh sách và bỏ chúng, ông ấy đã ngạc nhiên nhận ra rằng từ chính lúc bắt đầu đã không cần tìm kiếm. Bạn là nó. Người tìm kiếm là mục đích. Nếu bạn liên tục tìm các mục đích khác, bạn đang đi xa khỏi bản thân bạn. Việc tìm kiếm phải dừng lại.
Điều đó, Đạo Nguyên nói, cũng dường như chúng ta làm ra vô số con sông nhỏ nối vào một con sông lớn, hay giữ ánh sáng chiếu ra, làm ra vô số ánh sáng cái nọ tiếp cái kia: chung cuộc, chúng trở thành một.
Một phần ông ấy đúng, nhưng chỉ bộ phận thôi. Nhưng chư phật không làm phát biểu bộ phận. Phát biểu của họ là tuyệt đối dứt khoát.
Và không có kẽ hở trong vận hành của việc truyền giữa thầy và đệ tử. Cho nên các sư tổ kế tiếp dành cuộc sống hàng ngày của họ cho việc mặt đối mặt với phật Thích ca mâu ni và được quan sát bởi mặt ông ấy.
Bây giờ vào thời của Đạo Nguyên, Thích ca mâu ni Phật Gautam đã chết được một nghìn năm trăm năm. Ông ấy ngụ ý gì bởi việc mặt đối mặt sống với Phật Thích ca mâu ni? Ông này chỉ có tượng đá, chết hoàn toàn.
Trong làng của tôi đã có, ở rất gần nhà tôi, một ngôi đền của Shiva, và Shiva được biểu thị bằng Shivalinga. Bạn phải đã thấy các ngôi đền Shiva: chỉ là bất kì tảng đá tròn đẹp nào được đặt vào và đó là Shivalinga, điều có nghĩa là, "Chim của Thần Shiva." Bây giờ những người sùng kính Shiva đang tới để được bốc đồng, nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi đơn giản dịch từ `Shivalinga'.
Bố của một trong những người bạn tôi sống ở ngay trước cái đền đó, và ông ấy đã là người sùng kính lớn lao của Shiva. Tôi bảo ông ấy, "Bác đang làm phí thời gian của bác. Shiva đó tuyệt đối vô giá trị." Ông ấy nói, "Mày ngụ ý gì? Mày làm tổn thương tình cảm tôn giáo của tao."
Tôi nói, "Đó sẽ là nghề của cháu trong cả đời cháu. Đây chỉ mới là bắt đầu. Cháu đã thấy chuột đái vào Shiva của bác. Ông ấy không thể làm gì được với chuột, ông ấy sẽ làm gì cho bác?" Ông ấy giận tới mức ông ấy bảo tôi, "Mày cút ngay khỏi nhà này!"
Tôi nói, "Cháu sẽ cút, dù bác có nói điều đó hay không. Nhưng bất kì khi nào cháu đi tới ngôi đền này cháu sẽ đứng đó bên cạnh bác, quan sát cái ngu xuẩn của bác. Cháu sẽ không nói một lời, nhưng bác sẽ hiểu tại sao cháu đứng đó." Ông ấy nói, "Mày là đứa trẻ kì lạ."
Từ hôm đó, trong gần sáu tháng, tôi theo ông ấy một cách đều đặn. Bất kì khi nào ông ấy đi vào đền ông ấy sẽ nhìn khắp xung quanh. Tôi có thể thấy ngôi đền từ nhà tôi, cho nên ngay lập tức tôi sẽ đi vào và đứng đó mà không nói một lời. Và ông ấy sẽ nói, "Trời, mày đã tới sao?"
Tôi nói, "Tốt hơn cả là chấm dứt cái ngu xuẩn này đi. Bác không thấy nhiều chuột thế trong ngôi đền này sao?"
Ông ấy nói, "Điều đó thì đúng. Và cũng đúng là tao đã thấy những con chuột này đái lên khắp Shiva. Nhưng đây chỉ là bức tượng, một đại diện, một biểu tượng của Shiva thực." Tôi nói, "Bác đã thấy Shiva thực chưa? Ông ấy có phải chỉ là cái chim không?" Ông ấy nói, "Nghe đây! Mày không được phép tới nhà tao thêm nữa!"
