Chương 74. Nhạy cảm càng lớn, tách rời càng lớn

Chương 74. Nhạy cảm càng lớn, tách rời càng lớn

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 4 - Osho

Sách về các Bí mật: Bình luận mới

Chương 74. Nhạy cảm càng lớn, tách rời càng lớn


Câu hỏi thứ nhất:

Với việc làm sâu sắc thiền, người ta trở nên ngày càng nhạy cảm hơn với các vật, biến cố và người. Nhưng do sự nhạy cảm cao này người ta cảm thấy một loại thân thiết sâu sắc với mọi thứ, và việc này thường trở thành nguyên nhân của gắn bó tinh tế. Làm sao là nhạy cảm và vậy mà vô tư?

Làm sao là nhạy cảm và vậy mà vô tư? Hai điều này không mâu thuẫn, chúng không là đối lập. Nếu bạn nhạy cảm hơn, bạn sẽ vô tư; hay nếu bạn vô tư, bạn sẽ trở nên ngày càng nhạy cảm hơn. Tính nhạy cảm không phải là gắn bó, tính nhạy cảm là nhận biết. Chỉ người nhận biết có thể nhạy cảm. Nếu bạn không nhận biết bạn sẽ không nhạy cảm. Khi bạn vô ý thức bạn là không nhạy cảm toàn bộ - càng ý thức, càng nhạy cảm. Phật là nhạy cảm toàn bộ, ông ấy có nhạy cảm tối đa, vì ông ấy sẽ cảm và ông ấy sẽ nhận biết về năng lực toàn bộ của ông ấy. Nhưng khi bạn nhạy cảm và nhận biết bạn sẽ không bị gắn bó. Bạn sẽ vô tư, vì chính hiện tượng nhận biết chặt đứt chiếc cầu, phá huỷ chiếc cầu, giữa bạn và mọi vật, giữa bạn và người, giữa bạn và thế giới. Vô thức, vô nhận biết, là nguyên nhân của gắn bó.

Nếu bạn tỉnh táo, chiếc cầu đột nhiên biến mất. Khi bạn tỉnh táo không cái gì tạo ra quan hệ giữa bạn với thế giới. Thế giới có đó, bạn có đó, nhưng giữa hai điều này chiếc cầu đã biến mất. Chiếc cầu được làm bằng vô ý thức của bạn. Cho nên đừng nghĩ và cảm thấy rằng bạn trở nên bị gắn bó vì bạn là nhạy cảm hơn. Không. Nếu bạn nhạy cảm hơn bạn sẽ không bị gắn bó. Gắn bó là phẩm chất rất thô, nó không là tinh.

Với gắn bó bạn không cần nhận biết và tỉnh táo. Không có nhu cầu. Ngay cả con vật có thể bị gắn bó rất dễ dàng, hơn thế, còn dễ dàng hơn. Chó bị gắn bó nhiều với chủ của nó hơn bất kì người nào khác có thể bị gắn bó. Chó hoàn toàn vô ý thức cho nên gắn bó xảy ra. Đó là lí do tại sao ở các nước mà mối quan hệ con người đã trở nên nghèo nàn, như ở phương Tây, con người liên tục tìm kiếm mối quan hệ với con vật, với chó, với các con vật khác, vì mối quan hệ con người không còn đó nữa. Xã hội con người đang biến mất và mọi người cảm thấy bị cô lập, xa lạ, một mình. Đám đông có đó nhưng bạn không được quan hệ với nó. Bạn một mình trong đám đông và sự một mình này gây sợ. Người ta trở nên sợ và hoảng.

Khi bạn có quan hệ, có gắn bó với người nào đó, và ai đó được gắn bó với bạn, bạn cảm thấy bạn không một mình trong thế giới này, trong thế giới kì lạ này. Ai đó đang ở cùng bạn. Việc cảm đó về sự thuộc về cho bạn một loại an ninh. Khi mối quan hệ con người trở thành không thể được thế thì đàn ông và đàn bà cố tạo ra mối quan hệ với con vật. Ở phương Tây họ có quan hệ rất sâu với chó và các con vật khác, nhưng ở đây ở phương Đông, mặc dầu bạn có thể tôn thờ bò, bạn không có quan hệ với chúng. Bạn có thể liên tục nói rằng bạn tôn thờ bò như con vật thiêng liêng, nhưng độc ác của bạn không có chỗ cuối.

Ở phương Đông bạn độc ác với con vật tới mức phương Tây thậm chí không thể quan niệm được về làm sao bạn có thể liên tục nghĩ rằng bạn là bất bạo lực. Trên khắp thế giới, đặc biệt ở phương Tây, có nhiều xã hội bảo vệ con vật khỏi sự độc ác của con người. Bạn không thể đánh chó ở phương Tây. Nếu bạn đánh nó, đó sẽ là hành động tội phạm và bạn sẽ bị trừng phạt vì điều đó. Điều đang thực sự xảy ra, là ở chỗ quan hệ con người đang tan biến – nhưng con người không thể sống một mình được. Con người phải có mối quan hệ, nhưng con người không thể sống một mình. Con người phải có quan hệ, họ hàng, cảm giác rằng ai đó đang ở cùng mình. Con vật có thể là bạn rất tốt vì chúng có gắn bó thế; không người nào, không con người nào, có thể có gắn bó đó.

Với gắn bó, nhận biết là không cần thiết; thay vì thế, nhận biết là rào chắn. Bạn càng trở nên nhận biết hơn, bạn càng ít bị gắn bó hơn, vì nhu cầu về gắn bó biến mất. Tại sao bạn muốn được gắn bó với ai đó? Vì một mình bạn cảm thấy bạn không đủ. Bạn thiếu cái gì đó. Cái gì đó là không đầy đủ trong bạn. Bạn không là toàn thể. Bạn cần ai đó làm đầy đủ bạn. Do đó, có gắn bó. Nếu bạn nhận biết, bạn là đầy đủ, bạn là toàn thể; vòng tròn bây giờ là đầy đủ, không cái gì thiếu trong bạn – bạn không cần bất kì người nào. Bạn, một mình, cảm thấy độc lập toàn bộ, cảm thấy tính toàn thể.

Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ không yêu mọi người; thay vì thế, ngược lại, chỉ bạn có thể yêu. Người phụ thuộc vào bạn không thể yêu bạn: người đó sẽ ghét bạn. Người cần bạn không thể yêu bạn. Người đó sẽ ghét bạn vì bạn trở thành sự bó buộc. Người đó cảm thấy rằng không có bạn người đó không thể sống được, không có bạn người đó không thể hạnh phúc, cho nên bạn là nguyên nhân cho cả hạnh phúc và bất hạnh của người đó. Người đó không thể đảm đương được việc mất bạn. Điều này sẽ cho cảm giác về giam cầm: người đó bị cầm tù bởi bạn và người đó sẽ bực tức điều đó, người đó sẽ tranh đấu chống lại điều đó. Mọi người ghét và yêu cùng đối tượng, nhưng yêu này không thể rất sâu. Chỉ người có nhận biết có thể yêu, vì người đó không cần bạn. Nhưng thế thì yêu có chiều khác toàn bộ: nó không là gắn bó, nó không là phụ thuộc. Người đó không phụ thuộc vào bạn và người đó sẽ không làm bạn thành phụ thuộc vào người đó; người đó sẽ vẫn còn là tự do và người đó sẽ cho phép bạn vẫn còn tự do. Các bạn sẽ là hai tác nhân tự do, hai con người toàn bộ, toàn thể, gặp gỡ. Việc gặp gỡ đó sẽ là lễ hội, việc mở hội – không là phụ thuộc. Việc gặp gỡ đó sẽ là vui vẻ, chơi đùa.

Đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi cuộc đời của Krishna là leela của Krishna, chơi đùa của Krishna. Ông ấy yêu nhiều người thế nhưng không có gắn bó. Cùng điều này là không đúng về phần của các gopis và gopals, các bạn và bạn gái của Krishna. Cùng điều này là không đúng. Họ đã trở nên bị gắn bó, cho nên khi Krishna đi từ Brindavan tới Dwarka, họ than khóc và đau khổ. Phiền não của họ là lớn vì họ nghĩ rằng Krishna đã quên họ. Ông ấy đã không quên, nhưng không có đau vì không có phụ thuộc; ông ấy là toàn thể và hạnh phúc ở Dwarka như ông ấy đã ở Brindavan và yêu của ông ấy tuôn chảy ở Dwarka cũng nhiều như nó đã tuôn chảy ở Brindavan. Đối thể của yêu đã thay đổi nhưng cội nguồn của yêu vẫn còn y nguyên. Cho nên bất kì người nào tới gần ông ấy đều nhận được quà. Và món quà này là vô điều kiện: không cái gì được yêu cầu như sự đền đáp, không cái gì được đòi hỏi như sự đền đáp.

Khi yêu đi qua ý thức nhận biết nó chính là món quà thuần khiết không điều kiện nào, và người đang cho nó là hạnh phúc vì người đó đang cho nó. Chính hành động cho này là phúc lạc của người đó, cực lạc của người đó.

Cho nên nhớ rằng nếu bạn cảm thấy rằng qua thiền bạn đã trở nên nhạy cảm hơn, thế thì một cách tự động bạn sẽ trở nên ít bị gắn bó hơn, nhiều vô tư hơn. Vì bạn sẽ được tiếp đất nhiều hơn trong bản thân bạn, bạn sẽ được định tâm hơn trong bản thân bạn, bạn sẽ không dùng ai đó khác làm trung tâm của bạn. Gắn bó ngụ ý gì? Gắn bó ngụ ý rằng bạn đang dùng ai đó khác làm trung tâm của hiện hữu của bạn, Majnu bị gắn bó với Laila: anh ta nói anh ta không thể sống được mà không có Laila. Điều đó có nghĩa trung tâm của con người đã được chuyển đi. Nếu bạn nói rằng bạn không thể sống được mà không có cái này hay cái nọ, thế thì hồn của bạn không ở bên trong bạn. Thế thì bạn không tồn tại như một đơn vị độc lập, trung tâm của bạn đã chuyển đi đâu đó khác.

Việc chuyển trung tâm này từ bản thân bạn sang cái gì đó khác, sang người khác, là gắn bó. Nếu bạn nhạy cảm, bạn sẽ cảm thấy người khác, nhưng người khác sẽ không trở thành trung tâm của sự sống của bạn. Bạn sẽ vẫn còn là trung tâm và từ việc định tâm này người khác sẽ nhận được nhiều món quà từ bạn. Nhưng chúng sẽ là món quà, chúng sẽ không là mặc cả. Bạn sẽ đơn giản cho vì bạn có quá nhiều, bạn là việc tràn ngập. Và bạn sẽ cám ơn rằng người kia đã nhận nó. Điều đó sẽ là đủ và điều đó sẽ là mục đích.

Đó là lí do tại sao tôi liên tục nói rằng tâm trí là kẻ lừa dối lớn. Bạn tưởng rằng bạn đang thiền và rằng đó là lí do tại sao bạn đã trở nên nhạy cảm. Thế thì câu hỏi về tại sao bạn bị gắn bó nảy sinh. Nếu bạn bị gắn bó, đó là triệu chứng rõ ràng rằng tính nhạy cảm không là từ nhận biết. Thực sự, nó không phải là nhạy cảm chút nào. Nó có thể là tính đa cảm: đó là điều khác toàn bộ. Bạn có thể đa cảm: bạn có thể khóc và than về những điều nhỏ bé, bạn có thể mủi lòng, và cơn bão có thể được tạo ra rất dễ dàng bên trong bạn – nhưng đó là đa cảm, không là nhạy cảm.

Để tôi kể cho bạn một câu chuyện. Phật ở trong một làng. Một người đàn bà tới ông ấy, vừa than vừa khóc và la. Con cô ta, đứa con duy nhất, đột nhiên chết. Vì Phật đã ở trong làng, mọi người nói, "Đừng khóc. Đi tới người này đi. Mọi người nói ông ấy là từ bi vô hạn. Nếu ông ấy quyết chí điều đó, cháu bé có thể sống lại. Cho nên đừng khóc. Đi tới Phật này đi." Người đàn bà này đi tới mang theo đứa con chết, vừa kêu khóc, và cả làng đi theo cô ta – cả làng mủi lòng. Các đệ tử của Phật cũng mủi lòng; họ bắt đầu cầu nguyện trong tâm trí họ rằng Phật sẽ có từ bi. Ông ấy phải ban ân huệ cho đứa bé để cho nó sẽ được làm sống lại, được phục sinh.

Nhiều đệ tử của Phật bắt đầu khóc. Cảnh này thật xúc động, xúc động sâu sắc. Mọi người tĩnh lặng. Phật vẫn còn im lặng. Ông ấy nhìn đứa trẻ chết, thế rồi ông ấy vào người mẹ đang than khóc và ông ấy nói với người mẹ, "Đừng khóc, cứ làm một điều và con cô sẽ sống lại. Để đứa bé chết này lại đây, quay trở lại thị trấn, đi tới mọi nhà và hỏi mọi gia đình liệu ai đó đã bao giờ chết trong gia đình họ, trong nhà họ chưa. Và nếu cô có thể tìm thấy một nhà mà không người nào đã bao giờ chết, thế thì cầu xin họ cái gì đó để ăn, bánh mì nào đó, chút gạo nào đó, hay bất kì cái gì – nhưng từ ngôi nhà nơi không người nào đã bao giờ chết. Và bánh mì đó hay gạo đó sẽ làm sống lại đứa trẻ ngay lập tức. Cô đi đi. Đừng phí thời gian."

Người đàn bà trở nên hạnh phúc. Cô ấy cảm thấy rằng bây giờ phép màu sắp xảy ra. Cô ấy chạm chân Phật và chạy vào làng, làng không lớn gì lắm, rất ít mái nhà tranh, vài gia đình. Cô ấy chuyển từ gia đình nọ sang gia đình kia, hỏi thăm. Nhưng mọi gia đình đều nói, "Điều này là không thể được. Không có một nhà nào – không chỉ ở làng này mà trên khắp thế gian – không có một ngôi nhà nào mà không người nào đã từng chết, nơi mọi người đã không chịu đựng chết và khổ và đau và phiền não, cái bắt nguồn từ nó."

Dần dần người đàn bà này nhận ra rằng Phật đã dùng thủ đoạn. Điều này là không thể được. Nhưng dầu vậy hi vọng đã có đó. Côn ấy đi hỏi cho tới khi đã đi hết một vòng quanh cả làng. Nước mắt đã khô, hi vọng đã chết, nhưng đột nhiên cô ấy cảm thấy yên tĩnh mới, bình thản, tới với cô ấy. Bây giờ cô ấy nhận ra rằng bất kì ai được sinh ra sẽ phải chết. Vấn đề chỉ là số năm. Ai đó sẽ chết sớm hơn, ai đó sẽ chết muộn hơn, nhưng chết là không tránh khỏi. Cô ấy quay lại và chạm chân Phật lần nữa và nói với ông ấy, "Như mọi người nói, thầy thực sự có từ bi sâu sắc với mọi người." Không ai có thể hiểu được điều gì đã xảy ra. Phật đã khai tâm cho cô ấy vào tính chất sannyas, cô ấy trở thành nữ khất sĩ, sannyasin. Cô ấy đã được khai tâm.

Anand hỏi Phật, "Thầy có thể đã làm sống lại cậu bé này. Nó là đứa trẻ đẹp thế và người mẹ đã bị đau khổ thế." Nhưng Phật nói, "Cho dù đứa bé có được phục sinh, nó sẽ phải chết. Chết là không tránh khỏi." Anand nói, "Nhưng thầy dường như không rất nhạy cảm với mọi người, với khổ và phiền não của họ." Phật đáp, "Ta nhạy cảm; ông đa cảm. Chỉ bởi vì ông bắt đầu khóc, ông tưởng ông nhạy cảm sao? Ông trẻ con. Ông không hiểu sự sống. Ông không nhận biết về hiện tượng này."

