Read more
Vigyan Bhairav
Mật Tông Tập 3 - Osho
Sách về các Bí mật:
Bình luận mới
Chương 54. Lửa nhận biết
Câu hỏi 1
Một thiền nhân mong manh, thụ động, mở và cảm
nhận, cảm thấy rằng với những tính cách này anh ta khổ do ảnh hưởng của những
rung động phi thiền, tiêu cực và căng thẳng quanh anh ta. Xin thầy giải thích
làm sao anh ta có thể gìn giữ hồn mong manh của anh ta khỏi những rung động có
hại.
Nếu bạn thực sự mong manh, không cái gì là tiêu cực với bạn - vì tiêu cực là diễn giải của bạn. Không cái gì là có hại cho bạn - vì cái hại là diễn giải của bạn. Nếu bạn thực sự mở, thế thì không cái gì có thể làm hại bạn, không cái gì có thể được cảm thấy là hại. Bạn cảm thấy cái gì đó là tiêu cực và cái gì đó là có hại vì bạn kháng cự lại, vì bạn chống lại nó, vì không có chấp nhận nó. Điều này phải được hiểu sâu.
Kẻ thù tồn tại ở đó vì bạn đang bảo vệ bản thân bạn khỏi người đó. Kẻ thù có đó vì bạn không mở. Nếu bạn mở, thế thì toàn thể sự tồn tại là thân thiện; nó không thể khác được. Thực sự, bạn thậm chí sẽ không cảm thấy nó là thân thiện - nó đơn giản thân thiện. Không có việc cảm ngay cả rằng nó là thân thiện, vì việc cảm đó chỉ có thể tồn tại cùng với cảm giác ngược lại về thù địch.
Để tôi diễn đạt nó theo cách này: nếu bạn mong manh, điều đó ngụ ý bạn sẵn sàng sống trong bất an ninh. Sâu bên dưới nó ngụ ý bạn sẵn sàng ngay cả chết. Bạn sẽ không kháng cự, bạn sẽ không đối lập, bạn sẽ không ngăn cản. Nếu chết tới, sẽ không có kháng cự. Bạn sẽ đơn giản cho phép nó xảy ra. Bạn chấp nhận sự tồn tại trong tính toàn bộ của nó. Thế thì làm sao bạn có thể cảm thấy nó như là chết được?
Nếu bạn phủ nhận, thế thì bạn có thể cảm thấy nó là kẻ thù. Nếu bạn không phủ nhận, làm sao bạn có thể cảm thấy nó là kẻ thù được? Kẻ thù được tạo ra bởi phủ nhận của bạn. Chết không thể làm hại bạn được, vì hại là diễn giải của bạn. Bây giờ không ai có thể làm hại bạn được; điều đó đã trở thành không thể được.
Đây là bí mật của giáo huấn Đạo. Giáo huấn cơ bản của Lão Tử là thế này: nếu bạn chấp nhận, toàn thể sự tồn tại là cùng với bạn. Nó không thể khác được. Nếu bạn phủ nhận, bạn tạo ra kẻ thù. Bạn càng phủ nhận, bạn càng bảo vệ, kẻ thù càng được tạo ra. Kẻ thù là sáng tạo của bạn. Chúng không có đó bên ngoài; chúng tồn tại trong diễn giải của bạn.
Một khi bạn có thể hiểu điều này, thế thì câu hỏi này không bao giờ có thể nảy sinh. Bạn không thể nói, 'Tôi có tính thiền, tôi mong manh, mở. Cho nên làm sao tôi bảo vệ được bản thân tôi chống lại những rung động tiêu cực quanh tôi?' Không cái gì có thể là tiêu cực bây giờ. Tiêu cực nghĩa là gì? Tiêu cực nghĩa là cái bạn muốn phủ nhận, cái bạn không chấp nhận, cái bạn nghĩ là có hại. Thế thì bạn không mở, thế thì bạn không trong trạng thái thiền.
Câu hỏi này nảy sinh chỉ theo trí tuệ, đây không phải là câu hỏi được cảm thấy. Bạn đã không nếm trải thiền, bạn đã không biết nó. Bạn đơn giản suy nghĩ, và suy nghĩ đó chính là giả định. Bạn giả định, 'Nếu tôi thiền và trở nên mở, thế thì tôi sẽ trong bất an ninh. Các rung động tiêu cực sẽ đi vào trong tôi và chúng sẽ có hại. Thế thì làm sao tôi bảo vệ được bản thân tôi? Đây là câu hỏi giả định. Đừng mang câu hỏi giả định tới tôi. Chúng là vô tích sự, không liên quan.
Thiền, trở nên mở, và thế thì bạn sẽ không bao giờ mang câu hỏi này tới tôi, vì trong chính việc mở, cái tiêu cực sẽ biến mất. Thế thì không cái gì là tiêu cực. Và nếu bạn nghĩ rằng cái gì đó là tiêu cực, bạn không thể trở nên mở được. Chính nỗi sợ về cái tiêu cực sẽ tạo ra việc đóng. Bạn sẽ bị đóng lại; bạn không thể mở được. Chính nỗi sợ rằng cái gì đó có thể gây hại cho bạn... làm sao bạn có thể trở nên mong manh được? Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh sự kiện rằng chừng nào sợ chết chưa biến mất khỏi bạn, bạn không thể trở nên mong manh, bạn không thể là mở được. Bạn sẽ còn bị đóng trong tâm trí riêng của bạn, trong việc cầm tù riêng của bạn.
Nhưng bạn có thể liên tục giả định mọi thứ, và bất kì cái gì bạn giả định đều sẽ sai, vì tâm trí không thể biết được bất kì cái gì về thiền, nó không thể xuyên vào được cõi đó. Khi nó dừng lại hoàn toàn, thiền xảy ra. Cho nên bạn không thể giả định bất kì cái gì, bạn không thể nghĩ được về nó. Hoặc bạn biết nó, hoặc bạn không biết nó - bạn không thể nghĩ về nó.
Là mở đi - và trong chính việc mở của bản thân bạn, mọi cái là tiêu cực trong sự tồn tại biến mất. Thế thì ngay cả chết không là tiêu cực. Không cái gì là tiêu cực. Sợ của bạn tạo ra tính tiêu cực. Sâu bên dưới bạn sợ; vì sợ đó bạn tạo ra các biện pháp an toàn. Chống lại những biện pháp an toàn đó, kẻ thù tồn tại.
Nhìn vào sự kiện này - rằng bạn tạo ra kẻ thù. Sự tồn tại không thù địch với bạn. Làm sao nó có thể vậy được? Bạn thuộc vào nó, bạn chỉ là một phần của nó, một phần hữu cơ. Làm sao sự tồn tại có thể thù địch với bạn được? Bạn là sự tồn tại. Bạn không tách rời; không có kẽ hở giữa bạn và sự tồn tại.
Bất kì khi nào bạn cảm thấy rằng cái tiêu cực, cái chết, kẻ thù, cái ghét có đó, và nếu bạn mở, không bảo vệ, sự tồn tại sẽ phá huỷ bạn, bạn cảm thấy rằng bạn phải bảo vệ cho bản thân bạn. Và không chỉ bảo vệ - vì cách tốt nhất để bảo vệ là có tính công kích, là tấn công. Bạn không thể đơn giản bảo vệ. Khi bạn cảm thấy rằng bạn phải bảo vệ bản thân bạn, bạn trở thành có tính tấn công, vì tấn công, có tính công kích, là cách tốt nhất để bảo vệ bản thân bạn.