Tôi nói, "Cháu không có ý định. Nếu bác thôi tới ngôi đền này, cháu sẽ thôi tới nhà bác. Đó là một thoả thuận. Nhưng nếu bác tới ngôi đền này, không ai có thể ngăn cản cháu tới nhà bác và khiêu khích bác. Cháu sẽ làm mọi thứ để làm cho bác nhận biết rằng bác là kẻ rất ngốc."
Ông ấy nói với con trai, "Con bỏ tình bạn với thằng này đi, vì thằng này sẽ làm hư hỏng con. Nó đang làm hư hỏng bố, vì đôi khi bố bắt đầu nghĩ rằng có lẽ bố ngu thật. Trên mọi nền tảng hợp lí thằng nhóc này là phải. Bố chưa từng thấy Shiva, và bố chưa bao giờ bận tâm về nghĩa của Shivalinga."
Ông ấy nói, "Mày đã bắt đầu tới trong mơ của tao."
Tôi nói, "Nếu bác ngăn cản cháu tới nhà bác, thế thì đó là cách duy nhất cháu có thể đánh thức bác dậy."
Ông già này chung cuộc quyết định không đi tới ngôi đền này nữa. Ông ấy đi sang ngôi đền khác, nhưng đó là ngôi đền về thần voi. Điều đó tạo ra khác biệt gì?
Đạo Nguyên đang nói về Phật Thích ca mâu ni dường như Phật đang sống và bạn đang quan sát ông ấy.
Chắc chắn có nhiều tượng Phật Gautam trên thế giới hơn bất kì ai khác. Và phát biểu cuối cùng của ông ấy trước khi ông ấy chết đã là, "Đừng làm bất kì tượng nào của ta, vì ta sẽ không ở trong tượng đá đâu." Nhưng cũng như chẳng ai nghe theo thầy...
Họ chống lại việc làm tượng trong ba trăm năm, nhưng thế rồi chung cuộc họ đã từ bỏ. Đầu tiên họ bắt đầu tôn thờ nấm mồ của Phật Gautam, nhưng tôn thờ nấm mồ chẳng vui vẻ gì cho mấy. Thế rồi ai đó gợi ý tôn thờ cái cây mà Phật Gautam đã ngồi dưới trở nên chứng ngộ. Đó là ý tưởng tốt hơn, cây ít nhất là hiện tượng sống... cây đẹp với tán lá lớn. Nhưng sau rốt, cây là cây, nó không thể là cái thay thế cho Phật Gautam. Không cái gì có thể là cái thay thế ngoại trừ tâm thức riêng của bạn. Tất cả những phát biểu này do Đạo Nguyên làm ra đơn giản chỉ ra rằng ông ấy không biết.
Bao nhiêu ngày họ đã trải qua, ta không biết. Chúng ta nên nghĩ một cách bình thản và vui mừng về điều này. Mắt và mặt họ là của phật vì họ đã cúi chào mặt của phật và đã truyền mắt của ông ấy vào trong mắt riêng của họ, và ngược lại. Chính là qua việc truyền mà mắt và mặt đã được truyền không dừng cho tới bây giờ. Không có kẽ hở trong việc truyền giữa thầy và đệ tử, cũng như một cây leo cuộn quấn quanh cây khác; Điều đó nói lên, chúng ta mở mắt mình và hiện diện chúng với bản thân chúng, chúng tự nhận bản thân chúng. Cùng điều đó cũng có thể được nói về mặt, tâm trí và thân thể chúng ta.
Tôi nói với bạn rằng nó là chân lí một nửa. Đúng là nếu bạn đang sống với một thầy sống - không với tượng - thế thì nhìn thẳng vào mắt thầy hay chỉ quan sát sự hiện diện của thầy, cử chỉ của thầy, bạn sẽ thấy nhận biết vận hành thế nào. Và khi bạn trở nên ngày càng nhận biết hơn về thầy của mình, đồng thời bạn sẽ trở nên nhận biết về bản thân bạn.
