Chương 65. Sống là điều huyền bí, không là vấn đề

Chương 65. Sống là điều huyền bí, không là vấn đề

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 4 - Osho

Sách về các Bí mật: Bình luận mới

Chương 65. Sống là điều huyền bí, không là vấn đề


Để chất liệu tâm trí

vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế

ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông.

Xem xét mọi khu vực của hình dạng hiện tại của ông

Như không gian vô giới hạn.

Sống không phải là vấn đề nhưng là điều huyền bí. Với khoa học sống là vấn đề, nhưng với tôn giáo nó là điều huyền bí. Vấn đề có thể được giải, điều huyền bí không thể được giải - nó có thể được sống nhưng nó không thể được giải. Tôn giáo không cung cấp giải pháp, không cho câu trả lời. Khoa học cung cấp câu trả lời; tôn giáo không có câu trả lời nào.

Đây là khác biệt cơ bản, và trước khi bạn làm bất kì nỗ lực nào để hiểu tôn giáo là gì, khác biệt cơ bản này trong chính cách tiếp cận của tâm trí tôn giáo và tâm trí khoa học cần được hiểu sâu sắc.

Khi tôi nói rằng khoa học nhìn vào sự sống như vấn đề, như cái gì đó có thể được giải, toàn thể cách tiếp cận trở thành có tính trí tuệ. Thế thì tâm trí được tham gia, không phải bạn. Bạn ở ngoài nó. Tâm trí thao túng, tâm trí xử trí, tâm trí xuyên thấu và phân tích. Tâm trí tranh cãi, hoài nghi, thực nghiệm, nhưng bạn như một sự toàn bộ là ở ngoài nó. Do đó có hiện tượng rất thách đố này: nhà khoa học có thể là người trí thức rất sắc sảo khi có liên quan tới bộ phận nghiên cứu riêng của ông ấy, nhưng trong cuộc sống bình thường ông ấy sẽ chỉ là người bình thường như bất kì người khác nào - không cái gì đặc biệt, chỉ bình thường. Trong nhánh tri thức riêng của ông ấy, ông ấy có thể là thiên tài, nhưng trong cuộc sống ông ấy chỉ là bình thường.

Khoa học chỉ bao hàm trí tuệ của bạn, không bao gồm tính toàn bộ của bạn. Người trí tuệ có bạo hành, nó là lấn lướt. Đó là lí do tại sao rất ít đàn bà có thể là nhà khoa học - lấn lướt không là tự nhiên cho họ. Trí tuệ là nam tính, lấn lướt, bạo hành: đó là lí do tại sao đàn ông nhiều tính khoa học hơn và đàn bà nhiều tính tôn giáo hơn. Trí tuệ cố mổ xẻ, phân chia, phân tích, và bất kì khi nào bạn mổ xẻ một vật sống, sự sống biến mất. Chỉ các bộ phận chết còn lại trong tay bạn.

Đó là lí do tại sao khoa học không bao giờ chạm vào sự sống. Thực sự, bất kì cái gì nó chạm vào trở thành chết. Khi khoa học nói không có hồn hay không có Thượng đế điều đó có nghĩa, không phải bởi vì sự sống của họ không có hồn hay không có Thượng đế. Mà bởi vì điều này chỉ ra rằng chính cách tiếp cận của tâm trí khoa học là tới mức bạn không thể chạm vào sự sống được ở bất kì chỗ nào. Bất kì chỗ nào khoa học chạm tới, chết xảy ra. Trong chính phương pháp này, trong chính cách thức này, trong chính cách tiếp cận của phân chia, phân tích, mổ xẻ, sự sống bị đẩy ra ngoài.

Một điều: trí tuệ là bạo hành và lấn lướt, cho nên kết quả tối thượng qua trí tuệ chỉ có thể là chết, không sống. Nó là bộ phận, không toàn bộ, và bộ phận là chết. Sự sống là thống nhất hữu cơ. Bạn có thể biết sống qua tổng hợp, không qua phân tích. Sự tổng hợp càng lớn, các hình dạng của sự sống tiến hoá càng cao. Thượng đế là sự tổng hợp tối thượng, sự thống nhất toàn bộ, cái toàn thể của sự tồn tại. Thượng đế không là câu đố mà là sự tổng hợp tối thượng của mọi cái đang hiện hữu - vật chất là việc phân tích tối thượng của mọi cái đang hiện hữu.

Cho nên khoa học đi tới tính vật chất nguyên tử và tôn giáo đi tới ý thức càn khôn. Khoa học chuyển xuống tới mẫu số cuối cùng, thấp nhất và tôn giáo chuyển lên tới tử số cao nhất. Chúng chuyển theo các chiều đối lập. Cho nên khoa học biến đổi mọi thứ thành vấn đề, vì nếu bạn phải xử trí nó theo cách khoa học, đầu tiên bạn phải quyết định liệu nó có là vấn đề hay không. Tôn giáo lấy điều huyền bí làm cơ sở. Không có vấn đề, sự sống không phải là vấn đề. Nhấn mạnh là ở chỗ nó không thể được giải. Vấn đề nghĩa là cái gì đó giải được, cái gì đó mà có thể được biết, cái gì đó là có thể biết được. Nó có thể không được biết ngay bây giờ, nhưng nó không phải là không thể biết được. Nhiều nhất nó có thể là không biết, nhưng cái không biết đó sẽ biến mất và nó sẽ được biến đổi thành cái được biết.

Cho nên thực sự, tôn giáo không thể hỏi câu hỏi kiểu như, "Sống là gì?" Điều này là ngớ ngẩn. Tôn giáo không thể hỏi câu hỏi kiểu như, "Thượng đế là gì?" Điều này là vô nghĩa. Chính cách tiếp cận của tôn giáo là không tạo ra vấn đề. Tôn giáo có thể hỏi làm sao để sống động hơn, làm sao để ở trong chính dòng chảy của sự sống, làm sao sống một cách dư thừa; tôn giáo có thể hỏi làm sao là Thượng đế - nhưng nó không thể hỏi Thượng đế là gì.

Chúng ta có thể sống điều huyền bí, chúng ta có thể trở thành một với chúng, chúng ta có thể làm mất bản thân chúng ta trong chúng, chúng ta có thể có sự tồn tại khác toàn bộ, chính phẩm chất thay đổi - nhưng không cái gì được giải, vì không cái gì có thể được giải. Và mọi thứ dường như là giải được, mọi thứ dường như là biết được, chỉ là vì chúng ta xét nó theo mảnh mẩu. Nếu chúng ta nhìn vào cái toàn thể thế thì không cái gì là biết được, chúng ta chỉ liên tục đẩy điều huyền bị lùi ra sau. Mọi câu hỏi của chúng ta đều là tạm thời, chúng dường như là câu trả lời chỉ cho tâm trí lười biếng. Nếu bạn có tâm trí sắc sảo bạn sẽ quay đi quay lại với cùng điều huyền bí, nó chỉ bị đẩy lùi lại, một bước lùi lại. Chỉ ngay sau câu trả lời, câu hỏi được ẩn kín. Bạn đã đơn giản tạo ra mẽ ngoài của câu trả lời, chỉ là bức màn che lên điều huyền bí.

Nếu bạn có thể cảm thấy phân biệt này, thế thì từ chính lúc ban đầu tôn giáo lấy hình dạng khác, mầu sắc khác và cái nhìn khác. Toàn thể cảnh quan thay đổi. Những kĩ thuật này mà chúng ta đang thảo luận ở đây không để giải quyết bất kì cái gì - chúng không coi sự sống như vấn đề. Sự sống có đó. Nó đã là điều huyền bí và sẽ vẫn còn là điều huyền bí. Bất kì cái gì chúng ta làm chúng ta không thể giải huyền bí nó, vì là huyền bí là chính phẩm chất của nó. Sự sống đó là huyền bí không phải là cái gì đó ngẫu nhiên, nó không phải là cái gì đó có thể bị tách rời, nó là chính bản thân sự sống. Cho nên với tôi, bạn càng đi vào trong điều huyền bí, vào trong sự huyền bí, bạn càng trở nên có tính tôn giáo hơn.