Nỗi sợ tạo ra kẻ thù, và thế thì kẻ thù tạo ra bảo vệ, và thế thì bảo vệ tạo ra tấn công. Bạn trở thành bạo hành. Bạn thường xuyên cảnh giác. Bạn chống lại mọi người. Điểm này phải được hiểu: rằng nếu bạn trong sợ, bạn chống lại mọi người. Mức độ có thể khác, nhưng thế thì kẻ thù của bạn và bạn của bạn cả hai đều là kẻ thù của bạn. Bạn có tính chất thù ít hơn một chút, có vậy thôi. Thế thì chồng bạn hay vợ bạn cũng là kẻ thù của bạn. Bạn đã làm ra việc thu xếp, có vậy thôi. Bạn đã trở nên được điều chỉnh. Hay có thể là cả hai bạn có kẻ thù chung và lớn hơn, và chống lại kẻ thù chung và lớn hơn đó, cả hai bạn đã trở nên được gắn lại, cả hai bạn đã trở thành một bên, nhưng sự thù địch có đó.
Nếu bạn đóng, toàn thể sự tồn tại là thù địch với bạn. Không phải nó là vậy đâu. Với bạn dường như là nó là thù địch. Khi bạn mở, toàn thể sự tồn tại đã trở thành bạn của bạn. Bây giờ, khi bạn đóng, ngay cả người bạn là kẻ thù. Điều đó không thể khác được. Sâu bên dưới bạn sợ người bạn của bạn nữa.
Đâu đó, Henry Thoreau hay ai đó khác đã viết rằng ông ấy cầu nguyện Thượng đế, 'Tôi sẽ chăm nom cho kẻ thù của tôi, nhưng ngài chăm nom cho tôi khỏi bạn bè của tôi. Tôi sẽ tranh đấu với kẻ thù của tôi, nhưng xin bảo vệ tôi khỏi những người bạn của tôi.'
Chỉ trên bề mặt là tình bạn; sâu bên dưới là thù địch. Tình bạn của bạn có thể chỉ là mẽ ngoài để che giấu kẻ thù. Nếu bạn đóng bạn có thể tạo ra chỉ thù, vì khi bạn mở chỉ thế thì bạn được lộ ra. Khi bạn mở toàn bộ với ai đó, tình bạn đã xảy ra. Nó không thể xảy ra theo bất kì cách nào khác.
Làm sao bạn có thể yêu được khi bạn đóng? Bạn sống trong nhà tù của bạn, tôi sống trong nhà tù của tôi, và bất kì khi nào chúng ta gặp gỡ, chỉ các bức tường nhà tù chạm nhau và chúng ta ẩn kín đằng sau. Chúng ta đi vào trong bao nang của chúng ta: các bao nang chạm nhau, thân thể chạm nhau, nhưng sâu bên dưới chúng ta vẫn còn bị cô lập.
Ngay cả khi làm tình, khi các thân thể bạn đã đi vào trong nhau, các bạn đã không đi vào. Chỉ thân thể gặp gỡ; các bạn vẫn còn trong bao nang của các bạn, trong ô của các bạn. Các bạn chỉ lừa bản thân mình rằng có giao cảm. Ngay cả trong dục, điều là mối quan hệ sâu nhất, giao cảm không có.
Nó không thể xảy ra được vì bạn đóng. Yêu đã trở thành điều không thể được. Và đây là lí do - bạn sợ.
Cho nên đừng hỏi câu hỏi như vậy; đừng mang tới những câu hỏi giả. Nếu bạn đã biết tính mở, bạn không thể cảm thấy rằng cái gì đó có thể là hại cho bạn. Bây giờ không cái gì là hại. Đó là lí do tại sao tôi nói ngay cả chết là phúc lành. Cách tiếp cận của bạn đã trở thành khác. Bây giờ dù bạn nhìn bất kì chỗ nào, bạn nhìn với tâm mở - tâm mở đó làm thay đổi phẩm chất của mọi thứ. Và bạn không thể cảm thấy rằng cái gì đó sẽ là có hại; bạn không thể hỏi làm sao bảo vệ - không có nhu cầu. Nhu cầu nảy sinh vì bạn đóng.
Nhưng bạn có thể tiếp tục các câu hỏi giả định. Mọi người tới tôi và họ nói, 'Được, nếu chúng ta đã nhận ra Thượng đế, thế thì cái gì nữa?' Họ bắt đầu với câu hỏi - nếu? Không có các cái 'nếu'. Trong sự tồn tại bạn không thể nêu ra những câu hỏi như vậy. Chúng là ngớ ngẩn, ngu xuẩn, vì bạn không biết bạn đang nói gì. 'Nếu tôi đã nhận ra Thượng đế, thế thì cái gì nữa?'
Cái 'thế thì cái gì nữa?' không bao giờ nảy sinh, vì với việc nhận ra, bạn không còn nữa, chỉ Thượng đế hiện hữu. Và với việc nhận ra, không có tương lai, chỉ có hiện tại. Và với việc nhận ra, không có lo nghĩ, vì bạn đã trở thành một với sự tồn tại. Cho nên câu hỏi 'thế thì cái gì nữa?' không bao giờ nảy sinh. Câu hỏi này nảy sinh vì tâm trí thường xuyên lo nghĩ, thường xuyên cố gắng, thường xuyên suy nghĩ về tương lai.
Câu hỏi 2
Khi tôi trở nên ngày càng nhận biết, chú ý
của tôi phát triển và vẫn còn cảm giác rằng tôi tồn tại, tôi hiện diện, tôi nhận
biết. Xin thầy giải thích làm sao cảm giác này có thể được làm tan biến trong
trạng thái vô ngã của chỉ nhận biết.
Đây lại là câu hỏi giả định. Khi tôi trở nên ngày càng nhận biết, chú ý của tôi phát triển và vẫn còn cảm giác rằng tôi tồn tại, tôi hiện diện, tôi nhận biết. Điều này không bao giờ xảy ra, vì khi nhận biết tăng trưởng, tôi giảm đi. Trong nhận biết đầy đủ, bạn hiện hữu, nhưng không có ý thức rằng tôi hiện hữu. Bằng lời, nhiều nhất, điều này có thể được nói - rằng bạn cảm thấy tính hiện hữu, nhưng không có tôi.
Bạn cảm thấy sự tồn tại, và bạn cảm thấy nó trong dư thừa, một khoảnh khắc mãn nguyện, nhưng cái tôi không có đó. Bạn không thể cảm thấy tôi tồn tại; bạn không thể cảm thấy tôi hiện diện; bạn không thể cảm thấy tôi nhận biết. Cái tôi đó là một phần của vô nhận biết, thiếu chú ý; một phần của trạng thái ngủ của bạn. Nó không thể tồn tại được. Nó không thể tồn tại khi bạn thực sự tỉnh táo và ý thức.
Đây là cách những câu hỏi giả định có thể nảy sinh. Bạn có thể liên tục nghĩ về chúng, và không cái gì sẽ được giải quyết. Nếu điều này xảy ra - rằng bạn cảm thấy tôi hiện hữu; tôi nhận biết - thế thì bạn phải lưu ý một điều, và đó là ở chỗ bạn không tỉnh táo, bạn không nhận biết. Thế thì những cảm giác này - tôi nhận biết, tôi ý thức, tôi tồn tại - đây là những ý nghĩ, bạn đang nghĩ chúng. Chúng không là những khoảnh khắc nhận ra. Bạn có thể nghĩ tôi nhận biết; bạn có thể liên tục lặp lại tôi nhận biết - điều đó sẽ không có tác dụng. Nhận biết không phải là việc lặp lại này. Và khi bạn nhận biết, không có nhu cầu lặp lại tôi nhận biết. Bạn đơn giản nhận biết; cái tôi không còn nữa.