Thầy chung cuộc chứng tỏ là tấm gương. Trong gương bạn có thể thấy mặt bạn - mặt nguyên bản của bạn, không phải là mặt được tô vẽ, cái mà xã hội đã trao cho bạn. Bạn có thể thấy trái tim nguyên bản của bạn - không phải là trái tim thường để bơm máu trong thân thể, mà là trái tim nguyên bản đang ẩn đằng sau nó.
Quan sát thầy của bạn trong cuộc sống hàng ngày của thầy, cái gì đó được truyền trao. Năng lượng nào đó, ánh sáng nào đó, hương thơm nào đó đạt tới bạn, nhưng nó không thể xảy ra được với bức tượng.
Có nhiều đền chùa Phật giáo ở Trung Quốc, ở Nhật Bản, ở Ấn Độ. Phật tử đã biến mất khỏi Ấn Độ, nhưng tất cả những chỗ đẹp như Ajanta đều không là gì ngoài tượng Phật Gautam ở những tư thế khác nhau: ngồi, nằm, đứng, ngủ, thức.
Và ở Trung Quốc Phật tử đã làm điều gần như không thể được. Có ngôi chùa mang tên, "Chùa mười nghìn chư phật." Toàn thể quả núi đã được khắc thành mười nghìn chư phật. Đầu tiên toàn thể sườn núi được tạc thành những cái hang lớn. Thế rồi các bức tượng được tạc trong những cái hang che bóng đó. Chắc phải mất hàng nghìn năm với hàng nghìn thợ điêu khắc, và có tiềm năng rất khéo léo, vì những tượng này đẹp thế.
Nhưng đó là nỗ lực vô tích sự. Vào lúc bạn có thể tạc phật trên đá cẩm thạch, trong chính thời gian đó bạn có thể trở thành phật một nghìn lần. Cho nên tôi coi nó là việc tuyệt đối phí hoài thời gian.
Chừng nào đệ tử chưa gặp thầy mình, anh ta không thể được nói là đệ tử;
Hiển nhiên. Các học giả ngu xuẩn thế. Nếu đệ tử đã không gặp thầy, hiển nhiên rằng anh ta không là đệ tử. Đệ tử tồn tại chỉ trong tham chiếu tới thầy. Thầy có thể một mình, thầy không phụ thuộc vào đệ tử. Tính thầy của ông ấy chỉ phụ thuộc vào việc thức tỉnh riêng của ông ấy. Nhưng đệ tử không thể là đệ tử theo cách riêng của mình được; người đó phải ở trong tin cậy sâu sắc, trong tình yêu với ai đó đã đạt tới nhà.
Ông ấy đang nói điều đó đúng, nhưng ông ấy dường như không biết rằng vào thời đó Phật đã chết được mười lăm thế kỉ rồi - và giờ là hai mươi nhăm thế kỉ. Đạo Nguyên không thể là đệ tử của Phật được. Tất cả các Phật tử đang sống trong ảo tưởng rằng họ là đệ tử của Phật. Bạn cần thầy sống để truyền trao việc toả sáng đánh thức phật tính đang ngủ của bạn. Không tượng nào có thể làm được điều đó.
Do đó, họ có thể chạm trực tiếp tới mặt cao quí của phật.
Ông ấy vẫn nói về tượng. Không đệ tử nào sẽ dám chạm vào mặt Phật khi ông ấy đang sống.
Phương Đông biết rằng tầm với của đệ tử là tuỳ vào bàn chân của thầy. Có khoa học chắc chắn trong điều đó. Khi đệ tử chạm bàn chân thầy, thầy chạm đầu đệ tử; nó trở thành vòng tròn. Từ bàn chân năng lượng đi vào trong đệ tử và từ tay năng lượng đi vào trong đệ tử. Và đâu đó ở trung tâm trái tim của đệ tử, năng lượng của thầy tạo ra đủ lửa để đánh thức tiềm năng đang ngủ của đệ tử.
Việc chạm bàn chân thầy không phải là cử chỉ của lòng biết ơn. Nó có khoa học tinh tế về điều đó. Nhưng bạn có thể chạm mặt cao quí của phật chỉ nếu Phật của bạn là tượng đá. Và nhân tiện, tôi phải nhắc bạn rằng mặt Phật trong tượng không phải là mặt của ông ấy đâu. Vì Phật đã được sinh ra ở biên giới của Nepal và Ấn Độ, có thể nhất ông ấy là người Nepal - nó ở ngay trên đường biên giới nơi hai nước gặp gỡ - ông ấy không thể có mặt này xuất hiện trong các tượng.
