Read more
Vigyan Bhairav
Mật Tông Tập 4 - Osho
Sách về các Bí mật:
Bình luận mới
Chương 75. Tìm nhịp điệu của cái đối lập
Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và
quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá.
Với toàn thể tâm thức của ông trong chính
cái bắt đầu của ham muốn, về việc biết, biết.
O shakti, từng cảm nhận đặc biệt bị giới hạn,
biến mất trong toàn quyền.
Trong chân lí hình dạng là không tách rời. Không tách rời là hiện diện khắp nơi và hình dạng riêng của ông. Nhận ra từng hình dạng như được làm bằng tâm thức này.
Một trong những nhà thơ lớn, Walt Whitman, tương truyền đã nói, "Tôi mâu thuẫn với bản thân tôi vì tôi là lớn, tôi mâu thuẫn với bản thân tôi vì tôi chứa mọi cái đối lập, vì tôi là tất cả." Cùng điều này có thể được nói về Shiva, về Mật tông.
Mật tông là việc tìm kiếm nhịp điệu của các cái đối lập, của các mâu thuẫn. Các quan điểm mâu thuẫn, đối lập trở thành một trong Mật tông. Điều này phải được hiểu sâu, chỉ thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu tại sao có nhiều mâu thuẫn thế, nhiều kĩ thuật khác nhau thế. Sống là nhịp điệu giữa các cái đối lập: nam và nữ, dương và âm, ngày và đêm, sinh và tử. Giữa những cái đối lập này dòng sông sự sống chuyển động. Các cái đối lập là đôi bờ - chúng dường như mâu thuẫn, nhưng chúng có tính hợp tác. Dáng vẻ là giả. Sự sống không thể tồn tại mà không có nhịp điệu này giữa các cái đối lập. Và sự sống chứa tất cả. Mật tông không ủng hộ cái này không ủng hộ cái kia - Mật tông ủng hộ tất cả. Mật tông thực sự không có quan điểm riêng của nó. Mọi quan điểm có thể đều được chứa trong nó. Nó là lớn. Nó có thể mâu thuẫn với bản thân nó vì nó chứa tất cả. Nó không là bộ phận, nó là cái toàn thể. Do đó nó là linh thiêng.
Mọi quan điểm bộ phận nhất định là báng bổ; chúng không thể là linh thiêng nếu chúng không chứa cái đối lập. Chúng có thể là logic và hợp lí, nhưng chúng không thể sống động. Bất kì khi nào sự sống tồn tại, nó tồn tại qua cái đối lập của nó. Nó không thể tồn tại một mình, cái đối lập là phải có.
Trong huyền thoại Hi Lạp, hai thần là đối lập cực: Apollo và Dionysius. Apollo là thần của trật tự, kỉ luật, đức hạnh, đạo đức, văn hoá, và Dionysius là thần của mất trật tự, hỗn độn, tự do, tự nhiên. Cả hai là các đối lập cực. Gần như mọi tôn giáo đều ít hay nhiều dựa trên quan điểm Apollo. Họ tin vào lí trí, họ tin vào trật tự, họ tin vào đức hạnh, họ tin vào kỉ luật, kiểm soát... thực sự họ tin vào bản ngã.
Nhưng Mật tông là khác về căn bản: nó chứa cả hai. Nó chứa cả quan điểm của Dionysiaus nữa. Nó tin vào tự nhiên, nó tin vào hỗn độn, nó tin vào cười và múa và hát; nó không chỉ là nghiêm chỉnh, nó là cả hai. Nó là cả hai, nghiêm chỉnh và không nghiêm chỉnh. Nietzsche viết trong một trong những lá thư của ông ấy, "Tôi chỉ có thể tin vào thượng đế nhảy múa." Ông ấy không thể tìm ra bất kì thượng đế nhảy múa nào. Giá mà ông ấy biết cái gì đó về Shiva thế thì câu chuyện của cuộc đời ông ấy chắc đã khác toàn bộ. Shiva là thượng đế nhảy múa. Nietzsche chỉ biết về thượng đế Ki tô giáo. Đó là quan điểm duy nhất - rất nghiêm chỉnh. Đôi khi tính nghiêm chỉnh của thượng đế Ki tô giáo có vẻ ngớ ngẩn, ấu trĩ, vì cái đối lập bị phủ nhận hoàn toàn. Bạn không thể quan niệm được về thượng đế Ki tô giáo nhảy múa. Không thể được! Nhảy múa có vẻ quá trần tục. Và bạn không thể quan niệm được về thượng đế Ki tô giáo cười - hay bạn có thể? Điều đó là không thể được. Thượng đế Ki tô giáo không thể cười được. Tiếng cười sẽ có vẻ quá thế tục. Thượng đế Ki tô giáo là chính tâm linh của sự nghiêm chỉnh và Nietzsche không thể tin được vào điều đó.