Đây là khác biệt giữa Ki tô giáo và Phật giáo. Christ tương truyền đã làm nhiều phép màu về làm sống lại mọi người. Khi Lazarus chết, Jesus đã chạm vào ông ấy và ông ấy quay lại cuộc sống. Chúng ta ở phương Đông không thể quan niệm được về Phật chạm vào người chết và đem người đó trở lại cuộc sống. Với người bình thường, với tâm trí bình thường, Jesus chắc có vẻ yêu thương và từ bi hơn Phật. Nhưng tôi nói với bạn rằng Phật là nhạy cảm hơn, từ bi hơn, vì cho dù Lazarus được làm sống lại, điều đó không tạo ra khác biệt gì. Ông ấy vẫn phải chết. Chung cuộc Lazarus đã phải chết. Cho nên phép màu này chẳng hữu dụng gì, không có giá trị tối thượng. Người ta không thể quan niệm được Phật làm điều như vậy.

Jesus phải làm vì ông ấy đã mang cái gì đó mới, thông điệp mới, thông báo mới tới Israel. Và thông điệp này là sâu sắc tới mức mọi người sẽ không hiểu được nó cho nên ông ấy đã phải tạo ra phép màu quanh nó – vì mọi người có thể hiểu được phép màu nhưng họ không thể hiểu được thông điệp sâu, thông điệp bí truyền. Họ có thể hiểu được phép màu, cho nên qua các phép màu họ có thể trở nên mở và có khả năng tiếp thu thông điệp này. Jesus đã mang thông điệp Phật giáo tới mảnh đấy không có tính Phật giáo; thông điệp phương Đông sang một nước không có truyền thống về chứng ngộ, về nhiều chư phật.

Chúng ta có thể quan niệm rằng Phật là nhạy cảm hơn các đệ tử của ông ấy, những người than khóc. Họ là đa cảm.

Đừng hiểu lầm tính đa cảm của bạn. Tính đa cảm là bình thường; nhạy cảm là phi thường. Nó xảy ra qua nỗ lực. Nó là thành tựu. Bạn phải thu được nó. Tính đa cảm không được thu lấy; bạn được sinh ra cùng nó. Nó là sự kế thừa con vật, điều bạn đã có trong các tế bào thân thể bạn và tâm trí bạn. Tính nhạy cảm là khả năng. Bạn không có nó. Bạn có thể tạo ra nó, bạn có thể làm việc vì nó – thế thì nó sẽ xảy ra cho bạn. Và bất kì khi nào nó xảy ra, bạn sẽ là vô tư.

Phật đã là vô tư toàn bộ. Đứa trẻ chết đã có đó nhưng ông ấy dường như không bị ảnh hưởng chút nào. Người đàn bà, người mẹ này đã khổ sở và ông ấy dùng thủ đoạn với cô ấy. Người này dường như độc ác và việc dùng thủ đoạn này dường như là quá nhiều với người mẹ có đứa con đã chết. Ông ấy đã cho cô ấy một câu đố, và ông ấy biết rõ rằng cô ấy sẽ quay lại tay trắng. Nhưng tôi nói lại rằng ông ấy có từ bi thực sự vì ông ấy đã giúp cho người đàn bà này trưởng thành, là chín chắn. Chừng nào bạn chưa thể hiểu được chết bạn không chín chắn; và chừng nào bạn chưa thể chấp nhận chết, bạn không có trung tâm bên trong hiện hữu của bạn. Khi bạn chấp nhận chết như một thực tại, bạn đã siêu việt trên nó.

Phật đã dùng tình huống này. Ông ấy ít quan tâm tới đứa trẻ chết và quan tâm nhiều hơn tới người mẹ sống vì ông ấy biết rằng đứa trẻ chết sẽ quay lại sự sống lần nữa - không có nhu cầu về phép màu. Nhưng nếu đứa trẻ được làm sống lại người mẹ có thể đã làm mất cơ hội. Trong nhiều kiếp sống cô ấy có thể không có việc gặp gỡ nữa với một Phật. Cho nên ở phương Đông chỉ các saddhu hạng ba đã làm phép màu; người hạng nhất không bao giờ làm bất kì cái gì - họ làm việc trên mức độ cao hơn. Phật cũng đang làm phép màu nhưng phép màu này được làm trên mức độ rất cao. Người mẹ đang được biến đổi.

Nhưng điều đó là khó hiểu vì tâm trí chúng ta là thô và chúng ta chỉ hiểu tính đa cảm, chúng ta không thể hiểu được tính nhạy cảm. Tính nhạy cảm nghĩa là sự tỉnh táo cái cảm thấy mọi thứ xảy ra xung quanh. Và bạn có thể cảm được chỉ khi bạn không bị gắn bó. Nhớ điều này: nếu bạn bị gắn bó bạn không còn đó để cảm, bạn đã chuyển ra khỏi bạn. Cho nên nếu bạn muốn biết chân lí về ai đó, đừng hỏi bạn của người đó. Họ bị gắn bó. Và đừng hỏi kẻ thù của người đó. Họ cũng bị gắn bó, theo thứ tự đảo ngược. Hỏi ai đó là trung lập, không bạn không thù. Chỉ người đó có thể nói sự thực.

Bạn bè không thể được tin, kẻ thù không thể được tin; nhưng chúng ta tin hoặc vào bạn bè hoặc vào kẻ thù. Cả hai nhất định là sai vì họ không có việc chứng kiến trung tập, họ không có cái nhìn vô tư. Họ không thể đứng tách rời và nhìn vì họ có đầu tư vào người này. Bạn bè có đầu tư và kẻ thù có đầu tư. Họ thấy tương ứng theo quan điểm đặc thù, và với những quan điểm đó họ bị gắn bó. Khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn bị gắn bó, bạn đã lấy quan điểm rồi. Tính toàn bộ bị mất; chỉ mảnh mẩu là trong tay bạn. Và các mảnh mẩu bao giờ cũng là dối trá vì chỉ cái toàn thể mới là thực.

Thiền đi, trở nên nhạy cảm hơn, và coi nó như tiêu chí rằng bạn sẽ liên tục trở thành ngày càng vô tư hơn. Nếu bạn cảm thấy rằng gắn bó đang tăng lên, thế thì bạn bị lỗi ở đâu đó trong thiền của bạn. Đây là tiêu chí. Và với tôi, gắn bó không thể bị phá huỷ và vô tư không thể được thực hành. Bạn chỉ có thể thực hành thiền - và vô tư sẽ theo sau như hệ quả, như sản phẩm phụ. Nếu thiền thực sự nở hoa bên trong bạn, bạn sẽ có cảm giác về vô tư. Thế thì bạn có thể đi bất kì chỗ nào, và bạn sẽ vẫn còn không bị động chạm, không sợ. Thế thì khi bạn rời bỏ thân thể bạn, bạn sẽ bỏ nó không bị xây xước gì. Ý thức của bạn sẽ tuyệt đối thuần khiết, không cái gì ngoại lai đã đi vào trong nó. Khi bạn bị gắn bó, cái không thuần khiết đi vào trong bạn. Đây là không thuần khiết cơ bản: rằng bạn đánh mất trung tâm của bạn và ai đó khác hay cái gì đó khác trở thành trung tâm của hiện hữu của bạn.

Câu hỏi thứ hai:

Nếu đức tin có thể dời núi, tại sao thầy không thể chữa lành cho thân thể thầy?

Tôi chẳng có thân thể nào.

Việc cảm này rằng bạn có thân thể là tuyệt đối sai. Thân thể thuộc vào vũ trụ; bạn không có nó, nó không phải là của bạn. Cho nên nếu thân thể ốm hay nếu thân thể khoẻ vũ trụ sẽ chăm lo cho nó. Và người đang trong thiền phải vẫn còn là nhân chứng, dù thân thể khoẻ hay ốm.

Ham muốn là khoẻ là một phần của dốt nát. Ham muốn không ốm cũng là một phần của dốt nát. Và đây không phải là câu hỏi mới - đây là một trong nhưng câu hỏi cổ nhất. Nó đã từng được hỏi về Phật, nó đã từng được hỏi về Mahavir. Kể từ khi có người chứng ngộ, người không chứng ngộ bao giờ cũng hỏi câu hỏi này.