Bởi trùng hợp kì lạ, khi tượng của ông ấy lần đầu tiên được làm ra, Alexander Đại đế đang tới thăm Ấn Độ. Chính mặt của Alexander Đại đế đã gây hứng khởi cho các nhà điêu khắc. Chắc chắn mặt Hi Lạp có cái đẹp riêng của nó, và Alexander là một trong những người đẹp nhất mà trái đất đã từng thấy. Cho nên mặt bạn thấy trên Phật thậm chí không phải là của ông ấy.
Vào những ngày đó đã không có nhiếp ảnh, cho nên rất dễ dàng đặt đầu của bất kì ai vào thân thể của bất kì ai khác. Ngay cả thân thể cũng dường như không phải là của Phật. Nó dường như là cao hai mét mốt; người Nepal không cao được đến thế. Ngay cả ở Ấn Độ cao hai mét mốt là rất, rất hiếm. Mà Phật cũng không có vẻ lực sĩ như thân thể này dường như vậy; ông ấy đã liên tục tự hành hạ mình trong sáu năm, thân thể chắc phải trở thành chỉ bộ xương.
Tượng là tuyệt đối giả. Và bằng việc chạm vào mặt tượng này, bạn không thể có được việc truyền trao nào. Nếu bạn làm, nó là tưởng tượng, nó là ảo giác. Bạn đang tự lừa bản thân mình.
Vào lúc truyền, mặt chúng ta sẽ thay đổi hoàn toàn. Bản thân da sẽ là gương lớn của chư phật, không có tì vết bên trong hay bên ngoài. Gương lớn cho việc truyền tới bản thân gương lớn.
Thỉnh thoảng ông ấy nói cái gì đó hay. Ông ấy là học giả lớn vào lúc ông ấy làm ra những phát biểu này. Đúng là khi việc truyền trao xảy ra giữa thầy và đệ tử, mặt của đệ tử bắt đầu thay đổi sang duyên dáng mới, cái đẹp mới, từ bi mới, tình yêu mới, niềm vui mới, điệu vũ mới. Người đó bắt đầu phản xạ bản thể của thầy trên qui mô nhỏ hơn.
Nhưng điều đó là có thể chỉ nếu thầy là sống. Tôi chống lại mọi tượng, vì chúng là lừa dối, chúng đang lừa hàng triệu người, những người có thể đã từng tìm kiếm chân lí. Mọi cột mốc đều chỉ ra cho họ con đường hướng tới ngôi đền hay giáo đường hay nhà thờ hồi giáo. Con đường là vào bên trong, không đi ra ngoài.
Một thầy Sufi lớn được biết đã trải qua việc truyền trao lớn. Tên ông ấy là Junnaid. Ông ấy là thầy của al-Hillaj Mansoor. Al-Hillaj Mansoor nổi tiếng hơn với thế giới vì ông ấy đã bị đóng đinh như Jesus, nhưng theo cách tàn ác hơn. Ông ấy bị xẻo từng phần - cách Mĩ, theo trả góp.
Junnaid là người rất nghèo. Và tương truyền là chừng nào ít nhất một lần trong đời bạn mà chưa làm cuộc hành hương tới Mecca, nơi tảng đá Kaaba đại diện cho chỗ của Mohammed... Chính từ tảng đá đó, vẫn ngồi trên ngựa, ông ấy đơn giản thăng lên thiên đường và đem theo cả ngựa nữa. Nếu bạn là người Mô ha mét giáo đích thực, bạn phải tới thăm chỗ đó ít nhất một lần trong đời bạn. Cho nên ngay cả người Mô ha mét giáo nghèo nhất cũng dành dụm tiền, bán nhà của họ, nông trại của họ, vì điều tuyệt đối cần thiết là trước khi chết họ phải đi tới Kaaba.