Cố nhận biết đi. Ngay bây giờ là tỉnh táo. Cái tôi ở đâu? Bạn hiện hữu - hơn thế, bạn còn mãnh liệt - nhưng cái tôi, bản ngã, ở đâu? Trong chính sự mãnh liệt của tâm thức, bản ngã không còn nữa. Về sau, khi bạn mất nhận biết và suy nghĩ bắt đầu, bạn có thể cảm thấy tôi hiện hữu, nhưng trong khoảnh khắc của nhận biết không có tôi. Ngay bây giờ trải nghiệm điều đó đi. Một cách im lặng bạn đang ở đây, bạn có thể cảm thấy sự hiện diện của bạn, nhưng tôi ở đâu? Cái tôi không bao giờ nảy sinh. Nó nảy sinh chỉ khi bạn suy nghĩ hồi tưởng lại. Khi bạn mất nhận biết cái tôi nảy sinh ngay lập tức.
Ngay cả trong một khoảnh khắc bạn có thể trải nghiệm nhận biết đơn giản, bạn hiện hữu, và cái tôi không có đó. Khi bạn mất nhận biết, khi khoảnh khắc này đã trượt qua, đã đi qua, và bạn đang nghĩ, cái tôi quay lại ngay lập tức. Nó là một phần của quá trình suy nghĩ. Chính khái niệm về tôi là ý nghĩ, nó thuộc về suy nghĩ. Tôi hiện hữu là ý nghĩ.
Khi bạn tỉnh táo và không có ý nghĩ, làm sao bạn có thể cảm thấy rằng tôi hiện hữu? Sự hiện hữu có đó - nhưng cái đó nữa không là ý nghĩ, nó không là suy nghĩ. Nó có đó về mặt tồn tại, nó là sự kiện. Nhưng bạn có thể biến sự kiện thành ý nghĩ ngay lập tức, và bạn có thể nghĩ về kẽ hở này, cái tồn tại khi không có tôi. Và khoảnh khắc bạn nghĩ, cái tôi đã quay lại. Với suy nghĩ, bản ngã bước vào - suy nghĩ là bản ngã. Với vô suy nghĩ, bản ngã không có.
Cho nên bất kì khi nào bạn muốn hỏi một câu hỏi, đầu tiên làm nó có tính tồn tại. Trước khi trao cho tôi câu hỏi, kiểm lại xem bất kì cái gì bạn đang hỏi là có liên quan hay không. Nhưng câu hỏi như vậy có vẻ liên quan, chỉ bằng lời, nhưng chúng giống điều này: tôi nói rằng đèn đã được bật lên, và thế rồi tôi hỏi, 'Đèn đã được bật lên và dầu vậy tối vẫn còn, vậy cái gì cần được làm với tối?' Điều duy nhất là ở chỗ đèn vẫn tắt, nó đã không được bật lên, bằng không làm sao tối có thể còn lại? Và nếu tối có đó, thế thì sáng không có đó. Và nếu sáng có đó, thế thì tối không có đó. Chúng cả hai không thể hiện hữu cùng nhau.
Nhận biết và bản ngã không thể cùng nhau được. Nếu nhận biết đã tới, nếu nó có đó, bản ngã đã biến mất. Điều này là đồng thời; thậm chí không có kẽ hở một giây. Đèn được bật lên và tối đã biến mất. Không phải là nó biến mất từ từ, theo từng bước, dần dần. Bạn không thể thấy được nó đi ra ngoài; bạn không thể nói rằng bây giờ tối đang đi ra.
Sáng có đó, và tối lập tức không có đó. Không có kẽ hở một khoảnh khắc, vì nếu có kẽ hở thế thì bạn có thể thấy tối chuyển ra. Và nếu có kẽ hở một khoảnh khắc, thế thì không có lí do gì tại sao không thể có kẽ hở một giờ. Không có kẽ hở. Hành động này là đồng thời. Thực sự, việc tới của sáng và việc đi ra của tối là hai mặt của một hiện tượng.
Cùng điều này xảy ra với nhận biết: khi bạn nhận biết, bản ngã không hiện hữu. Nhưng bản ngã có thể giở thủ đoạn, và bản ngã có thể nói, 'Tôi là nhận biết.' Bản ngã có thể nói, 'Tôi là nhận biết,' và bạn không nhận biết. Thế thì câu hỏi này sẽ nảy sinh. Và bản ngã muốn tích luỹ mọi thứ, ngay cả nhận biết. Bản ngã không chỉ muốn của cải, quyền và danh; nó muốn cả thiền nữa, nó muốn samadhi nữa, nó muốn cả chứng ngộ nữa.
Bản ngã muốn mọi thứ. Cái là có thể thì phải được sở hữu. Bản ngã muốn sở hữu mọi thứ - ngay cả thiền, samadhi, niết bàn. Cho nên bản ngã có thể nói, 'Bây giờ tôi đã đạt tới thiền,' và thế thì câu hỏi này sẽ nảy sinh. Thiền đã được đạt tới, nhận biết đã tới, nhưng bản ngã vẫn còn, khổ vẫn còn. Toàn thể gánh nặng của quá khứ vẫn còn. Không cái gì thay đổi.
Bản ngã là kẻ khoe khoang rất tinh vi. Nhận biết về điều đó. Nó có thể lừa bạn. Và nó có thể dùng lời, nó có thể nói ra lời mọi thứ. Nó có thể nói ra lời bất kì cái gì, ngay cả niết bàn.
Tôi đã nghe nói rằng có lần chuyện xảy ra là hai con bướm đang bay trên đường qua hẻm núi của New York. Vừa đi qua gần toà nhà Empire State Building, con bướm đực nói với con bướm cái, 'Em biết đấy, nếu anh muốn, chỉ thổi một cái anh có thể làm cho toà Empire State Building sụp đổ.'
Một người khôn ngoan ngẫu nhiên ở đó nghe thấy nhận xét này, thế là ông ấy gọi con bướm đực tới và hỏi, 'Chú mày nói gì vậy? Mày biết rất rõ rằng mày không thể làm cho toà nhà Empire State Building sụp đổ bằng một hơi thổi. Mày biết rõ điều đó, không có nhu cầu bảo mày, vậy sao mày đã nói điều như vậy?'
Con bướm đực nói, 'Xin lỗi ông. Tôi rất tiếc. Tôi chỉ cố ảnh hưởng lên bạn gái của tôi thôi.'
Người khôn ngoan nói, 'Đừng làm điều đó,' và đuổi con bướm đi.
Con bướm đực quay lại bạn gái của nó. Tất nhiên, bạn gái hỏi, 'Cái ông khôn ngoan đó nói gì với anh vậy?'
Thế là kẻ khoe khoang đực nói, 'Ông ta xin anh và nói, "Đừng làm điều đó!" Ông ta sợ thế, run rầy, bồn chồn. Ông ta đã nghe nói rằng anh sẽ làm cho toà Empire State Building này sụp đổ, cho nên ông ta nói, "Đừng làm điều đó"'
Cùng điều này đang xảy ra liên tục. Những lời được người khôn ngoan thốt ra mang nghĩa rất khác. Ông ấy ngụ ý, 'Đừng nói những điều như vậy,' nhưng bản ngã đã khai thác ông ấy. Bản ngã của bạn có thể khai thác bất kì cái gì, đó là tinh ranh sâu sắc. Và điều đó được trải nghiệm như vậy trong việc tinh ranh - kinh nghiệm hàng nghìn năm - rằng bạn thậm chí không thể phát hiện ra chỗ tinh ranh đi vào.