Xem đấy... Jesus nói đức tin có thể dời được núi, nhưng ông ấy đã chết trên cây chữ thập. Ông ấy đã không thể chuyển được cây chữ thập. Bạn hay ai đó như bạn phải đã hiện diện ở đó chờ đợi. Các đệ tử đã chờ đợi vì họ biết Jesus, và ông ấy đã từng nói đi nói lại rằng đức tin có thể dời được núi. Cho nên họ đã đợi phép màu nào đó xảy ra - và Jesus đơn giản đã chết trên cây chữ thập. Nhưng đây đã là phép màu: ông ấy có thể là nhân chứng cho cái chết riêng của ông ấy. Và khoảnh khắc của việc chứng kiến cái chết riêng của người ta là khoảnh khắc vĩ đại nhất của việc là sống.

Phật đã chết vì đầu độc thức ăn. Ông ấy đã chịu đựng trong sáu tháng liên tục. Và đã có nhiều đệ tử chờ đợi ông ấy làm phép màu. Nhưng ông ấy đã chịu đựng một cách im lặng và chết một cách im lặng. Ông ấy đã chấp nhận chết. Đã có những đệ tử cố chữa cho ông ấy, nhiều thuốc đã được cho ông ấy.

Một bác sĩ trị liệu lớn của thời đó, Jeevak, đã là bác sĩ trị liệu cá nhân của Phật. Ông ấy thường đi cùng Phật bất kì chỗ nào Phật đi. Nhiều lần mọi người phải đã hỏi, "Tại sao ông Jeevak này đi cùng thầy?" Nhưng đó là gắn bó riêng của Jeevak. Jeevak đã đi cùng Phật vì gắn bó riêng của ông ấy, và các đệ tử đã cố giúp cho thân thể Phật vẫn còn sống lâu hơn trong thế giới này, cho dù chỉ vài ngày thêm, cũng đã là gắn bó.

Với bản thân Phật, ốm và khoẻ là như nhau. Điều đó không có nghĩa rằng ốm sẽ không gây đau. Nó sẽ gây đau! Đau là hiện tượng vật lí, nó sẽ xảy ra. Nhưng nó sẽ không làm rối tâm thức bên trong. Tâm thức bên trong sẽ vẫn còn không bị rối, nó sẽ vẫn còn được cân bằng như bao giờ. Thân thể sẽ đau đớn, nhưng hiện hữu bên trong sẽ vẫn còn chỉ là nhân chứng cho toàn thể việc đau này.

Sẽ không có đồng nhất - và điều này tôi gọi là phép màu. Điều này là có thể được qua đức tin. Và không núi nào lớn hơn sự đồng nhất - nhớ lấy. Himalayas không là gì cả; sự đồng nhất của bạn với thân thể bạn là núi lớn hơn. Himalayas có thể bị dời hay không bị dời qua đức tin, điều đó là không liên quan, nhưng sự đồng nhất của bạn có thể bị phá huỷ.

Nhưng chúng ta không thể quan niệm được về bất kì cái gì mà chúng ta không biết, chúng ta chỉ có thể nghĩ tương ứng với tâm trí chúng ta. Chúng ta nghĩ tương ứng với chỗ chúng ta hiện hữu; hình mẫu vẫn còn như cũ.

Thỉnh thoảng thân thể tôi bị ốm, và mọi người tới tôi và họ nói, "Sao thầy ốm? Thầy đáng phải không ốm; người chứng ngộ phải không bị ốm." Nhưng ai bảo bạn rằng nó là vậy? Tôi chưa bao giờ nghe nói về người chứng ngộ nào không ốm. Ốm thuộc về thân thể. Nó chẳng liên quan gì tới tâm thức của bạn hay liệu bạn có chứng ngộ hay không.

Và đôi khi chuyện xảy ra là người đã chứng ngộ còn ốm hơn người chưa chứng ngộ. Có lí do... Bây giờ vì họ không thuộc vào thân thể, họ không hợp tác với thân thể; sâu bên dưới họ đã làm đứt đoạn bản thân họ với thân thể. Cho nên thân thể vẫn còn đấy nhưng gắn bó và chiếc cầu bị gẫy.

Nhiều bệnh xảy ra vì việc tách rời này đã xảy ra. Họ ở trong thân thể nhưng hợp tác của họ không còn đó. Đó là lí do tại sao chúng ta nói người chứng ngộ sẽ không bao giờ được sinh ra lần nữa - vì bây giờ người đó không thể làm được bất kì chiếc cầu nào với thân thể lần nữa. Chiếc cầu đã bị gẫy. Trong khi người đó còn ở trong thân thể, thế nữa, người đó là chết, thực sự, người đó là chết.

Phật đã đạt tới chứng ngộ khi ông ấy gần bốn mươi tuổi. Ông ấy chết khi ông ấy tám mươi cho nên ông ấy đã sống thêm bốn mươi năm nữa. Vào ngày ông ấy chết, Anand bắt đầu khóc và nói, "Điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi? Không có thầy chúng tôi sẽ rơi vào bóng tối. Thầy sắp chết và chúng tôi còn chưa trở nên chứng ngộ. Ánh sáng riêng của chúng tôi còn chưa thắp sáng và thầy sắp chết. Đừng bỏ chúng tôi!"

Phật tương truyền đã nói, "Cái gì? Ông đang nói gì vậy, Anand? Ta đã chết bốn mươi năm trước rồi. Sự tồn tại này chỉ là sự tồn tại ảo ảnh, sự tồn tại hình bóng. Nó chạy theo bằng cách nào đó, nhưng lực không có đó. Đó chỉ là cái đà từ quá khứ."

Nếu bạn đạp xe đạp, và thế rồi bạn dừng và không đạp nữa, bạn không cho bất kì hợp tác nào với xe đạp, nó sẽ tiếp tục đi một chốc nữa chỉ vì đà, năng lượng mà bạn đã cho nó trong quá khứ.

Khoảnh khắc ai đó trở nên chứng ngộ, sự hợp tác này bị phá vỡ. Bây giờ thân thể sẽ lấy tiến trình riêng của nó. Nó có đà. Từ nhiều kiếp sống trong quá khứ, đà đã được trao cho nó. Nó có khoảng sống của riêng nó mà sẽ được làm đầy đủ, nhưng bây giờ, vì lực bên trong không còn với nó, thân thể là nguồn sinh ra nhiều ốm hơn bình thường. Ramakrishna chết vì ung thư; Raman chết vì ung thư. Với các đệ tử điều đó là cú sốc lớn, nhưng vì dốt nát của họ mà họ không thể hiểu được.

Một điều nữa phải được hiểu. Khi một người trở nên chứng ngộ, đây sẽ là cuộc sống cuối cùng của người đó. Cho nên mọi nghiệp quá khứ và toàn thể sự liên tục phải được hoàn thành trong kiếp này. Đau khổ - nếu người đó có bất kì đau khổ nào - sẽ trở thành mãnh liệt. Với bạn không có vội vàng, đau khổ của bạn sẽ trải ra qua nhiều kiếp. Nhưng với một Raman đây là kiếp cuối cùng. Mọi cái đang có đó từ quá khứ phải được hoàn thành. Sẽ có sự mãnh liệt của mọi thứ, của mọi nghiệp. Kiếp sống này sẽ trở thành kiếp sống được cô đặc lại.

Đôi khi điều đó là có thể - điều này là khó hiểu - chịu đựng đau khổ trong một khoảnh khắc cho các đau khổ của nhiều kiếp. Trong một khoảnh khắc, sự mãnh liệt trở thành nhiều thế vì thời gian có thể được cô đặc hay được trải ra.

Bạn đã biết rằng đôi khi lúc bạn ngủ bạn thấy giấc mơ, và khi bạn thức dậy lại bạn biết rằng bạn đã ngủ chỉ vài giây. Nhưng bạn đã thấy giấc mơ dài thế. Có thể là ngay cả toàn thể cuộc sống có thể được thấy trong một giấc mơ.

Cái gì đã xảy ra? Trong thời kì thời gian nhỏ thế làm sao bạn có thể thấy được giấc mơ dài thế? Không có một tầng thời gian như bình thường chúng ta hiểu - có nhiều tầng thời gian. Thời gian mơ có sự tồn tại riêng của nó. Ngay cả trong khi thức thời gian liên tục thay đổi. Nó có thể không thay đổi theo đồng hồ vì đồng hồ là thứ máy móc, nhưng thời gian tâm lí liên tục thay đổi.