Người tôn giáo thực sự sẽ không nói rằng người đó tin vào Thượng đế; người đó sẽ không nói rằng Thượng đế tồn tại. Những điều này dường như là rất hời hợt, chúng dường như giống câu trả lời được cho những câu hỏi nào đó. Người tôn giáo không thể thốt ra những lời báng bổ như vậy - rằng Thượng đế hiện hữu. Nó là hiện tượng sâu sắc, điều huyền bí tới mức nói bất kì cái gì sẽ là báng bổ. Cho nên bất kì khi nào ai đó hỏi Phật liệu Thượng đế có tồn tại hay không, ông ấy vẫn còn im lặng. Bạn đang hỏi một điều không thể được trả lời. Không phải là không có Thượng đế, nhưng trả lời điều như vậy sẽ làm cho nó thành trả lời được. Thế thì sự sống sẽ trở thành vấn đề mà có thể được trả lời. Thế thì điều huyền bí biến mất. Cho nên Phật đã nói, "Đừng hỏi ta bất kì câu hỏi siêu hình nào."

Câu hỏi chỉ có thể có tính vật lí. Vật lí có thể trả lời chúng. Câu hỏi siêu hình không có đó, chúng không thể hiện hữu, vì siêu hình ngụ ý điều huyền bí.

Những kĩ thuật này là để giúp bạn chuyển sâu hơn vào trong điều huyền bí, không vào trong tri thức.

Hay bạn có thể nhìn nó theo cách khác: những kĩ thuật này là để giúp bạn dỡ gánh nặng tri thức của bạn. Chúng không giúp bạn làm tăng 'thông thái' của bạn, vì 'thông thái' là rào chắn. Thế thì cánh cửa bị đóng lại với điều huyền bí. Bạn càng biết nhiều, bạn càng ít có năng lực xuyên thấu sâu vào trong sự sống. Điều ngạc nhiên nguyên thuỷ phải được nắm bắt lại, vì theo nghĩa trẻ thơ của ngạc nhiên, không cái gì được biết và mọi thứ trở thành điều huyền bí. Và nếu bạn chuyển vào trong điều huyền bí, bạn càng chuyển vào sâu, điều huyền bí càng sâu hơn. Thế thì một khoảnh khắc tới khi bạn có thể nói rằng bạn không biết bất kì cái gì. Đó là khoảnh khắc đúng.

Bây giờ bạn đã trở nên có tính thiền. Khi bạn có thể cảm thấy dốt nát sâu, khi bạn trở nên nhận biết rằng bạn không biết bất kì cái gì, bạn đã đi tới điểm cân bằng đúng từ đó cánh cửa của điều huyền bí có thể mở ra. Nếu bạn biết, thế thì cánh cửa bị đóng lại; nếu bạn dốt nát, tỉnh táo đầy đủ rằng bạn không biết bất kì cái gì, cánh cửa đột nhiên mở ra. Chính việc cảm rằng bạn không biết mở ra cánh cửa.

Cho nên coi những kĩ thuật này không như tri thức, mà như sự giúp đỡ để làm cho bạn hồn nhiên hơn. Dốt nát là hồn nhiên, tri thức bao giờ cũng là một loại tinh ranh, láu lỉnh. Nếu bạn có thể dùng tri thức của bạn để lại là dốt nát, thế thì bạn đã dùng nó đúng đắn. Đây là cách dùng duy nhất của mọi kinh sách, của mọi tri thức, của mọi Vedas - để làm cho bạn lại như trẻ thơ.

Bây giờ kĩ thuật thứ nhất:

Để chất liệu tâm trí

vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế

ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông.

Ba điều. Thứ nhất, nếu tri thức là quan trọng thế thì cái đầu là trung tâm; nếu hồn nhiên như trẻ thơ là quan trọng thế thì tâm là trung tâm. Đứa trẻ sống trong tâm; chúng ta sống trong đầu. Đứa trẻ cảm; chúng ta nghĩ. Ngay cả khi chúng ta nói chúng ta cảm, chúng ta nghĩ rằng chúng ta cảm. Suy nghĩ trở thành chính cho chúng ta, việc cảm trở thành phụ. Suy nghĩ là công cụ cho khoa học, việc cảm là công cụ cho tôn giáo.

Bạn phải bắt đầu là con người cảm lần nữa. Và cả hai chiều này là khác nhau. Khi bạn nghĩ, bạn vẫn còn tách rời; khi bạn cảm, bạn tan chảy.

Nghĩ về đoá hoa, hoa hồng mà xem. Khi bạn nghĩ, bạn là tách rời, có kẽ hở, khoảng cách, không gian. Với suy nghĩ, không gian được cần; để ý nghĩ chuyển động, khoảng cách được cần. Cảm đoá hoa và kẽ hở biến mất, khoảng cách mất đi. Vì với cảm, khoảnh cách là rào chắn. Bạn càng tới gần, bạn càng cảm nhiều. Một khoảnh khắc tới khi ngay cả sự gần gũi dường như là một loại khoảng cách - và thế rồi việc tan chảy xảy ra. Thế thì bạn không thể cảm thấy các ranh giới của nơi bạn đang hiện hữu và nơi hoa hiện hữu, về nơi bạn kết thúc và nơi hoa bắt đầu. Thế thì các ranh giới tan chảy vào trong nhau: hoa đi vào bạn theo cách nào đó, bạn đi vào hoa theo cách nào đó. Việc cảm là việc làm mất đi các ranh giới; suy nghĩ đang tạo ra các ranh giới. Đó là lí do tại sao suy nghĩ bao giờ cũng nhấn mạnh vào các định nghĩa, vì không có định nghĩa bạn không thể tạo ra ranh giới.

Suy nghĩ nói định nghĩa trước hết, còn cảm nói không định nghĩa. Nếu bạn định nghĩa, việc cảm dừng lại.

Trẻ thơ cảm; chúng ta nghĩ. Trẻ thơ tới gần sự tồn tại, nó tan chảy và cho phép sự tồn tại tan chảy trong nó. Chúng ta bị cô lập, bị cầm tù trong cái đầu. Chúng ta giống như các hòn đảo.

Kinh này nói quay trở lại trung tâm tâm. Bắt đầu cảm mọi thứ. Nó sẽ là một thực nghiệm lớn nếu bạn bắt đầu cảm mọi thứ. Bất kì cái gì bạn làm, dành một lượng nào đó về thời gian và năng lượng của bạn cho việc cảm. Bạn đang ngồi ở đây, bạn có thể lắng nghe tôi - nhưng đó sẽ là một phần của suy nghĩ. Bạn cũng có thể cảm tôi ở đây nhưng điều đó sẽ không là một phần của suy nghĩ. Nếu bạn có thể cảm sự hiện diện của tôi, thế thì các định nghĩa bị mất. Thế thì thực sự, nếu bạn đi tới một khoảnh khắc của cảm, bạn không biết ai đang nói và ai đang nghe. Điều này có thể xảy ra ngay chính khoảnh khắc này. Thế thì diễn giả trở thành người nghe và người nghe trở thành diễn giả. Thế thì thực sự họ không phải là hai, thay vì thế, họ là hai cực của một hiện tượng: ở cực này là người nói, ở cực kia là người nghe. Nhưng đây chỉ là các cực, bị cô lập. Chúng không là thực. Điều thực ở ngay giữa hai cực này - sự sống, việc chảy. Bất kì khi nào bạn cảm, cái gì đó khác hơn bản ngã của bạn trở thành quan trọng. Đối thể và chủ thể mất định nghĩa của chúng. Việc chảy, con sóng tồn tại - trên cực này là người nói, trên cực kia là người nghe, nhưng sự sống là sóng.

