Read more
Vigyan Bhairav
Mật Tông Tập 3 - Osho
Sách về các Bí mật:
Bình luận mới
Chương 52. Đi vào khoảnh khắc này
Câu hỏi 1
Đêm hôm trước thầy đã nói rằng triết học là
phản thiền. Nhưng mặt khác thầy đồng ý rằng triết học phương đông như Mật tông,
Yoga và Vedant, là tác phẩm của các hiền nhân đã chứng ngộ. Tại sao những hiền
nhân đã chứng ngộ này để lại sau họ một cấu trúc vững chắc về suy tư triết học,
nếu triết học là phản thiền?
Triết học không phải là darshan. Darshan là thuật ngữ phương đông. Darshan ngụ ý nhìn thấu, triết học ngụ ý suy nghĩ. Herman Hesse đã phát minh ra thuật ngữ mới để dịch darshan sang ngôn ngữ phương tây. Ông ấy gọi nó là 'philosia - thấu kiến' - 'sia' là từ 'to see-kiến, thấy'.
Triết học ngụ ý suy nghĩ, và darshan ngụ ý nhìn thấu. Cả hai về cơ bản là khác nhau; không chỉ khác, mà đối lập đối xứng. Vì khi bạn suy nghĩ, bạn không thể nhìn thấu được. Bạn bị chất đầy với các ý nghĩ tới mức việc nhìn thấu bị làm mờ đi, việc nhìn thấu bị che mờ. Khi suy nghĩ dừng lại, bạn trở nên có khả năng nhìn thấu. Thế thì mắt bạn mở, chúng không bị che mờ. Nhìn thấu chỉ xảy ra khi suy nghĩ dừng lại.
Với Socrates, Plato và Aristotle, và toàn thể truyền thống phương tây, suy nghĩ là cơ sở. Với Kanad, Kapil, Patanjali, Phật, và toàn thể truyền thống phương đông, nhìn thấu là cơ sở. Cho nên Phật không phải là triết gia, không chút nào; Patanjali cũng không, Kapil hay Kanad cũng không. Họ không phải là triết gia. Họ đã nhìn thấu chân lí; họ đã không nghĩ về nó.
Nhớ rõ rằng bạn chỉ nghĩ khi bạn không thể nhìn thấu. Nếu bạn có thể nhìn thấu, không có lí do gì để suy nghĩ. Suy nghĩ bao giờ cũng trong dốt nát. Suy nghĩ không phải là tri thức, vì khi bạn biết, không có nhu cầu nghĩ. Khi bạn không biết, bạn sẽ lấp kẽ hở bằng suy nghĩ. Suy nghĩ là dò dẫm trong bóng tối. Cho nên triết học phương đông không phải là triết học. Dùng từ triết học cho darshan phương đông là tuyệt đối sai. Nhìn thấu ngụ ý thấy, đạt tới mắt, để nhận ra, để biết - ngay lập tức, trực tiếp, không có trung gian của suy nghĩ và ý nghĩ.
Suy nghĩ không bao giờ có thể dẫn tới cái không biết. Làm sao nó có thể dẫn tới được? Điều đó là không thể được. Chính quá trình suy nghĩ phải được hiểu. Khi bạn nghĩ, bạn thực sự làm gì? Bạn liên tục lặp lại các ý nghĩ, kí ức cũ. Nếu tôi hỏi bạn một câu hỏi - Thượng đế có tồn tại không? - bạn có thể nghĩ về nó. Bạn sẽ làm gì? Mọi thứ bạn đã nghe, mọi thứ bạn đã đọc, mọi thứ bạn đã tích luỹ về Thượng đế, bạn sẽ lặp lại. Cho dù bạn đi tới kết luận mới, cái mới của nó sẽ chỉ là bề ngoài, không thực. Nó sẽ đơn giản là tổ hợp của những ý nghĩ cũ. Bạn có thể tổ hợp nhiều ý nghĩ cũ và tạo ra cấu trúc mới, nhưng cấu trúc đó sẽ là dường như mới, không mới chút nào.
Suy nghĩ không bao giờ có thể đi tới bất kì chân lí nguyên bản nào. Suy nghĩ không bao giờ là nguyên bản; nó không thể thế được. Nó bao giờ cũng là của quá khứ, của cái cũ, của cái đã biết. Suy nghĩ không thể chạm tới cái không biết; nó di chuyển lặp lại trong vòng tròn cái đã biết. Bạn không biết chân lí, bạn không biết Thượng đế. Bạn có thể làm gì? Bạn có thể nghĩ về nó. Bạn sẽ di chuyển trong vòng tròn, loanh quanh. Bạn không bao giờ có thể đi tới bất kì kinh nghiệm nào về nó.
Cho nên nhấn mạnh của phương đông không vào suy nghĩ, mà vào nhìn thấu. Bạn không thể nghĩ được về Thượng đế, nhưng bạn có thể nhìn thấu. Bạn không thể đi tới bất kì kết luận nào về Thượng đế, nhưng bạn có thể nhận ra. Nó có thể trở thành kinh nghiệm. Bạn không thể có được nó qua thông tin, qua tri thức, qua kinh sách, qua lí thuyết và triết lí; không, bạn không thể có được nó. Bạn có thể đi vào trong nó chỉ nếu bạn vứt bỏ mọi tri thức. Mọi điều bạn đã nghe và đã đọc và đã thu thập, mọi bụi mà tâm trí bạn đã thu thập, toàn thể quá khứ, phải bị gạt sang bên. Thế thì mắt bạn là tươi tắn, thế thì tâm thức của bạn không bị che mờ, và thế thì bạn có thể nhìn thấu nó.
Nó là ở đây và bây giờ - bạn bị che mờ. Bạn phải không đi đâu đó khác để tìm điều thiêng liêng hay chân lí - nó là ở đây. Nó ở ngay đó nơi bạn hiện hữu. và nó bao giờ cũng hiện hữu như vậy - chỉ bạn bị che mờ, mắt bạn bị nhắm. Cho nên vấn đề là không nghĩ thêm; vấn đề là làm sao đi tới tâm thức vô suy nghĩ. Đó là lí do tại sao tôi nói rằng thiền và triết lí là phản lẫn nhau. Triết lí suy nghĩ, thiền đi tới tâm thức vô suy nghĩ. Và triết học phương đông không phải thực sự là triết học. Ở phương Tây, triết học tồn tại; ở phương Đông, chỉ việc nhận ra có tính tôn giáo tồn tại.
Tất nhiên, khi một Phật xảy ra, hay một Kanad hay một Patanjali xảy ra, khi ai đó đi tới nhận ra điều tuyệt đối, người đó nêu ra những phát biểu về nó. Những phát biểu đó là khác với phát biểu theo kiểu Aristotle, khác với các kết luận triết lí phương tây. Khác biệt là ở điều này: một Kanad, một Phật, đầu tiên đi tới nhận ra - việc nhận ra là điều đầu tiên - và thế rồi ông ấy làm ra phát biểu về nó. Kinh nghiệm là đầu tiên, và thế rồi ông ấy diễn đạt nó. Aristotle, Hegel và Kant, họ nghĩ, và thế rồi qua suy nghĩ và biện luận logic và biện chứng, họ đạt tới kết luận đặc thù. Những kết luận này được đạt tới qua suy nghĩ, qua tâm trí, không qua bất kì thực hành thiền nào. Thế rồi họ làm ra các khẳng định, thế rồi họ làm ra các phát biểu. Nguồn là khác.
Với vị phật, phát biểu của ông ấy chỉ là phương tiện để trao đổi. Ông ấy không bao giờ nói rằng qua trao đổi của ông ấy bạn sẽ đạt tới chân lí. Nếu bạn có thể hiểu phật, điều đó không ngụ ý bạn đã đạt tới chân lí; điều đó đơn giản ngụ ý bạn đã thu thập tri thức. Bạn sẽ phải đi qua thiền, cực lạc sâu, những vũng sâu của tâm trí, chỉ thế thì bạn sẽ đi tới chân lí.