Khi bạn hạnh phúc, thời gian trôi nhanh. Khi bạn bất hạnh, thời gian trôi chậm. Một đêm có thể là vĩnh hằng nếu bạn đang khổ, và toàn thể cuộc sống có thể trở thành một khoảnh khắc nếu bạn hạnh phúc và phúc lạc.

Khi một người trở nên chứng ngộ, mọi thứ phải được đóng lại: đây là thời gian đóng lại. Nhiều triệu kiếp sống phải được đóng lại và mọi tài khoản phải được thanh toán, vì sẽ không có cơ hội nào thêm nữa. Sau chứng ngộ của mình và người đã chứng ngộ sống trong thời gian khác và bất kì cái gì xảy ra cho người đó đều khác về chất. Nhưng người đó vẫn còn là nhân chứng.

Mahavir chết vì đau dạ dầy, cái gì đó như khối u - trong nhiều năm ông ấy đã bị đau. Các đệ tử của ông ấy phải đã trong khó khăn vì họ đã bịa ra câu chuyện quanh điều đó. Họ không thể hiểu được tại sao Mahavir phải bị đau, cho nên họ đã bịa ra câu chuyện chỉ ra cái gì đó về các đệ tử, không về Mahavir.

Họ nói rằng người có hồn rất ác độc, Goshalak, đã là nguyên nhân cho đau đớn của Mahavir. Ông ta nén lực ác vào Mahavir và Mahavir đã hấp thu nó chỉ bởi vì từ bi của ông ấy - và đó là lí do tại sao ông ấy bị đau. Điều này chẳng chỉ ra cái gì về Mahavir nhưng chỉ ra cái gì đó về khó khăn của các đệ tử. Họ không thể quan niệm được về Mahavir bị đau cho nên họ phải tìm ra nguyên nhân ở đâu đó khác.

Một hôm tôi bị cảm lạnh - đó là bạn đồng hành thường xuyên của tôi. Thế rồi ai đó tới và anh ta nói, "Thầy phải đã nhận cảm lạnh hộ ai đó khác." Điều đó không chỉ ra bất kì cái gì về tôi, nó chỉ ra cái gì đó về anh ta. Khó cho anh ta quan niệm về tôi bị cảm lạnh. Cho nên anh ta nói, "Thầy phải đã bị cảm lạnh hộ ai đó." Tôi cố thuyết phục anh ta, nhưng không thể nào thuyết phục được các đệ tử. Bạn càng có thuyết phục họ, họ càng tin rằng họ là đúng. Đến cuối anh ta nói với tôi, "Bất kì điều gì thầy nói tôi sẽ không nghe đâu. Tôi biết mà! Thầy đã nhận ốm hộ ai đó khác."

Phải làm gì? Khoẻ và ốm của thân thể là chuyện riêng của nó. Nếu bạn muốn làm cái gì đó về nó, bạn vẫn bị gắn bó với nó. Nó sẽ lấy tiến trình riêng của nó; bạn không cần lo nghĩ nhiều về nó.

Tôi chỉ là nhân chứng. Thân thể được sinh ra, thân thể sẽ chết đi; duy nhất việc chứng kiến sẽ có đó. Nó sẽ còn lại mãi mãi. Duy nhất việc chứng kiến là cái gì đó tuyệt đối vĩnh hằng - mọi thứ khác liên tục thay đổi, mọi thứ khác là luồng.

Câu hỏi thứ ba:

Đêm hôm qua thầy đã giải thích chi tiết về cách người tìm kiếm lừa dối bản thân họ bằng việc không làm nỗ lực nghiêm túc và chân thành hướng tới thiền. Nhưng với nhiều người tìm kiếm, người nghiêm túc hỏi thầy về các kĩ thuật thiền, thầy đơn giản bảo họ bỏ mọi thứ cho thầy và rằng thầy sẽ chăm lo cho tiến bộ tâm linh của họ. Nhưng nhiều người tìm kiếm cảm thấy không thoả mãn về biến đổi tâm linh của họ theo cách đó. Trong hoàn cảnh này, xin thầy giải thích cách những người tìm kiếm này đang lừa dối bản thân họ.

Thứ nhất, khi họ hỏi về kĩ thuật, tôi cho họ kĩ thuật. Đây là một kĩ thuật: Bỏ mọi thứ cho tôi. Đây là một trong những kĩ thuật mạnh nhất có thể có. Và đừng nghĩ rằng nó là dễ dàng; nó là rất khó, đôi khi là không thể được. Khó bỏ mọi thứ cho ai đó, nhưng nếu bạn có thể bỏ, trong chính việc buông bỏ đó bản ngã của bạn đã biến mất; trong chính việc buông bỏ đó, quá khứ của bạn đã biến mất; trong chính việc buông xuôi đó một điểm mới được sinh ra - bạn là khác. Mãi cho tới giờ bạn đã sống cùng bản ngã riêng của bạn; từ giờ trở đi bạn sẽ sống không có bản ngã, bạn sẽ đi theo con đường của buông xuôi.

Cho nên đừng nghĩ rằng đây không phải là kĩ thuật! Nó là kĩ thuật - một trong những kĩ thuật rất cơ bản. Và tôi không trao nó cho bất kì ai và mọi người đâu. Tôi trao nó chỉ cho những người đặc biệt, người rất bản ngã, vì với họ bất kì kĩ thuật nào đều sẽ tạo ra rắc rối. Bản ngã của họ sẽ khai thác nó. Họ sẽ trở nên bản ngã hơn qua nó. Họ có thể thực hành bất kì cái gì khác ngoại trừ điều này, nhưng bởi thực hành đó bản ngã của họ sẽ không bị phá huỷ; thay vì thế, nó sẽ được đáp ứng hơn. Họ sẽ trở thành các 'thiền nhân' lớn. Họ có thể từ bỏ thế giới, nhưng bản ngã của họ sẽ được làm mạnh dù họ làm bất kì cái gì. Bất kì khi nào tôi cảm thấy rằng người tìm kiếm này có bản ngã tinh vi tới mức bất kì phương pháp nào sẽ đầu độc người đó, chỉ thế thì tôi mới nói, "Bỏ mọi thứ cho tôi." Không phải là điều này sẽ là mục đích đâu, nhưng điều này sẽ là việc bắt đầu. Và điều này sẽ là bắt đầu đúng cho tất cả những người lấy bản ngã làm trung tâm. Nếu họ có thể bỏ mọi thứ cho tôi, thế thì tôi sẽ bắt đầu cho họ các kĩ thuật khác - nhưng chỉ thế thôi. Thế thì các kĩ thuật khác sẽ không chứng tỏ là độc hại. Một khi bản ngã không có đó những kĩ thuật đó sẽ biến đổi họ. Và nếu buông xuôi của họ là toàn bộ tới mức không cái gì bị bỏ lại để được biến đổi, thế thì sẽ không có nhu cầu về bất kì kĩ thuật khác nào. Điều này nữa là có thể, và điều này là có thể chỉ cho những người rất bản ngã; chỉ họ có thể buông xuôi toàn bộ.

Điều này sẽ có vẻ gây lẫn lộn, ngược đời - nhưng nhớ, bạn có thể bỏ cái gì đó chỉ nếu bạn có nó. Nếu bạn không có bản ngã rất mạnh, bạn có thể bỏ cái gì? Bạn có thể buông xuôi cái gì? Điều đó giống như yêu cầu người ăn xin buông xuôi mọi của cải của người đó. Người đó sẽ sẵn sàng, người đó sẽ nói, 'Được,' nhưng cái được của người đó chẳng ngụ ý điều gì. Nó tuyệt đối vô tích sự vì người đó chẳng có gì để mất. Và nếu bạn có bản ngã rất mạnh, điều đó có nghĩa một bản ngã rất tập trung, được kết tinh, bạn có thể bỏ nó một cách toàn bộ vì sẽ khó bỏ nó theo từng phần. Nó được tập trung và kết tinh tới mức sẽ khó bỏ nó theo từng mảnh. Hoặc bạn có thể bỏ nó hoặc không bỏ. Đó là một trong những điều ngược đời của cuộc sống rằng để buông xuôi, bản ngã rất đích thực được cần có đó ngay chỗ đầu tiên. Cho nên với tôi, giáo dục đúng sẽ bao gồm việc tạo ra bản ngã mạnh, tới chính cực đoan, nơi đau khổ lớn được sinh ra từ chúng, và thế rồi - buông xuôi. Chỉ buông xuôi là có thể.