Cái đầu cho bạn sự sáng tỏ, và vì sự sáng tỏ này nhiều lẫn lộn đã đi vào hiện hữu vì cái đầu định nghĩa rõ ràng, đánh dấu ranh giới, làm ra bản đồ. Với lí trí, mọi thứ là rõ ràng: không mơ hồ, không huyền bí nào là được phép. Mọi thứ mơ hồ bị bác bỏ, chỉ cái rõ ràng là thực. Lí trí cho bạn sự sáng tỏ, và vì sự sáng tỏ, hiểu lầm lớn nảy sinh. Sáng tỏ không phải là thực tại. Thực tại bao giờ cũng không rõ ràng, mơ hồ. Khái niệm là rõ ràng, thực lại là huyền bí; khái niệm là hợp lí, thực tại là bất hợp lí.

Lời là rõ ràng, logic là rõ ràng, sự sống là không rõ ràng. Tâm cho bạn sự mơ hồ tan chảy. Nó đạt tới thực tại một cách thân mật hơn, nhưng nó không rõ ràng. Và bởi vì chúng ta đã chọn sự rõ ràng làm mục đích, chúng ta đã bỏ lỡ thực tại. Bạn phải có con mắt không rõ ràng để đi vào thực tại lần nữa. Bạn phải mơ hồ, bạn phải sẵn sàng đi vào trong cái gì đó mà không thể được quan niệm, vào trong cái gì đó không logic, vào trong cái gì đó gây choáng váng và thực, gây choáng váng và sống động.

Sáng tỏ là chết. Nó vẫn còn bị cố định. Sống là luồng, không cái gì cố định, không cái gì vẫn còn là cùng cái cũ vào khoảnh khắc tiếp. Làm sao bạn có thể là rõ ràng về nó? Nếu bạn nhấn mạnh quá nhiều vào sự sáng tỏ bạn sẽ đánh mất tiếp xúc với nó. Đó là điều đã xảy ra.

Kinh này nói rằng điều cơ bản là quay lại trung tâm tâm - nhưng làm sao tới nó? Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông.

Từ 'chất liệu tâm trí' không phải là việc dịch tốt của từ tiếng Phạn nguyên gốc chitt. Nhưng tiếng Anh không có từ khác tương đương. Cho nên nó là tốt theo một cách nào đó, nó mang nghĩa, không của của 'tâm trí' mà của 'chất liệu tâm trí'.

Tâm trí ngụ ý trạng thái tâm lí, suy nghĩ, ý nghĩ, và chất liệu tâm trí ngụ ý bối cảnh trên đó các ý nghĩ này nổi - cũng như trên trời mây bay. Mây là ý nghĩ và trời là bối cảnh trên đó chúng di chuyển. Trời đó, tâm thức, đã được gọi là chất liệu tâm trí. Tâm trí của bạn có thể hiện hữu mà không có ý nghĩ; thế thì nó là chitt, thế thì nó là tâm trí thuần khiết. Khi nó có ý nghĩ nó là tâm trí không thuần khiết.

Nếu tâm trí của bạn có thể hiện hữu mà không có ý nghĩ, thế thì nó là thứ rất tinh tế, tinh tế nhất có thể trong sự tồn tại. Bạn không thể quan niệm được về một khả năng tinh tế hơn. Tâm thức là thứ tinh tế nhất. Cho nên khi không có ý nghĩ trong tâm trí, bạn có tâm trí thuần khiết. Tâm trí thuần khiết có thể chuyển tới tâm, tâm trí không thuần khiết không thể chuyển được. Bởi không thuần khiết tôi không ngụ ý bất kì ý nghĩ vô đạo đức nào trong tâm trí, bởi không thuần khiết tôi ngụ ý mọi ý nghĩ - ý nghĩ như vậy là không thuần khiết.

Cho dù bạn đang nghĩ về Thượng đế nó là không thuần khiết, vì mây đang di chuyển. Mây rất trắng, nhưng mây có đó và sự thuần khiết của không gian không có đó. Bầu trời không mây không có đó. Mây có thể là mây đen, ý nghĩ dục chuyển qua trong tâm trí, hay mây có thể là mây trắng, đẹp, lời cầu nguyện chuyển qua tâm trí, nhưng trong cả hai trường hợp tâm trí thuần khiết không có đó. Nó là không thuần khiết, bị mây che. Và nếu tâm trí bị mây che bạn không thể di chuyển vào tâm.

Điều này phải được hiểu vì với ý nghĩ bạn bám lấy cái đầu. Ý nghĩ là rễ, và chừng nào những rễ này chưa bị chặt đi bạn không thể rơi trở lại tâm.

Đứa trẻ vẫn còn trong tâm chỉ tới khoảnh khắc các ý nghĩ kết tinh, rằng ý nghĩ bắt đầu nổi trong tâm trí nó. Thế rồi chúng bắt rễ; thế rồi qua giáo dục, văn hoá, trau dồi, chúng trở nên được bắt rễ; thế rồi dần dần tâm thức chuyển từ tâm sang đầu. Tâm thức có thể vẫn còn trong đầu chỉ nếu có ý nghĩ. Điều này là cơ bản. Nếu không có ý nghĩ, tâm thức lập tức rơi trở lại hồn nhiên nguyên thuỷ của nó ở trong tâm.

Do đó có nhiều nhấn mạnh thế vào thiền, nhiều nhấn mạnh thế vào vô suy nghĩ, vào nhận biết vô ý nghĩ, vào nhận biết vô chọn lựa, hay 'chính niệm' của Phật, điều chính là lưu tâm mà không có ý nghĩ nào, chỉ là nhận biết. Thế thì điều gì xảy ra? Một hiện tượng rất lớn xảy ra vì khi rễ bị chặt đi, ngay lập tức tâm thức rơi trở lại tâm, tới chỗ nguyên thuỷ nơi nó đã từng ở. Bạn lại trở thành đứa trẻ.

Jesus nói, "Chỉ những người giống như trẻ thơ sẽ đi vào trong vương quốc của Thượng đế của ta." Ông ấy nói tới những người có tâm thức đã quay lại tới tâm. Họ đã trở thành hồn nhiên, như trẻ thơ.

Nhưng yêu cầu cơ bản đầu tiên là Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được...

Ý nghĩ có thể được diễn đạt. Không có một ý nghĩ nào mà là không thể diễn đạt được, mà cũng không thể có được. Nếu nó là không thể diễn đạt được bạn không thể nghĩ được nó; nếu bạn có thể nghĩ nó, nó là diễn đạt được. Không có một ý nghĩ nào mà bạn có thể nói ra là không thể diễn đạt được. Khoảnh khắc bạn có thể nghĩ nó, nó đã trở thành diễn đạt được - bạn đã diễn đạt nó cho bản thân bạn.

Tâm thức, tâm thức thuần khiết, là không thể diễn đạt được. Đó là lí do tại sao các nhà huyền bí liên tục nói rằng họ không thể diễn đạt được điều họ biết. Các nhà logic bao giờ cũng nêu ra câu hỏi rằng nếu bạn biết, thế thì tại sao bạn không thể nói được nó? Và luận cứ của họ có nghĩa và ý nghĩa. Nếu bạn thực sự nói rằng bạn biết thế thì tại sao bạn không thể diễn đạt được nó?

Với nhà logic, tri thức phải là diễn đạt được - cái mà có thể được biết thì có thể được làm cho người khác biết, không có vấn đề gì. Nếu bạn đã biết nó, thế thì vấn đề là gì? Bạn có thể làm cho nó thành được biết với người khác. Nhưng tri thức của nhà huyền bí không phải là ý nghĩ. Ông ấy đã không biết nó như ý nghĩ, ông ấy đã biết nó như việc cảm. Cho nên thực sự, nói "Tôi biết Thượng đế" là không ổn. Tốt hơn cả là nói, "Tôi cảm." Nói "Tôi đã biết Thượng đế" là không ổn. Tốt hơn cả là nói, "Tôi đã cảm thấy ngài." Điều đó là mô tả chính xác hơn về hiện tượng này vì 'tri thức' thông qua tâm giống như việc cảm, nó không giống tri thức.

Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được... Chất liệu tâm trí, tâm thức, chitt, là không thể diễn đạt được. Nếu một ý nghĩ chuyển qua, nó là diễn đạt được. Cho nên, để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được ngụ ý đi tới điểm mà bạn có ý thức, nhưng không có ý thức về bất kì ý nghĩ nào; nơi bạn tỉnh táo, nhưng không có ý nghĩ chuyển trong tâm trí. Đây là điểm tinh tế và rất khó - bạn có thể bỏ lỡ nó dễ dàng.

Chúng ta biết hai trạng thái của tâm trí. Một là khi ý nghĩ có đó. Khi ý nghĩ có đó, bạn không thể chuyển tới tâm. Thế rồi chúng ta biết trạng thái khác của tâm trí - khi ý nghĩ không có đó. Khi ý nghĩ không có đó, bạn rơi vào giấc ngủ. Thế nữa, bạn không thể chuyển tới tâm. Mọi đêm, trong vài khoảnh khắc, trong vài giờ, bạn rơi ra khỏi suy nghĩ. Ý nghĩ dừng lại, nhưng bạn không đạt tới tâm vì bạn vô ý thức. Cho nên một cân bằng rất tinh tế được cần. Ý nghĩ phải dừng lại như chúng dừng trong ngủ say, khi không có mơ - và bạn phải tỉnh táo như bạn vậy khi thức. Hai điểm này phải gặp gỡ. Tâm trí phải là vô ý nghĩ như nó ở trong ngủ say, nhưng bạn phải không ngủ, bạn phải tỉnh táo hoàn hảo, nhận biết.

Khi nhận biết và việc vô suy nghĩ này gặp gỡ, nó là thiền. Đó là lí do tại sao Patanjali nói rằng samadhi là giống như sushupti. Cực lạc cao nhất, samadhi, là giống như ngủ say nhất, chỉ với một khác biệt: trong nó bạn không ngủ. Nhưng phẩm chất là như nhau - vô ý nghĩ, không mơ, không rối loạn, không một gợn sóng, bình thản và yên tĩnh toàn bộ, nhưng tỉnh táo. Khi bạn nhận biết và không có ý nghĩ, bạn sẽ cảm thấy sự biến đổi bất thần trong tâm thức bạn. Trung tâm thay đổi. Bạn bị ném trở lại. Bạn bị ném về tâm. Và từ tâm, khi bạn nhìn ra thế giới, không có thế giới, chỉ có Thượng đế. Từ cái đầu, khi bạn nhìn hướng tới sự tồn tại, không có Thượng đế, chỉ có sự tồn tại vật chất.

Vật chất, sự tồn tại vật chất, thế giới, và Thượng đế không phải là hai điều, hai cái nhìn, hai cảnh quan. Chúng là cùng hiện tượng được nhìn từ hai trung tâm của con người.

Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông. Ở trong nó toàn bộ, được hội nhập, được chìm vào. Đơn giản là tâm thức, ở trên, ở dưới, trong tâm; toàn thể tâm được bao quanh bởi tâm thức đơn giản; không suy nghĩ bất kì cái gì nói riêng, chỉ là nhận biết, không lời, không nói thành lời, không suy nghĩ chút nào, chỉ hiện hữu.

Để chất liệu tâm trí ở trên, dưới, và trong tâm bạn, và mọi thứ sẽ trở thành có thể cho bạn. Mọi cánh cửa của cảm nhận sẽ được lau sạch và mọi cửa của điều huyền bí sẽ được mở. Đột nhiên sẽ không có vấn đề gì, và đột nhiên sẽ không có khổ - dường như bóng tối đã biến mất hoàn toàn. Một khi bạn biết điều này bạn có thể chuyển lại đầu nhưng bạn sẽ không là như cũ. Bây giờ bạn có thể dùng cái đầu như dụng cụ. Bạn có thể làm việc với nó, nhưng bây giờ bạn không bị đồng nhất với nó, và ngay cả khi làm việc với nó và nhìn vào thế giới qua nó, bạn sẽ biết rằng bất kì cái gì bạn đang thấy là do trí tuệ thôi. Bây giờ bạn quen với quan điểm cao hơn, cái nhìn sâu hơn - và bất kì khoảnh khắc nào bạn muốn bạn có thể tụt lại sau.

Một khi bạn biết lối chuyển và cách tâm thức rơi lại thế nào; tuổi của bạn, quá khứ của bạn, kí ức của bạn và tri thức của bạn biến mất và bạn trở thành đứa trẻ lại mới được sinh ra - một khi bạn biết bí mật này, lối chuyển này, bạn có thể du hành tới điểm đó nhiều lần tuỳ bạn thích, và bạn có thể được làm tươi tắn lặp đi lặp lại. Nếu bạn phải chuyển lên trước, bạn có thể dùng nó; bạn có thể chuyển vào thế giới bình thường, làm việc nhưng không bị dính líu vào trong nó, vì sâu bên dưới bạn biết rằng cái được biết bởi trí tuệ là bộ phận. Nó không phải là toàn thể chân lí. Và chân lí bộ phận là nguy hiểm hơn dối trá, vì nó dường như là thực và bạn có thể bị lừa bởi nó.

Một số điểm thêm nữa. Khi bạn chuyển tới tâm, bạn nhìn vào sự tồn tại như một sinh linh toàn bộ. Tâm không phải là bộ phận, tâm không phải là một mảnh của bạn, tâm ngụ ý bạn trong tính toàn bộ của bạn. Tâm trí là một mảnh, tay là một mảnh, chân là một mảnh, dạ dầy là một mảnh, toàn thân được lấy theo các bộ phận là bị phân mảnh. Tim không là một mảnh. Đó là lí do tại sao tay tôi có thể bị cắt rời và tôi sẽ vẫn sống. Ngay cả não tôi có thể được loại ra và tôi sẽ vẫn sống, nhưng nếu tim mất đi, tôi mất đi.

Thực sự, toàn thân tôi có thể bị loại bỏ nhưng nếu tim tôi còn đập tôi vẫn sống. Tim ngụ ý tính toàn thể của bạn, cho nên khi tim không làm việc, bạn không còn đó. Mọi thứ khác chỉ là bộ phận, có thể bỏ được. Nếu tim đang đập bạn sẽ vẫn còn không bị động tới. Trung tâm của tâm là chính cốt lõi của sự tồn tại của bạn. Tôi có thể chạm vào bạn bằng tay tôi. Cái chạm đó sẽ cho tôi tri thức nào đó về bạn, về da của bạn, liệu nó mềm mại hay không. Tay sẽ cho tôi tri thức nào đó, nhưng tri thức sẽ là bộ phận vì tay không phải là cái toàn thể của tôi. Tôi có thể thấy bạn. Mắt tôi sẽ cho tri thức nào đó từ quan điểm khác nhưng điều đó sẽ không là cái toàn thể. Tôi có thể nghĩ về bạn - lại cùng một điều. Nhưng tôi không thể cảm thấy bạn trong tính bộ phận. Nếu tôi cảm thấy bạn chút nào tôi cảm thấy bạn trong cái toàn thể của bạn. Đó là lí do tại sao, chừng nào bạn chưa biết qua yêu, bạn không bao giờ biết cái toàn thể của bất kì người nào.

Chỉ yêu có thể làm lộ ra toàn thể nhân cách cho bạn, con người toàn thể, cái bản chất, cái toàn bộ. Vì yêu ngụ ý biết qua tâm, cảm qua tâm. Cho nên với tôi, việc cảm và việc biết không là hai mảnh của con người bạn. Việc cảm là toàn thể con người bạn và việc biết chỉ là một mảnh của nó.