Cho nên chân lí được đạt tới qua kinh nghiệm có tính tồn tại nào đó. Nó có tính tồn tại, nó không có tính tâm trí. Bạn phải thay đổi từ biết nó thành sống nó. Nếu bạn vẫn còn như cũ và liên tục thu thập thông tin, bạn sẽ trở thành học giả lớn, triết gia, nhưng bạn sẽ không được chứng ngộ. Bạn sẽ vẫn còn là con người cũ; sẽ không có chuyển hoá.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng triết học là một chiều. Thiền là ngược lại hoàn toàn, chính cái đối lập, chiều đối lập cực. Cho nên đừng nghĩ về sống; thay vì thế, sống nó trong chiều sâu. Và đừng nghĩ về các vấn đề tối thượng; thay vì thế, đi vào chính khoảnh khắc này trong cái tối thượng. Và cái tối thượng không ở trong tương lai. Nó bao giờ cũng có đó vô thời gian.
Ai đó cũng đã hỏi một câu hỏi tương tự. Người đó đã hỏi:
Câu hỏi 2
Vấn đề có thể được giải quyết qua suy nghĩ
không?
Vâng, một số vấn đề nào đó có thể được giải quyết qua suy nghĩ - chỉ những vấn đề được tạo ra bởi suy nghĩ có thể được giải quyết bởi nó. Nhưng không vấn đề thực nào có thể được giải quyết bởi nó, không vấn đề được sống nào có thể được giải quyết bởi nó. Vấn đề thực không được tạo ra bởi nó; nó có đó trong bản thân sự sống. Suy nghĩ sẽ không giúp gì mấy. Chỉ theo một cách nào đó suy nghĩ có thể giúp bạn, và giúp đỡ đó là giúp đỡ qua suy nghĩ và suy nghĩ và suy nghĩ, bạn sẽ loạng choạng vớ phải chân lí rằng suy nghĩ là vô tích sự. Và khoảnh khắc bạn nhận ra rằng suy nghĩ là vô tích sự với các vấn đề có tính tồn tại, nó đã giúp bạn theo cách nào đó. Chính là qua suy nghĩ mà bạn đã đi tới việc nhận ra này.
Nhưng vấn đề được tạo ra bởi suy nghĩ có thể được giải quyết bởi bản thân việc suy nghĩ. Chẳng hạn, vấn đề toán học: nó có thể được giải bằng suy nghĩ, vì toàn thể toán học được tạo ra bởi suy nghĩ. Chẳng hạn, nếu không có con người trên trái đất, sẽ có toán học không? Sẽ không có toán học. Với sự biến mất của tâm trí con người, toán học sẽ biến mất. Không có toán học trong sự sống và sự tồn tại. Trong vườn, cây có đó, nhưng khi bạn đếm, một, hai, ba, ba, ba cây không có đó, vì ba là thứ tâm trí. Cây có đó, nhưng con số không có đó. Con số là trong tâm trí bạn. Nếu bạn không có đó, cây sẽ có đó, nhưng không có ba cây, chỉ có cây. Ba là số lượng được tâm trí cho, nó là số lượng được phóng chiếu.
Tâm trí tạo ra toán học, cho nên bất kì vấn đề toán học nào được giải bằng tâm trí, nó sẽ được giải bằng suy nghĩ. Nhớ, bạn không thể giải được bài toán toán học qua vô suy nghĩ. Không thiền nào sẽ giúp ích, vì thiền sẽ làm tan biến tâm trí, và cùng với tâm trí toàn thể toán học sẽ tan biến. Cho nên có những vấn đề được tạo ra bởi tâm trí; chúng có thể được giải quyết. Nhưng có những vấn đề không được tạo ra bởi tâm trí, mà có tính tồn tại. Những vấn đề đó không thể được giải bằng tâm trí. Bạn sẽ phải đi sâu vào trong bản thân sự tồn tại.
Chẳng hạn, yêu. Nó là vấn đề có tính tồn tại. Bạn không thể giải nó bằng suy nghĩ; thay vì thế, bạn sẽ bị phân vân nhiều hơn. Bạn càng nghĩ, bạn càng ít trong tiếp xúc với cội nguồn của vấn đề. Thiền sẽ giúp đỡ. Nó sẽ cho bạn sáng suốt, nó sẽ dẫn bạn tới rễ vô thức của vấn đề. Nếu bạn nghĩ về nó, bạn sẽ vẫn còn trên bề mặt.
Cho nên nhớ, vấn đề sống không thể được giải quyết bằng suy nghĩ. Ngược lại, thực sự, vì suy nghĩ quá nhiều bạn đang bỏ lỡ mọi giải pháp, và càng nhiều vấn đề được tạo ra. Chẳng hạn, chết. Chết không phải là vấn để được tạo ra bởi suy nghĩ; bạn không thể giải được nó bằng suy nghĩ. Bất kì cái gì bạn nghĩ, làm sao bạn có thể giải được nó? Bạn có thể hỏi ý kiến, và bạn có thể nghĩ rằng an ủi là giải pháp - nó không phải vậy. Bạn có thể tự lừa dối bản thân bạn; điều đó là có thể qua suy nghĩ. Bạn có thể tạo ra những giải thích, và qua giải thích bạn có thể nghĩ rằng bạn đã giải được nó. Bạn có thể trốn khỏi vấn đề qua suy nghĩ, nhưng bạn không thể giải được nó. Và thấy sự phân biệt này rõ ràng đi.
Chẳng hạn, chết có đó. Người yêu của bạn chết, hay bạn của bạn, hay con gái của bạn - chết có đó. Bây giờ bạn có thể làm được gì? Bạn có thể nghĩ về điều đó. Bạn có thể nghĩ và bạn có thể nói rằng hồn là bất tử - vì bạn đã đọc điều đó. Trong Upanishads có nói rằng hồn là bất tử, chỉ thân thể chết. Bạn không biết nó chút nào, vì nếu bạn thực sự biết, không có vấn đề gì - hay vẫn có vấn đề? Nếu bạn thực sự biết rằng hồn là bất tử, thế thì chết đã không xuất hiện; không có vấn đề chút nào. Nhưng vấn đề có đó: chết đã xuất hiện, và bạn bị bối rối và ở sâu trong buồn phiền. Bây giờ bạn muốn thoát khỏi buồn phiền này. Bây giờ bằng cách nào đó bạn muốn quên buồn phiền này.
Bạn có thể lấy lời giải thích rằng hồn là bất tử - bây giờ đây là thủ đoạn thôi. Không phải là hồn không là bất tử - tôi không nói điều đó - nhưng với bạn đây là thủ đoạn. Bạn đang cố lừa bản thân bạn. Bạn đang trong buồn phiền, và bây giờ bạn muốn thoát khỏi buồn phiền này, cho nên lời giải thích này sẽ giúp ích. Bây giờ bạn có thể an ủi bản thân bạn rằng hồn là bất tử, không ai chết, chỉ thân thể chết - cũng dường như người ta thay quần áo, hay người ta đổi chỗ ở - cho nên từ nhà này sang nhà khác hồn đã đi qua. Bạn có thể liên tục nghĩ, nhưng bạn không biết bất kì cái gì về nó. Bạn đã nghe, bạn đã thu thập thông tin; nhưng qua những giải thích này bạn sẽ thoải mái. Bạn có thể quên chết.
Thực sự đây không phải là giải pháp cho vấn đề. Không cái gì đã được giải quyết. Ngày hôm sau ai đó khác sẽ chết và cùng vấn đề này sẽ có đó. Lần nữa ai đó sẽ chết và cùng vấn đề này sẽ có đó. Và sâu bên dưới bạn biết rằng bạn sẽ phải chết. Bạn không thể thoát chết được - và sợ có đó. Nhưng bạn có thể liên tục trì hoãn, và bạn có thể liên tục thoát qua giải thích. Điều này sẽ không có tác dụng.