Mọi người tới tôi và họ nói, 'Thiền đã xảy ra rồi. Bây giờ phải làm gì về các lo nghĩ của tôi?' Đây là cách bản ngã liên tục giở thủ đoạn - và họ thậm chí không nhận biết về điều họ đang nói. 'Thiền đã xảy ra rồi, kundalini đã vươn lên - vậy phải làm gì? Lo nghĩ vẫn tiếp tục.'
Tâm trí bạn muốn tin vào mọi thứ, cho nên không làm bất kì cái gì bạn liên tục tin, lừa dối - những điều thoả ước. Nhưng thực tại không thay đổi bởi việc thoả ước của bạn: lo nghĩ tiếp tục. Bạn có thể lừa bản thân bạn, bạn không thể lừa được lo nghĩ. Chúng sẽ không biến mất vì bạn nói, 'Thiền đã xảy ra rồi và kundalini đã vươn lên, và bây giờ tôi đã đi vào thể thứ năm.' Những lo nghĩ đó sẽ thậm chí không nghe điều bạn nói. Nhưng nếu thiền thực sự xảy ra, các lo nghĩ ở đâu? Làm sao chúng có thể tồn tại trong tâm trí có tính thiền?
Cho nên nhớ điều này: rằng khi bạn nhận biết, bạn hiện hữu, nhưng bạn không là bản ngã. Thế thì bạn là vô giới hạn, thế thì bạn là mở rộng vô hạn, nhưng không có trung tâm. Không có cảm giác được hội tụ vào tôi; chỉ sự tồn tại không hội tụ, không bắt đầu ở đâu, không kết thúc ở đâu - chỉ là bầu trời vô hạn. Và khi cái tôi này biến mất, tự động bạn biến mất, vì bạn có thể tồn tại chỉ trong tham chiếu tới cái tôi. Tôi ở đây; đó là lí do tại sao bạn ở kia. Nếu cái tôi này biến mất khỏi tôi, bạn không còn đó nữa. Bạn không thể hiện hữu. Làm sao bạn có thể tồn tại được?
Tôi không ngụ ý rằng bạn sẽ không có đó về mặt thân thể, rằng bạn sẽ không có đó về mặt vật lí. Bạn sẽ có đó như bạn vậy, nhưng với tôi, bạn không thể là bạn. Cái bạn là có nghĩa trong tham chiếu tới cái tôi của tôi; cái tôi của tôi tạo ra bạn. Phần này biến mất; phần kia biến mất với tôi. Thế thì sự tồn tại đơn giản có đó; mọi rào chắn đã tan biến. Với bản ngã biến mất, toàn thể sự tồn tại trở thành một. Bản ngã là kẻ phân chia - và bản ngã tồn tại vì bạn thiếu chú ý. Lửa của nhận biết sẽ phá huỷ nó.
Thử điều đó ngày càng nhiều đi. Đột nhiên trở nên tỉnh táo. Bước đi trên phố, ngay lập tức dừng lại, lấy hơi thở sâu, trở nên tỉnh táo trong một khoảnh khắc. Và khi tôi nói tỉnh táo, tôi ngụ ý đơn giản tỉnh táo về bất kì cái gì đang xảy ra - tiếng ồn giao thông, mọi người đi qua và nói, mọi thứ đang có khắp xung quanh. Đơn giản trở nên tỉnh táo. Bạn không có đó trong khoảnh khắc đó: sự tồn tại hiện hữu và cái đẹp của nó.
Thế thì tiếng ồn giao thông không có vẻ gì là tiếng ồn, nó không có vẻ giống sự rối loạn, vì không có người nào kháng cự lại nó và tranh đấu với nó. Nó đơn giản tới với bạn và đi qua; nó được nghe thấy và rồi không còn được nghe thấy nữa. Nó tới và đi qua. Không có rào chắn nào nó có thể đập vào. Nó không thể tạo ra vết thương trong bạn, vì mọi vết thương được làm trong bản ngã. Nó sẽ đi qua. Sẽ không có rào chắn cho nó mà nó có thể đập vào; sẽ không có tranh đấu, không quấy rối.
Nhớ điều này: tiếng ồn trên phố không phải là quấy rối. Khi tiếng ồn trên phố đấu tranh với bạn, khi bạn có khái niệm cố định rằng nó là quấy rối, nó trở thành quấy rối. Khi bạn chấp nhận nó, nó tới và đi qua. Và bạn đơn giản được tắm bởi nó; bạn ra khỏi nó tươi tắn hơn. Và thế thì không cái gì làm bạn mệt mỏi. Điều gây mệt mỏi duy nhất, cái liên tục làm tiêu tán năng lượng của bạn, là sự kháng cự này mà chúng ta gọi là bản ngã.
Nhưng chúng ta không bao giờ nhìn vào nó theo cách này. Bản ngã đã trở thành cuộc sống của chúng ta, chính nguyên nhân của nó. Thực sự, không có bản ngã. Nếu tôi nói với ai đó... Nhiều lần điều đó xảy ra. Nếu tôi nói với ai đó làm tan biến bản ngã này, lập tức người đó nhìn chăm chăm vào tôi dường như với câu hỏi này, câu hỏi trần trụi, rằng 'Nếu bản ngã bị tan biến, thế thì sự sống ở đâu? Thế thì tôi không còn nữa'.
Tôi đã nghe nói rằng một chính khách rất lớn, một nhà lãnh đạo lớn của đất nước, đã được hỏi, 'Ông phải mệt mỏi. Cả ngày, bất kì chỗ nào ông tới, có đám đông những người xin chữ kí.'
Chính khách đó, nhà lãnh đạo đó nói, 'Điều đó gần như giết tôi - nhưng đây chỉ là một nửa của chân lí.' Ông ấy phải đã là một người rất hiếm hoi, trung thực. Ông ấy nói, 'Điều đó gần như giết tôi - nhưng gần như thôi. Nếu như không có người nào xin chữ kí của tôi, điều đó chắc giết tôi hoàn toàn. Đám đông liên tục này gần như giết tôi, nhưng điều khác sẽ nguy hiểm hơn. Nó chắc sẽ giết tôi hoàn toàn nếu không có người nào tới xin chữ kí.'
Cho nên dù bản ngã mệt mỏi thế nào, dù mòn mỏi thế nào, bạn vẫn cảm thấy nó là cuộc sống, và nếu bản ngã không có đó, bạn cảm thấy cuộc sống sẽ biến mất khỏi tâm trí bạn. Bạn không thể quan niệm được làm sao cuộc sống có thể tồn tại mà không có bạn, mà không bao giờ có điểm tham chiếu tới tôi. Điều đó là logic theo một cách nào đó, vì chúng ta không bao giờ sống mà không có nó. Chúng ta đã sống qua nó, chúng ta đã sống quanh nó; chúng ta chỉ biết một kiểu sống, cái dựa trên bản ngã. Chúng ta không biết bất kì cuộc sống nào khác.
Và bởi vì chúng ta đã sống qua nó, chúng ta đã không thực sự có khả năng sống. Chúng ta đơn giản vật lộn để sống, và cuộc sống không bao giờ xảy ra cho chúng ta, nó chỉ bị chúng ta bỏ qua. Nó bao giờ cũng trong tầm với, trong hi vọng - chỉ ngày mai, khoảnh khắc tiếp, và chúng ta sẽ sống. Nhưng nó không bao giờ tới, nó không bao giờ được đạt tới. Nó bao giờ cũng vẫn còn là hi vọng và mơ - nhưng chúng ta liên tục di chuyển. Và vì nó không tới, chúng ta di chuyển nhanh. Điều đó nữa cũng là logic: nếu cuộc sống không xảy ra cho chúng ta, tâm trí chỉ có thể nghĩ tới một điều - rằng chúng ta không di chuyển đủ nhanh. Cho nên làm chóng vánh vào, ở trong tốc độ.