Với tôn giáo yêu là tri thức cao nhất. Đó là lí do tại sao tôn giáo được diễn đạt dưới dạng thơ ca nhiều hơn dưới dạng khoa học. Thuật ngữ khoa học không thể được dùng, chúng thuộc và cõi của việc biết. Thơ ca có thể được dùng. Và những người đã đi tới biết thực tại qua yêu, bất kì cái gì họ nói đều trở thành thơ ca. Upanishads, Vedas, lời của Jesus hay Phật hay Krishna, chúng tất cả là những phát biểu thơ ca.

Không chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên rằng mọi kinh sách tôn giáo cổ được viết trong thơ ca. Điều đó có ý nghĩa. Nó chỉ ra rằng có sự giống nhau nào đó giữa thế giới của nhà thơ và thế giới của nhà huyền bí. Nhà huyền bí cũng dùng ngôn ngữ của tâm.

Nhà thơ chỉ là nhà huyền môn trong những khoảnh khắc nào đó của chuyến bay, giống như khi bạn nhảy lên bạn có thể đi xa khỏi sức hút của trái đất, nhưng bạn lại trở lại nó. Nhà thơ nghĩa là một người đã từng trong những giây nào đó trên chuyến bay vào trong thế giới của nhà huyền bí. Người đó đã có những thoáng nhìn nào đó. Nhà huyền bí là người đã đi ra ngoài sức hút hoàn toàn, người sống trong thế giới của yêu, người sống qua tâm. Điều này đã trở thành chính chỗ trú ngụ của người đó. Với nhà thơ nó chỉ là thoáng nhìn: đôi khi người đó rơi xuống từ đầu tới tâm. Nhưng đây chỉ là cho thời gian hiện tại - lần nữa người đó trở lại cái đầu. Cho nên nếu bạn thấy bài thơ hay, đừng cố gặp nhà thơ đã viết ra nó vì bạn sẽ không gặp cùng người. Bạn sẽ thất vọng vì bạn sẽ gặp một người rất bình thường. Người đó đã có thoáng nhìn. Với những khoảnh khắc nào đó thực tại đã được khải lộ cho người đó và người đó đã đi xuống tới tâm. Nhưng người đó không biết lối chuyển. Người đó không phải là người chủ của nó. Nó đã là việc xảy ra và người đó không thể di chuyển tới nó bằng ý chí riêng của người đó.

Khi Coleridge chết ông ấy để lại quãng bốn mươi nghìn bài thơ không hoàn chỉnh. Ông ấy thực sự đã hoàn thành chỉ bẩy bài thơ trong cả đời mình. Ông ấy đã trở thành nhà thơ lớn, một trong những nhà thơ lớn nhất trên thế giới, nhưng ông ấy đã nhiều lần được hỏi, "Tại sao ông liên tục chất đống các bài thơ chưa hoàn chỉnh, và khi nào ông định hoàn chỉnh chúng?" Ông ấy nói, "Tôi không thể làm được bất kì cái gì. Đôi khi vài dòng tới tôi và thế rồi chúng dừng lại. Cho nên làm sao tôi có thể hoàn chỉnh chúng được? Tôi sẽ đợi. Tôi sẽ phải đợi. Nếu nó lại xảy ra và thoáng nhìn tới tôi, và tôi lại có thế giới được khải lộ cho tôi, thực tại, thế thì tôi sẽ hoàn chỉnh nó. Nhưng về phần riêng tôi, tôi chẳng thể làm được cái gì." Ông ấy phải đã là một nhà thơ rất chân thành. Tìm ra những nhà thơ chân thành thế là khó, vì xu hướng của tâm trí là cung cấp. Nếu ba dòng đã tới thế thì bạn sẽ cung cấp dòng thứ tư, và dòng thứ tư sẽ giết chết cả ba dòng kia vì nó sẽ tới từ trạng thái tâm trí rất thấp - khi bạn quay lại trên đất.

Khi bạn nhảy, và bạn đã được tự do trong những khoảnh khắc nào đó khỏi sức hút, bạn có chiều hướng khác của hiện hữu.

Nhà thơ đi trên đất nhưng đôi khi ông ấy nhảy lên. Trong những cú nhảy đó ông ấy có các thoáng nhìn. Nhà huyền bí sống trong tâm. Ông ấy không đi trên đất, tâm đã trở thành chỗ trú ngụ của ông ấy. Cho nên ông ấy không thực sự tạo ra thơ ca nhưng bất kì cái gì ông ấy làm đều trở nên có tính thơ, bất kì cái gì ông ấy nói đều trở thành thơ ca. Thực sự, nhà huyền bí không thể dùng văn xuôi vì văn xuôi của ông ấy cũng là thơ ca - nó tới qua tâm, nó tới qua yêu.

Để chất liệu tâm trí vào sự tinh vi không thể diễn đạt được thế ở trên, ở dưới và ở trong tâm ông. Tâm là hiện hữu toàn bộ của bạn, và khi bạn là toàn bộ bạn có thể biết cái toàn bộ - nhớ điều này. Chỉ cái tương tự có thể biết cái tương tự. Khi bạn bị phân mảnh bạn không thể biết cái toàn bộ. Như bên trong, bên ngoài cũng vậy. Khi bạn là toàn bộ bên trong, thực tại toàn bộ bên ngoài được khải lộ cho bạn; bạn đã trở nên có năng lực biết nó, bạn đã thu được quyền biết nó. Khi bạn bị phân mảnh bên trong, thực tại bị phân mảnh bên ngoài. Cho nên bất kì cái gì bạn là bên trong sẽ là cái bên ngoài cho bạn.

Sâu trong tâm toàn thế giới là khác, động thái là khác. Tôi đang nhìn bạn. Nếu tôi nhìn bạn qua cái đầu, qua trí tuệ, qua một trong các bộ phận về việc biết của tôi, thế thì vài người bạn là ở đây, các cá nhân, các bản ngã - tách rời. Nhưng nếu tôi nhìn bạn qua tâm, thế thì các cá nhân không ở đây. Thế thì chỉ một tâm thức đại dương là ở đây và các cá nhân chỉ là những con sóng. Nếu tôi nhìn bạn qua tâm, thế thì bạn và người bên cạnh bạn không phải là hai, thế thì thực tại là ở giữa bạn và người cạnh bạn. Các bạn chỉ là hai cực, và thực tại là ở ngay giữa. Thế thì ở đây có đại dương tâm thức trong đó các bạn tồn tại như những con sóng. Nhưng sóng không tách rời, chúng được móc nối với nhau. Và bạn đang tan chảy mọi khoảnh khắc vào trong người khác, dù bạn biết điều đó hay không.

Hơi thở đã ở bên trong bạn chỉ mới khoảnh khắc trước đã rời khỏi bạn - giờ nó đang chuyển vào trong người bên cạnh bạn. Mới khoảnh khắc trước, nó đã là sự sống của bạn và bạn chắc đã chết nếu không có nó, và giờ nó đang chuyển vào người bên cạnh bên. Giờ nó là sự sống của người đó. Thân thể bạn liên tục toả ra những rung động, bạn là máy phát xạ, cho nên sinh lực của bạn thường xuyên chuyển vào người bên cạnh và sinh lực của người đó đang chuyển vào bạn.

Nếu tôi nhìn bạn từ tâm tôi, nếu tôi nhìn bạn bằng con mắt yêu thương, nếu tôi nhìn bạn một cách toàn bộ, thế thì bạn chỉ là điểm phát xạ, và sự sống đang chuyển liên tục từ bạn sang người khác và từ người khác sang bạn...

Và không chỉ trong phòng này, toàn thể vũ trụ là luồng sinh lực thường hằng. Nó liên tục chuyển động. Không có các đơn vị cá nhân, nó là một toàn thể càn khôn. Nhưng qua trí tuệ, càn khôn không bao giờ xuất hiện, chỉ các mảnh, các mảnh nguyên tử, xuất hiện. Và điều này không phải là vấn đề có thể được hiểu qua trí tuệ. Nếu bạn cố hiểu qua trí tuệ, sẽ không thể nào hiểu thấu được nó. Nó là cái nhìn khác toàn bộ, từ điểm khác của sự tồn tại.

