Chương 1. Âm nhạc của OM

Chương 1. Âm nhạc của OM

Price:

Read more

Om Mani Padme Hum - Osho

Âm thanh của Im lặng: Kim cương trong Hoa sen

Chương 1. Âm nhạc của OM


Thưa thầy kính yêu,

Xin thầy nói đôi điều về mật chú Tây Tạng nổi tiếng. "Om Mani Padme Hum"?

Maneesha, đất nước duy nhất trên thế giới đã cống hiến tất cả thiên tài của nó cho cuộc thám hiểm nội tâm là Tây Tạng. Phát kiến của nó cực kì có giá trị. Om Mani Padme Hum là một trong những cách diễn đạt hay nhất về kinh nghiệm tối thượng. Ý nghĩa của nó là "âm thanh của im lặng, kim cương trong hoa sen."

Im lặng cũng có âm thanh của nó, âm nhạc của nó... mặc dầu tai ngoài không thể nghe thấy nó, cũng như mắt ngoài không thể thấy nó được. Chúng ta có sáu giác quan ngoài. Trong quá khứ con người chỉ biết rằng chúng ta có năm giác quan ngoài; giác quan thứ sáu là một khám phá mới. Nó ở bên trong tai bạn, do đó mọi người không nhận ra nó. Nó là giác quan của thăng bằng. Khi bạn cảm thấy chóng mặt hay khi bạn thấy người say bước đi, đó chính là cảm giác thăng bằng bị ảnh hưởng.

Cũng như sáu giác quan này được dùng đề trải nghiệm cái bên ngoài, đích xác cùng sáu giác quan đó tồn tại để trải nghiệm cái bên trong - để thấy nó, để nghe nó, để cảm thấy sự thăng bằng hoàn toàn của nó, cái đẹp của nó. Nó là không thấy được đối với con mắt bên ngoài nhưng không phải là không thấy được cái bên trong. Bạn có thể chạm vào nó bằng các giác quan bên ngoài của mình, nhưng các giác quan bên trong hoàn toàn được đắm chìm trong nó.

Om là âm thanh khi mọi thứ khác biến mất khỏi bản thể bạn - không ý nghĩ, không mơ mộng, không phóng chiếu, không trông đợi, thậm chí không một gợn sóng - toàn bộ cái hồ tâm thức của bạn đơn giản im lặng; nó đã trở thành chỉ là một tấm gương. Trong những khoảnh khắc hiếm hoi đó bạn nghe thấy âm thanh của im lặng. Nó là kinh nghiệm có giá trị nhất bởi vì nó không chỉ biểu lộ phẩm chất của âm nhạc bên trong - nó cũng còn biểu lộ rằng cái bên trong là tràn đầy của hài hoà, niềm vui, phúc lạc. Tất cả những điều đó được bao hàm trong âm nhạc của Om.

Bạn không nói nó. Nếu bạn nói nó bạn sẽ làm lỡ điều thực. Bạn phải nghe nó, bạn phải hoàn toàn bình thản và tĩnh lặng và bỗng nhiên nó tất cả bao quanh bạn, điệu vũ rất tinh tế. Và khoảnh khắc mà bạn có khả năng nghe nó, bạn đã đi vào trong chính những bí mật của sự tồn tại. Bạn đã trở nên tinh tế đến mức bây giờ bạn xứng đáng cho tất cả những điều huyền bí được phơi bày cho bạn. Sự tồn tại chờ đợi cho tới khi bạn sẵn sàng.

Ở phương Đông tất cả các tôn giáo không ngoại lệ nào đều đồng ý với điểm này, rằng âm thanh được nghe tại đỉnh cao nhất, chung cuộc là cái gì đó tương tự như Om.

Từ Om không được viết ra bằng chữ trong bất kì ngôn ngữ nào của phương Đông bởi vì nó không phải là một phần của ngôn ngữ. Nó được viết như một biểu tượng; do đó cùng biểu tượng này được dùng trong tiếng Phạn, trong tiếng Pali, trong tiếng Prakrit, trong tiếng Tây Tạng - mọi nơi đều cùng biểu tượng, bởi vì tất cả các nhà huyền môn của mọi thời đại đều đã đạt tới cùng kinh nghiệm, rằng nó không phải là một phần của thế giới trần tục của chúng ta; do đó nó không nên được viết ra bằng chữ. Nó nên có biểu tượng riêng của mình ở bên ngoài ngôn ngữ. Nó không ngụ ý điều gì khi có liên quan tới tâm trí, nhưng nó ngụ ý vô cùng khi có liên quan tới trưởng thành tâm linh của bạn.

Tất cả âm nhạc, đặc biệt nhạc cổ điển, đều đã cố gắng bắt lấy âm thanh của im lặng để cho ngay cả những người chưa đi vào trong bản thể của mình cũng có thể kinh nghiệm điều gì đó tương tự. Nhưng cái tương tự không phải là cái đích thực, nó là tiếng vọng xa xăm. Ngay cả nhạc sĩ vĩ đại nhất cũng phải dùng âm thanh, nhưng dù ông ta thu xếp chúng hay thế nào, ông ta vẫn không thể tuyệt đối im lặng được. Ông ta tạo ra lỗ hổng im lặng ở giữa, toàn bộ vở kịch là ở giữa âm thanh và im lặng. Những người không hiểu biết thì nghe âm thanh, còn những người hiểu biết thì nghe im lặng, lỗ hổng giữa hai âm thanh. Âm nhạc thực là trong lỗ hổng.

Nó không do nhạc sĩ tạo ra - nhạc sĩ đang tạo ra âm thanh và để lỗ hổng làm cái tương phản, để cho bạn có thể kinh nghiệm cái gì đó của điều xảy ra cho nhà huyền môn trong thế giới bên trong của ông ta.

Om là một trong những thành tựu lớn lao nhất của người tìm kiếm chân lí. Đã có những trường hợp hoàn toàn không thể nào tin nổi, nhưng chúng mang tính lịch sử...

Khi Marpa, một nhà huyền môn Tây Tạng, chết, các đệ tử thân thiết nhất của ông ấy tất cả đều ngồi xung quanh ông ấy... bởi vì chết của nhà huyền môn cực kì có giá trị cũng như cuộc sống của người đó, có lẽ còn hơn. Nếu bạn có thể ở gần nhà huyền môn khi ông ấy sắp chết, bạn có thể kinh nghiệm nhiều điều, bởi vì toàn bộ tâm thức của ông ấy đang rời bỏ thân thể - và nếu bạn tỉnh táo và có ý thức, bạn có thể cảm thấy hương vị mới, bạn có thể thấy ánh sáng mới, bạn có thể nghe thấy âm nhạc mới.