Junnaid đã già đi và ông ấy rất nghèo, cho nên ông ấy vay mượn tiền bạc từ hàng xóm. Không ai từ chối vì tiền là dành cho cuộc hành trình tới Kaaba; và mọi người đều được bảo rằng nếu bạn ủng hộ người Mô ha mét giáo trên đường hành hương của người đó, bạn cũng tham gia vào trong đức hạnh của cuộc hành hương lớn. Cho nên mọi người đã cho ông ấy tiền, cho ông ấy chút thức ăn, quần áo, để cho ông ấy có thể đi được. Ông ấy phải du hành... nhưng mọi người ngạc nhiên: ngày hôm sau ông ấy quay lại. Người ta đã mong đợi rằng ông ấy sẽ quay lại trong sáu tháng, ba tháng đi và ba tháng về. Thế này là quá chóng! - mọi người không thể tin được điều đó. Và nữa, ông ấy có vẻ tuyệt đối được biến đổi, rạng ngời thế, phúc lạc thế. Họ nói, "Điều gì đã xảy ra?" Junnaid nói, "Đích thân Kaaba đã tới gặp ta bên ngoài làng."
Họ nói, "Điều này cực kì vô nghĩa. Tảng đá lớn đó sao?" Nó là một thiên thạch đã rơi xuống từ trên trời... khổng lồ.
Họ hỏi ông ấy, "Ít nhất cũng nói cho chúng tôi chi tiết cái gì thực sự đã xảy ra."
Một thầy Sufi, Bayazid, đang ngồi dưới một cây tại ngã tư đường bên ngoài làng. Junnaid hỏi ông ấy, "Tôi nên đi đường nào? Tôi muốn tới Kaaba vào thời gian hành hương." Vào một thời gian nào đó mọi người Mô ha mét giáo từ khắp thế giới cố gắng đi tới Kaaba.
Bayazid nói, "Vô nghĩa! Đem tất cả tiền của ông ra đây!" Và ông này nói điều đó với thẩm quyền tới mức Junnaid đáng thương dốc hết tiền mình đã vay mượn ra.
Và Bayazid nói, "Không cần đi đâu cả! Làm bẩy vòng tròn quanh ta. Ta là Kaaba!"
Ban đầu Junnaid không thể tin được điều đó, nhưng làm gì đây? Người này như thế... mắt người đó xuyên thấu thế, sự hiện diện của người đó thơm ngát thế. Ông ấy đi vòng quanh ông này bẩy lần, như người Mô ha mét giáo được giả định phải đi vòng quanh tảng đá Kaaba bẩy lần.
Và Bayazid nói, "Bây giờ đưa cho ta tất cả các lương thực dự trữ ông có cho cuộc hành trình và về nhà đi! Cuộc hành hương của ông được hoàn thành rồi."
Ông ấy có thể cảm thấy rằng cái gì đó đã thay đổi. Ông ấy không còn là người cũ, người đã tới chỉ vài phút trước đây. Cho nên ông ấy nói với dân làng, "Tôi đã gặp một người nói, 'Ta là Kaaba!' và ông ấy lấy mọi lương thực dự trữ của tôi và mọi tiền bạc của tôi và bảo tôi đi vòng quanh bẩy vòng." Vài người cười to. Những người ngu cười, nhưng những người trí huệ đã hiểu vì họ có thể thấy biến đổi đã xảy ra.
Không thành vấn đề người đó là ai, nhưng chắc chắn người đó là con người của việc nhận ra. Chỉ đi quanh người đó bẩy lần, đích thân Junnaid trở thành thầy.
Nhưng điều đó không thể xảy ra bởi việc đi quanh tảng đá bẩy hay bẩy trăm hay bẩy nghìn lần.
Những người đã từng được trao cho mắt đúng, đủ chân thực để thấy Phật Thích ca mâu ni một cách cá nhân,
Bây giờ ông ấy đang nói điều vô nghĩa làm sao! Phật đã chết mười lăm thế kỉ trước, bây giờ không có cách nào để kết nối một cách cá nhân với ông ấy. Vâng, bạn có thể kết nối với ai đó khác người vẫn còn sống và có cùng hương vị của phật tính. Nhưng ông ấy không nói về điều đó, ông ấy đang nói về phật đá.
Mọi người, bất kể cái ta hay người khác, người thấy việc truyền đúng hay việc học thực về việc truyền mới này của Như Lai phải gìn giữ nó một cách cẩn thận.