Nếu bạn là toàn bộ bên trong, tính toàn bộ bên ngoài được khải lộ cho bạn. Một số người đã gọi khải lộ đó là nhận ra Thượng đế; một số người đã gọi nó là moksha, giải thoát; một số người đã gọi nó là niết bàn, việc dừng lại. Lời khác nhau, những lời khác hoàn toàn, nhưng chúng mang ý nghĩa về cùng một lõi, cùng một bản chất.

Một điều là cơ bản cho mọi cách diễn đạt này - cá nhân biến mất. Bạn có thể gọi nó là nhận ra Thượng đế, thế thì bạn không còn là cá nhân; bạn có thể gọi nó là giải thoát, thế thì bạn không còn là cái ngã; bạn có thể gọi nó là dừng lại - như Phật đã gọi nó - thế thì chỉ như chiếc đèn, ngọn lửa, dừng hiện hữu, biến mất, tản mác, bạn không thể tìm thấy nó ở bất kì chỗ nào lần nữa, bạn không thể định vị được nó, nó đã đi vào trong vô hiện hữu, cho nên cá nhân biến mất. Nhưng điểm này phải được cân nhắc kĩ lưỡng. Tại sao mọi tôn giáo đều nói rằng cá nhân, cái ngã, bản ngã, biến mất khi bạn nhận ra chân lí? Nếu mọi tôn giáo nhấn mạnh vào điều này, điều này có nghĩa là cái ngã phải là ảo vọng - bằng không làm sao nó có thể biến mất được? Cái ngã phải không hiện hữu ở đó thực sự, chỉ thế thì nó có thể biến mất. Điều này dường như ngược đời, nhưng điều này là vậy: chỉ cái không hiện hữu có thể biến mất. Cái sẽ còn kéo dài trong hiện hữu, nó không thể biến mất.

Chỉ bởi vì cái đầu một thực thể giả đã đi vào hiện hữu - cá nhân. Nếu bạn đi xuống tâm, thực thể giả biến mất. Nó đã là sáng tạo của cái đầu. Từ tâm càn khôn hiện hữu, cá nhân không hiện hữu; cái toàn thể hiện hữu, bộ phận không hiện hữu. Và nhớ, khi bạn không hiện hữu, bạn không thể tạo ra địa ngục; khi bạn không hiện hữu, bạn không thể trong khổ; khi bạn không hiện hữu, không thể có lo âu, không khổ. Mọi lo âu, mọi khổ, tồn tại vì bạn - cái bóng của cái bóng. Cái ngã là không thực, bản ngã là không thực, và bởi vì cái ngã không thực đó nhiều cái bóng không thực được tạo ra. Chúng đi theo bạn, bạn liên tục tranh đấu với chúng, nhưng bạn sẽ không bao giờ chiến thắng vì cơ sở liên tục bị ẩn kín bên trong bạn.

Swami Ramteerth đã nói ở đâu đó rằng ông ấy ở trong một nhà, nhà của một dân làng nghèo. Trẻ nhỏ của dân làng này đang chơi ngay trước lều, và mặt trời đang mọc và đứa trẻ nhìn thấy cái bóng của nó. Nó cố bắt cái bóng, nhưng nó càng di chuyển, cái bóng sẽ di chuyển phía trước. Đứa trẻ bắt đầu khóc. Nó đã thất bại. Nó cố theo mọi cách để bắt cái bóng, nhưng điều đó là không thể được. Bắt bóng là không thể được - không phải bởi vì cái bóng là thứ khó bắt thế, nó là không thể được vì đứa trẻ đã di chuyển để bắt nó. Khi nó di chuyển, cái bóng di chuyển phía trước. Bạn không thể bắt được cái bóng bởi vì cái bóng không có chất liệu, và chỉ cái có chất liệu có thể bị bắt.

Ramteerth đã ngồi đó. Ông ấy cười và đứa trẻ khóc, và người mẹ lúng túng chả biết làm gì. Làm sao an ủi đứa trẻ? Thế là cô ấy nói với, "Swamiji ơi, ông có thể giúp tôi được không?" Ramteerth đi tới đứa trẻ, cầm tay nó và đặt lên đầu nó - cái bóng bị bắt. Vì đứa trẻ đã để tay nó lên đầu nó, cái bóng đã bị bắt. Đứa trẻ bắt đầu cười. Giờ nó có thể thấy rằng tay nó đã bắt được cái bóng.

Bạn không thể bắt được cái bóng, nhưng bạn có thể bắt được bản thân bạn. Và khoảnh khắc bạn bắt được bản thân bạn, cái bóng bị bắt.

Khổ chỉ là cái bóng của bản ngã. Tất cả chúng ta đều giống như đứa bé kia, tranh đấu với khổ, lo âu, phiền não, và cố làm tản mác chúng. Chúng ta không bao giờ có thể chiến thắng. Vấn đề không phải là sức mạnh - toàn thể nỗ lực này là ngớ ngẩn, không thể được. Bạn phải bắt lấy cái ngã, bản ngã, và một khi bạn bắt được nó, khổ đột nhiên biến mất. Nó chỉ là cái bóng.

Có những người bắt đầu tranh đấu với cái ngã. Điều đã được dạy là, "Làm tan rã cái ngã, là vô ngã, và ông sẽ trong phúc lạc," cho nên họ bắt đầu tranh đấu với cái ngã, bản ngã. Nhưng nếu bạn tranh đấu bạn vẫn tin rằng cái ngã tồn tại. Tranh đấu của bạn sẽ cho nó thức ăn, việc đó sẽ trở thành thứ trao năng lượng cho nó, bạn sẽ nuôi dưỡng nó. Kĩ thuật này nói đừng nghĩ về bản ngã, chỉ chuyển từ đầu xuống tâm và bản ngã sẽ biến mất. Bản ngã là phóng chiếu của cái đầu. Đừng tranh đấu với nó. Bạn có thể liên tục tranh đấu trong nhiều kiếp, nhưng nếu bạn vẫn còn trong cái đầu, bạn không thể thắng.

Chỉ thay đổi quan điểm, chỉ chuyển từ đầu sang quan điểm khác, sang quan điểm sâu hơn của hiện hữu, và toàn thể sự việc thay đổi vì bây giờ bạn có thể nhìn từ cảnh quan khác. Từ tâm không có bản ngã. Vì điều này chúng ta đã trở nên sợ tâm. Chúng ta không bao giờ cho phép nó có cách thức riêng của nó, chúng ta bao giờ cũng can thiệp vào nó, chúng ta bao giờ cũng mang tâm trí vào nó. Chúng ta cố kiểm soát tâm qua tâm trí vì chúng ta đã trở nên sợ - nếu bạn chuyển tới tâm, bạn đánh mất bản thân bạn. Và việc mất này giống như chết. Do đó không có năng lực để yêu, do đó có sợ rơi vào yêu. Vì bạn mất bản thân bạn, bạn không trong kiểm soát. Cái gì đó lớn hơn nắm giữ bạn và chiếm sở hữu. Thế thì bạn không ở trên đất vững chắc và bạn không biết bạn đang chuyển đi đâu. Cho nên cái đầu nói, "Đừng là kẻ ngu, đi với lí trí đi. Đừng là điên."

Bất kì khi nào ai đó trong yêu, mọi người nghĩ rằng người đó là điên. Bản thân người đó nghĩ rằng cái gì đó đã phát rồ, "Mình không còn trong ý thức của mình!" Tại sao điều đó xảy ra? Vì bây giờ không có kiểm soát. Cái gì đó đang xảy ra mà người đó không thể kiểm soát được, người đó không thể quản lí và thao túng được. Thay vì thế, cái gì đó đang thao túng người đó, một lực lớn hơn đã tiếp quản người đó. Người đó bị sở hữu...