Khi Marpa chết ông ấy đang sống trong một ngôi đền. Và tất cả các đệ tử của ông ấy đều trở nên ngạc nhiên - họ tất cả đều nhìn quanh - âm thanh của Om tới từ đâu vậy? Thế rồi cuối cùng họ nhận ra rằng nó không tới từ đâu cả - nó tới từ Marpa! Họ nghe thấy nó bằng việc đặt tai lên chân ông ấy, tay ông ấy, và họ không thể nào tin được vào điều đó - bên trong toàn bộ thân thể ông ấy có một rung động tạo ra âm thanh của Om. Ông ấy đã nghe thấy âm thanh đó trong cả đời mình từ khi ông ấy trở nên chứng ngộ. Bởi vì việc kinh nghiệm bên trong thường xuyên của ông ấy về âm thanh này, nên âm thanh này đã đi vào ngay cả trong các tế bào thể chất của ông ấy. Mọi thớ thịt thân thể ông ấy đều đã học sự đồng bộ nào đó, cùng bước sóng.

Nhưng điều đó cũng đã được các nhà huyền môn khác kinh nghiệm nữa. Bên trong bắt đầu bức xạ ra, đặc biệt vào khoảnh khắc của chết khi mọi thứ đi tới cao trào. Nhưng con người mù thế và hoàn toàn không thông minh thế: tưởng rằng các nhà huyền môn trải nghiệm âm nhạc của im lặng bên trong mình và họ đặt tên cho nó là Om, mọi người bắt đầu lẩm nhẩm Om như một mật chú, cứ nghĩ rằng bằng việc lẩm nhẩm ấy họ cũng sẽ có khả năng nghe thấy nó.
Bằng việc lẩm nhẩm nó bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng nghe thấy nó cả. Tâm trí bạn vận hành khi bạn lẩm nhẩm nó. Nhưng có lẽ tôi là người đầu tiên nói điều đó cho bạn, bằng không thì trong hàng thế kỉ mọi người đã được dạy: Lẩm nhẩm Om. Điều đó tạo ra kinh nghiệm giả, và bạn có thể bị lạc trong cái giả và bạn sẽ không bao giờ phát hiện ra cái thực.

Tôi nói với bạn đừng lẩm nhẩm nó mà đơn giản im lặng và lắng nghe nó. Khi tâm trí bạn trở nên bình thản và yên tĩnh, bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết: giống như tiếng thì thào, Om nảy sinh từ bên trong con người bạn. Khi nó nảy sinh theo cách riêng của nó, nó có phẩm chất hoàn toàn khác. Nó làm biến đổi bạn.

Vật lí hiện đại nói rằng mọi thứ trên thế giới đều được cấu thành từ năng lượng điện. Theo vật lí hiện đại thì thậm chí âm thanh cũng không là gì ngoài sóng điện. Các nhà vật lí đang làm việc từ bên ngoài.

Các nhà huyền môn nói chính điều đối lập lại, nhưng tôi không thấy là họ mâu thuẫn. Họ nói toàn thể sự tồn tại được tạo nên từ âm thanh vô âm Om. Và mọi điện hay lửa đều không là gì ngoài dạng đậm đặc nào đó của âm thanh này.

Ở phương Đông điều đó đã được biết tới: đã có những nhạc sĩ có thể tạo ra ngọn lửa trên ngọn nến chưa thắp bằng âm nhạc của mình. Khi nhạc trùm lên chiếc nến chưa thắp thì bỗng nhiên ngọn lửa phát sinh. Đó là phép thử trong những ngày cổ đại, rằng chừng nào một nhạc sĩ chưa thể tạo ra được ánh sáng, đám cháy, ngọn lửa, bằng âm nhạc của mình thì người đó vẫn còn là tài tử. Người đó chưa được thừa nhận là thầy.

Những giải thích của vật lí và của huyền môn có vẻ khác nhau, nhưng có lẽ có nguồn gốc sâu sắc nào đó mà có thể rút ra điều mâu thuẫn và đối lập. Có lẽ nó chỉ là việc diễn giải khác nhau, bởi vì nhà huyền môn tới từ bên trong còn nhà vật lí nhìn ra bên ngoài. Điều nhà vật lí cảm thấy như điện, nhà huyền môn cảm thấy như âm nhạc của toàn thể sự tồn tại. Họ cả hai đều nói cùng một điều theo những ngôn ngữ khác nhau. Và nếu có chọn lựa, tôi sẽ chọn nhà huyền môn, bởi vì ông ấy đang kinh nghiệm nó tại chính trung tâm của mình. Kinh nghiệm của ông ấy không chỉ là kinh nghiệm về các đối thể, kinh nghiệm của ông ấy là kinh nghiệm về tâm thức riêng của mình. Và tâm thức là chính tinh hoa của sự tồn tại.

Câu mật chú này có nhiều bí mật trong nó. Lời vô lời đầu tiên là Om, và lời cuối cùng là Hum. Lời đầu tiên là việc nở hoa và lời cuối cùng là hạt mầm.

Người Sufis không dùng toàn bộ tên của Allah - tên đó là do người Mô ha mét giáo đặt cho Thượng đế. Họ dùng Allah Hoo, và dần dần, họ đổi Allah Hoo thành chỉ có Hoo, Hoo. Họ đã thấy rằng âm thanh của Hoo đập đích xác vào nguồn sống ở ngay dưới rốn. Bạn được nối với cuộc sống của mình, với mẹ bạn, từ rốn. Ngay dưới rốn là ngọn nguồn của cuộc sống riêng của bạn.

Thử: khi bạn nói Hoo thì cái đập là ở dưới rốn. Đó là điều chúng ta đang dùng trong Thiền Động. Nó là một khám phá của người Sufi, nhưng nó cũng có thể được thực hiện theo cách Tây Tạng. Thay vì Hoo - Hoo dường như hơi gắt - Hum dường như có chút ít mềm mỏng hơn. Nhưng cái mềm mỏng hơn sẽ lấy thời gian lâu hơn để đánh thức năng lượng của bạn. Có thể rằng với khí hậu đặc biệt của Tây Tạng, cái mềm hơn là hoàn toàn tốt. Họ đã không cần một âm thanh gay gắt như vậy để đập vào ngọn nguồn cuộc sống. Nhưng trong sa mạc gay gắt của xứ A rập nơi các nhà huyền môn Sufi bắt đầu dùng Hoo...

Tôi có chọn lựa khi tôi làm việc về Thiền Động, liệu nên chọn Hum hay chọn Hoo. Tôi đã thử cả hai và tôi thấy rằng có lẽ ở Ấn Độ, Hoo là tốt hơn ở những nơi cao lạnh hơn của Tây Tạng nơi mọi thứ đều nhất định phải khác. Chỉ Hum là hoàn toàn phải cho họ. Hum là cái đập để tạo ra Om trong bạn.