Có lần chuyện xảy ra là một trong những nhà khoa học lớn, T.H. Huxley, sắp đi nói chuyện ở đâu đó trong London. Ông ấy tới ga, tới ga ngoại ô, nhưng tầu hoả bị trễ, cho nên ông ấy nhảy lên taxi và bảo người lái xe, 'Khẩn trương! Đi tốc độ tối đa!'
Họ chạy thật nhanh, đột nhiên ông ấy nhận ra rằng ông ấy đã không đưa địa chỉ. Nhưng thế rồi ông ấy cũng nhớ ra rằng bản thân ông ấy đã quên mất địa chỉ. Cho nên ông ấy hỏi người lái xe, 'Anh tài ơi, anh có biết tôi được giả định đi đâu không?'
Anh ta nói, 'Không, thưa ngài. Nhưng tôi đang đi nhanh nhất có thể được.'
Điều này đang xảy ra. Bạn đang đi nhanh nhất có thể được. Bạn đang đi đâu? Tại sao bạn đi? Đích đến là gì? - hi vọng rằng một ngày nào đó cuộc sống sẽ xảy ra cho bạn. Và tại sao nó không xảy ra ngay bây giờ? Bạn sống động - sao nó không xảy ra ngay bây giờ? Tại sao niết bàn bao giờ cũng trong tương lai, bao giờ cũng trong ngày mai? Sao nó không hôm nay? Và ngày mai không bao giờ tới - hay bất kì khi nào nó tới bao giờ cũng là hôm nay và bạn sẽ lại bỏ lỡ. Nhưng chúng ta đã sống chỉ theo cách này. Chúng ta chỉ biết một chiều của việc sống - cái gọi là việc sống này chúng ta đã sống - chỉ chết, không sống chút nào, chỉ bằng cách nào đó kéo đi cùng, chỉ chờ đợi.
Với bản ngã nó bao giờ cũng còn là chờ đợi - và chờ đợi vô vọng. Bạn có thể làm nó nhanh, bạn có thể vội vàng, nhưng bạn sẽ không bao giờ đạt tới bất kì chỗ nào: chỉ bằng vội vàng bạn sẽ tiêu tán năng lượng và bạn sẽ chết. Và bạn đã làm điều đó nhiều lần thế. Bạn bao giờ cũng trong vội vàng, và trong đó vội vàng làm tiêu tán năng lượng, và thế thì chỉ chết tới và không gì khác. Bạn vội vàng cả đời, và chỉ chết tới và không gì khác. Nhưng tâm trí, vì nó quen chỉ một chiều, vì nó chỉ biết một đường - cái thậm chí không phải là đường, mà chỉ dường như là đường - sẽ nói rằng nếu không có bản ngã, cuộc sống ở đâu?
Nhưng tôi nói với bạn, nếu có bản ngã, không có khả năng của sống, chỉ có các hứa hẹn. Bản ngã là kẻ hứa hẹn hoàn hảo. Nó liên tục hứa với bạn. Và bạn vô nhận biết thế - không lời hứa nào đã bao giờ được hoàn thành, nhưng lần nữa bạn vẫn tin. Khi lời hứa mới được cho, bạn lại tin.
Nhìn lại đi! Bản ngã hứa nhiều thứ, và không cái gì đã được đạt tới qua nó. Mọi lời hứa đều đã thất hứa. Nhưng bạn không bao giờ nhìn lại, bạn không bao giờ so sánh. Khi bạn còn là đứa trẻ đã có những lời hứa về thanh niên: cuộc sống sẽ có đó khi bạn là thanh niên. Mọi người đã nói điều đó, và bạn cũng đã hi vọng rằng khi bạn trở thành thanh niên, mọi thứ đã xảy ra sẽ xảy ra. Bây giờ những ngày đó đã qua rồi, lời hứa này vẫn còn không được hoàn thành, nhưng bạn đã quên. Bạn đã quên lời hứa, bạn đã quên điều đó đã không được hoàn thành. Nhìn vào điều đó là đau đớn tới mức bạn không bao giờ nhìn vào nó.
Bây giờ bạn hi vọng tuổi già - rằng trong tuổi già tính chất sannyas sẽ nở hoa, thiền sẽ xảy ra cho bạn. Thế rồi các lo nghĩ sẽ qua đi: con bạn sẽ vào đại học, và mọi thứ sẽ trở nên được thiết lập. Thế thì sẽ không có trách nhiện lên bạn. Thế thì bạn sẽ có khả năng tìm kiếm điều thiêng liêng. Thế thì, trong tuổi già, phép màu sẽ xảy ra. Và bạn sẽ chết mà không được hoàn thành.
Nó sẽ không xảy ra đâu, vì nó không bao giờ xảy ra trong hi vọng, nó không bao giờ xảy ra với hi vọng. Nó không bao giờ xảy ra với lời hứa của bản ngã. Nó có thể xảy ra ngay bây giờ. Nó chỉ có thể xảy ra ngay bây giờ. Nhưng thế thì chính nhận biết mãnh liệt được cần, để cho bạn có thể ném đi mọi lời hứa, và mọi hi vọng, và mọi chương trình tương lai, và mọi mơ, và nhìn thẳng ở đây và bây giờ vào bạn là gì.
Trong việc quay trở về bản thân bạn đó - ý thức của bạn không chuyển đi đâu đó lên trước mà quay về bản thân bạn - bạn trở thành vòng tròn ý thức. Khoảnh khắc này trở thành vĩnh hằng. Bạn tỉnh táo và nhận biết. Trong tỉnh táo đó, trong nhận biết đó, không có cái tôi; đơn giản có sự tồn tại, đơn giản hiện hữu. Và tính đơn giản tới từ nhận biết đó.
Tính đơn giản không phải là chiếc khố, tính đơn giản không phải là sống trong nghèo, tính đơn giản không phải là trở thành kẻ ăn xin. Những thứ đó là thứ rất phức tạp và rất tinh ranh, rất tính toán. Tính đơn giản được sinh ra khi bạn đã đạt tới sự tồn tại đơn giản nơi không cái tôi nào tồn tại. Từ điều đó, tính đơn giản nảy sinh; bạn trở thành khiêm tốn. Không phải là bạn thực hành nó, vì tính đơn giản được thực hành không bao giờ có thể là tính đơn giản. Khiêm tốn được thực hành chỉ là bản ngã ẩn kín.
Điều đó xảy ra: nếu bạn có thể nhận biết, nó bắt đầu chảy ra qua bạn. Bạn trở thành khiêm tốn; không chống lại bản ngã, vì khiêm tốn chống lại bản ngã lại là một loại bản ngã khác - bản ngã tinh vi hơn và nguy hiểm hơn, độc hơn. Nó là khiêm tốn khi thiếu vắng bản ngã; không như cái đối lập của bản ngã, chỉ là sự thiếu vắng. Bản ngã đã biến mất. Bạn đã đi tới bản thân bạn và biết rằng không có bản ngã: tính đơn giản nảy sinh, khiêm tốn nảy sinh - chúng đơn giản tuôn chảy. Bạn đã không làm bất kì cái gì cho chúng; chúng là sản phẩm phụ - sản phẩm phụ của nhận biết mãnh liệt.