Chết là vấn đề có tính tồn tại. Bạn không thể giải được nó qua suy nghĩ. Bạn có thể tạo ra chỉ các giải pháp. Thế thì làm gì? Thế thì có chiều hướng khác - chiều hướng của thiền; không suy nghĩ, không tâm trạng. Bạn chỉ đương đầu với tình huống.
Chết đã xuất hiện. Người yêu của bạn chết. Đừng chuyển vào suy nghĩ. Đừng mang Upanishads và Gita và Kinh Thánh vào. Đừng hỏi các Christ và chư phật. Bỏ họ một mình đi. Chết có đó: đối diện, đương đầu đi. Hiện hữu cùng với tình huống này một cách toàn bộ. Đừng nghĩ về nó. Bạn có thể nghĩ được cái gì? Bạn chỉ có thể lặp lại rác rưởi cũ. Chết là hiện tượng mới, không biết tới mức tri thức của bạn sẽ không giúp được theo bất kì cách nào. Cho nên gạt tâm trí bạn sang bên đi. Hiện hữu trong thiền sâu cùng với chết.
Không làm bất kì cái gì, vì bạn có thể làm cái gì mà có thể có bất kì giúp đỡ nào? Bạn không biết. Cho nên là dốt nát đi. Không mang tri thức giả, tri thức vay mượn. Chết có đó; bạn hiện hữu cùng nó. Đối diện chết với sự hiện diện toàn bộ đi. Không đi vào trong suy nghĩ, vì thế thì bạn đang trốn khỏi tình huống, bạn đang trở nên thiếu vắng khỏi ở đây. Không nghĩ. Hiện hiện cùng chết đi.
Buồn sẽ có đó, đau buồn sẽ có đó, gánh nặng sẽ ở trên bạn - để nó ở đó đi. Nó là một phần - một phần của sự sống, và một phần của trưởng thành, và một phần của việc nhận ra tối thượng. Vẫn còn với nó, hiện diện toàn bộ. Đây sẽ là thiền, và bạn sẽ đi tới hiểu sâu về chết. Thế thì bản thân chết trở thành sống vĩnh hằng.
Nhưng đừng mang tâm trí và tri thức vào. Vẫn còn với chết; thế thì chết sẽ tự nó khải lộ cho bạn, thế thì bạn sẽ biết chết là gì. Bạn sẽ đi vào trong biệt thự bên trong của nó. Thế thì chết sẽ đem bạn tới chính trung tâm của sống - vì chết là chính trung tâm của sống. Nó không chống lại sống; nó là chính quá trình sống. Nhưng tâm trí mang điều mâu thuẫn là sống và chết là đối lập. Thế thì bạn liên tục suy nghĩ, và vì rễ là giả, việc đối lập là giả, bạn không bao giờ có thể đi tới bất kì kết luận nào mà có thể là đúng và thực.
Bất kì khi nào có vấn đề được sống, hiện hữu với vấn đề này mà không có tâm trí của bạn - đó là điều tôi ngụ ý bởi thiền - và chỉ hiện hữu ở đó cùng với vấn đề sẽ giải quyết nó. Và nếu bạn đã thực sự hiện hữu ở đó, chết sẽ không xuất hiện cho bạn nữa, vì thế thì bạn biết chết là gì.
Chúng ta không bao giờ làm điều này - không bao giờ cùng với yêu, không bao giờ cùng với chết, không bao giờ cũng với bất kì cái gì mà là thực một cách đích thực. Chúng ta bao giờ cũng đi vào trong các ý nghĩ, và ý nghĩ là kẻ làm sai lạc. Chúng được vay mượn, không phải của riêng bạn. Chúng không thể giải thoát bạn. Chỉ chân lí cái là của riêng bạn có thể trở thành việc giải thoát của bạn. Và bạn chỉ có thể đi tới chân lí riêng của bạn qua sự hiện diện rất im lặng. Với bất kì vấn đề gì, điều đó đều thất bại. Suy nghĩ sẽ không giải quyết được vấn đề thực, nhưng suy nghĩ có thể giải quyết những vấn đề không thực được tạo ra bởi bản thân suy nghĩ - vì những vấn đề đó tuân theo qui tắc logic. Sống không tuân theo qui tắc logic. Sống có luật ẩn kín riêng của nó, và bạn không thể ép buộc logic lên chúng.
Một điểm nữa về điều này: bất kì khi nào bạn mang tâm trí vào, tâm trí mổ xẻ, phân tích. Thực tại là một, và tâm trí bao giờ cũng phân chia. Và khi bạn đã phân chia thực tại, bạn đã làm sai lạc nó. Bây giờ bạn có thể vật lộn cả đời bạn - không cái gì sẽ được đạt tới, vì về căn bản thực tại là một và tâm trí đã chia thành hai, và bây giờ bạn đang làm việc với phân chia.
Chẳng hạn, khi tôi nói, sống và chết là một, nhưng với tâm trí chúng là hai và chết là kẻ thù của sống. Nó không phải vậy, vì sống không thể tồn tại mà không có chết. Nếu sống không thể tồn tại mà không có chết, làm sao chết có thể là kẻ thù được? Đó là tình huống cơ bản. Nó làm cho sống thành có thể. Sống phát triển trong nó; nó là hồn. Không có nó sống là không thể được. Nhưng tâm trí, suy nghĩ, phân chia nó ra và đặt nó như một đối lập cực. Thế thì bạn có thể liên tục nghĩ về. Bất kì cái gì bạn nghĩ sẽ là giả, vì ngay ban đầu bạn đã phạm tội - tội phân chia.
Khi bạn thiền, phân chia biến mất. Khi bạn thiền, không thể có phân chia được, vì làm sao bạn có thể phân chia im lặng?
Chúng ta ở đây. Mọi người đang suy nghĩ trong tâm trí riêng của mình về cái gì đó này khác; thế thì chúng ta là khác nhau, mọi người là khác, vì ý nghĩ của bạn là của bạn, và ý nghĩ của tôi là của tôi. Trong tâm trí tôi, tôi có mơ riêng của tôi và bạn có mơ riêng của bạn. Có nhiều cá nhân ở đây, nhưng nếu tất cả chúng ta đang thiền - bạn không suy nghĩ mà tôi cũng không suy nghĩ, việc suy nghĩ đã dừng lại - thế thì sẽ không có nhiều cá nhân. Thực sự, sẽ không có cá nhân chút nào. Nếu tất cả chúng ta đang thiền thế thì các giới hạn đã biến mất.
Khi tôi đang thiền và bạn đang thiền, không có hai người, không thể có được, vì hai im lặng trở thành một. Chúng không thể là hai, vì làm sao bạn có thể phân ranh giới im lặng này với im lặng kia? Bạn không thể phân ranh giới được. Bạn có thể phân ranh giới ý nghĩ nào với ý nghĩ khác, tâm trí này với tâm trí khác, nhưng hai im lặng đơn giản là một - cũng như hai số không. Hai số không không phải là hai; hai số không là một. Bạn có thể để một nghìn số không, nhưng chúng là một.
Thiền đang tạo ra số không bên trong - mọi giới hạn, mọi phân chia biến mất. Và điều đó cho bạn con mắt thực, con mắt thứ ba, darshan-nhìn thấu. Bây giờ bạn có mắt thực để nhìn. Với mắt thực này, thực tại là rõ ràng, mở, được khải lộ. Và với thực tại được khải lộ, không có vấn đề gì.
Câu hỏi 3
Khác biệt gì giữa việc nhìn chăm chăm vào bầu
trời trong mở, nhìn chăm chăm vào ảnh của thầy chứng ngộ, và nhìn chăm chăm vào
cái tối?
Kĩ thuật nhìn chăm chăm không thực sự liên quan tới đối thể; nó liên quan tới bản thân việc nhìn chăm chăm. Vì khi bạn nhìn chăm chăm mà không nháy mắt, bạn trở nên được hội tụ, và bản chất của tâm trí là thường xuyên chuyển động. Nếu bạn thực sự nhìn chăm chăm, không chuyển động chút nào, tâm trí nhất định ở trong khó khăn.