Nếu bạn đập hạt mầm của cuộc sống của mình thì nó bắt đầu biến mất trong đất và lá xanh, chồi búp bắt đầu mọc ra. Giữa hai âm này - Om và Hum - là Mani Padme. Tôi không nghĩ rằng bất kì ai có khả năng diễn đạt kinh nghiệm tối thượng, cái đẹp tối thượng, tốt hơn Mani Padme. Bạn phải hình dung ra nó. Hoa sen ở phương Đông là hoa đẹp nhất, hoa lớn nhất. Và nếu bạn đặt kim cương vào hoa sen vào buổi mặt trời sáng sớm, bạn sẽ có kinh nghiệm đẹp vô cùng... hoa sen với kim cương.

Rất khó nói điều gì về kinh nghiệm tối thượng, nhưng các nhà huyền môn Tây Tạng đã cố gắng hết sức. Nhiều điều đã được nói về nó, nhưng "kim cương trong hoa sen" dường như là cách diễn đạt tốt nhất - bởi vì nó là kinh nghiệm đẹp đẽ nhất, vĩ đại nhất, và họ đã chọn hai vật đẹp nhất của thế giới bình thường, hoa sen và kim cương. Nó chính là cách diễn đạt thấy được về cái đẹp mà bạn đi tới nhìn ra bên trong bản thân bạn.

Câu mật chú này Om Mani Padme Hum có toàn bộ triết lí trong nó. Bắt đầu với Hum, lời cuối cùng, và lời đầu tiên sẽ nảy sinh theo cách riêng của nó. Và khi bản thể bên trong của bạn tràn đầy với âm thanh của im lặng, bạn cũng sẽ có kinh nghiệm đẹp về việc thấy hoa sen với kim cương trong mặt trời buổi sáng sớm. Kim cương đang toả sáng. Hoa sen mềm mại thế, nữ tính thế, thanh tao thế - không có gì so sánh được với nó từ bất kì hoa nào khác.

Nó trở thành quan trọng thế cho các nhà huyền môn... bạn phải đã thấy những bức tượng của Phật Gautam ngồi trên toà sen. Họ đang vẽ một cách biểu tượng rằng ông ấy đã đạt tới điều tối thượng; hoa sen bên trong riêng của ông ấy đã nở hoa. Và không chỉ hoa sen đã nở hoa, viên kim cương ẩn đằng sau nó, bên trong nó... khi nó xoè những cánh hoa ra, bạn thấy viên kim cương Kohinoor. Kim cương có phẩm chất ưu tú - đó là lí do tại sao nó đã được chọn. Nó là biểu tượng cho vĩnh hằng. Kim cương là để cho mãi mãi, nó không biết chết; nó là bất tử. Kinh nghiệm này là đẹp và vĩnh hằng.

Nhưng không may, Tây Tạng đã rơi vào trong bóng tối. Các tu viện của nó đã bị đóng cửa, những người tìm kiếm chân lí đã bị buộc phải làm việc trong các trại lao động. Đất nước duy nhất trên thế giới mà đã làm việc - một thiên tài sắc sảo về trí tuệ, tất cả mọi thông minh của nó trong việc tìm kiếm lãnh địa riêng của người ta và kho báu của nó - đã bị dừng bởi sự xâm lăng cộng sản vào Tây Tạng.

Và chính cái thế giới này xấu xa tới mức chẳng ai đã phản đối điều đó. Ngược lại, bởi vì Trung Quốc lớn và hùng mạnh, nên ngay cả những đất nước mạnh hơn Trung Quốc, như Mĩ, cũng đã chấp nhận rằng Tây Tạng thuộc vào Trung Quốc. Điều đó là cực kì vô nghĩa - chỉ bởi vì Trung Quốc mạnh và mọi người muốn Trung Quốc vào phe mình. Cả Xô viết lẫn Mĩ đều không thách thức yêu sách của Trung Quốc. Dẹp Mĩ và Xô viết sang bên - ngay cả Ấn Độ cũng không phản đối. Đó đã là thực nghiệm đẹp, và Tây Tạng không có vũ khí để tranh đấu, họ không có quân đội để tranh đấu; họ chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Toàn bộ mọi sự là cuộc hành hương hướng nội.

Không ở đâu mà tập trung nỗ lực đến thế đã được thực hiện để khám phá bản thể con người. Mọi gia đình ở Tây Tạng đều quen cho con trai cả của mình tới tu viện nào đó, nơi anh ta sẽ thiền và trưởng thành gần tới thức tỉnh. Chính niềm vui cho mọi gia đình là ít nhất một người trong họ đã toàn tâm toàn ý, hai mươi bốn giờ một ngày, làm việc về bản thể bên trong. Họ cũng làm việc nhưng họ không thể dành toàn bộ thời gian được; họ phải tạo ra thức ăn và quần áo và chỗ cư ngụ, và ở Tây Tạng đó là việc khó khăn. Khí hậu không giúp ích gì mấy; sống ở Tây Tạng là cuộc vật lộn gay go. Nhưng dầu vậy mọi gia đình đều quen cho đứa trẻ sinh ra đầu tiên vào tu viện.

Có hàng trăm tu viện... và những tu viện này không nên bị so sánh với bất kì tu viện Cơ đốc giáo nào. Những tu viện này không so sánh được trên toàn thế giới. Những tu viện này chỉ liên quan tới mỗi một điều: làm cho bạn nhận biết về bản thân bạn.

Hàng nghìn phương cách đã được tạo ra qua nhiều thế kỉ để cho hoa sen của bạn có thể nở hoa và bạn có thể tìm thấy kho báu tối thượng của mình, viên kim cương. Những phương cách này chỉ là những lời biểu tượng, nhưng việc phá huỷ Tây Tạng nên được biết tới trong lịch sử, đặc biệt khi con người trở nên nhận biết và khiêm tốn hơn chút nữa, nhân bản hơn chút nữa...

Đây là thảm hoạ lớn nhất của thế kỉ hai mươi rằng Tây Tạng đã rơi vào tay của người duy vật, người không tin rằng bạn có cái gì đó bên trong mình. Họ tin rằng bạn chỉ là vật chất còn tâm thức bạn chỉ là sản phẩm phụ của vật chất. Và tất cả điều này đơn giản là không có bất kì kinh nghiệm nào về cái bên trong - chỉ triết lí logic, hợp lí.

Không một người cộng sản nào trên thế giới thiền cả, nhưng đó là điều lạ - họ tất cả đều phủ nhận cái bên trong. Không ai nghĩ làm sao cái bên ngoài có thể tồn tại được nếu không có cái bên trong. Chúng tồn tại cùng nhau, chúng là không tách rời được. Cái bên ngoài chỉ là bảo vệ cho cái bên trong, bởi vì cái bên trong rất tinh tế và mềm mại. Nhưng cái bên ngoài được chấp nhận còn cái bên trong bị phủ nhận. Và cho dù đôi khi nó được chấp nhận, thế giới này vẫn bị chi phối bởi các chính khách bẩn thỉu đến mức họ thậm chí dùng kinh nghiệm bên trong cho các mục đích xấu xa.