Cho nên kiểu câu hỏi này là ngu xuẩn. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn là nhận biết và dầu vậy cái tôi vẫn còn, biết rõ rằng bạn không nhận biết. Làm nỗ lực để nhận biết đi. Và đây là tiêu chí: khi bạn nhận biết, cái tôi không hiện hữu; khi bạn nhận biết, cái tôi không được tìm thấy ở đâu cả. Đây là tiêu chí duy nhất.
Câu hỏi 3
Hôm nọ thầy đã giải thích về thiếu cân bằng
của văn hoá phương tây định tâm vào đối thể và văn hoá phương đông định tâm vào
chủ thể, và thầy cũng nhắc rằng không chỗ nào trong bất kì nền văn hoá nào con
người toàn thể là được chấp nhận. Thầy có hình dung nền văn hoá sắp tới sẽ có
khả năng chấp nhận và phát triển con người trong tính toàn bộ của người đó - vừa
đối thể cũng như vừa chủ thể không?
Sự phát triển một phía này đã xuất hiện như ảo tưởng tự nhiên, như ảo tưởng rất tự nhiên. Cố hiểu ảo tưởng tự nhiên này, vì nhiều điều phụ thuộc vào nó.
Bất kì khi nào cái gì đó được nói, cái đối lập với nó bị phủ nhận. Bất kì khi nào cái gì đó được nói, cái gì đó đồng thời bị phủ nhận. Nếu tôi nói 'Thượng đế ở bên trong', 'Thượng đế ở bên ngoài' bị phủ nhận. Tôi đã không nhắc tới điều đó chút nào. Nhưng nếu tôi nói 'Thượng đế ở bên ngoài', thế thì 'Thượng đế ở bên trong' bị phủ nhận. Nếu tôi nói, 'Để là im lặng bạn phải đi vào trong,' điều đó ngụ ý rằng nếu bạn đi ra ngoài, bạn sẽ không bao giờ im lặng. Cho nên bất kì cái gì được nói trong ngôn ngữ bao giờ cũng phủ định cái gì đó.
Điều này nghĩa là ngôn ngữ không bao giờ có thể bao quát được toàn thể sự sống. Hay, nếu bạn cố bao quát toàn thể sự sống, ngôn ngữ trở thành phi logic, bất hợp lí. Nếu tôi nói, 'Thượng đế ở bên trong và Thượng đế ở bên ngoài,' nó trở thành vô nghĩa. Nếu tôi nói, 'Mọi thứ là Thượng đế,' nó trở thành vô nghĩa. Nếu tôi nói, 'Dù bạn đi ra hay dù bạn đi vào, im lặng có thể được đạt tới,' thế thì không nghĩa nào được mang vì tôi đang nói cả hai - cả hai cái đối lập đồng thời. Tôi đang gắn chúng lại với nhau; chúng phủ định lẫn nhau - và thế thì chẳng cái gì được nói.
Điều đó đã được thử. Điều đó đã được thử nhiều lần rằng toàn thể sự sống được bao quát bởi cách diễn đạt ngôn ngữ. Nó đã không bao giờ thành công, và nó không thể thành công được. Bạn có thể làm điều đó, nhưng thế thì khẳng định của bạn trở thành huyền bí; chúng không mang nghĩa nào. Logic có yêu cầu nào đó phải được hoàn thành - và ngôn ngữ là logic.
Nếu bạn hỏi tôi, 'Thầy có ở đây không?' và tôi nói, 'Có, theo một nghĩa nào đó tôi ở đây, và theo một nghĩa nào đó tôi không ở đây,' hay tôi nói, 'Cả hai vừa có vừa không,' thế thì nếu bạn yêu tôi bạn sẽ gọi tôi là nhà huyền bí; nếu bạn không yêu tôi, bạn sẽ gọi tôi là người điên - vì làm sao có thể là cả hai được? Hoặc tôi ở đây - thế thì tôi phải nói có; hoặc tôi không ở đây - thế thì tôi phải nói không. Nhưng nếu tôi nói cả hai có và không cùng nhau, tôi đang lấy cú nhảy ra khỏi cấu trúc logic của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ bao giờ cũng là chọn lựa. Vì điều này, mọi nền văn hoá, mọi xã hội, mọi nền văn minh trở thành một phía. Và không nền văn hoá nào có thể tồn tại mà không có ngôn ngữ. Thực sự, ngôn ngữ tạo ra văn hoá. Con người là con vật duy nhất có ngôn ngữ; không con vật nào khác tạo ra bất kì nền văn hoá hay xã hội hay nền văn minh. Chỉ con người tạo ra văn hoá và văn minh và xã hội. Và với ngôn ngữ, chọn lựa đi vào; và với chọn lựa, mất cân bằng. Không con vật nào bị mất cân bằng, nhớ lấy. Chỉ con người bị mất cân bằng. Mọi con vật tồn tại trong cân bằng sâu sắc: cây và đá và mọi thứ. Mọi thứ được cân bằng; chỉ con người mất cân bằng.
Vấn đề là gì? - đó là con người sống qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo ra chọn lựa.
Nếu tôi nói với ai đó rằng anh ta vừa đẹp vừa xấu, câu này chẳng mang nghĩa gì. Xấu và đẹp cả hai sao? - anh ngụ ý gì? Nếu tôi nói, 'Bạn đẹp,' nó là có nghĩa. Nếu tôi nói, 'Bạn xấu,' nó là có nghĩa. Nhưng nếu tôi nói, 'Bạn là cả hai. Bạn là khôn và ngu cả hai,' nó không thể mang được bất kì nghĩa nào. Nhưng thực tại là như vậy. Thực sự, không người nào đơn giản là xấu và không người nào đơn giản là đẹp. Bất kì chỗ nào cái đẹp tồn tại, cái xấu tồn tại; bất kì chỗ nào cái xấu tồn tại, cái đẹp tồn tại. Chúng là một phần của một toàn thể. Và bất kì khi nào khôn tồn tại, ngu tồn tại. Bạn không thể tìm ra một người khôn mà không là ngu, và bạn không thể tìm ra người ngu mà không là khôn.
Điều đó có thể là khó cho bạn quan niệm, vì bất kì khi nào bạn nói, 'Người này là kẻ ngu,' bạn dừng tìm kiếm, bạn bị đóng, bạn đã đóng cánh cửa. Bạn nói, 'Người này là kẻ ngu.' Bây giờ bạn sẽ không đi tìm cái khôn của người đó. Và cho dù cái khôn của người đó được hiển lộ cho bạn, bạn sẽ không lắng nghe nó. Bạn sẽ nói, 'Người này là kẻ ngu. Làm sao người này có thể là người khôn được? Điều đó là không thể được, cái gì đó sai đã xảy ra. Người này phải đã làm điều đó theo cách ngu xuẩn. Điều này là cái gì đó ngẫu nhiên. Người này không thể khôn được.' Nếu bạn quyết định rằng người này là khôn và thế rồi cái gì đó ngu xuẩn đi ra từ người đó, bạn không thể tin được điều đó, hay bạn sẽ đi tới giải thích và bạn sẽ hợp lí hoá nó - rằng điều này phải là khôn.
Sống là cả hai điều này cùng nhau, nhưng ngôn ngữ phân chia. Ngôn ngữ là chọn lựa. Vì điều này, mọi nền văn hoá tạo ra hình mẫu chọn lựa riêng của nó. Ở phương đông họ đã phát triển công nghệ, họ đã phát triển nghiên cứu khoa học; họ đã phát triển mọi điều mà bây giờ được phát triển ở phương tây. Năm nghìn năm trước họ đã phát triển mọi thứ, và thế rồi họ đã cảm thấy cái vô nghĩa của nó - như điều đó được cảm thấy bây giờ ở phương tây. Họ đã cảm thấy rằng nó là vô dụng.