Nhưng chừng nào bạn chưa sẵn sàng để bị sở hữu thì không thể có Thượng đế nào cho bạn. Chừng nào bạn chưa sẵn sàng bị sở hữu thì không có điều huyền bí nào dành cho bạn, và không phúc lạc nào, không phúc lành nào. Người sẵn sàng bị sở hữu bởi yêu, bởi lời cầu nguyện, bởi càn khôn, ngụ ý người sẵn sàng chết đi như bản ngã. Chỉ người đó có thể biết sống thực sự là gì, sống phải cho cái gì. Cái là có thể thì trở thành thực tại ngay lập tức, nhưng bạn phải đặt bản thân bạn vào lâm nguy.

Kĩ thuật này là hay. Nó không nói bất kì cái gì về bản ngã của bạn. Nó không nói bất kì cái gì về điều đó. Nó đơn giản cho bạn kĩ thuật, và nếu bạn tuân theo kĩ thuật này, bản ngã sẽ biến mất.

Kinh thứ hai:

Xem xét mọi khu vực của hình dạng hiện tại của ông như không gian vô giới hạn.

Đây là cùng điều, qua cánh cửa khác. Điều bản chất cơ bản là cùng một, tức là, phá huỷ các giới hạn. Tâm trí tạo ra các giới hạn. Nếu bạn không nghĩ, bạn chuyển vào trong cái vô giới hạn. Hay, từ cánh cửa khác, bạn có thể thử với cái vô giới hạn và bạn sẽ rơi ra từ tâm trí. Tâm trí không thể cùng tồn tại với cái vô giới hạn, với cái không xác định, cái không ranh giới, cái vô hạn. Tâm trí không thể tồn tại với cái không ranh giới, cho nên nếu bạn có thể thử cái gì đó vô giới hạn, tâm trí sẽ biến mất.

Kĩ thuật này nói, Xem xét mọi khu vực của hình dạng hiện tại của ông như không gian vô giới hạn. Bất kì khu vực nào. Bạn có thể chỉ nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng đầu bạn đã trở thành vô hạn. Bây giờ không có ranh giới cho nó. Nó cứ kéo ra mãi ra mãi và không có ranh giới cho nó. Đầu của bạn đã trở thành toàn thể càn khôn, không có bất kì giới hạn nào. Nếu bạn có thể tưởng tượng điều này, đột nhiên ý nghĩ sẽ dừng lại. Nếu bạn có thể tưởng tượng đầu bạn là vô hạn, suy nghĩ sẽ không có đó. Suy nghĩ có thể tồn tại chỉ trong tâm trí rất hẹp. Nó càng hẹp, càng tốt cho suy nghĩ. Tâm trí càng lớn, càng ít suy nghĩ, và khi tâm trí trở thành toàn bộ không gian, không có suy nghĩ chút nào.

Phật đang ngồi dưới cây Bồ đề. Bạn có thể tưởng tượng được ông ấy đang nghĩ gì không? Ông ấy không nghĩ chút nào. Đầu của ông ấy là toàn thể càn khôn. Ông ấy đã trở thành tính không gian, không gian vô hạn. Kĩ thuật này là tốt cho những người có thể tưởng tượng, nó sẽ không tốt cho tất cả mọi người. Với những người có thể tưởng tượng, và với những người tưởng tượng trở thành thực tới mức bạn thực sự không thể nói liệu nó là tưởng tượng hay là thực, nó sẽ có tác dụng. Bằng không nó sẽ không hữu dụng mấy. Nhưng đừng sợ, vì ít nhất ba mươi phần trăm mọi người có năng lực tưởng tượng như vậy. Những người này là rất mạnh.

Nếu tâm trí bạn không được giáo dục mấy, sẽ dễ dàng cho bạn tưởng tượng. Nếu nó được giáo dục thế thì tính sáng tạo bị mất, thế thì tâm trí bạn chỉ là không gian lưu giữ, ngân hàng. Và toàn thể hệ thống giáo dục là như hệ thống ngân hàng. Họ liên tục làm việc ngân hàng và đổ các thứ lên bạn. Bất kì cái gì họ cảm thấy phải được đổ lên bạn, họ đổ liền. Họ dùng tâm trí bạn làm chỗ chứa, bạn không thể hình dung được. Thế thì bất kì cái gì bạn làm chỉ là lặp lại cái đã được dạy cho bạn.

Cho nên những người không có giáo dục, họ có thể dùng kĩ thuật này rất dễ dàng. Và những người đã ra khỏi đại học mà không bị bóp méo bởi giáo dục, họ cũng có thể dùng nó. Những người thực sự vẫn sống động, ngay cả sau nhiều giáo dục thế, họ có thể làm điều đó. Đàn bà có thể làm điều đó dễ dàng hơn đàn ông. Tất cả những người có khả năng tưởng tượng, người mơ, họ có thể làm nó rất dễ dàng.

Nhưng làm sao biết liệu bạn có thể làm nó hay không?

Bạn có thể làm một thực nghiệm nhỏ trước khi đi vào nó. Chỉ khoá cả hai bàn tay của bạn lại với nhau và nhắm mắt lại. Trong năm phút, bất kì lúc nào, thảnh thơi trong ghế, khoá cả hai bàn tay lại với nhau, và chỉ tưởng tượng rằng tay bị khoá tới mức cho dù bạn cố, bạn không thể mở được chúng. Điều đó sẽ có vẻ ngớ ngẩn với bạn vì chúng không bị khoá nhưng bạn chỉ cứ tưởng tượng rằng chúng bị khoá.

Trong năm phút liên tục nghĩ, và thế rồi nói ba lần trong tâm trí bạn, "Bây giờ mình sẽ cố mở tay ra nhưng mình biết điều đó là không thể được. Chúng bị khoá và chúng không thể được mở."

Thế rồi cố mở chúng ra. Ba mươi phần trăm trong các bạn sẽ không có khả năng mở được tay bạn ra. Chúng sẽ thực sự bị khoá, và bạn càng cố, bạn sẽ càng cảm thấy rằng điều đó là không thể được. Bạn sẽ bắt đầu vã mồ hôi - bạn không thể mở được tay riêng của bạn. Thế thì phương pháp này dành cho bạn. Thế thì bạn có thể thử phương pháp này.

Nếu bạn có thể dễ dàng mở được tay bạn và không cái gì xảy ra, phương pháp này không dành cho bạn. Bạn sẽ không có khả năng làm nó. Nhưng đừng hoảng nếu tay bạn không mở được, và đừng cố quá nhiều, vì bạn càng cố, nó sẽ càng khó hơn. Chỉ nhắm mắt lại lần nữa và tưởng tượng rằng bây giờ tay bạn không bị khoá. Bạn sẽ cần năm phúc nữa để liên tục tưởng tượng rằng khi bạn thử mở chúng, chúng sẽ mở ngay tức khắc.

Mở khoá theo cùng cách như bạn đã khoá chúng, chỉ qua tưởng tượng. Và nếu điều này là có thể, rằng tay bạn đã trở nên bị khoá chỉ bằng tưởng tượng và bản thân bạn không thể mở được chúng, thế thì kĩ thuật này sẽ làm phép màu cho bạn. Và trong một trăm mười hai kĩ thuật này có nhiều kĩ thuật làm việc với tưởng tượng. Với tất cả những kĩ thuật đó, thực nghiệm khoá tay này sẽ là tốt. Chỉ nhớ, thực nghiệm xem liệu kĩ thuật này có dành cho bạn không.