Mới hôm nọ, tôi đi tới biết rằng Mĩ bây giờ đang huấn luyện lính của họ thiền để cho họ có thể đánh nhau mà không bị suy sụp thần kinh, không phát điên, không cảm thấy sợ gì - như vậy họ có thể nằm trong chiến hào một cách im lặng, bình thản và trầm tĩnh và tự chủ. Không thiền nhân nào có thể nghĩ rằng việc thiền cũng có thể được dùng cho các cuộc chiến tranh đánh nhau, nhưng trong tay các chính khách mọi thứ trở thành xấu xí - ngay cả thiền. Bây giờ các trại lính ở Mĩ đang dạy thiền để cho lính của họ có thể bình thản và yên tĩnh hơn khi giết người.

Nhưng tôi muốn cảnh cáo Mĩ: các ngài đang chơi với lửa đấy. Các ông không hiểu đích xác thiền sẽ làm gì. Lính của các ông sẽ trở nên bình thản và yên tĩnh tới mức họ sẽ ném vũ khí của mình đi và họ sẽ đơn giản từ chối giết người. Thiền nhân không thể giết người được; thiền nhân không thể mang tính huỷ diệt được. Cho nên một ngày nào đó họ sẽ ngạc nhiên rằng lính của họ không còn quan tâm tới đánh nhau nữa. Chiến tranh, bạo hành, giết chóc, tàn sát hàng triệu người - điều này là không thể được nếu con người biết điều gì đó về thiền. Thế thì người đó cũng biết không chỉ về bản thân bạn, người đó biết người khác, người mà người đó định giết. Người đó là anh em của người này. Họ tất cả đều thuộc vào cùng sự tồn tại đại dương.

Tại Liên Xô, cũng vậy, họ cũng quan tâm tới thiền. Nhưng mục đích là một - không nhận biết mình, mà làm cho bạn mạnh hơn để bạn có thể giết và thả bom và dùng vũ khí hạt nhân và tên lửa để giết cả quốc gia.

Nhưng họ cả hai đều đang đi trên con đường nguy hiểm, một cách không chủ ý. Điều đó là tốt, họ nên được giúp đỡ. Một khi thiền lan rộng trong lính của họ, những người lính này sẽ trở thành các sannyasins! Cho nên tôi vô cùng vui sướng là ý tưởng của họ khác, và họ chẳng biết gì về thiền cả. Họ chỉ nghe nói rằng nó làm cho mọi người bình thản và trầm tĩnh cho nên họ có thể đánh nhau mà không sợ hãi, không nhìn sau. Thiền cho họ cảm giác về tính bất tử; do đó nỗi sợ của họ sẽ biến mất.

Nhưng thiền không chỉ cho họ kinh nghiệm về tính bất tử riêng của họ - nó cũng cho họ kinh nghiệm rằng mọi người đều bất tử. Chết là hư cấu. Tại sao quấy rầy mọi người một cách không cần thiết vậy? Họ sẽ sống, bạn không thể giết họ được. Ngay cả vũ khí hạt nhân của bạn cũng không giết được họ.

Krishna, trong Gita, có một phát biểu hay: Nainam chhindanti shastrani; naham dahati pavakahr. "Không vũ khí nào có thể tiêu diệt được ta, không lửa nào có thể thiêu đốt được ta." Vâng thân thể sẽ bị cháy, nhưng ta không là thân thể...

Thiền cho bạn cảm giác, lần đầu tiên, về thực tại đích thực của bạn.

Nếu nhân loại nhận biết thêm chút ít, Tây Tạng nên được tự do bởi vì nó là đất nước duy nhất đã cống hiến gần hai nghìn năm không làm gì ngoài việc đi sâu hơn vào trong thiền. Và nó có thể dạy cả thế giới điều gì đó cực kì cần thiết.

Nhưng Trung Quốc cộng sản đang cố gắng phá huỷ mọi thứ đã được tạo nên trong hai nghìn năm. Tất cả các phương cách của họ, tất cả các phương pháp thiền, toàn bộ bầu không khí tâm linh của họ đang bị ô nhiễm, đầu độc. Và họ là những người đơn giản; họ không thể phòng thủ cho mình. Họ không có gì để phòng thủ cho mình - không xe tăng, không bom đạn, không máy bay, không quân đội. Một giống nòi hồn nhiên đã sống không chiến tranh trong hai nghìn năm... Nó không quấy rối ai; nó ở xa với mọi người - ngay cả đi tới đó cũng là việc khó khăn rồi. Họ sống trên chính mái nhà của thế giới. Những ngọn núi cao nhất, tuyết vĩnh cửu, là nhà họ. Để yên cho họ một mình đi! Trung Quốc sẽ chẳng mất gì, nhưng cả thế giới sẽ được lợi bởi kinh nghiệm của họ.

Và thế giới sẽ cần tới kinh nghiệm của họ. Thế giới đang phát ngán với tiền bạc, quyền lực, uy thế, tất cả những thứ mà công nghệ khoa học đã tạo ra - mọi người đang phát ngán. Họ đã bị kết thúc với nó. Mọi người trong các nước tiên tiến không còn quan tâm tới dục, không còn quan tâm tới ma tuý nữa. Những thứ này biến đi, và thất vọng kì lạ như đám mây đen đang hạ xuống các nước tiên tiến - thất vọng sâu sắc, sự vô nghĩa, và phiền não. Họ tất cả sẽ cần một bầu khí hậu khác của thiền để xua tan tất cả những đám mây này và đem tới ngày mới trong cuộc sống của mình, bình minh mới, kinh nghiệm mới về bản thân họ, phát hiện về bản thể nguyên thuỷ của họ.

Tây Tạng nên được để như một phòng thí nghiệm cho việc tìm kiếm bên trong của con người. Nhưng không một quốc gia nào trên thế giới đã cất lên tiếng nói chống cuộc tấn công xấu xa này vào Tây Tạng. Và Trung Quốc đã không chỉ tấn công nó, họ đã hợp nhất nó vào trong bản đồ của mình. Bây giờ, trên bản đồ Trung Quốc hiện đại, Tây Tạng là lãnh thổ của họ.

Và chúng ta nghĩ thế giới này văn minh, nơi những người hồn nhiên, người không làm hại gì tới bất kì ai, đang đơn giản bị tiêu diệt. Và với họ, cái gì đó có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể nhân loại cũng bị tiêu diệt. Nếu như có cái gì đó văn minh trong con người, mọi quốc gia đã đứng lên chống sự xâm lăng của Trung Quốc vào Tây Tạng. Đó là cuộc xâm lăng của vật chất chống tâm thức; đó là cuộc xâm lăng của chủ nghĩa vật chất chống những đỉnh cao tâm linh.