Điều này đã là kinh nghiệm của tôi. Những người tới từ phương Tây có bản ngã mạnh hơn người phương Đông vì ở phương Tây không có quan niệm về buông xuôi, không có quan niệm về vâng lời, không có quan niệm về guru và đệ tử. Thực sự, tâm trí phương Tây không thể quan niệm được guru là gì. Và họ không thể quan niệm được về ai đó buông xuôi theo bất kì ai. Toàn thể giáo dục, văn hoá và văn minh phương Tây được dựa trên bản ngã, hoàn thành bản ngã. Và các nhà tâm lí phương Tây nói rằng là mạnh khoẻ tinh thần, bạn phải có bản ngã mạnh. Cho nên mọi tâm lí học phương Tây đều giúp cho bản ngã là mạnh: bản ngã của đứa trẻ phải được làm mạnh theo mọi cách bằng không nó sẽ trở thành ốm tinh thần. Nhưng các tôn giáo phương Đông nói rằng chừng nào bạn chưa bỏ bản ngã, bạn không thể biết được chân lí tối thượng, bạn không thể biết được điều huyền bí của sự sống là gì. Cả hai dường như là mâu thuẫn, nhưng họ không mâu thuẫn. Với tôi, huấn luyện phương Tây phải có đó lúc ban đầu với mọi người trên khắp thế giới. Mọi người phải được cho bản ngã mạnh. Đến tuổi ba mươi nhăm bạn nên đạt tới đỉnh của bản ngã của bạn; vào tuổi ba mươi nhăm nó phải ở đỉnh của nó, mạnh mẽ, mạnh nhất có thể được. Chỉ thế thì việc buông xuôi sẽ xảy ra. Cho nên bất kì khi nào những người tìm kiếm phương Tây tới tôi và tôi bảo họ bỏ mọi thứ cho tôi, họ rất ngần ngại, chống đối. Và điều đó dường như là không thể được, nhưng thỉnh thoảng, khi buông xuôi xảy ra, họ đạt tới việc nhận ra sâu sắc hơn nhiều.

Với người phương Đông buông xuôi không rất khó. Họ sẵn sàng. Bạn nói, 'Buông xuôi đi,' họ nói, 'Vâng.' Không chút ngần ngại về phần họ. Họ không có bản ngã rất mạnh, rất phát triển. Họ có thể buông xuôi nó - nhưng buông xuôi đó là bất lực. Nó sẽ không giúp đỡ. Cho nên điều bao giờ cũng xảy ra là với người phương Đông tôi lập tức cho người đó kĩ thuật để làm việc tiếp, để cho nó giúp cho bản ngã của người đó. Với người phương Tây tôi lập tức nói, 'Buông xuôi đi.' Họ đã đạt tới điểm đó bên trong họ cho nên họ có thể buông xuôi; việc rất ngần ngại của họ biểu lộ rằng họ có thể buông xuôi. Nhưng buông xuôi của họ sẽ là cuộc vật lộn, và khi nó là cuộc vật lộn nó là một sadhana. Khi nó là cuộc vật lộn điều đó ngụ ý cái gì đó; nó sẽ biến đổi họ.

Cho nên thứ nhất, khi tôi nói, "bỏ mọi thứ cho tôi," đây là một kĩ thuật; và tôi nó điều đó chỉ cho những người đã rất phát triển bản ngã. Thứ hai... Nhưng nhiều người tìm kiếm cảm thấy không thoả mãn về biến đổi tâm linh của họ theo cách đó. Đúng, đây là những người mà tôi nói, 'Buông xuôi đi.' Họ cảm thấy rất không được thoả mãn. Họ muốn cái gì đó để làm, họ không muốn buông xuôi. Tôi biết họ sẽ cảm thấy không được thoả mãn vì bản ngã của họ sẽ chống lại; nó sẽ cố theo mọi cách không buông xuôi. Nhưng điều đó không thể được giúp đỡ. Họ sẽ phải trải qua sự không thoả mãn này, và họ sẽ phải hiểu rằng bỏ mọi thứ cho tôi chỉ là mới bắt đầu. Nếu họ không thể làm được điều đó, tôi sẽ không cho họ bất kì kĩ thuật nào ngay bây giờ. Họ có thể bỏ tôi, hay bỏ mọi thứ cho tôi. Không có phương án khác. Một khi tôi nói với ai đó, "Bỏ mọi thứ cho tôi," tôi sẽ không cho người đó bất kì kĩ thuật nào. Tôi biết rằng điều đó sẽ là khó và gian nan - nhưng nó phải là vậy. Càng khó khăn, càng gian nan, càng tốt hơn, vì điều đó nghĩa là người đó có bản ngã tiến hoá hơn, và nó đang vật lộn. Người đó sẽ phải tới một ngày nào đó - tới tôi hay tới ai đó khác, điều đó không liên quan - và người đó sẽ phải buông xuôi nó.

Thầy là không liên quan thế; việc buông xuôi là liên quan. Nơi bạn buôi là không có ý nghĩa. Bạn có thể buông xuôi theo một Phật đá. Điều đó sẽ có tác dụng. Việc buông xuôi biến đổi bạn. Nó gạt bản ngã của bạn sang bên, làm nhẹ gánh bản thân bạn; sống lần đầu tiên không từ quá khứ mà đi vào trong hiện tại, tươi tắn và trẻ trung, nhẹ gánh.

Và điều thứ ba: Trong hoàn cảnh này, xin thầy giải thích cách những người tìm kiếm này đang lừa dối bản thân họ. Họ có thể lừa dối bản thân họ. Họ có thể nói với tôi, "Vâng, chúng tôi bỏ mọi thứ cho thầy," và liên tục ôm giữ mọi thứ. Họ có thể lừa dối bản thân họ rằng họ đã buông xuôi và họ có thể liên tục nhấn mạnh vào cách thức riêng của họ.

Buông xuôi không thể là từng phần, nó chỉ có thể là toàn bộ - và thế thì bạn không thể đặt điều kiện của bạn, cái thích và không thích của bạn.

Chuyện xảy ra mới vài ngày trước. Một người tới tôi và anh ta nói, "Tôi sẽ bỏ mọi thứ cho thầy. Bất kì cái gì thầy nói, tôi sẽ làm." Tôi bảo anh ta, 'Nhắc lại nó lần nữa thật to vào, 'Bất kì cái gì thầy nói, tôi sẽ làm."' Anh ta nhắc lại nó. Tôi bảo anh ta nhắc lại nó lần nữa và còn to hơn. Anh ta trở nên hơi bối rối và nói, 'Tại sao?' Và anh ta cũng trở nên nhận biết về tại sao tôi đã nói phải nói to lên. Anh ta nói, "Thầy có thể đúng. Tôi không nên nói điều này, vì sẽ rất khó bỏ mọi thứ cho thầy và sẽ rất khó tuân theo bất kì cái gì thầy nói." Cho nên tôi bảo anh ta làm điều đó thành điều kiện, là đích xác để cho anh ta không thể thay đổi được. Anh ta nói, "Đúng, bất kì cái gì tôi thích - cho tôi tự do chọn lựa."

Đây là cách bạn có thể lừa dối. Bên trong bạn vẫn còn là người chủ; bạn liên tục chọn làm cái gì và không làm cái gì. Và khi nó xảy ra, bất kì cái gì bạn chọn đều sẽ là sai vì tâm trí đang chọn đó là sai, bằng không chắc đã không có nhu cầu tới tôi. Khi tôi nói buông xuôi điều đó có nghĩa là bây giờ bạn sẽ không chọn, bây giờ tôi sẽ chọn và bạn sẽ tuân theo. Và nếu bạn có thể tuân theo một cách toàn bộ, ngày đó không còn xa khi tôi sẽ nói, "Bây giờ không có nhu cầu. Bây giờ bạn có thể chọn."