Từ 'học' chỉ ra rằng Đạo Nguyên vẫn là một học sinh, một học giả, mặc dầu ông ấy đang nói dường như ông ấy biết. Trong thế giới bạn sẽ bắt gặp những người đang nói về Thượng đế dường như họ biết, và hàng triệu người tin vào họ. Dường như tâm trí chúng ta đã sống lâu trong cảnh nô lệ tới mức chúng ta đã quên mất ngay cả việc hỏi. Đạo Nguyên không được bảo cho rằng điều ông ấy đang nói tới là vô nghĩa cực kì.
Kẽ hở mười lăm thế kỉ không thể được lấp đầy. Bạn phải tìm một phật sống. Tất nhiên, phật sống sẽ có cùng hương vị và cùng phúc lạc và cùng hào quang và cùng năng lượng như Phật Gautam nguyên gốc. Nhưng điều này là có thể chỉ với một thầy sống.
Việc tìm chân lí về căn bản là việc tìm thầy sống. Rất hiếm khi bạn có thể tìm ra con đường mà không có thầy. Nhưng tôi cho phép ngoại lệ. Tôi cho phép ngoại lệ bởi vì bản thân tôi chưa bao giờ có bất kì thầy nào.
Tôi đã gặp nhiều cái gọi là thầy, nhưng họ tất cả đều muốn gạt bỏ tôi, vì sự hiện diện của tôi là nguy hiểm thế cho sự kính trọng của họ. Tôi nêu ra các câu hỏi mà họ không thể trả lời được. Các đệ tử khác bắt đầu biến mất, và họ sẽ nói, "Xin anh đi đi và tìm ai đó khác; đừng quấy rầy đệ tử của chúng tôi. Họ không bao giờ hỏi những câu hỏi như thế trước khi anh tới; giờ họ đã bắt đầu hỏi những câu hỏi kì lạ mà chúng tôi không biết gì về chúng."
Trên khắp thế giới có nhiều người giả vờ rằng họ biết. Nhưng bạn có thể thấy trong mắt họ, trong cử chỉ của họ, trong im lặng của họ, trong lời của họ, liệu họ biết hay họ chỉ là băng ghi âm, trích dẫn kinh sách.
Điều đó không rất khó - chỉ gãi một chút ít và bạn sẽ thấy học giả và kinh sách. Họ không thể truyền được chân lí, họ không thể giúp bạn mở cánh cửa tới sự tồn tại; họ chỉ có thể tạo ra đức tin trong bạn vào thượng đế chết nào đó, vào nhà tiên tri chết nào đó. Họ là an ủi lớn, nhưng an ủi không phải là cách mạng.
An ủi là rất nguy hiểm. Nó ngăn cản bạn khỏi tìm kiếm nhiều hơn, nó ngăn cản bạn khỏi tìm kiếm sâu hơn. Một nhà thơ Thiền đã viết:
Ta dự định truyền nó cho ông,
nhưng ông không thể nhận được nó.
Ông có thể khát khao bắt chước ta,
Điều này cũng không thể thành công.
Nếu ông quay lại có chủ định,
ông là người đang xía vô;
Nếu ta bỏ ông, ông sẽ
nghĩ ta thiếu tình cảm.
Đây là lời của thầy. Ông ấy đang nói, "Nếu ông quay đi theo cách riêng của ông, ông đang bỏ lỡ cơ hội. Nếu ta quay đi khỏi ông, ta không từ bi." Và chính điều bản chất trong việc là phật là có từ bi.
Nhưng bạn không thể bắt chước tôi và bạn không thể có ý định có nó được truyền cho bạn; mà bạn cũng không thể lấy được nó. Nó không phải là cái gì đó mà có thể được cho. Nó không phải là cái gì đó phải được tìm thấy ở đâu đó. Nó chỉ là phật ngủ thức dậy, hệt như mọi sáng bạn thức dậy trên bề mặt. Một ngày tới khi bạn thức dậy trong chính cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn, và một khi việc thức dậy đó đã xảy ra bạn không bao giờ mất nó. Jakuan đã viết:
Giai điệu hoàn hảo - như gió
luồn giữa rặng thông ở dốc xa.