Bản chất của tâm trí là chuyển từ đối thể này sang đối thể khác, chuyển động thường xuyên. Nếu bạn nhìn chăm chăm vào cái tối hay vào cái sáng hay vào cái gì đó khác, nếu bạn thực sự nhìn chăm chăm, chuyển động của tâm trí dừng lại. Vì nếu tâm trí liên tục chuyển động, việc nhìn chăm chăm của bạn sẽ không có đó; bạn sẽ liên tục bỏ lỡ đối thể. Khi tâm trí đã di chuyển đi đâu đó khác, bạn sẽ quên, bạn sẽ không có khả năng nhớ bạn đã nhìn vào cái gì. Đối thể sẽ có đó một cách vật lí, nhưng với bạn nó đã biến mất vì bạn không có đó; bạn đã di chuyển trong ý nghĩ.
Nhìn chăm chăm ngụ ý, tratak ngụ ý, không cho phép ý thức của bạn di chuyển. Và khi bạn không cho phép tâm trí di chuyển, lúc ban đầu nó vật lộn, vật lộn vất vả, nhưng nếu bạn liên tục thực hành nhìn chăm chăm, dần dần tâm trí mất vật lộn. Với nhiều khoảnh khắc nó dừng lại. Và khi tâm trí dừng lại, không có tâm trí, vì tâm trí có thể tồn tại chỉ trong chuyển động, suy nghĩ có thể tồn tại chỉ trong chuyển động. Khi không có chuyển động, suy nghĩ biến mất, bạn không thể nghĩ được, vì suy nghĩ ngụ ý chuyển động - chuyển từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Nó là quá trình.
Nếu bạn nhìn chăm chăm một cách liên tục vào một vật, nhận biết và tỉnh táo đầy đủ đi... vì bạn có thể nhìn chăm chăm qua mắt chết. Thế thì bạn có thể liên tục suy nghĩ - chỉ mắt, mắt chết, không nhìn vào... chỉ với mắt của người chết bạn có thể nhìn vào, nhưng tâm trí bạn sẽ chuyển động. Điều đó sẽ không có bất kì giúp đỡ nào. Nhìn chăm chăm ngụ ý không chỉ mắt bạn, mà toàn bộ tâm trí bạn được hội tụ qua mắt.
Cho nên dù đối thể là bất kì cái gì... Điều đó còn tuỳ: nếu bạn thích sáng, điều đó là được. Nếu bạn có thể thích tối, tốt. Dù đối thể là bất kì cái gì, nó là không liên quan sâu sắc. Vấn đề là dừng tâm trí hoàn toàn trong cái nhìn chăm chăm của bạn, để hội tụ nó, để cho chuyển động bên trong, sự bồn chồn dừng lại; việc vẩn vơ bên trong dừng lại. Bạn đơn giản nhìn, không làm bất kì cái gì. Việc nhìn sâu đó sẽ làm thay đổi bạn hoàn toàn. Nó sẽ trở thành thiền.
Và nó là tốt; bạn có thể thử nó. Nhưng nhớ rằng mắt bạn và ý thức của bạn phải gặp gỡ trong việc hội tụ. Bạn phải thực sự nhìn qua mắt; bạn phải không thiếu vắng ở đó. Sự hiện diện của bạn được cần tới - hiện diện toàn bộ. Thế thì bạn không thể nghĩ được, thế thì suy nghĩ là không thể được. Chỉ có một nguy hiểm: bạn có thể trở thành vô ý thức, bạn có thể rơi vào giấc ngủ. Cho dù với mắt mở vẫn có thể là bạn rơi vào giấc ngủ. Thế thì cái nhìn chăm chăm của bạn sẽ trở thành lạnh lùng như đá.
Lúc ban đầu rắc rối đầu tiên sẽ là ở chỗ bạn sẽ nhìn, nhưng bạn sẽ không hiện diện. Đây là rào chắn thứ nhất. Tâm trí bạn sẽ chuyển động. Mắt bạn sẽ cố định, tâm trí bạn sẽ chuyển động - sẽ không có gặp gỡ của mắt và tâm trí. Đây sẽ là khó khăn thứ nhất. Nếu bạn chiến thắng nó, khó khăn thứ hai sẽ là ở chỗ với việc nhìn chăm chăm không chuyển động, bạn sẽ rơi vào giấc ngủ. Bạn sẽ chuyển vào tự thôi miên, bạn sẽ bị thôi miên bởi bản thân bạn. Điều đó là tự nhiên, vì tâm trí chúng ta chỉ biết hai trạng thái: hoặc chuyển động thường xuyên hoặc ngủ. Tâm trí chỉ biết hai trạng thái một cách tự nhiên: chuyển động thường xuyên, suy nghĩ, hay rơi vào giấc ngủ. Và thiền là trạng thái thứ ba.
Trạng thái thứ ba về thiền ngụ ý tâm trí bạn im lặng như ngủ say, và tỉnh táo và nhận biết như trong suy nghĩ - cả hai điều này phải hiện diện. Bạn phải tỉnh táo, hoàn toàn tỉnh táo, và im lặng dường như sâu trong ngủ. Cho nên Kinh Yoga của Patanjali nói rằng thiền là một loại ngủ say, chỉ với một khác biệt - rằng bạn tỉnh táo. Patanjali coi là tương đương giữa sushupti và samadhi: ngủ say và thiền tối thượng. Khác biệt chỉ là ở chỗ trong ngủ say bạn không nhận biết, và trong thiền bạn nhận biết, nhưng phẩm chất của cả hai là im lặng sâu - im lặng không dậy sóng, không gợn sóng, im lặng không chuyển động.
Lúc ban đầu điều có thể xảy ra là qua việc nhìn chăm chăm bạn có thể rơi vào giấc ngủ. Cho nên nếu bạn đã trở nên có năng lực đem tâm trí của bạn tới hội tụ của bạn và tâm trí không chuyển động, thế thì vẫn còn tỉnh táo đi, đừng rơi vào giấc ngủ. Vì nếu giấc ngủ tới, bạn đã rơi vào trong vực thẳm, cái rãnh. Chỉ ở giữa hai cái rãnh này - suy nghĩ thường xuyên và ngủ - là chiếc cầu hẹp của việc hiện hữu trong thiền.
Câu hỏi 4
Thầy đã nói rằng các thực nghiệm khoa học
là với đối thể, và thực nghiệm tôn giáo là với chủ thể. Nhưng bây giờ có khoa học
mới tăng trưởng, tâm lí học, hay chính xác hơn, tâm lí học chiều sâu, điều là cả
chủ thể và đối thể. Vậy khoa học và tôn giáo gặp nhau trong tâm lí học chiều
sâu.
Chúng không thể gặp gỡ được. Tâm lí học chiều sâu, hay khảo cứu về hiện tượng hồn, vẫn có tính đối thể. Và phương pháp của tâm lí học chiều sâu là phương pháp của khoa học đối thể.
Cố thấy sự phân biệt này. Chẳng hạn, bạn có thể học thiền theo cách khoa học. Bạn có thể quan sát ai đó đang thiền, nhưng thế thì thiền đã trở thành đối thể cho bạn. Bạn thiền và tôi quan sát. Tôi có thể mang mọi dụng cụ khoa học tới để quan sát điều đang xảy ra cho bạn, cái gì đang xảy ra trong bạn, nhưng khảo cứu này vẫn còn có tính đối thể. Tôi ở bên ngoài. Tôi không thiền. Bạn thiền; bạn là đối thể và bạn là đối thể với tôi.
Thế rồi tôi có thể cố hiểu cái gì đang xảy ra cho bạn. Ngay cả qua dụng cụ nhiều điều có thể được biết về bạn, nhưng điều đó sẽ vẫn còn có tính đối thể và khoa học. Cho nên thực sự, bất kì cái gì tôi đang khảo cứu đều không là điều thực đang xảy ra cho bạn, mà là hiệu quả mà thân thể bạn đang ghi lại.