Maneesha, từ mật chú không thể nào dịch nổi sang tiếng Anh, sang bất kì ngôn ngữ phương Tây nào, nhưng nghĩa của nó, ý nghĩa của nó, có thể được giải thích cho bạn. Mật chú không phải là cái gì đó để tụng. Nó không phải là việc tụng. Mật chú là cái gì đó để chìm vào sâu trong sự hiện hữu của bạn, hệt như rễ ăn sâu vào đất. Rễ càng ăn sâu vào đất, cây sẽ càng vươn cao hơn trong bầu trời. Mật chú là cái gì đó giống như hạt mầm cần được cho phép đi sâu vào trong sự hiện hữu bạn để cho nó có thể đưa rễ của nó tới tận cội nguồn cuộc sống bạn và chung cuộc tới cuộc sống toàn thể. Thế thì các cành của nó, tán lá của nó sẽ vươn cao trên bầu trời, và khi tới đúng thời điểm, khi mùa xuân tới nó sẽ tràn đầy với hàng nghìn đoá.

Chừng nào cây chưa nở hoa, nó còn không biết tới phúc lạc. Nó liên tục cảm thấy cái gì đó bị bỏ lỡ. Bạn có thể có tất cả mọi hoan lạc và tiện nghi và khoái trá của thế giới, nhưng chừng nào bạn chưa biết tới bản thân bạn, chừng nào đoá sen bên trong của bạn chưa mở ra, bạn sẽ vẫn cứ bỏ lỡ cái gì đó. Bạn có thể không chắc chắn mình đang bị lỡ cái gì nhưng một cảm giác... rằng cái gì đó đang bị bỏ lỡ, rằng "Mình vẫn chưa đầy đủ," rằng "Mình không là cái toàn thể," rằng "Mình không là cái sự tồn tại muốn mình là." Cảm giác "lỡ" này liên tục dằn vặt mọi người. Chỉ việc mở rộng của tâm thức bạn mới giúp cho bạn gạt bỏ đi cảm giác này, dằn vặt này, phiền não này, cảm giác lo lắng tội lỗi này.

Ngay cả những người như Jaspers, Kierkegaard, Heidegger, Marcel, Jean-Paul Sartre, những thiên tài cao nhất của phương Tây, cũng đồng ý về vài điều: rằng cuộc sống không là gì ngoài chán chường, rằng cuộc sống không là gì ngoài lo âu, phiền não, rằng cuộc sống là ngẫu nhiên, nó chẳng có nghĩa lí gì... rằng thật hoàn toàn vô tích sự mà đi tìm bất kì không gian phúc lạc nào; chẳng có cái nào tồn tại cả. Và khi các triết gia vĩ đại như những người này đồng ý trên những điểm như vậy, quần chúng bình thường đơn giản theo họ.

Bất kì điều gì họ nói đều tuyệt đối sai, bởi vì không người nào trong họ đã từng thiền, không người nào trong họ đã đi vào trong tính chủ thể riêng của mình. Họ chỉ ở trong cái đầu của họ. Họ thậm chí chưa di chuyển tới trái tim họ, nói gì tới bản thể họ? Nói gì tới sự biến mất của họ vào cái toàn thể?

Chừng nào bạn chưa biến mất vào trong đại dương toàn thể giống như một giọt sương, bạn sẽ không tìm thấy ý nghĩa. Bạn sẽ không tìm thấy chân giá trị của ban. Bạn sẽ không tìm thấy rằng sự tồn tại đang trút biết bao nhiêu niềm vui và biết bao nhiêu lễ hội lên bạn tới mức bạn không thể nào chứa đựng được nó; bạn phải chia sẻ nó. Bạn trở thành đám mây mưa trĩu nặng những hạt mưa tới mức nó phải mưa rào xuống. Con người của sáng suốt sâu sắc, con người của trực giác, con người đã đạt tới bản thể mình thì trở thành đám mây mưa. Người đó không chỉ là phúc lành cho bản thân bạn, người đó trở thành phúc lành cho toàn thế giới.

Câu mật chú Tây Tạng này Om Mani Padme Hum là dạng cô đọng của toàn bộ cuộc hành hương bên trong. Nó nói cách bắt đầu, điều sẽ xảy ra khi hoa nở ra, điều sẽ là kinh nghiệm tối thượng của bạn về kho báu bên trong của mình.

Các ngôn ngữ phương Đông rất giầu có theo nghĩa là chúng đã tạo ra những phát biểu rất súc tích mà có thể được hiển lộ thành những bản kinh lớn. Lí do là ở chỗ khi những mật chú này được tạo ra thì chưa có chữ viết. Mọi người phải nhớ chúng. Khi mọi người phải nhớ chúng, bạn phải rất vắn tắt, súc tích nhất có thể được. Một khi chữ viết đi vào sự tồn tại, tính súc tích đó biến mất. Bây giờ bạn có thể giải thích bằng hết trang viết nọ tới trang viết kia. Nhưng bạn có bao giờ nghĩ rằng khi bạn nhận được bức thư dài... bức thư càng dài thì nghĩa càng ít. Nhưng khi bạn nhận bức điện tín, một cách tự nhiên... chỉ tám hay mười từ, nhưng nghĩa là mênh mông và tác động cũng mênh mông.

Đây là điện tín. Chúng có thể được nhớ dễ dàng, chúng có thể được truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia mà không sợ rằng chúng bị bóp méo.

Bạn phải không lẩm nhẩm mật chú, bạn phải hiểu nghĩa của nó và để cho nghĩa đó chìm vào bạn. Ngồi im lặng, hoàn toàn yên tĩnh, không chuyển động. Quan sát tâm trí mình. Vài ý nghĩ sẽ có đó, nhưng khi bạn trở nên im lặng những ý nghĩ đó sẽ biến mất, và bỗng nhiên bạn nghe thấy một âm rì rào khắp xung quanh bạn. Âm thanh rì rào đó không do bạn tạo ra. Nó ở tận chính trung tâm của sự tồn tại. Nó là âm thanh của bầu trời. Nó là âm thanh của không gian.

Nó là âm thanh của vũ trụ; nó là chỉ báo của vũ trụ về tính sống động. Nó đang rung động với điệu vũ và âm nhạc.

Om này có lẽ là biểu tượng lớn nhất trên toàn thế giới.

Thưa thầy kính yêu,

Liệu có thể việc khóc là lễ hội của tôi vào khoảnh khắc đó không? Khi tôi nhìn thầy, tim tôi quay từ bên trong ra và toàn bộ ánh trăng vỡ lỏng ra, để tôi bất lực. Thưa thầy kính yêu, ai đang khóc vậy?

Deva Paro, điều đó có vẻ chút ít kì lạ nhưng nó đúng: bạn có thể biến đổi bất kì cái gì thành lễ hội. Cũng như bạn có thể biến đổi bất kì lễ hội nào thành chuyện khổ - điều đó tất cả đều phụ thuộc vào bạn.

Tôi đã nghe, trong một trường nhỏ thầy dạy vẽ đang vẽ lên bảng. Ông ấy là hoạ sĩ giỏi, và ông ấy đang chỉ cho học trò của mình rằng nghệ sĩ có thể thay đổi, chỉ bằng một cái chạm nhỏ, toàn bộ ý nghĩa của bức tranh.