Tâm trí là bầu trời được gột sạch:
Nghe nó bên ngoài bản thân nó.
Đây là những người của thiền, người của con đường. Họ không trích dẫn kinh sách, nhưng lời của họ trở thành kinh sách. Nhà thơ Thiền khác:
Ông phải nhìn cho bản thân ông
Hoa sậy ngập
trong ánh trăng.
Bạn không thể tin được vào mắt của ai đó khác; Ông phải nhìn cho bản thân ông hoa sậy ngập trong ánh trăng.
Cái đẹp tới mức không mô tả nào có thể là thích hợp. Không giải thích nào là có thể.
Cùng điều đó là đúng trên qui mô lớn hơn nhiều và rộng hơn nhiều về bản thể riêng của bạn: bạn phải nhìn cái đẹp của nó bằng con mắt riêng của bạn. Đừng bao giờ có đức tin vào bất kì ai ngoại trừ bản thân bạn. Có tin cậy vào bản thân bạn, và nếu tin cậy đó tìm ra cách thức và bạn rơi vào trong tình yêu với năng lượng nào đó, với thầy nào đó... Đừng làm bất kì nỗ lực nào, chỉ để nó xảy ra một cách im lặng, không gây tiếng động bước chân nào.
Nếu bạn may mắn bạn có thể tìm thấy người nào đó. Nhưng đừng cảm thấy thiếu thốn nếu bạn không thể tìm ra thầy; tâm linh vũ trụ là sẵn có cho bạn một cách trực tiếp. Chỉ chút ít dũng cảm hơn... Hoặc chút ít dũng cảm hơn hoặc một thầy - cả hai là có thể vào bất kì lúc nào, vào bất kì thời đại nào.
Maneesha đã hỏi:
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Thầy không phải là ngoại lệ với điều Đạo Nguyên nói sao - trong đó thầy đã không có việc truyền trao cá nhân từ một thầy?
Tôi có việc truyền trao từ bản thân vũ trụ. Trăng đã tới cửa sổ của tôi theo cách riêng của nó.
Khi thầy không có thầy, làm sao thầy bị cù?
Tôi bị cù bởi đệ tử của tôi. Bạn có muốn có cảm giác cù chút ít không?
Vào ngày kỉ niệm đám cưới lần thứ năm mươi ông già bình thường Hamish MacTavish quyết định chiêu đãi vợ mình, Maggie, bằng việc đưa bà ấy đi ăn trưa tại nhà hàng Bawling Bagpipe.
Họ đặt thức ăn, và khi thức ăn tới Hamish bắt đầu ăn - nhưng Maggie chỉ ngồi đó nhìn.
Người phục vụ trở nên lo lắng, và cứ lượn đi lượn lại chỗ đôi già này. "Có gì đó không ổn với thức ăn sao, thưa bà MacTavish?" anh ta hỏi.
"Không, không có gì đâu anh thanh niên," Maggie đáp. "Tôi chỉ đang đợi chồng tôi kết thúc. Ông ấy dùng răng trước!"
Paddy nhận tuyên án ba mươi ngày tù vì say và mất trật tự. Khi quan toà Rumcake đã kết thúc việc công bố bản án, Paddy hỏi liệu anh ta có thể nói cái gì đó được không. "Sao vậy, tất nhiên được!" quan toà nói. "Nếu tôi gọi ông là đồ chó đẻ," Paddy gợi ý, "ông sẽ làm gì?"
"Cái gì?" Rumcake nói, "Tôi sẽ giữ ông lại bất chấp toà án và cho ông thêm một tuần nữa trong tù."
"Tôi thấy rồi," Paddy nói. "Và nếu tôi nghĩ ông là đồ chó đẻ, ông sẽ làm gì?"
"Trong trường hợp đó," quan toà Rumcake đáp, "tôi không làm gì cả, vì không có luật chống lại suy nghĩ."
"Ồ! Tốt trong trường hợp đó," Paddy kết luận, "Tôi nghĩ ông là đồ chó đẻ!"
Milarepa, Devageet và Sarjano thấy bản thân họ đnag ngồi bên ngoài bệnh viện Pythagoras để gặp bác sĩ Azima.
"Các anh bạn ở đây làm gì?" Devageet hỏi.