Và tôi nghĩ rằng không ai có thể tin được vào thượng đế như vậy vì nó là một nửa, nó không phải là cái toàn thể. Chỉ người như Billy Graham có thể tin được vào điều đó. Đâu đó Billy Graham nói rất nghiêm chỉnh rằng khi bạn đọc các tạp chí khiêu dâm bạn phải nhớ rằng Thượng đế đang nhìn bạn. Điều này có vẻ ngu xuẩn. Bạn đang đọc tạp chí khiêu dâm và Thượng đế đang đọc bạn đang đọc tạp chí khiêu dâm! Chính thái độ này là ngu xuẩn. Nó là ngu xuẩn vì nó không chứa cái đối lập. Bạn sẽ trở nên ngu xuẩn và chết nếu cái đối lập bị phủ nhận. Nhưng nếu bạn có thể chuyển sang cái đối lập một cách dễ dàng mà không mâu thuẫn, nếu bạn có thể nghiêm chỉnh và bạn có thể cười, nếu bạn có thể ngồi như vị Phật và bạn có thể nhảy múa như một Krishna và không có đối lập cố hữu giữa hai điều này - bạn có thể chuyển từ việc là vị Phật sang là một Krishna dễ dàng và uyển chuyển - nếu bạn có thể làm điều này, bạn sẽ sống động. Và nếu bạn có thể làm điều này bạn sẽ là người Mật tông, vì Mật tông là việc tìm kiếm cơ bản về nhịp điệu, cái tồn tại giữa các cái đối lập, cho dòng sông chảy giữa những cái đối lập.
Cho nên Mật tông liên tục làm việc trên tất cả và mọi kĩ thuật có thể có. Mật tông không dành cho ai đó, nó dành cho mọi người. Mọi kiểu tâm trí có thể chuyển qua Mật tông. Mọi kiểu tâm trí không thể là Ki tô giáo, mọi kiểu tâm trí không thể là Hindu, mọi kiểu tâm trí không thể là Phật giáo. Một kiểu tâm trí đặc biệt sẽ bị hấp dẫn bởi Phật, một kiểu tâm trí đặc biệt bởi Jesus, một kiểu tâm trí đặc biệt bởi Mohammed. Shiva chứa tất cả. Shiva có thể có hấp dẫn cho mọi kiểu có thể. Cái toàn bộ, cái toàn thể đã được bao hàm, nó không phải là quan điểm bộ phận. Đó là lí do tại sao Mật tông không có giáo phái. Bạn không thể tạo ra giáo phái quanh cái toàn thể, bạn có thể tạo ra giáo phái chỉ quanh một mảnh mẩu. Bạn có thể sống cái toàn thể, nhưng bạn không thể tạo ra giáo phái. Giáo phái có thể được tạo ra chỉ khi bạn ủng hộ cái gì đó và chống lại cái gì đó khác. Nếu cả hai cái đối lập đều được chứa, làm sao bạn có thể tạo ra tâm trí giáo phái được? Mật tông là tôn giáo bản chất, nó không phải là giáo phái. Do đó có nhiều kĩ thuật thế.
Mọi người hay tới tôi và hỏi, "Có nhiều kĩ thuật thế và kĩ thuật này mâu thuẫn với kĩ thuật kia sao?' Vâng, cái này mâu thuẫn với cái kia vì nó không được ngụ ý dành cho một tâm trí đặc thù. Trong một trăm mười hai kĩ thuật này, đủ mọi kiểu, đủ mọi kiểu nhân loại có thể có đã được bao hàm. Xin đừng bận tâm tới mọi kĩ thuật, bằng không bạn sẽ bị lẫn lộn. Bạn đơn giản tìm ra cái phù hợp với bạn, cái hấp dẫn bạn.