Bạn không thể xuyên thấu vào vị phật, điều đang xảy ra cho ông ấy, vì thực sự không cái gì xảy ra ở đó. Trung tâm sâu nhất của người chứng ngộ là hư không. Hư không đang xảy ra ở đó. Và nếu không cái gì xảy ra, làm sao bạn có thể khảo cứu nó được? Bạn có thể khảo cứu cái gì đó. Bạn có thể khảo cứu sóng Alpha; điều đang xảy ra cho tâm trí, cho thân thể, cho hệ thống hoá chất, bạn có thể hiểu. Nhưng thực sự sâu bên dưới, khi ai đó trở nên chứng ngộ, không có bất kì cái gì xảy ra. Mọi việc xảy ra đã dừng lại.
Đây là điều được ngụ ý - thế giới đã dừng lại. Bây giờ không có sansar, không có việc xảy ra. Ông ấy hiện hữu dường như ông ấy không hiện hữu. Đó là lí do tại sao Phật nói, 'Bây giờ ta đã trở thành vô atman, vô ngã. Không có người nào bên trong ta. Ta chỉ là trống rỗng. Ngọn lửa đã biến mất, và ngôi nhà là trống vắng.' Không cái gì đang xảy ra. Bạn có thể ghi lại được cái gì từ nó? Nhiều nhất bạn có thể ghi lại rằng không cái gì đang xảy ra. Nếu cái gì đó xảy ra nó có thể được ghi lại theo cách đối thể.
Phương pháp của khoa học vẫn còn là đối thể, và khoa học rất sợ tính chủ thể, bởi nhiều lí do. Khoa học và tâm trí khoa học không thể tin được vào tính chủ thể, vì trước tiên, nó là riêng tư và cá nhân và không người nào có thể đi vào trong nó được. Nó không thể trở thành công khai và tập thể, và chừng nào cái gì đó không là công khai và tập thể, không cái gì có thể được nói về nó. Người đang nói có thể bị lừa, hay có thể đang lừa người khác. Người đó có thể là người nói dối. Hay, người đó có thể chỉ trong ảo tưởng, không phải người nói dối. Người đó có thể nghĩ và tin rằng điều này đã xảy ra cho người đó, và điều này có thể chỉ là ảo tưởng, tự lừa dối.
Cho nên với khoa học chân lí phải có tính đối thể. Người khác phải có khả năng tham gia vào trong nó, để cho chúng ta có thể phán xét liệu nó có xảy ra hay không. Thứ hai, nó phải là điều có thể được lặp lại; nó phải là lặp lại được. Nếu chúng ta đun nước nó bay hơi tại nhiệt độ nào đó - điều đó phải là lặp lại được. Để cho chúng ta lặp lại và lặp lại nó bay hơi ở nhiệt độ nào đó. Nếu nó bay hơi chỉ một lần ở một trăm độ và không bao giờ bay hơi lần nữa, hay lúc thì ở chín mươi độ và lúc thì tám mươi độ, và cùng kết luận phải được đạt tới qua nhiều thực nghiệm lặp lại.
Nhưng việc nhận ra mang tính chủ thể là không lặp lại được - nó thậm chí là không thể dự đoán được. Và bạn không thể mời được nó; nó xảy ra. Bạn không thể ép buộc nó. Bạn có thể đạt tới thiền sâu, bạn có thể có trải nghiệm đỉnh rất phấn chấn, nhưng nếu ai đó nói, 'Lặp lại nó ở đây,' bạn có thể không có khả năng lặp lại nó. Ngược lại, vì ai đó nói, và bạn làm nỗ lực để lặp lại nó, chính nỗ lực này có thể trở thành rào chắn. Thậm chí sự hiện diện của người quan sát có thể gây sao lãng. Bạn có thể không có khả năng lặp lại nó.
Khoa học cần các thực nghiệm đối thể, lặp lại được. Và tâm lí học, nếu nó muốn là khoa học, phải tuân theo các qui tắc khoa học. Tôn giáo có tính chủ thể. Nó không quan tâm tới việc chứng minh bất kì sự kiện nào; thay vì thế, nó quan tâm tới việc đi tới trải nghiệm cá nhân về điều đó. Và điều sâu sắc nhất phải vẫn còn có tính cá nhân, và điều tối thượng phải vẫn còn có tính riêng tư; nó không thể trở thành tính tập thể. Vì chừng nào mọi người còn chưa đi tới trạng thái của người chứng ngộ, nó không thể trở thành tính tập thể. Bạn phải trưởng thành để đạt tới nó.
Cho nên khoa học và tôn giáo thực sự không thể gặp gỡ, vì cách tiếp cận của chúng là khác. Tôn giáo là tuyệt đối riêng tư - mối quan tâm của cá nhân với bản thân người đó. Vì điều này, các nước trong quá khứ đã có nhiều tính tôn giáo hơn các nước khác vẫn còn có tính cá nhân. Đôi khi thậm chí nó còn có vẻ ích kỉ. Mọi người đều quan tâm tới bản thân mình, sự trưởng thành riêng của mình, chứng ngộ riêng của mình; không quan tâm tới người khác, dửng dưng với người khác, dửng dưng với xã hội, các ước định xã hội, nghèo nàn, nô lệ. Mọi người đều quan tâm tới bản thân mình, với sự trưởng thành tới đỉnh tối thượng. Điều đó cũng có vẻ ích kỉ.
Các nước phương Tây nhiều tính xã hội hơn, ít tính cá nhân hơn. Đó là lí do tại sao chính khái niệm về chủ nghĩa cộng sản đã là không thể được với tâm trí Ấn Độ. Chúng ta đã cho một Phật và một Patanjali, nhưng chúng ta không thể cho một Marx. Nó phải tới từ phương Tây nơi xã hội, toàn thể tập thể, là quan trọng hơn cá nhân; nơi khoa học là quan trọng hơn tôn giáo; nơi mà điều xảy ra một cách đối thể là quan trọng hơn điều xảy ra trong riêng tư tuyệt đối của bạn. Điều xảy ra trong riêng tư là tựa mơ cho phương Tây.
Nhìn vào điều này: cái xảy ra một cách công khai chúng ta đã gọi là maya, ảo vọng. Shankara nói toàn thế giới là ảo vọng; duy nhất cái xảy ra sâu bên dưới bên trong bạn, cái tối thượng, Brahma, cái xảy ra ở đó là thực, và mọi thứ là không thực. Hoàn toàn đối lập là thái độ khoa học phương tây: cái xảy ra bên trong bạn là ảo vọng; cái xảy ra bên ngoài là cái thực. Thực tại có đó bên ngoài, và thế giới mơ có đó bên trong.
Đây là hai thái độ - khác biệt, cách tiếp cận đối lập đối xứng tới mức không thể có gặp gỡ. Cũng không có nhu cầu. Chiều hướng của chúng là khác, phạm vi của chúng là khác. Chúng không bao giờ chờm lấp lẫn nhau; không có xung đột chút nào. Và không cần có xung đột. Khoa học làm việc với thế giới đối thể, và tôn giáo làm việc với cá nhân, thế giới chủ thể. Chúng không bao giờ bắt chéo lẫn nhau. Không thể có bất kì xung đột nào.
Và với tôi, khi bạn làm việc với thế giới bên ngoài, làm việc với thái độ khoa học đi. Khi bạn làm việc với bản thân bạn, làm việc với thái độ tôn giáo đi. Và không tạo ra bất kì xung đột nào; không có nhu cầu. Đừng mang khoa học cho thế giới bên trong, và đừng mang tôn giáo cho thế giới bên ngoài.