Bạn phải biến mất: bề mặt, bản ngã nông cạn phải biến mất. Thế thì con người riêng của bạn đi vào sự hiện hữu. Tôi sẽ không giữ bạn đi theo tôi mãi mãi bao giờ. Điều đó không phải là công việc rất sung sướng gì. Khi bản ngã của bạn không còn đó, guru riêng của bạn, thầy bên trong của bạn, đã tới trong hiện hữu. Guru bên ngoài không là gì ngoài đại diện của guru bên trong. Một khi cái bên trong có đó, cái bên ngoài không được cần tới. Và guru riêng của bạn sẽ nói với bạn, "Bây giờ đi theo bản thân mình. Đi một mình. Bây giờ mình không cần bất kì người nào hướng dẫn mình, người hướng dẫn bên trong đã tới trong hiện hữu. Bây giờ mình có ánh sáng bên trong riêng của mình. Mình có thể thấy qua nó. Nó sẽ chỉ cho mình con đường."

Nhưng ngay bây giờ, như bạn vậy, điều đó là không thể được. Bạn không có bất kì ánh sáng nào. Bạn không thể thấy được. Và bất kì chỗ nào tâm trí bạn đưa bạn tới nó sẽ là sai. Tâm trí này đã từng đưa bạn đi trong nhiều kiếp và nó bao giờ cũng dẫn bạn vào những hình mẫu đặc biệt. Nó có thói quen cũ và nó dẫn bạn đi tương ứng. Nó là thứ máy móc. Chỉ để tạo ra gián đoạn, việc buông xuôi được cần tới. Nếu bạn buông xuôi theo cái gì đó, cho dù trong vài ngày, sẽ có kẽ hở giữa bây giờ và quá khứ của bạn. Một lực mới đã đi vào trong bạn. Bây giờ bạn không thể tiếp tục với quá khứ; con đường của bạn, như nó bao giờ cũng là vậy, không thể còn thêm nữa. Lối rẽ sẽ xảy ra. Kẽ hở này là điều được ngụ ý bởi buông xuôi.

Nhưng bạn có thể lừa dối. Bạn có thể nói, "Vâng, tôi buông xuôi," và bạn có thể đã không buông xuôi. Hay bạn có thể nghĩ rằng bạn đã buông xuôi nhưng một cách vô thức bạn đang tranh đấu. Không chỉ tranh đấu trong buông xuôi, mà trong mọi thứ nơi 'buông bỏ' được cần, chúng ta tranh đấu.

Ở phương Tây nhiều nghiên cứu đang diễn ra về hiện tượng dục, vì mọi người đang trở nên ngày càng ít có khả năng lực cực thích sâu. Họ có dục nhưng không cực lạc nào tới từ nó. Nó đã trở thành chuyện chán chường. Họ cảm thấy chỉ mỗi thất vọng, chỉ yếu đi qua nó. Và thế thì nó trở thành thứ thường lệ. Họ không biết phải làm gì. Cực lạc sâu qua cực thích là ý nghĩa của nó. Nếu điều này không xảy ra, nó là vô tích sự và vô dụng và thậm chí có hại. Nhiều trường phái tâm lí liên tục làm việc trên những câu hỏi: "Cái gì đã xảy ra cho con người? Tại sao người ta không đạt tới cực thích qua dục? Tại sao có nhiều không thoả mãn thế?" Mọi nghiên cứu đều chỉ ra rằng lí do là ở chỗ con người không thể buông xuôi - đó là lí do tại sao con người không thể đạt tới cực thích. Ngay cả khi làm tình, khi sâu trong dục, tâm trí bạn vẫn còn trong kiểm soát. Bạn liên tục kiểm soát. Bạn không trong 'buông bỏ'. Bạn sợ buông bỏ vì nếu bạn cho phép năng lượng dục di chuyển không kiểm soát, bạn không biết nó dẫn tới đâu. Bạn có thể phát điên, bạn thậm chí có thể chết. Đó là nỗi sợ. Cho nên bạn vẫn còn trong kiểm soát.

Bạn liên tục thao túng thân thể bạn. Việc thao túng này từ tâm trí không cho phép toàn thân trở thành dòng chảy năng lượng. Thế thì dục trở thành chuyện cục bộ, toàn thân không được tham gia, toàn thân không trong điệu vũ bên trong; cực lạc bị bỏ lỡ. Bạn mất năng lượng và bạn không thu được bất kì cái gì - nhất định có thất vọng. Cho nên các nhà tâm lí học nói rằng bạn sẽ không đạt tới cực lạc sâu chừng nào bạn chưa trong 'buông bỏ' sâu, chừng nào tâm trí vẫn còn đó và bản ngã vẫn còn đó; chừng nào thân thể còn chưa tiếp quản với lực riêng của nó, đà riêng của nó, và chuyển động bởi các nguồn vô thức riêng của nó; chừng nào bạn vẫn có đó. Cực lạc đó có thể cho bạn thoáng nhìn đầu tiên về cực lạc tối thượng mà xảy ra trong 'buông bỏ' toàn bộ bản ngã của bạn với điều Thiêng liêng, với vũ trụ.

Samadhi, mục đích tối thượng của mọi yoga và Mật tông, là cực thích sâu với bản thân vũ trụ, với bản thân sự tồn tại. Guru chỉ cố giúp bạn, đem bạn tới điểm mà bạn có thể ít nhất là buông xuôi bản ngã. Thế thì cực lạc sâu sẽ xảy ra giữa bạn và thầy của bạn. Bất kì chỗ nào có 'buông bỏ', cực lạc xảy ra - đó là luật.

Cho nên nếu bạn có thể buông xuôi theo một guru, đừng nghe bất kì người nào. Cho dù toàn thế giới nói rằng guru này là sai, đừng nghe điều đó. Nếu bạn có thể buông xuôi, guru này là đúng. Bạn sẽ đạt tới khoảnh khắc cực lạc qua ông ấy. Và nếu toàn thế giới nói rằng guru này là đúng, và bạn không thể buông xuôi được, ông ấy là vô dụng cho bạn. Cho nên bất kì chỗ nào bạn có cảm giác về buông xuôi, có guru của bạn, thầy của bạn.

Tìm chỗ, tìm người có sự hiện diện mà bạn có thể cho phép 'buông bỏ', trong sự hiện diện của người đó bạn có thể bỏ tâm trí bạn trong một lúc. Một khi lực này từ bên ngoài đi vào trong bạn, con đường của bạn sẽ là khác, cuộc sống của bạn sẽ lấy lối rẽ mới.

Bạn có thể lừa bản thân bạn: bạn có thể liên tục nghĩ rằng bạn đã buông xuôi nhưng bạn biết rõ bên trong rằng bạn đã không buông xuôi. Và nhớ: bạn không thể lừa được thầy - thầy biết. Và thầy sẽ liên tục nhấn mạnh chừng nào 'buông bỏ' chưa thực sự xảy ra. Bạn có thể thao diễn, bạn có thể chơi trò chơi, nhưng bạn không thể lừa được thầy. Bạn có thể đặt đầu bạn dưới chân thầy nhưng cử chỉ đó chẳng ngụ ý điều gì. Nó có thể chỉ là cử chỉ bề ngoài, bạn không cúi mình chút nào. Nhưng nếu việc cúi mình thực sự xảy ra, thầy có thể làm việc.

Cho nên bất kì khi nào tôi nói, "Buông xuôi đi," hay "Bỏ nó cho tôi và tôi sẽ chăm nom," tôi ngụ ý điều đó. Đích xác bất kì cái gì tôi nói tôi ngụ ý điều đó. Tôi muốn tạo ra kẽ hở bên trong bạn, sự gián đoạn với quá khứ. Một khi kẽ hở có đó, sớm hay muộn bạn sẽ trở nên có năng lực đi theo cách riêng của bạn. Nhưng trước điều đó, nếu bạn đi theo cách riêng của bạn, bạn sẽ tiếp tục câu chuyện quá khứ. Không cái gì mới là có thể. Với cái mới, cái gì đó từ bên ngoài phải đi vào bạn, phải đẩy bạn vào con đường mới.

Câu hỏi cuối cùng:

Thầy đã nói rằng Jesus không biết rằng đất là tròn. Cho nên với những người Ki tô giáo tin rằng Jesus là Thượng đế, điều này dường như là rất kì lạ. Chẳng phải điều đó ngụ ý rằng người chứng ngộ như Jesus, người biết các khoa học huyền bí sâu, cũng phải biết nhiều sự kiện về thiên văn học và chiêm tinh học về các hành tinh, vũ trụ, và mối tương hỗ của các thể tinh tú sao? Xin thầy giải thích.