Khi họ cảm thấy rằng nó là vô dụng, họ quay sang cực đoan đối lập. Họ nói, 'Bây giờ quay vào trong. Bất kì cái gì ở bên ngoài đều là ảo vọng, nó chẳng dẫn tới đâu. Quay vào trong đi.' Thế thì khoa học dừng tăng trưởng, thế thì công nghệ dừng lại. Không chỉ bị dừng lại: khi họ quay vào trong, họ bắt đầu kết án mọi cái ở bên ngoài. 'Chỉ sống cuộc sống ở bên trong thôi! Bỏ mọi cái ở bên ngoài đi!' Họ trở nên chống lại thế giới, phủ định sự sống, phủ nhận mọi thứ là vật chất... chỉ tâm linh, tâm linh thuần tuý.
Sống là cả hai. Thực sự, nói sống là cả hai là không đúng. Sống là một. Cái chúng ta gọi là vật chất chỉ là một cách diễn đạt của tâm linh, và cái chúng ta gọi là tâm linh thì không là gì ngoài cách diễn đạt của vật chất. Sống là một. Cái bên trong và cái bên ngoài không phải là hai thứ đối lập, chỉ là hai cực của một sự tồn tại.
Nhưng bất kì khi nào xã hội đạt tới cực đoan của một chọn lựa - vì một chọn lựa nhất định là cực đoan - lập tức bạn sẽ bỏ lỡ cực đoan kia, và cái bạn bỏ lỡ, bạn cảm thấy nhiều hơn. Cái bạn có, bạn có thể quên, nhưng cái bạn bỏ lỡ, bạn cảm thấy nhiều hơn. Cho nên phương đông, tại đỉnh của phát triển khoa học và công nghệ, đã cảm thấy cái ngớ ngẩn của nó: nó là vô dụng, bạn không thể đạt tới im lặng qua nó, bạn không thể đạt tới phúc lạc qua nó, cho nên vứt nó, từ bỏ nó, đi vào trong, chuyển tới thế giới bên trong. Và thế thì việc chuyển vào bên trong này trở thành việc phủ nhận cái bên ngoài.
Ở phương tây điều đó đang xảy ra bây giờ. Bây giờ phương tây đã đạt tới đỉnh cao công nghệ; bây giờ cái vô nghĩa được cảm thấy. Bây giờ Ấn Độ đã đi tới những chiều sâu của nghèo nàn. Điều đó nhất định xảy ra, vì tâm trí phương đông bắt đầu chuyển vào trong. Khi bạn chuyển vào trong với cái giá của mọi thứ ở bên ngoài, bạn sẽ là nghèo, và bạn sẽ ở trong lệ thuộc, và bạn sẽ ở trong bệnh tật và khổ. Điều đó nhất định là vậy.
Bây giờ Ấn Độ không quan tâm tới thiền, Ấn Độ không quan tâm tới thế giới bên trong, Ấn Độ không quan tâm tới niết bàn. Ấn Độ quan tâm tới công nghệ hiện đại. Sinh viên Ấn Độ quan tâm tới kĩ nghệ, tới y học. Các thiên tài Ấn Độ đi sang phương tây để học bí quyết, năng lượng nguyên tử. Và các thiên tài phương tây quan tâm tới việc tới phương đông để biết thiền là gì, để biết cách chuyển vào không gian bên trong.
Và họ đã đạt tới. Lần đầu tiên trong lịch sử con người họ đã biết cách chuyển vào không gian bên ngoài. Họ đã lên tới mặt trăng. Vì họ đã lên tới mặt trăng, sự việc đã trở thành ngớ ngẩn. Bây giờ họ hỏi, 'Cái gì sẽ bắt nguồn từ điều đó? Cho dù chúng ta đã lên tới mặt trăng, cái gì đã xảy ra? - con người vẫn còn trong cùng cái khổ.' Trăng sẽ không giúp đỡ, vì bạn có thể đưa con người lên mặt trăng, nhưng người đó vẫn còn là cùng con người đó. Cho nên chuyển động trong không gian bên ngoài dường như là vô dụng, phí năng lượng. Làm sao chuyển vào không gian bên trong?
Bây giờ họ quay sang phương đông, và phương đông đang quay sang phương tây - lại chọn lựa. Nếu phương tây quay sang phương đông hoàn toàn, trong vòng hai hay ba thế kỉ phương tây sẽ trở nên nghèo. Nhìn những người hippies mà xem - họ đã làm điều đó rồi. Và nếu thế hệ phương tây mới tuyệt đối quay sang người hippie, thế thì ai sẽ đi làm việc vì công nghệ, và ai sẽ đi làm việc vì công nghiệp, và ai sẽ đi làm việc vì nền văn minh mà phương tây đã đạt tới? Phải mất hàng thế kỉ và thế kỉ để đạt tới cái gì đó; bạn có thể đánh mất nó trong vòng một thế hệ.
Nếu thế hệ này phủ nhận và nói, 'Chúng tôi không định vào đại học,' bạn có thể làm gì? Thế hệ già - điều đó có thể kéo dài bao lâu? Hai mươi năm và mọi thứ có thể biến mất, chỉ qua phủ nhận của thế hệ mới - 'Tôi không định vào đại học.' Và họ đang bỏ đi, họ đang trở thành kẻ bỏ học. Họ nói, 'Hữu dụng gì của xe hơi lớn, của nhà lớn, của công nghệ lớn, khi không có yêu? Khi không có an bình của tâm trí, hữu dụng gì của tất cả của cải này? Hữu dụng gì của chuẩn sống cao này khi không có sống? Cho nên bỏ điều này đi!'
Trong vòng hai thế kỉ phương tây có thể đi tới chính chiều sâu của nghèo nàn. Điều đó đã xảy ra ở phương đông. Vào thời của Mahabharat, gần như cùng công nghệ này đã được phát triển ở phương đông. Thế rồi nó được thấy ra là vô dụng. Và nếu tâm trí Ấn Độ quay sang công nghệ, trong vòng hai thế hệ tôn giáo sẽ biến mất - nó đã biến mất rồi - và ngay cả từ 'thiền' sẽ có vẻ lỗi thời. Nếu bạn nói về cái bên trong, mọi người sẽ nghĩ bạn không còn minh mẫn: 'Anh ngụ ý gì bởi cái bên trong? Không có cái bên trong.'
Điều này xảy ra vì ngôn ngữ - vì ngôn ngữ là chọn lựa, và tâm trí chuyển sang cực đoan. Và khi nó chuyển sang cực đoan này, cực đoan kia bị mất. Và với cực đoan kia, nhiều phẩm chất biến mất và khi chúng biến mất bạn cảm thấy ước mong mãnh liệt về chúng. Thế rồi bạn lại chuyển sang cực đoan kia. Thế thì cái gì đó khác bị mất.
Cho nên chưa nền văn hoá toàn bộ nào đã được sinh ra, và nó không thể được sinh ra chừng nào con người chưa học vẫn còn im lặng, chừng nào im lặng chưa trở thành chính cốt lõi của tâm trí con người. Không ngôn ngữ nhưng im lặng - vì trong im lặng bạn là toàn thể, trong ngôn ngữ bạn bao giờ cũng là một phần. Chừng nào nhân loại chưa bắt đầu sống qua im lặng - không qua ngôn ngữ, không qua tâm trí, mà qua tính toàn bộ của hiện hữu - không nền văn hoá toàn bộ nào là có thể. Chỉ con người toàn bộ mới có thể thiết lập ra nền văn hoá toàn bộ.