Nếu bạn mang tôn giáo cho thế giới bên ngoài, bạn sẽ tạo ra hỗn độn. Ở Ấn Độ chúng ta đã tạo ra điều đó - nó là đống lộn xộn. Nếu bạn mang thái độ khoa học cho cái bên trong, bạn sẽ tạo ra điên khùng - phương Tây đã tạo ra nó. Bây giờ phương Tây hoàn toàn thần kinh. Và cả hai đã phạm cùng sai lầm. Đừng làm lẫn lộn hai điều này, và đừng cố đem cái bên ngoài vào cái bên trong, hay đem cái bên trong vào cái bên ngoài. Để tính chủ thể là tính chủ thế và để tính đối thể là tính đối thể. Trong khi bạn đi ra ngoài, có tính khoa học và đối thể, và trong khi bạn đi vào trong, có tính tôn giáo và chủ thế.
Không có nhu cầu tạo ra bất kì xung đột nào. Không có xung đột đâu. Xung đột nảy sinh chỉ vì chúng ta muốn áp đặt một thái độ lên cả hai thực tại. Chúng ta muốn hoặc là khoa học toàn bộ, hoặc là tôn giáo toàn bộ - điều đó là sai. Với đối thể, cách tiếp cận chủ thể sẽ là giả, nguy hiểm, có hại, và ngược lại.
Câu hỏi 5
Thầy đã nói về nhiều phương pháp và kĩ thuật
thế. Sự khao khát thành công trong chúng là rất lớn. Làm sao chúng tôi có thể
vượt qua nôn nóng lớn của chúng tôi?
Hai điều cần được nhớ. Một: tâm linh không thể là kết quả của ham muốn, vì ham muốn là căn nguyên của mọi lo âu và phiền não của chúng ta. Và bạn không thể ra lệnh cho ham muốn của bạn sang cõi tâm linh. Nhưng nó xảy ra, nó là tự nhiên, vì chúng ta chỉ biết một chuyển động - đó là ham muốn. Chúng ta ham muốn mọi thứ của thế giới. Ai đó ham muốn giầu có, ai đó ham muốn nổi tiếng, ai đó ham muốn danh vọng và quyền lực, hay cái gì đó khác. Chúng ta ham muốn mọi thứ của thế giới, và qua việc ham muốn này chúng ta bị thất vọng.
Và chúng ta nhất định bị thất vọng - nó là không liên quan dù ham muốn có được đáp ứng hay không. Nếu nó không được đáp ứng, hiển nhiên chúng ta sẽ bị thất vọng. Nếu nó được đáp ứng, thế nữa chúng ts sẽ bị thất vọng, vì bất kì khi nào một ham muốn được đáp ứng, ham muốn này được đáp ứng, nhưng hi vọng, lời hứa, không được đáp ứng. Bạn có thể có thật nhiều của cải như bạn ham muốn, nhưng của cải đó đã không thực sự được ham muốn; cái gì đó khác đã được ham muốn qua nó - cái đó không bao giờ được đáp ứng.
Bạn có thể đạt tới của cải, nhưng hi vọng vẫn nấn ná xung quanh - mơ về hạnh phúc, về phúc lạc, về cuộc sống cực lạc nào đó - cái đó không được đáp ứng. Nếu của cải không được đạt tới bạn sẽ cảm thấy thất vọng. Nếu của cải được đạt tới thế nữa bạn sẽ cảm thấy thất vọng, vì lời hứa không được đáp ứng, mơ không được đáp ứng. Mọi thứ có đó. Phương tiện có đó, và mục đích đã thoát đi. Mục đích bao giờ cũng khó nắm bắt.
Qua ham muốn người ta đi tới thất vọng sâu sắc. Khi thất vọng này xảy ra bạn bắt đầu tìm cái gì đó tuyệt đối khác hơn thế giới này - mong mỏi tôn giáo được sinh ra, khao khát tôn giáo, nhưng lần nữa bạn bắt đầu ham muốn. Bạn trở nên nôn nóng; bạn muốn đạt tới cái này và cái nọ. Tâm trí đã không thay đổi. Đối thể của ham muốn là khác: nó đã là của cải, bây giờ nó là thiền. Nó đã là quyền lực và danh vọng, bây giờ nó là im lặng và an bình. Trước kia nó đã là cái gì đó, nay nó là cái gì đó khác. Nhưng tâm trí, cái cơ chế này, chính cách làm việc của con người bạn, vẫn là như cũ. Bạn đã ham muốn A, giờ bạn ham muốn B - nhưng việc ham muốn có đó.
Và việc ham muốn là vấn đề, không phải cái bạn ham muốn; cái đó không phải là vấn đề. Cái bạn ham muốn không phải là vấn đề - việc ham muốn của bạn là vấn đề. Bây giờ bạn lại ham muốn và bạn sẽ lại bị thất vọng. Nếu bạn đạt tới, bạn sẽ bị thất vọng. Nếu bạn không đạt tới, bạn sẽ bị thất vọng. Cùng một điều sẽ xảy ra cho bạn, vì bạn đã không có khả năng thấy ra vấn đề, bạn đã bỏ lỡ vấn đề.
Bạn không thể ham muốn thiền được, vì thiền chỉ xảy ra khi không có ham muốn. Bạn không thể ham muốn giải thoát, niết bàn, vì nó chỉ xảy ra trong trạng thái vô ham muốn. Nó không thể được làm thành đối thể của ham muốn. Cho nên với tôi, và với mọi người biết, việc ham muốn là thế giới; không phải là bạn ham muốn các thứ thế gian. Việc ham muốn, chính hiện tượng ham muốn, là thế giới.
Và khi bạn ham muốn, nôn nóng nhất định có đó, vì tâm trí không muốn chờ đợi, tâm trí không muốn trì hoãn. Nó nôn nóng. Nôn nóng là cái bóng của ham muốn. Ham muốn càng mãnh liệt, nôn nóng sẽ càng có đó. Và nôn nóng sẽ tạo ra rối loạn. Cho nên làm sao bạn sẽ đạt tới thiền được? Ham muốn sẽ tạo ra chuyển động của tâm trí, và thế rồi việc ham muốn sẽ tạo ra nôn nóng, và nôn nóng sẽ mang bạn tới nhiều rối loạn hơn.
Cho nên nó xảy ra, và tôi quan sát nó hàng ngày, rằng một người đã sống cuộc sống rất trần tục thì bình thường không bị rối trí thế. Khi người đó bắt đầu thiền, hay tìm kiếm chiều hướng tôn giáo, người đó trở nên bị rối trí hơn, hơn bao giờ. Lí do là ở chỗ bây giờ người đó thậm chí có ham muốn mãnh liệt hơn, nhiều nôn nóng hơn. Và với những điều trần tục, mọi sự đã thực và khách quan tới mức người đó có thể chờ đợi chúng. Họ bao giờ cũng trong việc đi tìm. Bây giờ trong cõi tâm linh mọi sự là khó nắm bắt thế, xa xôi thế, chúng dường như không bao giờ trong tầm với. Cuộc sống dường như rất ngắn, và bây giờ đối thể của ham muốn dường như là vô hạn - có nhiều nôn nóng hơn và thế rồi nhiều rối trí hơn. Và với tâm trí rối tinh, làm sao bạn có thể thiền được?
Cho nên điều này là thách đố. Cố hiểu nó đi. Nếu bạn thực sự bị thất vọng và bạn đã đi tới cảm thấy rằng mọi thứ ở bên ngoài là vô tích sự - tiền hay dục hay quyền hay danh chỉ là vô tích sự - nếu bạn đã đi tới việc nhận ra này, thế thì việc nhận ra sâu hơn cũng được cần tới. Nếu những điều này là vô tích sự, thế thì việc ham muốn thậm chí là vô tích sự hơn: bạn ham muốn và ham muốn và không cái gì xảy ra - và việc ham muốn của bạn tạo ra khổ.