Đó là bức chân dung của một người, rất buồn. Ông ấy chạm vào môi và ngay lập tức buồn rầu biến mất khỏi bức tranh - người này mỉm cười. Và khi người này bắt đầu mỉm cười, toàn thể bức tranh có chiều hướng khác..

Thế rồi một đứa nhỏ đứng dậy và nói, "Điều này không là gì cả."

Hoạ sĩ nói, "Con ngụ ý gì khi nói điều này không là gì cả?"

Nó nói, "Mẹ con, vừa mới cho con cái tát, đã làm thay đổi cả thế giới! Con có thể đang mỉm cười và khi mẹ đánh, con bắt đầu khóc, và khi con nhìn xung quanh thấy buồn thế. Thầy cần bút vẽ và tranh vẽ và tất cả mọi điều này; mẹ con chẳng cần gì cả."

Bạn nói, "Liệu có thể việc khóc là lễ hội của tôi vào khoảnh khắc đó không?" Nếu bạn cảm thấy phúc lạc trong khi khóc, không hại gì. Điều đó hoàn toàn đẹp. Nước mắt có thể là từ niềm vui, từ tình yêu. Nước mắt có thể chỉ ra rằng bạn quá tràn đầy với cái gì đó tới mức bạn bắt đầu tuôn ra nước mắt. Nó không nhất thiết là buồn rầu, nó không cần tang tóc; nó có thể là hân hoan. Điều đó tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Và bạn phải cảm thấy nó là gì, bởi vì bạn sẽ hoàn toàn chắc chắn liệu nước mắt của bạn có bắt nguồn từ thất vọng, từ buồn bã, hay chúng bắt nguồn từ tình yêu, niềm vui, lời cầu nguyện.

Nước mắt là một trong những điều bí ẩn nhất bạn có. Chúng có thể có tất cả mọi mầu sắc của cầu vồng. Điều đó tuỳ thuộc vào tâm thức của bạn, bạn cho chúng mầu sắc nào.

Tôi đã nghe một câu chuyện rất hay. Đó là sinh nhật của Julius Caesar, và sau bữa sáng các nghị viên La mã rất muốn ông ấy cùng đi xe ngựa với họ để xem sự hiện diện của họ với ông ấy.

Caesar vui mừng thấy toàn thể con đường xe đi vào lâu đài hoàng đế được dóng hàng bởi những người Ki tô giáo bị đóng đinh trên cây chữ thập. Khi họ đi dọc qua, Caesar làm cho đám rước dừng lại bất thần. "Người kia!" ông ta kêu lên. "Người đó phải vẫn còn sống - môi anh ta đang động đậy. Ta muốn nghe anh ta nói gì."

Các nghị viên đỡ Caesar trên vai mình. "Gần nữa vào, gần nữa vào!" ông ta kêu to lên. "Ta không thể nghe được."

Cuối cùng, với tai mình gần chạm vào môi người này, ông ta nghe thấy, "Chúc mừng sinh nhật ông."

Người ta có thể thay đổi mọi tình huống. Bây giờ người đó đang bị đóng đinh, nhưng người đó không có phàn nàn. Trong vài phút nữa người đó có thể chết, nhưng trái tim người đó vẫn muốn nói, "Chúc mừng sinh nhật ông."

Và người đó phải đã làm cho Caesar bối rối; người đó phải đã tạo ra ấn tượng sâu sắc lên ông ta. Từ ngày đó trở đi, người Ki tô giáo không bị đóng đinh nữa vào thời của Caesar. Ông ta cảm thấy khiêm tốn thế. Ông ta cảm thấy tiếc thế về điều mình làm cho những con người đẹp đẽ này, người có khả năng vui sướng trong ngày sinh của ông ấy và đang bị đóng đinh trong hiện tại. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn, Paro.

Ông già Finkelstein nghi ngờ rằng người hầu của mình đã đánh cắp xì gà và gọi to anh ta ở phòng bên, "James, anh đã đánh cắp xì gà của tôi." Không có trả lời cho nên ông ta nhắc to hơn. Vẫn không có trả lời, thế là ông ta đi sang phòng bên và chạm trán với người hầu. "James," ông ta nói, "Anh không nghe thấy tôi nói với anh vừa mới rồi sao?"

"Không, thưa ông," người hầu đáp, "phải có gì đó sai với âm học."

"Thật chứ," Finkelstein nói. "Thôi được, anh sang cửa bên và nói điều gì đó và chúng ta sẽ thấy liệu tôi có thể nghe được nó hay không."

James đi sang phòng bên và hét lên với hết mức tiếng của mình, "Thằng chó đẻ béo nào đó đã xoay quanh vợ tôi."

Rồi anh ta quay lại. "Ông ấy có nghe thấy tôi không, thưa ông ấy?" anh ta hỏi một cách lãnh đạm.

"Anh phải đấy, James" Finkelstein đáp, đỏ mặt bẽn lẽn, "Tôi không thể nghe được lấy một lời. Hút xì gà đi."

Nếu bạn cảm thấy phúc lạc, an bình, im lặng trong việc khóc của mình, trong nước mắt của mình, và nếu sau nước mắt bạn cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhõm khỏi gánh nặng nào đó, điều đó là hoàn toàn tốt. Đừng cố gắng dừng nó lại... bởi vì nhân loại đã được cho huấn luyện sai về biết bao nhiêu điều đến mức nó đã không để cho bất kì người nào tự nhiên. Mọi người đều đã trở thành nhân tạo, và đặc biệt là đàn ông - mọi xã hội đều buộc họ không được khóc; điều đó chống tính chất đàn ông của bạn.

Đàn bà khóc là được. Họ không thuộc vào địa vị bạn, họ là công dân hạng hai. Nhưng bạn, là công dân hạng nhất, phải bầy tỏ sự mạnh mẽ của mình. Nước mắt của bạn để lộ sự yếu đuối của bạn. Nhưng nếu bạn trong hàng nghìn năm liên tục dạy cho mọi trẻ con điều vô nghĩa thế, nó bắt đầu kìm giữ nước mắt của nó lại. Không ai muốn bị phơi bầy như kẻ yếu đuối. Nhưng chân lí đơn giản là, tự nhiên đã cho bạn đích xác cùng tuyến nước mắt như tự nhiên đã cho phụ nữ.

Và nếu tự nhiên được lắng nghe, thế thì việc dừng nước mắt của bạn là điều nguy hiểm. Không chỉ nước mắt sẽ bị dừng - bạn sẽ trở nên kém nhạy cảm hơn, bạn sẽ trở nên ít đáng yêu hơn. Bạn sẽ trở nên khắc nghiệt hơn, bạn sẽ trở nên độc ác hơn, bạn sẽ trở thành người tàn bạo. Điều này sẽ là kết quả của một việc đơn giản. Bạn sẽ thần kinh, tâm thần - đàn ông vào nhà thương điên bốn lần nhiều hơn đàn bà. Và lí do là ở chỗ đàn bà biết cách kêu khóc. Họ biết cách trút bỏ gánh nặng và căng thẳng được làm nhẹ đi qua nước mắt.