Hướng tới nó bạn sẽ cảm thấy sự đồng cảm sâu sắc, sự hấp dẫn; bạn sẽ rơi vào yêu nó. Thế thì quên mọi cái còn lại trong một trăm mười một kĩ thuật kia đi. Quên chúng đi. Bạn chỉ bám lấy một kĩ thuật có tác dụng cho bạn. Trong một trăm mười hai kĩ thuật này, chỉ một kĩ thuật dành cho bạn. Nếu bạn thử nhiều kĩ thuật bạn sẽ bị lẫn lộn, vì thử nhiều kĩ thuật thế bạn sẽ cần một tâm trí rất lớn có thể hấp thu sự mâu thuẫn. Điều đó là không thể được ngay bây giờ. Một ngày nào đó điều đó có thể trở thành có thể được. Bạn có thể trở thành đầy đủ, toàn bộ tới mức bạn có thể dễ dàng di chuyển với nhiều kĩ thuật. Thế thì sẽ không có vấn đề gì. Nhưng thế thì cũng sẽ không có nhu cầu! Nhu cầu là ngay bây giờ. Tìm ra kĩ thuật của bạn đi.
Tôi có thể giúp đỡ bạn trong việc tìm ra kĩ thuật nào là phù hợp cho bạn. Và nếu bạn cảm thấy rằng các kĩ thuật khác là mâu thuân với kĩ thuật phù hợp với bạn, đừng nghĩ về chúng. Chúng là mâu thuẫn. Nhưng chúng không dành cho bạn. Ít nhất chúng không dành cho bạn bây giờ. Một ngày nào đó sự việc có thể trở thành có thể rằng khi bạn không có bản ngã bên trong, bạn có thể đi vào cái đối lập mà không có vấn đề gì. Bản ngã tạo ra vấn đề. Nó bị mắc kẹt ở đâu đó, bám lấy cái gì đó, nó không linh động, nó không thể tuôn chảy. Và Shiva tuôn chảy theo mọi hướng.
Cho nên nhớ, đừng bắt đầu nghĩ về những kĩ thuật này: rằng kĩ thuật này chống lại kĩ thuật kia. Shiva không cố tạo ra hệ thống, ông ấy không phải là người làm ra hệ thống. Shiva đang cho mọi kĩ thuật mà không có hệ thống hoá nào. Chúng không thể được hệ thống hoá, vì hệ thống ngụ ý rằng cái mâu thuẫn, cái đối lập phải bị phủ nhận. Và ở đây cái đối lập được bao hàm. Nó là cả hai Apollo và Dionysius; nó là cả hai nghiêm chỉnh và cười; nó là cả hai ở khắp nơi và siêu việt; nó là cả hai phàm trần và siêu phàm - vì nó là tất cả.
Bây giờ chúng ta phải đi vào kĩ thuật:
Kĩ thuật thứ nhất:
Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và
quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá.
Thứ nhất bạn phải hiểu tưởng tượng là gì. Ngày nay nó bị kết án rất nhiều. Khoảnh khắc bạn nghe nói tới từ 'tưởng tượng' bạn sẽ nói điều này là vô dụng, chúng tôi muốn cái gì đó thực, không tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng là thực tại đấy, nó là năng lực, nó là tiềm năng bên trong bạn. Bạn có thể tưởng tượng. Điều đó chỉ ra rằng con người của bạn có năng lực tưởng tượng. Năng lực này là thực tại. Qua tưởng tượng này bạn có thể phá huỷ hay bạn có thể sáng tạo bản thân bạn. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Tưởng tượng là rất mạnh. Nó là sức mạnh tiềm năng.
Tưởng tượng là gì? Nó là việc lấy một thái độ sâu sắc tới mức chính thái độ đó trở thành thực tại. Chẳng hạn, bạn có thể đã nghe nói về một kĩ thuật được dùng ở Tây Tạng. Họ gọi nó là là yoga nhiệt. Đêm trời lạnh, tuyết rơi, và lama Tây Tạng sẽ đứng trần dưới trời mở. Nhiệt độ là dưới không độ. Bạn sẽ đơn giản bắt đầu chết, bạn sẽ tê cóng. Nhưng lama này thực hành một kĩ thuật đặc biệt. Kĩ thuật đó là ở chỗ người đó tưởng tượng rằng thân thể người đó là ngọn lửa cháy và người đó tưởng tượng rằng người đó vã mồ hôi - nhiệt độ nhiều tới mức người đó vã mồ hôi... Và người đó thực tại bắt đầu vã mồ hôi mặc dầu nhiệt độ là dưới không độ và thậm chí máu cũng đông lại. Người đó bắt đầu vã mồ hôi. Cái gì đang xảy ra? Việc vã mồ hôi này là thực, thân thể ông ấy thực sự nóng - nhưng thực tại này được tạo ra qua tưởng tượng.