Nhìn vào sự kiện rằng việc ham muốn tạo ra khổ. Nếu bạn không ham muốn, không có khổ. Cho nên bỏ việc ham muốn đi. Và không tạo ra ham muốn mới; đơn giản bỏ việc ham muốn. Không tạo ra ham muốn tâm linh. Không nói, 'Bây giờ mình sẽ đi tìm Thượng đế. Bây giờ mình sẽ đi tìm cái này cái nọ. Bây giờ mình sẽ nhận ra chân lí.' Không tạo ra ham muốn mới. Nếu bạn tạo ra, điều đó chứng tỏ bạn đã không hiểu khổ của bạn.
Nhìn vào khổ mà ham muốn tạo ra. Cảm thấy rằng ham muốn là khổ và bỏ nó. Không nỗ lực nào được cần để bỏ nó. Nhớ, nếu bạn làm nỗ lực bạn sẽ tạo ra ham muốn khác. Đó là lí do tại sao bạn cần ham muốn khác nào đó, vì thế thì bạn có thể bỏ nó. Nếu ham muốn khác nào đó có đó, bạn có thể bám vào nó. Bạn có thể bám vào ham muốn mới và bạn có thể bỏ ham muốn cũ. Bỏ ham muốn cũ là dễ nếu cái mới nào đó được thu lấy, nhưng thế thì bạn đang bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Đơn giản bỏ ham muốn bởi vì nó là khổ, và không tạo ra ham muốn mới.
Thế thì sẽ không có nôn nóng. Thế thì thiền không thực sự được thực hành; nó sẽ bắt đầu xảy ra cho bạn, vì tâm trí vô ham muốn là trong thiền. Thế thì bạn có thể chơi với những kĩ thuật này. Và tôi nói chơi. Thế thì bạn có thể chơi với những kĩ thuật này; không có thực hành. Thực hành không phải là từ tốt, chính từ này là sai. Thế thì bạn có thể chơi với những kĩ thuật này, và bạn có thể tận hưởng việc chơi, vì không có ham muốn đạt tới cái gì đó và không có nôn nóng đạt tới đâu đó.
Bạn có thể chơi, và qua chơi, khi thiền là trò chơi, mọi thứ là có thể. Và mọi thứ là có thể ngay lập tức, vì bạn không bị rối trí, bạn không nôn nóng, bạn không vội vàng gì, bạn không đi đâu đó, không đạt tới đâu đó. Bạn ở đây và bây giờ. Nếu thiền xảy ra, được. Nếu nó không xảy ra, vẫn được. Không cái gì là sai với bạn vì không có ham muốn, không mong đợi, không tương lai.
Và nhớ, khi thiền hay vô thiền là như nhau với bạn, thiền đã xảy ra cho bạn. Bạn đã đạt tới. Bây giờ mục đích đã tới, điều tối thượng đã giáng vào bạn. Điều này sẽ có vẻ kì lạ - rằng tôi nói đừng làm thiền thành việc thực hành, thay vì thế làm nó thành trò chơi, trò vui đùa. Tận hưởng nó trong khi làm nó, không vì bất kì kết quả nào.
Nhưng tâm trí chúng ta rất nghiêm chỉnh, cực kì nghiêm chỉnh. Cho dù chúng ta chơi, chúng ta làm nó thành thứ nghiêm chỉnh. Chúng ta làm nó thành công việc, nghĩa vụ. Chơi hệt như trẻ nhỏ đi. Chơi với các kĩ thuật thiền, và thế thì nhiều thứ nữa là có thể qua chúng. Đừng nghiêm chỉnh về chúng; coi chúng như trò vui đùa. Nhưng chúng ta làm mọi thứ thành nghiêm chỉnh. Cho dù chúng ta chơi, chúng ta làm nó thành nghiêm chỉnh. Và với tôn giáo chúng ta bao giờ cũng rất nghiêm chỉnh. Tôn giáo không bao giờ là trò vui đùa, đó là lí do tại sao trái đất này vẫn còn phi tôn giáo. Tôn giáo phải trở thành trò vui đùa và liên hoan, mở hội - mở hội của khoảnh khắc này, tận hưởng bất kì cái gì bạn đang làm; tận hưởng nhiều và sâu tới mức tâm trí dừng lại.
Nếu bạn thực sự hiểu tôi, 112 kĩ thuật này sẽ chỉ cho bạn rằng mọi thứ có thể trở thành kĩ thuật - nếu bạn thực sự hiểu. Đó là lí do tại sao có 112. Mọi thứ có thể trở thành kĩ thuật nếu bạn hiểu phẩm chất của tâm trí, cái mang tới thiền. Thế thì bất kì cái gì bạn làm đều có thể trở thành kĩ thuật. Là vui đùa đi, mở hội nó, tận hưởng nó. Đi sâu vào trong nó tới mức thời gian dừng lại.
Nhưng thời gian không thể dừng lại nếu ham muốn có đó. Thực sự, ham muốn là thời gian. Khi bạn ham muốn, tương lai được cần, vì ham muốn không thể được đáp ứng ở đây và bây giờ. Ham muốn có thể được đáp ứng chỉ trong tương lai ở đâu đó, cho nên bạn sẽ cần tương lai để chuyển vào. Và thế thì thời gian phá huỷ bạn. Bạn bỏ lỡ cái vĩnh hằng. Vĩnh hằng là ở đây.
Cho nên coi thiền như trò vui đùa, cuộc liên hoan, mở hội của bất kì cái gì. Bạn đang đào hố bên ngoài, trong vườn - nó có thể trở thành kĩ thuật. Đơn giản đào và tận hưởng và mở hội chính hành động này. Trở thành hành động này và quên người hành động đi. Cái 'tôi' không có đó, chỉ hành động còn lại, và bạn hiện diện cho hành động này, hiện diện một cách phúc lạc. Thế thì cực lạc có đó - không nôn nóng, không ham muốn, và không động cơ.
Nếu bạn mang động cơ, ham muốn và nôn nóng vào thiền, bạn sẽ phá huỷ toàn thể sự việc. Và thế thì bạn càng làm, bạn sẽ càng cảm thấy thất vọng. Bạn sẽ nói, 'Tôi đang làm nhiều thế mà chẳng cái gì xảy ra.' Mọi người tới tôi. Họ nói, 'Tôi đang làm điều này và tôi đang làm điều kia, và trong bao nhiêu tháng và bao nhiêu năm rồi, mà chẳng cái gì xảy ra.'
Một người tìm kiếm từ Hà Lan đã ở đây, và anh ấy đã làm một kĩ thuật đặc biệt ba trăm lần mọi ngày. Cho nên anh ta bảo tôi, 'Trong hai năm tôi đã từng làm kĩ thuật này ba trăm lần mọi ngày. Không một ngày nào bị bỏ mất. Tôi đã bỏ mọi thứ, vì tôi phải làm điều này ba trăm lần mọi ngày - và không cái gì đã xảy ra.' Và anh ta ở ngay bên bờ của suy sụp thần kinh, vì kĩ thuật này.
Cho nên tôi nói, 'Điều đầu tiên là bỏ việc này đi. Làm bất kì cái gì dù là bất kì cái gì, nhưng không làm cái này. Bạn sẽ phát điên.' Anh ta hết sức nghiêm chỉnh về nó. Đó là vấn đề sống chết với anh ta. Nó phải được đạt tới.
Và anh ta nói, 'Ai biết bao nhiêu ngày còn lại? Thời gian là ngắn, và tôi phải đạt tới nó trong đời này. Tôi không muốn được sinh ra lần nữa. Cuộc sống là khổ thế.'
Anh ta sẽ được sinh ra lặp đi lặp lại nữa. Cách anh ta đang làm, anh ta sẽ ngày càng phát điên hơn. Nhưng nó là sai - toàn thể thái độ này là sai. Coi thiền như chơi đùa đi, trò đùa, tận hưởng nó, và thế thì chính phẩm chất thay đổi. Thế thì nó không phải là cái gì đó bạn làm như nguyên nhân để thu được kết quả nào đó. Không, bạn đang tận hưởng nó ở đây và bây giờ. Nó là nguyên nhân và nó là hậu quả, cả hai. Nó là bắt đầu và nó là kết thúc.