Đàn ông liên tục tích luỹ rồi một ngày điều đó thành quá trễ. Thế thì hoặc người đó nhảy từ toà nhà sáu mươi tầng và kết thúc mình...

Có những người kì lạ. Một người nhảy từ tầng tám mươi và anh ta trôi qua cửa sổ nơi bạn anh ta đang đứng. Người bạn nói "Tạm biệt nhé," và người kia cũng vẫy tay. Ngay khi anh ta nằm dài trên đất, mọi sự kết thúc.

Mọi người chạy tới bạn anh ta và nói, "Anh có thấy cái gì không?" Còn anh ta nói, "Có." Họ nói, "Bạn anh đã tự tử!"

Anh ta nói, "Điều này thật lạ, bởi vì chỉ mới vài phút trước, anh ta còn hoàn toàn ổn. Khi anh ấy trôi qua cửa sổ nhà tôi, chúng tôi thậm chí còn nói lời chào nhau nữa."

Đàn ông đã bị ngăn cản không cho được tự nhiên để cho đàn ông có thể bị làm thành người lính, để cho anh ta có thể bị làm thành một nhân cách khắc nghiệt hơn, để cạnh tranh trong thế giới. Vì đàn bà không định cạnh tranh trong thế giới, và cô ấy không tham gia chiến tranh, nên không có nhu cầu. Cô ấy có thể được phép kêu và khóc. Điều đó đã trở thành phân biệt, rằng chính tính đàn ông là không khóc lóc, không kêu rên.

Điều đó đơn giản chống tự nhiên. Đàn bà không phát điên thế bởi vì trong nước mắt họ ném đi tất cả mọi căng thẳng của mình. Họ không tích chứa tới điểm mà nó vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của họ và mọi thứ đi tới sụp đổ.

Đích xác số đàn ông tự tử gấp bốn lần, mặc dầu ít nhất đàn bà doạ tự tử gấp bốn mươi lần. Nhưng họ không làm. Đàn bà vẫn còn trên con đường gần với tự nhiên hơn bởi vì họ bị tước đoạt trong việc tham dự vào cuộc vật lộn quyền lực của đàn ông. Một cách trá hình, tai hoạ này tỏ ra là phúc lành.

Đàn ông đã làm cho mình ngày một căng thẳng, thần kinh hơn - và rồi đến một điểm mà cuộc sống trở thành nặng nề, mỗi khoảnh khắc như tra tấn, đến mức tốt hơn cả là tự tử.

Đàn bà chỉ nói về điều đó. Cho dù đôi khi họ cố gắng tự tử bằng những viên thuốc ngủ - không nhảy lầu, bởi vì điều đó là nguy hiểm - họ sẽ chỉ uống vài viên thuốc ngủ sẽ đủ quấy rầy chồng và sẽ làm cho anh ta bị xỏ mũi hơn, bởi vì anh ta bao giờ cũng còn tỉnh táo rằng toàn thể hàng xóm sẽ lên án anh ta..."Anh phải đã đối xử với vợ quá tệ; bằng không thì tại sao cô ấy tự tử?"

Bác sĩ giận dữ, còn người vợ tận hưởng giấc ngủ ngon! Thỉnh thoảng đàn bà, chỉ bởi nhầm lẫn, uống quá nhiều viên thuốc - đấy không thực là chủ ý, chỉ là nhầm lẫn.

Tận hưởng nước mắt mình, điều đó là tốt, Paro. Và đừng giữ chúng chỉ vì căng thẳng và lo âu và thất vọng và những khoảnh khắc buồn rầu. Không, đó là cách dùng sai chúng. Dùng chúng khi bạn đang yêu. Dùng chúng khi bạn cảm thấy an bình. Dùng chúng khi bạn thấy cảnh mặt trời lặn đẹp.

Có thể nói được gì về mặt trời lặn? Điều đó sẽ là không hiểu được theo bất kì ngôn ngữ nào? Nhưng có lẽ, nước mắt của bạn sẽ được hiểu. Khi bạn thấy một đoá đẹp, làm sao bạn có thể cưỡng lại việc chảy ra vài giọt nước mắt rằng sự tồn tại đẹp thế? Nếu bạn thấy một Phật Gautam và bạn không có nước mắt trong mắt mình, bạn đang đối xử một cách phi nhân tính, phi tự nhiên. Thấy Phật Gautam, bạn phải trong lễ hội - ít nhất một trong chúng ta đã đạt tới tiềm năng tối thượng của bản thể mình, và ông ấy là một bằng chứng rằng chúng ta cũng có thể đạt tới được.

Bạn cũng đang nói, Paro này, "Khi tôi nhìn thầy, tim tôi quay từ bên trong ra và toàn bộ ánh trăng vỡ lỏng ra, để tôi bất lực. Thưa thầy kính yêu, ai đang khóc lóc vậy? "

Nó là bản thể nguyên thuỷ của bạn. Cái giả chưa bao giờ kêu khóc cả. Cái đạo đức giả chưa bao giờ khóc cả. Nó là cái nguyên bản, cái đích thực.

Đây là toàn bộ mục đích của giao cảm đang xảy ra ở đây - để rơi vào trong đồng bộ với trái tim tôi. Một cách tự nhiên trái tim bạn sẽ phải thay đổi. Nó sẽ phải lấy nhịp điệu mới, hài hoà mới, bước sóng mới. Và cũng tự nhiên mà cảm thấy bất lực bởi vì bạn đã từng được bảo rằng nước mắt là dấu hiệu của yếu đuối, bất lực. Nước mắt là sức mạnh của bạn, không phải là bất lực.

Nước mắt chỉ ra rằng bạn sống động, rằng bạn đã không bị co lại và làm mất mọi nhựa sống của mình. Nước mắt chỉ ra rằng trái tim bạn vẫn còn cảm giác, vẫn còn có thể nhảy múa, vẫn còn có thể vui mừng.

Có một bức tượng của Mahavira ở Rajasthan. Nó rất nổi tiếng bởi vì nó được làm từ một tảng đá rất kì lạ - không tìm thấy được ở Ấn Độ, mà tìm thấy ở châu Phi. Ai đó phải đã đem tảng đá đó tới. Nhưng ở Ấn Độ nó đã trở thành phép màu bởi vì nó vã mồ hôi, nước mắt chảy ra từ mắt. Và những người theo Mahavira, tự nhiên, bị ấn tượng sâu sắc. Họ nghĩ có lẽ do từ bi ông ấy đang khóc vì chúng ta.

Một người đàn bà đã tới tôi và cô ấy nói, "Tôi chưa bao giờ bị ấn tượng bởi bất kì cái gì nhiều như nước mắt chảy ra từ bức tượng đá của Mahavira."