Bạn thử kĩ thuật đơn giản nào đó để cho bạn có thể cảm thấy cách thực tại có thể được tạo ra qua tưởng tượng. Chừng nào bạn chưa cảm thấy nó, bạn không thể làm việc được với kĩ thuật này. Chỉ là đếm mạch của bạn. Ngồi trong phòng đóng kín và đếm mạch của bạn. Và thế rồi trong năm phút chỉ tưởng tượng rằng bạn đang chạy. Tưởng tượng rằng bạn đang chạy, trời nóng, bạn lấy hơi thở sâu, bạn vã mồ hôi, và tỉ lệ mạch của bạn đang lên cao. Sau khi tưởng tượng điều này trong năm phút lại đếm mạch. Bạn sẽ thấy khác biệt: nhịp mạch của bạn sẽ cao. Bạn đã làm việc với nó chỉ bằng tưởng tượng, bạn đã không thực sự chạy.
Ở Tây Tạng cổ xưa, các sư Phật giáo thường làm bài tập chỉ qua tưởng tượng. Và những kĩ thuật đó có thể được dùng nhiều cho con người hiện đại, vì sẽ khó chạy trên phố, khó đi bộ lâu, khó tìm ra phố đơn độc. Bạn có thể chỉ nằm trên sàn trong phòng bạn và tưởng tượng rằng trong một giờ liên tục bạn đang bước đi nhanh. Chỉ trong tưởng tượng liên tục bước đi. Và bây giờ ngay cả các chuyên gia y tế cũng nói rằng hiệu quả sẽ là giống hệt như nó đã là việc bước thực. Một khi bạn được hoà điệu với tưởng tượng của bạn, thân thể bắt đầu vận hành. Bạn đã làm nhiều thứ mà không biết rằng nó là làm việc tưởng tượng của bạn. Nhiều lần bạn tạo ra nhiều bệnh qua tưởng tượng; bạn tưởng tượng rằng bây giờ bệnh này có đó, lây nhiễm, nó ở khắp mọi chỗ. Bạn đã trở nên cảm nhận, bây giờ có mọi khả năng rằng bạn sẽ ngã bệnh - và ốm đó là thực. Nhưng nó đã được tạo ra qua tưởng tượng. Tưởng tượng là một lực, năng lượng, và tâm trí đi qua nó. Và khi tâm trí đi qua nó, thân thể tuân theo.
Có lần chuyện xảy ra trong một kí túc xá đại học ở Mĩ rằng bốn sinh viên đang thử một thực nghiệm trong thôi miên. Thôi miên không là gì ngoài sức mạnh tưởng tượng. Khi bạn thôi miên một người, người đó thực sự rơi vào trong tưởng tượng sâu, và bất kì cái gì bạn gợi ý sẽ bắt đầu xảy ra. Cho nên họ đã gợi ý nhiều thứ cho cậu thanh niên mà họ thôi miên. Bốn cậu sinh viên thôi miên một cậu. Họ thử nhiều thứ và bất kì cái gì họ nói, cậu này lập tức tuân theo. Khi họ nói, "Nhảy đi," cậu này bắt đầu nhảy. Khi họ nói, "Khóc đi," cậu này bắt đầu khóc. Khi họ nói, "Nước mắt chảy ra từ mắt," nước mắt bắt đầu chảy ra. Thế rồi chỉ là trò đùa họ nói, "Bây giờ nằm ra. Bạn chết!" Và cậu này nằm ra và cậu ta chết.
Điều này đã xảy ra năm một chín năm hai. Sau đó họ đã làm ra luật chống lại thôi miên ở Mĩ. Không ai được thôi miên trừ phi công trình nghiên cứu nào đó được tiến hành; trừ phi viện y tế nào đó, hay khoa tâm lí nào đó của đại học cấp quyền cho bạn. Chỉ thế thì bạn có thể thực nghiệm. Bằng không nó là nguy hiểm - cậu bé này đơn giản tin, tưởng tượng, rằng cậu ta chết, và cậu ta chết.