Con người là một phần và bị chắp vá. Mọi con người chỉ là mảnh chắp vá của cái mà người đó có thể là, cái mà người đó đáng phải là. Người đó chỉ là một mảnh của tiềm năng của người đó. Những con người chắp vá này tạo ra xã hội chắp vá. Xã hội chắp vá bao giờ cũng có đó. Nhưng bây giờ dường như có thể là chúng ta trở nên nhận biết về toàn thể điều vô nghĩa này của việc biến thành các cực đoan. Và nếu nhận biết này trở nên mãnh liệt, và chúng ta không chuyển sang cái đối lập, mà thay vì thế chúng ta bắt đầu nhìn vào cái toàn thể...
Chẳng hạn, bản thân tôi. Tôi không chống lại vật chất, tôi không chống lại tâm linh. Tôi không ủng hộ cho tâm linh, và tôi không ủng hộ cho vật chất. Tôi ủng hộ cả hai. Với tôi không có chọn lựa giữa vật chất và tâm linh, bên trong và bên ngoài. Tôi ủng hộ cả hai, vì nếu bạn chấp nhận cả hai, chỉ thế thì bạn trở thành toàn bộ và toàn thể. Nhưng điều này là khó hiểu, khó nắm bắt, vì di sản kế thừa.
Bất kì khi nào bạn thấy một người tâm linh, bạn bắt đầu nhìn để xem liệu người đó có là nghèo hay không. Người đó phải nghèo, người đó phải sống trong lều, người đó phải chết đói. Tại sao? Tại sao người đó phải nghèo và tại sao người đó phải chết đói? - vì cái bên trong phải được chọn chống lại cái bên ngoài; điều đó đã trở thành một phần của di sản kế thừa. Nếu bạn thấy một người sống trong xa hoa, bạn không thể tin được rằng người đó là tâm linh. Làm sao người đó có thể là tâm linh được?
Cái gì sai trong xa hoa? Và làm sao tính tâm linh chống lại xa hoa? Thực sự, xa hoa tối thượng là tâm linh. Thực sự, chỉ người tâm linh có thể ở trong xa hoa. Người đó biết cách thảnh thơi, và người đó biết cách tận hưởng, và người đó biết cách mang phúc lạc tới bất kì chỗ nào người đó chuyển tới. Nhưng di sản kế thừa đã đi vào trong mọi tế bào não bạn. Nếu bạn thấy một người tâm linh bước đi trong nghèo nàn, bạn cảm thấy rằng người đó phải là đích thực. Làm sao nghèo nàn có quan hệ với tính tâm linh? Và tại sao? Chúng ta đã từng chọn các cực đoan. Điều này là khó hiểu vì truyền thống lâu dài - và bạn thậm chí không nhận biết.
Ai đó mới ở đây, và anh ấy bảo tôi rằng ở Wardha nơi Vinoba sống, trời rất nóng cả ngày - và ông ta sẽ không dùng quạt, ông ta sẽ không dùng máy làm mát, ông ta sẽ không dùng máy điều hoà. Không thể được! Làm sao người tâm linh có thể dùng máy điều hoà được? Ông ta thậm chí không thể dùng quạt. Người đã tới từ đó bị ấn tượng lắm. Người đó nói, 'Xem đấy, người tâm linh vĩ đại làm sao! Ông ấy thậm chí không dùng quạt.'
Thế rồi tôi hỏi, 'Ông ấy làm gì?'
Người này nói, 'Cả ngày, từ mười giờ tới năm giờ, trong bẩy giờ, ông ấy liên tục để vải lạnh lên đầu và lên dạ dầy ông ấy.'
Bẩy tiếng đồng hồ của Vinoba bị phí hoài mọi ngày! - và giá của quạt hay máy làm mát, hay máy điều hoà là gì? Và bẩy giờ bị phí hoài của Vinoba mọi ngày...? Nhưng nếu có quạt, người này chắc đã cảm thấy rằng Vinoba không tâm linh. Và bằng cách nào đó Vinoba cũng đồng ý với kiểu thái độ này - rằng bẩy giờ mọi ngày của Vinoba là không quan trọng.
Cuộc sống là rất ngắn, và một thiên tài như Vinoba đang làm phí hoài bẩy giờ không cần thiết. Nhưng bản thân ông ấy cũng cảm thấy rằng công nghệ bằng cách nào đó là phản tâm linh. Bên ngoài là bên ngoài - ông ấy đã chọn bên trong. Nhưng nếu bạn chọn bên trong, ngay cả việc để vải ướt cũng là bên ngoài. Nó đang làm cùng một điều, chỉ theo cách rất nguyên thuỷ. Bạn đang làm gì? Bạn đang tạo ra một loại làm mát. Và bạn đang phí hoài bẩy giờ cho nó! Điều này là với cái giá rất lớn. Nhưng chúng ta sẽ nói, 'Không, đây là khổ hạnh, đây là tâm linh, và người này là vĩ đại.' Điều này đã đi tới chính các tế bào của não chúng ta.
Tôi chấp nhận sự sống trong tính toàn bộ của nó. Cả hai cái bên ngoài và cái bên trong có đó, và chúng cả hai đều thuộc về tôi. Và chúng phải được cân bằng. Bạn không cần chọn cái này với cái giá về cái kia. Và nếu bạn chọn, bạn rơi thành nạn nhân - nạn nhân của điều cực đoan - và bạn sẽ khổ vì nó.
Tạo ra cân bằng đi. Cái bên ngoài và cái bên trong là không đối lập. Chúng là những chuyển động của cùng một năng lượng, hai bờ của cùng một dòng sông, và sông không thể chảy được chỉ với một bờ. Bạn có thể quên bờ kia, nhưng bờ kia sẽ có đó. Và sông chỉ có thể tồn tại nếu bờ kia có đó. Bạn có thể quên nó hoàn toàn: thế thì đạo đức giả được sinh ra, vì bạn phải liên tục che giấu bờ kia một cách không cần thiết. Không có nhu cầu. Sông không thể chảy được.
Sự sống chảy giữa cái bên trong và cái bên ngoài, và cả hai đều là bản chất. Sự sống không thể tồn tại với một cái. Và hai không thực sự là hai đâu. Hai bờ của sông chỉ dường như là hai; nếu bạn đi sâu vào trong sông, chúng được nối liền - cùng nền đất xuất hiện như hai bờ. Cái bên ngoài và cái bên trong là cùng một nền, cùng một hiện tượng.
Nếu sáng suốt này đi sâu, và con người... và tôi quan tâm tới con người, không quan tâm tới văn hoá, không quan tâm tới xã hội, không quan tâm tới nền văn minh. Nếu con người trở thành toàn bộ và được cân bằng, có thể là một ngày nào đó nhân loại có thể trở thành xã hội cân bằng. Và chỉ thế thì con người sẽ thoải mái. Và chỉ thế thì sẽ có thể trưởng thành mà không có bất kì khó khăn không cần thiết nào.
Bây giờ, hiếm khi việc xảy ra là ai đó trưởng thành - hiếm hoi. Gần như mọi hạt mầm đều bị phí hoài. Trong cả triệu hạt, một hạt mầm trưởng thành và đi tới nở hoa. Điều này dường như lãng phí vô cùng. Nhưng nếu xã hội được cân bằng - không cái gì bị phủ nhận, không cái gì được chọn, nhưng cái toàn thể được chấp nhận trong hài hoà sâu - thế thì nhiều người sẽ trưởng thành. Thực sự, chính điều ngược lại sẽ là hoàn cảnh: sẽ hiếm khi xảy ra là ai đó sẽ không trưởng thành.
Xem tiếp Chương 55 - Quay về Mục lục Tập 3 - Quay về Mục lục Toàn tập
0 Đánh giá