Xem xét mọi khu vực của hình dạng hiện tại của ông như không gian vô giới hạn. Bất kì khu vực nào... Bạn có thể xem xét toàn thân bạn. Chỉ nhắm mắt và xem xét rằng toàn thân đang lan rộng, lan rộng, lan rộng và thế rồi các ranh giới bị mất. Nó đã trở thành vô hạn. Cái gì sẽ xảy ra? Bạn thậm chí không thể quan niệm được cái gì sẽ xảy ra. Nếu bạn có thể quan niệm được rằng bạn đã trở thành càn khôn - đó là nghĩa, cái vô hạn - mọi thứ được kết lại với bản ngã của bạn sẽ không được thấy ở đó. Tên bạn, căn cước của bạn, mọi thứ sẽ bị mất. Cái nghèo hay giầu của bạn, mạnh khoẻ hay ốm bệnh của bạn, khổ của bạn - tất cả sẽ bị mất, vì chúng là một phần của thân thể hữu hạn. Với thân thể vô hạn chúng không thể tồn tại. Và một khi bạn biết điều này, quay lại thân thể hữu hạn của bạn. Nhưng bây giờ bạn có thể cười. Và ngay cả trong cái hữu hạn bạn có thể có ý thức, cảm giác về cái vô hạn. Thế thì bạn có thể mang nó.

Thử đi. Và sẽ là tốt nếu bạn thử từ cái đầu, vì đó là cơ sở của mọi ốm bệnh. Nhắm mắt lại, nằm ra trên đất hay ngồi trên ghế và thảnh thơi. Chỉ nhìn vào bên trong đầu. Cảm thấy xương đầu lan toả, mở rộng. Nếu bạn cảm thấy rằng điều đó gây choáng váng, thế thì thử việc đó chậm thôi. Đầu tiên nghĩ rằng đầu bạn đã lan ra bao cả căn phòng. Bạn thực tại sẽ cảm thấy da của bạn chạm tường. Nếu bạn có thể khoá bàn tay của bạn, việc cảm này sẽ xảy ra. Bạn sẽ cảm thấy cái mát mẻ của tường mà da bạn đang chạm vào. Bạn sẽ cảm thấy sức ép.

Tiếp tục di chuyển. Đầu bạn đã đi ra ngoài - bây giờ nhà đã vào bên trong đầu bạn, thế rồi toàn thể thị trấn đã đi vào bên trong đầu bạn. Tiếp tục lan rộng. Trong vòng ba tháng, dần dần, bạn có thể đi tới điểm mà mặt trời mọc trong đầu bạn, nó bắt đầu di chuyển trong đầu bạn. Đầu bạn đã trở thành vô hạn. Điều này sẽ cho bạn tự do sâu tới mức bạn chưa bao giờ biết tới. Và mọi khổ thuộc vào tâm trí hạn hẹp này sẽ biến mất. Trong trạng thái như thế, những người thấy của Upanishad có thể nói, 'Aham Brahmasmi' - "Ta là điều Thiêng liêng, ta là cái Tuyệt đối." Trong cực lạc như vậy 'Analahak' được thốt ra.

Mansoor đã kêu lên trong cực lạc, "Analahak, Analahak - ta là Thượng đế." Người Mô ha mét giáo không thể hiểu được ông ấy. Thực sự, không giáo phái nào sẽ có khả năng hiểu được điều như vậy. Họ nghĩ ông ấy đã phát điên, nhưng ông ấy không điên, ông ấy là người lành mạnh nhất có thể có.

Họ nghĩ ông ấy đã trở thành người bản ngã. Ông ấy nói, "Ta là Thượng đế." Cho nên họ đã giết ông ấy. Trong khi ông ấy bị giết, với tay bị chặt rời, ông ấy cười và ông ấy nói, "Analahak, Aham Brahmasmi - Ta là Thượng đế." Ai đó hỏi, "Mansoor, sao ông cười? Ông đang bị giết." Ông ấy nói, "Các ông không thể giết ta được. Ta là cái toàn thể."

Bạn có thể giết chỉ bộ phận. Làm sao bạn có thể giết cái toàn thể? Bất kì cái gì bạn làm với nó không thể tạo ra bất kì khác biệt gì.

Mansoor tương truyền đã nói, "Nếu các ông thực sự muốn giết ta, các ông phải tới ít nhất mười năm trước. Thế thì ta đã hiện hữu. Thế thì các ông có thể đã giết ta, nhưng bây giờ các ông không thể giết được ta, vì ta không còn nữa. Bản thân ta đã giết chết bản ngã cái mà các ông có thể đã giết được và sát hại được."

Mansoor đã thực hành các phương pháp Sufi nào đó thuộc kiểu này, kiểu mà trong đó người ta liên tục mở rộng cho tới khi việc mở rộng trở thành vô hạn tới mức người ta không còn nữa. Thế thì cái toàn thể hiện hữu và cá nhân không hiện hữu. Trong vài thập kỉ vừa qua này, hai hay ba thập kỉ vừa qua này ở phương tây, ma tuý gây phiêu diêu đã trở thành rất có ý nghĩa. Và hấp dẫn thực sự là việc mở rộng, vì dưới ảnh hưởng của ma tuý, sự hạn hẹp của bạn, các giới hạn của bạn, bị mất. Nhưng nó là thay đổi hoá chất, không cái gì tâm linh xảy ra từ nó. Nó chỉ là bạo hành được áp đặt lên hệ thống - bạn áp đặt hệ thống để phá ra.

Bạn có thể có thoáng nhìn rằng bạn không còn bị hạn chế vào bất kì cái gì, rằng bạn đã trở thành vô hạn, được giải thoát. Nhưng điều này là vì sự ép buộc hoá chất. Một khi quay lại, bạn sẽ lại trong thân thể chật hẹp, và bây giờ thân thể này sẽ cảm thấy chật hẹp hơn trước đây. Lần nữa bạn sẽ bị hạn chế vào cùng việc cầm tù, nhưng bây giờ việc cầm tù sẽ không thể chịu được hơn vì bạn đã có thoáng nhìn. Và vì thoáng nhìn đó là qua hoá chất, bạn không là người chủ của nó, bạn sẽ trở thành nô lệ, bạn sẽ trở nên bị nghiện. Bây giờ bạn sẽ cần nó ngày càng nhiều hơn.

Kĩ thuật này là việc tạo ảo giác tâm linh. Nếu bạn thực hành nó, thay đổi tâm linh sẽ xảy ra mà sẽ không là hoá chất và với nó bạn sẽ là người chủ.

Lấy điều đó làm tiêu chí: nếu bạn là người chủ, thế thì sự việc là tâm linh. Nếu bạn là nô lệ, thế thì cẩn thận - sự việc có thể dường như là tâm linh, nhưng nó không thể thế được. Bất kì cái gì trở thành gây nghiện, mạnh mẽ, bắt làm nô lệ, cầm tù, đang dẫn bạn hướng tới nhiều sự nô lệ hơn, nhiều 'phi tự do' hơn - dù dáng vẻ là bất kì cái gì.

Cho nên lấy điều đó làm tiêu chí rằng bất kì cái gì bạn làm, quyền làm chủ của bạn phải tăng trưởng qua nó. Bạn phải trở nên ngày càng là người chủ của nó. Điều đó được nói, và tôi nhắc đi nhắc lại nó, rằng khi thiền đã thực sự xảy ra cho bạn, bạn sẽ không cần làm nó. Nếu bạn vẫn cần làm nó, nó chưa thực sự xảy ra. Vì điều đó nữa đã trở thành cảnh nô lệ. Ngay cả thiền cũng phải biến mất. Một khoảnh khắc phải tới khi bạn cần không làm bất kì cái gì. Thế thì cứ như bạn vậy, bạn là điều Thiêng liêng; cứ như bạn vậy, bạn là phúc lạc, cực lạc.

Nhưng kĩ thuật này là tốt cho việc mở rộng, cho việc mở rộng tâm thức. Trước khi thử nó, thử thực nghiệm khoá tay đã, để cho bạn có thể cảm được. Nếu tay bạn trở nên bị khoá, bạn có việc tưởng tượng rất sáng tạo, nó không bất lực. Thế thì bạn có thể làm các phép màu qua nó.

Xem tiếp Chương 66 - Quay về Mục lục Tập 4 - Quay về Mục lục Toàn tập

0 Đánh giá

Ads Belove Post