Nếu chết có thể xuất hiện qua tưởng tượng, sao sống không xuất hiện, sao nhiều sống hơn không xuất hiện?
Kĩ thuật này dựa trên sức mạnh của tưởng tượng. Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá.
Chỉ ngồi ở chỗ đơn độc nơi không ai sẽ quấy rầy bạn - một phòng đơn độc sẽ có tác dụng. Hay nếu bạn có thể kiếm được chỗ nào đó bên ngoài thì sẽ tốt hơn, vì khi bạn ở gần tự nhiên bạn tưởng tượng nhiều hơn. Khi chỉ có những thứ nhân tạo quanh bạn, bạn ít tưởng tượng hơn. Tự nhiên đang mơ, và nó cho bạn lực mơ. Một mình bạn trở nên có tính tưởng tượng nhiều hơn: đó là lí do tại sao bạn sợ khi bạn một mình. Không phải là ma sẽ gây rắc rối cho bạn, nhưng một mình tưởng tượng của bạn có thể làm việc. Và tưởng tượng của bạn có thể tạo ra ma hay bất kì cái gì bạn muốn nó. Khi bạn đi một mình, tưởng tượng của bạn có tiềm năng hơn; khi ai đó khác có đó, lí trí của bạn ở trong kiểm soát. Vì không có lí trí bạn không thể có quan hệ với người khác; với những người khác nó liên tục làm việc. Khi không có người nào ở đó, tâm trí liên tục làm việc. Khi không có người nào ở đó, tâm trí thảnh thơi và bạn hồi tưởng tới tầng tưởng tượng sâu hơn của hiện hữu. Khi bạn một mình, tưởng tượng bắt đầu vận hành.
Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành với việc tước bỏ giác quan. Nếu một người có thể bị tước bỏ mọi kích thích giác quan - nếu bạn bị nhốt trong một phòng cách âm mà không có ánh sáng vào trong nó, không có khả năng có quan hệ với bất kì người nào khác, không ảnh trên tường, không cái gì trong phòng mà bạn có thể có quan hệ - sau một, hai hay ba giờ giờ bạn sẽ bắt đầu có quan hệ với bản thân bạn. Bạn sẽ trở nên có tính tưởng tượng. Bạn sẽ bắt đầu nói với bản thân bạn. Bạn sẽ hỏi và bạn sẽ trả lời. Cuộc độc thoại sẽ bắt đầu trong đó bạn sẽ bị phân chia. Thế rồi đột nhiên bạn sẽ bắt đầu cảm thấy nhiều thứ mà bạn không thể hiểu được. Bạn sẽ bắt đầu nghe thấy âm thanh, nhưng phòng này là phòng cách âm, không âm thanh nào có thể vào. Bây giờ bạn đang tưởng tượng. Bạn có thể bắt đầu ngửi thấy hương thơm, nhưng không hương thơm nào có đó. Bây giờ bạn đang tưởng tượng. Sau ba mươi sáu giờ tước bỏ giác quan, bạn không thể làm bất kì phân biệt nào giữa cái gì là thực và cái gì là tưởng tượng - không thể được. Sau ba mươi sáu giờ tước bỏ giác quan, tưởng tượng trở thành thực tại và thực tại trở thành ảo vọng.
Đó là lí do tại sao những người tìm kiếm thời xưa sẽ đi lên núi, tới chỗ đơn độc, nơi họ có thể làm mất đi sự phân biệt giữa cái thực và cái không thực. Một khi phân biệt này bị mất, tưởng tượng của bạn ở trong sức mạnh đầy đủ của nó. Bây giờ bạn có thể dùng nó và bạn có thể có tính sáng tạo qua nó.