Tôi nói, "Bạn đừng hiểu lầm; tôi đã thấy bức tượng đó..." Bức tượng đó ở giữa một cái hồ - một ngôi đền nhỏ, một ngôi đền hở, chỉ có cột thôi. Và bởi vì bức tượng xốp, khi hơi nước bốc lên từ hồ do mặt trời nóng - mà Rajasthan rất nóng, nó là vùng sa mạc - bức tượng xốp liên tục hấp thu nhiều hơi nước đến mức hơi nước chuyển động quanh. Bạn sẽ không thấy rằng trong mùa hè bức tượng này có mồ hôi hay nước mắt hay bất kì cái gì, nhưng trong mùa đông khi trời lạnh hơi nước mà nó đã hấp thu bắt đầu trở thành nước. Bởi vì cái lạnh, chúng bắt đầu chảy ra từ đá.

Tôi bảo người đàn bà đó, "Bạn bị ấn tượng bởi nó, và bạn không bị ấn tượng bởi hàng triệu người đang khóc sao? Và tảng đá đó chẳng làm gì cả khi có liên quan tới từ bi, nó chỉ là một loại đá không có sẵn ở Ấn Độ."

Cô ấy rất choáng bởi vì tôi đã làm tổn thương tới tình cảm tôn giáo của cô ấy. Tôi nói, “Tôi không làm tổn thương tình cảm tôn giáo của bạn đâu. Tôi chỉ làm cho bạn nhận biết rằng nếu bạn có thể bị ấn tượng nhiều đến thế bởi nước mắt của một tượng đá, thế còn những người đang sống thì sao?"

Nhưng nước mắt là điều kiêng kị - một trong những điều đã bị kìm nén cho tới giờ. Người ta trích dẫn Friedrich Nietzsche khi nói rằng ông ấy mỉm cười bởi vì ông ấy sợ nếu ông ấy không mỉm cười thì ông ấy sẽ bắt đầu khóc và nước mắt sẽ trào ra từ mắt ông ấy. Nụ cười của ông ấy chỉ là sự bảo vệ, nó giữ cho ông ấy bận bịu, ông ấy vẫn còn với nụ cười giả tạo để cho nước mắt đích thực không thể trào ra. Một cách tự nhiên, với người Đức, đấy là vấn đề về tính đàn ông. Làm sao người Đức có thể kêu rên và khóc lóc và rơi nước mắt được?

Nhưng dù ít dù nhiều thì tất cả mọi đàn ông trên khắp thế giới đều là người Đức cả. Họ tất cả đều mang nam tính, cố gắng áp đặt tính thượng đẳng của đàn ông lên đàn bà. Nhưng tôi nói với bạn, nước mắt của các bạn còn có giá trị hơn rất nhiều sự chi phối của đàn ông. Tính thượng đẳng của anh ta chẳng là gì cả. Anh ta chịu khổ nhiều bởi vì thái độ ngu xuẩn này. Cho phép nước mắt đó đi. Chúng không phải là bất lực, chúng là của niềm vui mênh mông.

Và bạn hỏi, "Ai đang khóc vậy?" Đó là bạn trong nguyên bản của mình, không phải bạn trong nhân cách của bạn.

"Con bỏ nhà đây," Giovanni kêu to với bố mẹ mình. "Con muốn rượu, đàn bà, phiêu lưu." Ông bố già của anh ta đứng dậy khỏi chiếc ghế của mình, “Và bố đừng có mà ngăn cản con," Giovanni khóc lóc.

"Ai định ngăn cản con?" Ông già than thở. "Bố cũng đi cùng con!"

Chỉ một chút ít hiểu biết thêm về tất cả mọi tình cảm, xúc động của bạn - chúng tất cả đều có chỗ nào đó trong sự hài hoà toàn bộ của bản thể bạn. Nhưng chúng ta đã bị giữ gần như mù với những tiềm năng, chiều hướng riêng của mình. Tỉnh táo thêm chút nữa về mọi thứ đi, và nhớ rằng tự nhiên là siêu đẳng còn phi tự nhiên là rởm và Mĩ.

Rabbi Finklebaum chưa bao giờ đánh bạc trong cuộc đời mình, cho nên một hôm ông ta tới cuộc đua ngựa chỉ để biết kinh nghiệm. Trước cuộc đua thứ nhất ông ta thấy một linh mục ra dấu hiệu đặc biệt nào đó về một con ngựa và thế rồi ông ta thấy một giáo sĩ đặt mười đô la cho con ngựa thắng. Chưa hết ngạc nhiên, con ngựa này quả thắng cuộc đua. Thế là ông ấy theo viên linh mục này và quan sát ông ta ra dấu hiệu trên con ngựa khác. Lần này giáo sĩ bước ra và đặt năm mươi đô la cho con ngựa này và ông ta thắng với tỉ lệ một ăn mười.

Lần nữa ông ấy theo viên linh mục và thấy ông ta ra dấu hiệu kì lạ trên con ngựa khác, thế là ông kia bước ra và đặt cả năm trăm đô la ông ta đã thắng ở cuộc đua trước cho con ngựa này. Ông ấy chạy về chỗ đứng để theo dõi cuộc đua, hi vọng làm ra một tài sản lớn, nhưng lần này con ngựa ông ấy ủng hộ bị ngã ngay trước hàng rào đầu tiên và chết.

Ông giáo sĩ chạy ra và tìm thấy viên linh mục. “Trông đây này,” ông giáo sĩ nói, “Tất cả những điều đó có ý nghĩa gì? Hai con ngựa đầu ông đã làm dấu hiệu để thắng, và thế rồi con ngựa thứ ba ngã ngay hàng rào đầu tiên và tôi mất hết mọi tiền bạc của mình. Chuyện gì tiếp đây?"

"Tôi rất tiếc, thưa ông giáo sĩ," ông linh mục nói, "nhưng tôi chẳng thể giúp gì được nếu ông không biết sự khác biệt giữa ân huệ và nghi lễ cuối cùng."

Có nhiều hiểu lầm thế. Bạn không biết cái gì là thực, cái gì không thực. Bạn không biết cái gì bị người khác áp đặt lên bạn và cái gì bạn đã mang từ bản thân sự tồn tại như một món quà.

Bạn phải tinh tường, và bao giờ cũng chọn cái tự nhiên. Cho dù điều đó có chống mọi truyền thống, mọi tôn giáo, mọi nền văn hoá, đừng lo nghĩ: ngoại trừ cái tự nhiên, không có tính tôn giáo đích thực ở đâu cả. Ngoài trừ sự tồn tại, không có cái gì thiêng liêng mà bạn có thể tìm thấy... trong Kinh Thánh, trong Koran, trong Gita.

Chỉ quan sát - bên trong bạn là tự nhiên, bên trong bạn là sự tồn tại. Bao giờ cũng theo nó, và bạn sẽ chẳng bao giờ đi sai. Mang tính tự nhiên, hài hoà với sự tồn tại, là tâm linh đích thực.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post