Và thế thì bạn không thể bỏ lỡ thiền được. Bạn không thể bỏ lỡ nó được, nó sẽ xảy ra cho bạn, vì bây giờ bạn sẵn sàng nhận nó vào. Bạn mở. Không ai đã nói rằng thiền phải được coi như vui đùa, nhưng tôi nói nó đấy. Làm nó thành vui chơi đi. Hệt như trẻ nhỏ, chơi với nó.
Câu hỏi 6
Hôm nọ thầy đã nói rằng tối là nền tảng hơn
cho sự tồn tại, trong khi phần lớn các tôn giáo giữ cái nhìn ngược lại. Xin thấy
rọi thêm chút ánh sáng vào câu hỏi này, đặc biệt theo cách nhìn về điều khoa học
hiện đại phải nói về nó? Nó chẳng đã nói rằng các cấu phân phân chia được cuối
cùng của vật chất chỉ là năng lượng điện đó sao?
Lại cùng phân chia - sáng và tối. Chúng là hai nếu bạn nhìn chúng qua tâm trí. Chúng là một nếu bạn thiền về chúng. Dù bạn thiền về sáng hay về tối, điều đó không tạo ra khác biệt. Nếu bạn thiền, cái kia bị tan biến trong nó. Thế thì sáng không là gì ngoài ít tối và tối không là gì ngoài ít sáng; khác biệt là ở mức độ. Chúng không phải là hai thứ đối lập lẫn nhau; thay vì thế, hai mức độ của một hiện tượng. Và một hiện tượng đó không là sáng không là tối. Cái một đó mà hai thứ này là các mức độ, không là sáng không là tối; hay, nó là cả hai. Bạn có thể đi vào trong nó từ sáng, bạn có thể đi vào trong nó từ tối.
Nhiều tôn giáo đã dùng sáng vì nó thuận tiện hơn, dễ hơn. Tối là khó, không thoải mái, và nếu bạn cố đi vào qua tối, bạn đã chọn con đường gian khó hơn. Đó là lí do tại sao nhiều tôn giáo đã chọn sáng. Nhưng bạn có thể chọn cái nào cũng được; điều đó tuỳ bạn. Nếu bạn là kiểu người thích phiêu lưu, dũng cảm, chọn tối đi. Nếu bạn sợ, và không muốn đi trên con đường gian khó, chọn sáng. Vì cả hai đều thuộc về một hiện tượng mà xuất hiện ở điểm này là sáng, ở điểm kia là tối.
Chẳng hạn, căn phòng này được trút đầy sáng. Nhưng nó không được trút đầy với cùng sáng cho mọi người, hay là có? Nếu mắt tôi yếu thế thì sáng không là sáng như nó là vậy cho bạn. Tôi thấy nó hơi tối hơn. Tưởng tượng nếu ai đó từ sao Hoả tới hay từ hành tinh khác tới, người có mắt rất xuyên thấu. Thế thì chỗ bạn thấy sáng, người đó sẽ thấy nhiều sáng, nhiều sáng hơn bạn thấy. Và chỗ bạn thấy tối, người đó sẽ thấy sáng. Có những con vật và chim thấy được trong đêm chỗ bạn không thể thấy được. Với chúng nó là sáng, với bạn nó là tối.
Vậy sáng là gì? Và tối là gì? - một hiện tượng. Và bạn có thể xuyên thấu vào nó bao nhiêu, và nó có thể xuyên thấu vào bạn bao nhiêu... điều đó tuỳ vào việc xuyên thấu đó liệu bạn gọi nó là sáng hay tối. Các đối lập cực này chỉ dường như là đối lập. Chúng không phải vậy, chúng là các mức độ tương đối của một hiện tượng. Cho nên các nhà khoa học nói rằng các cấu phần phân chia được cuối cùng của vật chất chỉ là năng lượng điện. Nhưng họ không nói chúng là sáng; họ nói năng lượng điện. Tối cũng là năng lượng điện, và sáng cũng là năng lượng điện. Năng lượng điện không đồng nghĩa với sáng. Nếu bạn cho nó cái tên năng lượng điện, thế thì sáng là một cách diễn đạt và tối là cách diễn đạt khác.
Nhưng không có nhu cầu chuyển vào trong thảo luận khoa học về nó. Điều đó vô dụng. Thay vì thế, nghĩ về tâm trí riêng của bạn, điều bạn thích. Nếu bạn cảm thấy thoải mái với sáng, đi vào qua sáng. Đó là cánh cửa của bạn. Nếu bạn cảm thấy thoải mái với tối, đi vào qua tối. Và cả hai sẽ dần tới cùng điều.
Nhiều phương pháp trong 112 phương pháp này có liên quan tới sáng; vài phương pháp có liên quan tới tối. Và Shiva đang cố giải thích mọi phương pháp có thể. Ông ấy không nói tới các kiểu đặc biệt; ông ấy nói tới mọi kiểu. Nhưng có vài người sẽ thích đi vào qua tối. Chẳng hạn, tâm trí nữ tính, thụ động hơn, cảm nhận hơn, sẽ thích đi vào qua tối; nó sẽ là chấp nhận được nhiều hơn. Tâm trí nam tính sẽ thích sáng nhiều hơn.
Bạn có thể đã không quan sát sự kiện rằng nhiều nhà thơ của quá khứ và hiện tại, nhiều triết gia, và nhiều người khác, người có sáng suốt sâu trong tâm trí con người, bao giờ cũng so sánh nữ với tối, và nam với sáng. Sáng là năng nổ, phần tử nam tính; tối là cảm nhận, phần tử nữ tính. Tối là giống bụng mẹ.
Cho nên nó là tuỳ: nếu bạn thích tối, tốt, đi vào qua nó. Nếu bạn thích sáng, đi vào qua nó. Đôi khi ngay cả cái đối lập trở nên hấp dẫn. Bạn có thể thử điều đó nữa. Không có nguy hiểm trong việc thử bất kì cái gì, vì mọi con đường đều dẫn tới cùng mục đích.
Nhưng đừng liên tục nghĩ về chọn cái gì. Đừng phí thời gian; thay vì thế, thử đi. Vì bạn có thể liên tục nghĩ mãi mãi về cái gì sẽ là phù hợp, làm gì và không làm gì, và tại sao nhiều tôn giáo thế đã nhấn mạnh vào sáng, và ít tôn giáo thế nhấn mạnh vào tối. Đừng bị lo nghĩ về những điều này; chúng không giúp đỡ. Thay vì thế, bạn nghĩ về kiểu riêng của bạn đi, về cái gì sẽ là phù hợp cho bạn, trong cái gì bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn, và thế rồi bắt đầu nó.
Và thế rồi quên mọi cái khác đi, vì tất cả 112 phương pháp này không dành cho bạn. Cho dù bạn chọn một phương pháp, với bạn nó là đủ. Bạn không cần đi qua 112 phương pháp; một phương pháp sẽ có tác dụng. Cho nên chỉ là cảm nhận và nhận biết để cho bạn có thể bắt lấy phương pháp dành cho bạn. Bạn không cần bị lo nghĩ về mọi phương pháp khác; điều đó là không cần thiết. Chọn một phương pháp, chơi với nó, và nếu bạn cảm thấy tốt và cái gì đó đang xảy ra, thế thì chuyển vào trong nó và quên tất cả 111 phương pháp khác. Nếu bạn cảm thấy bạn đã chọn sai, thế thì vứt nó đi, chọn phương pháp khác, và chơi với nó. Nếu bạn thử điều này với bốn hay năm hay sáu phương pháp, bạn sẽ rơi vào phương pháp đúng. Nhưng đừng nghiêm chỉnh - chỉ chơi thôi.
Xem tiếp Chương 53 - Quay về Mục lục Tập 3 - Quay về Mục lục Toàn tập
0 Đánh giá