"Đó-a là vì chim của tôi," Sarjano thú nhận, một cách bồn chồn. "Nó đã đổi thành mầu cam sáng-a!"
"Cái gì?" Milarepa và Devageet cùng kêu lên. "Đó là điều tôi ở đây đấy," Milarepa nói. "Và cả tôi nữa!" Devageet kêu. Thế là ba swamis cùng bước vào bệnh viện.
Cởi quần áo ra, Milarepa và Devageet phơi máy da cam sáng của họ, và Sarjano duỗi xúc xích của mình ra.
"Trời!" Azima nói.
"Cái đó thật đáng ngạc nhiên!" Và anh ta bắt đầu khám.
"Cuộc sống tình dục của anh thế nào?" Azima hỏi.
"Anh có làm tình một lần một đêm không?"
Ba swamis nhìn nhau và lắc đầu trong im lặng.
"Vậy-a, hai lần một tuần thì sao-a?" Azima tiếp tục.
"Đã có thời..." Milarepa suy ngẫm. Devageet và Sarjano gật đầu yên tĩnh.
"Vậy-a, hai lần một tháng-a?" Azima hỏi.
"Tôi ước vậy!" Devageet nói, mơ màng.
"Một lần một tháng?" Azima gợi ý. Có im lặng khác.
"Vậy, điều đó là được!" Azima nói. "Đừng lo. Nó chỉ bị gỉ-a thôi!"
Ronald và Nancy Reagan được mời tới ăn tối với Ed Meese và vợ ông ta, giáo hoàng Polack và giám mục của ông ấy, và Rajiv và bà Gandhi.
Họ đi tới một khách sạn hấp dẫn trong thành phố và lập tức được ngồi vào bàn những người có tiếng tăm. Với đầy đủ nghi thức trang trọng, người trưởng phục vụ bàn Reginald người đồng tính, phục vụ họ đồ uống và nhận đơn đặt món của họ. Anh ta quay lại nhà bếp và trao tờ đơn đặt cho Jablonski người nấu ăn.
"Này, đợi một phút," Jablonski nói. "Đơn này nói 'Cho Nancy Reagan bộ phận gà ưa thích của bà ấy.'" "Phải rồi, điều đó là đúng," Reginald đồng ý một cách hoan hỉ. "Điều đó là gì?"
"Này," Jablonski nói. "Phần gà ưa thích của Nancy Reagan là cái chết tiệt gì?"
"Tôi không biết," người phục vụ bàn nói, "nhưng cứ như tôi có thể nói được, chúng phải là cánh phải và hậu môn!"
Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Dùng khoảnh khắc này của im lặng để đi vào trong mà không sợ gì. Đây là ngôi đền của bạn, đây là nơi mọi phật đã tìm thấy bản thân mình. Trong im lặng này bạn không còn là bản thân bạn; bạn đã trở thành một phần của tâm thức đại dương. Đây là điều phật nghĩa là gì. Sâu hơn và sâu hơn...
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi. Buông bỏ. Để thân thể và tâm trí sang bên. Chỉ giữ cho bản thân bạn như người quan sát, nhân chứng. Và đột nhiên ánh sáng, ngọn lửa, phúc lành và hoa của cái không biết bắt đầu trút xuống bạn. Đây là bầu trời của bạn. Bạn có thể đi sâu, xa tuỳ ý. Bạn sẽ không gặp bất kì ai trên con đường này. Không có nhu cầu sợ. Bạn có thể chỉ được đương đầu bởi bản thân bạn, bản thể đích thực và nguyên bản của bạn. Buổi tối được ân huệ làm sao. Mười nghìn chư phật cùng nhau, hân hoan trong im lặng, nếm trải tính bất tử. Trong một khoảnh khắc, toàn thể vĩnh hằng được cô đọng lại.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại chậm rãi và duyên dáng. Nhớ lấy, bạn đã ở trên mảnh đất của chư phật. Ngồi xuống trong vài khoảnh khác, thu lấy kí ức của bạn, để cho nó có thể trở thành dòng chảy ngầm hai mươi bốn giờ trong cuộc đời bạn, của niềm vui... và phúc lạc... và cực lạc.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy Kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật không?
Vâng, thưa Thầy Kính yêu!
Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post