Không, Jesus không bận tâm. Khi Jesus nói rằng thế giới là phẳng, ông ấy đã dùng tri thức đã phổ biến vào những ngày đó. Ông ấy không bận tâm về liệu thế giới là tròn hay phẳng; điều đó là vô nghĩa với ông ấy. Ông ấy bận tâm nhiều hơn về những người kia, người đã sống trên đất 'phẳng' hay 'tròn' này.

Mối quan tâm này phải được hiểu. Điều tuyệt đối vô tích sự với Jesus là thảo luận những thứ này. Điều đó tạo ra khác biệt gì? Chẳng hạn, bạn biết từ các sách địa lí rằng thế giới là tròn. Nếu sách địa lí của bạn mà dạy rằng thế giới là phẳng, như họ đã dạy trong quá khứ, điều đó sẽ làm ra khác biệt gì cho bạn? Bạn có là người tốt hơn không? Bạn có tính thiền hơn về thế giới 'phẳng hay thế giới 'tròn' không? Nó sẽ tạo khác biệt gì cho con người của bạn và phẩm chất của tâm thức của bạn? Nó không liên quan.

Jesus quan tâm tới tâm thức của bạn, và ông ấy sẽ không tranh cãi một cách không cần thiết về những thứ vô dụng. Chỉ người không chứng ngộ bị lôi vào những thứ không cần thiết. Nếu như bạn nói với Jesus rằng thế giới là tròn, ông ấy chắc đã nói vâng. Điều đó chẳng tạo ra khác biệt gì cho ông ấy vì điều đó không phải là mối quan tâm của ông ấy. Ý tưởng phổ biến đã là việc thế giới là phẳng. Và thực sự, với tâm trí bình thường, thế giới vẫn là phẳng. Nó có vẻ phẳng. Tính tròn là sự kiện khoa học, nhưng Jesus không phải là nhà khoa học.

Chẳng hạn, tôi biết rằng chính sự kiện khoa học là mặt trời không bao giờ mọc và không bao giờ lặn. Trái đất đang di chuyển vòng quanh, mặt trời không di chuyển. Nhưng dầu vậy tôi vẫn kiện các từ 'mặt trời lặn' và 'mặt trời mọc'. Mặt trời mọc về căn bản là sai. Chính từ này là sai, vì mặt trời không bao giờ mọc. Mặt trời lặn là sai, mặt trời không bao giờ 'lặn'. Cho nên sau hai nghìn năm, ai đó có thể nói người này là không chứng ngộ vì người này đã nói 'mặt trời mọc', 'mặt trời lặn'. Người đó đã không biết về những điều nhỏ bé này sao?

Nhưng nếu tôi định đổi mọi từ thế thì tôi sẽ tranh đấu một cách không cần thiết và điều đó sẽ chẳng giúp được cho bất kì người nào. Jesus đơn giản đã dùng tri thức phổ biến đó - và ý tưởng phổ biến đã là ở chỗ đất là phẳng. Ông ấy đã không quan tâm về điều đó. Nếu như ông ấy ở đây, ông ấy chắc sẽ nói rằng đất là tròn. Nhưng ngay cả điều đó là không chính xác về khoa học, vì trái đất không tròn hẳn. Bây giờ họ nói nó giống như quả trứng, không tròn đích xác. Hình dạng là giống quả trứng. Nhưng ai biết? - ngày hôm sau họ có thể thay đổi và nói điều này không phải là vậy. Khoa học liên tục thay đổi, vì khi nó trở nên chính xác hơn, khi nó đạt tới nhiều tri thức hơn, khi nhiều sự kiện hơn được biết tới, khi nhiều thực nghiệm hơn được tiến hành, mọi thứ thay đổi. Nhưng người như Jesus hay Phật không quan tâm về những sự kiện này.

Nhớ một điều: khoa học quan tâm tới sự kiện, tôn giáo quan tâm tới chân lí. Sự kiện không phải là mối quan tâm của nó, chân lí là mối quan tâm của nó. Sự kiện là về các đối thể, chân lí là về bạn, tâm thức của bạn. Cho nên mọi người chứng ngộ đều phải dùng tri thức phổ biến về các sự kiện. Nhưng bạn phải không phán xét Jesus hay Phật bởi điều đó - bạn đang phán xét sai. Họ có thể bị phán xét chỉ bởi điều họ đã nói về chân lí, về chân lí cố hữu của tâm thức con người. Về điều đó họ bao giờ cũng tuyệt đối đúng mặc dầu ngôn ngữ của họ khác nhau.

Phật nói ngôn ngữ này, Jesus nói trong ngôn ngữ khác. Họ dùng các ngôn ngữ sự kiện khác nhau, họ dùng các kĩ thuật, phương cách khác nhau, nhưng cốt lõi trung tâm của giáo huấn của họ là một. Và, nếu bạn cho phép tôi nói nó, đó là cách đạt tới nhận biết toàn bộ.

Nhận biết là giáo huấn cơ bản của mọi người chứng ngộ. Họ dùng nhiều chuyện ngụ ngôn, kĩ thuật, phương cách, biểu tượng, huyền thoại, nhưng những điều đó là không liên quan. Bạn có thể cắt bỏ chúng, bạn có thể gạt chúng sang bên và chỉ mang ra cốt lõi cơ bản. Cốt lõi cơ bản của mọi người chứng ngộ là nhận biết. Cho nên Jesus liên tục nói cho các đệ tử của ông ấy cách thức tỉnh hơn - không là ngủ, không đi vào trong mơ, mà là tỉnh táo, thức tỉnh.

Ông ấy hay kể một chuyện ngụ ngôn. Ông ấy nói rằng ngày xưa chuyện xảy ra là một ông lớn, một ông chủ lớn, một người rất giầu, làm cuộc hành trình đi xa. Ông ấy bảo những người hầu rằng họ bao giờ cũng phải tỉnh táo vì ông ấy sẽ quay về bất kì khoảnh khắc nào, bất kì khoảnh khắc nào. Và bất kì khi nào ông ấy quay về, nhà phải sẵn sàng đón ông ấy. Ông ấy có thể quay về, bất kì khoảnh khắc nào. Những người hầu phải tỉnh táo, họ thậm chí không thể ngủ. Ngay cả trong đêm họ phải sẵn sàng vì ông chủ có thể về bất kì khoảnh khắc nào.

Jesus hay nói rằng bạn phải tỉnh táo mọi khoảnh khắc vì bất kì khoảnh khắc nào điều Thiêng liêng có thể giáng vào bạn. Bạn có thể bỏ lỡ. Nếu điều Thiêng liêng gõ cửa nhà bạn và bạn ngủ say, bạn sẽ bỏ lỡ. Bạn phải tỉnh táo. Khách có thể tới bất kì khoảnh khắc nào, và khách sẽ không báo trước cho bạn rằng ông ấy sắp tới.

Jesus nói cũng giống như những người hầu của ông chủ đó, vẫn còn tỉnh táo liên tục, vẫn còn nhận biết, chờ đợi, có tính quan sát vì bất kì khoảnh khắc nào điều Thiêng liêng có thể xuyên vào bạn. Và nếu bạn không tỉnh táo, ngài sẽ tới, gõ cửa và đi về. Và khoảnh khắc đó có thể không sớm lặp lại; không ai biết có thể mất bao nhiêu kiếp trước khi điều Thiêng liêng sẽ lại gõ vào cửa nhà bạn. Và nếu bạn đã trở nên ngủ theo thói quen, bạn có thể đã bỏ lỡ việc gõ đó nhiều lần và bạn có thể bỏ lỡ nó lặp đi lặp lại.

Tỉnh táo đi. Đó là cốt lõi cơ bản. Mọi thứ khác chỉ để được dùng để đạt tới nó. Cho nên chỉ bởi vì Jesus nói đất phẳng, ông ấy không trở thành không chứng ngộ. Và chỉ vì bạn biết đất là tròn, bạn không trở nên chứng ngộ. Chứng ngộ không dễ thế đâu!

Xem tiếp Chương 75 - Quay về Mục lục Tập 4 - Quay về Mục lục Toàn tập

.............................. 

0 Đánh giá

Ads Belove Post