Với kĩ thuật này ngồi ở chỗ đơn độc: nếu vùng xung quanh là tự nhiên, thế thì tốt, nếu không, thế thì căn phòng cũng được. Thế rồi nhắm mắt lại và tưởng tượng lực tâm linh được cảm thấy ở bên trong và bên ngoài. Bên trong bạn dòng sông tâm thức đang chảy và nó đi ra khắp phòng, tràn ngập. Bên trong và bên ngoài, khắp xung quanh bạn, mọi nơi, tâm linh hiện diện, năng lượng hiện diện. Và đừng chỉ tưởng tượng nó trong tâm trí, bắt đầu cảm thấy bên trong thân thể - thân thể bạn sẽ bắt đầu rung động. Khi bạn cảm thấy rằng thân thể đã bắt đầu rung động, điều đó chỉ ra rằng tưởng tượng đã bắt đầu hoạt động. Cảm thấy rằng toàn thể vũ trụ dần dần được tâm linh hoá - mọi thứ, tường căn phòng, cây quanh bạn, mọi thứ đã trở thành phi vật chất, nó đã trở thành tâm linh. Vật chất không còn đó.
Điều đó cũng là thực tại. Các nhà vật lí nói rằng vật chất là ảo vọng và năng lượng là thực, và bất kì chỗ nào bạn thấy các vật rắn chắc, sự rắn chắc đó chỉ là dáng vẻ bên ngoài, nó không có đó. Khi vật lí đi sâu hơn vào trong thế giới vật chất, vật chất biến mất. Chỉ năng lượng, năng lượng phi vật chất, còn lại không thể xác định được.
Qua tưởng tượng bạn đạt tới điểm mà, bằng nỗ lực có ý thức của bạn, bạn đang phá huỷ cấu trúc của trí tuệ, hình mẫu của trí tuệ. Bạn cảm thấy rằng không có vật chất, chỉ có năng lượng, chỉ có tâm linh, bên trong và bên ngoài. Bạn sẽ sớm cảm thấy rằng bên trong và bên ngoài đã biến mất. Khi thân thể bạn trở nên tâm linh và bạn cảm thấy nó là năng lượng, thế thì không có phân biệt giữa bên trong và bên ngoài. Các biên giới bị mất đi. Bây giờ chỉ có dòng chảy, đại dương, đang rung động. Điều này cũng là cái thực - bạn đang đạt tới cái thực qua tưởng tượng.
Tưởng tượng đang làm gì? Tưởng tượng chỉ đang phá huỷ các quan niệm cũ, nội dung, các hình mẫu cũ của tâm trí, điều liên tục nhìn vào mọi thứ theo cách nào đó. Tưởng tượng đang phá huỷ chúng. Và thế thì thực tại sẽ được hiển lộ.
Tưởng tượng tâm linh đồng thời bên trong và quanh ông cho tới khi toàn thể vũ trụ tâm linh hoá - cho tới khi bạn cảm thấy rằng mọi phân biệt đã biến mất, mọi biên giới đã tan biến và vũ trụ đã trở thành chỉ là một đại dương năng lượng. Cái đó cũng là sự kiện nữa. Nhưng bạn tiến sâu hơn trong kĩ thuật này, bạn sẽ càng trở nên hoảng hơn. Bạn sẽ cảm thấy dường như bạn sắp điên. Vì sự lành mạnh của bạn bao gồm các phân biệt, lành mạnh của bạn bao gồm cái gọi là thực tại này và khi thực tại bắt đầu biến mất, đồng thời bạn sẽ cảm thấy rằng sự lành mạnh của bạn đang biến mất. Thánh nhân và người điên đi vào trong thế giới ở bên ngoài cái gọi là thực tại của chúng ta. Họ cả hai cùng đi vào, nhưng người điên rơi xuống và thánh nhân đi ra ngoài. Khác biệt là rất nhỏ nhưng nó cũng rất lớn. Nếu không có bất kì nỗ lực nào về phần của bạn, bạn làm mất tâm trí của bạn và những phân biệt, cái thực và cái không thực, bạn sẽ trở thành điên. Nhưng nếu bạn phá huỷ các quan niệm bằng nỗ lực có ý thức, bạn sẽ trở thành "siêu minh mẫn," không phải là điên. Cái "siêu minh mẫn" đó là chiều của tôn giáo. Nó ở bên ngoài minh mẫn. Nhưng nỗ lực có ý thức là được cần. Bạn phải không là nạn nhân, bạn phải vẫn còn là người chủ. Khi chính nỗ lực của bạn đang phá huỷ các hình mẫu của tâm trí, bạn nhìn vào trong thực tại phi hình mẫu.
Thực tại phi hình mẫu là thực tại duy nhất; thực tại có hình mẫu chỉ là bị áp đặt. Đó là lí do tại sao bây giờ các nhà nhân chủng học nói rằng mọi xã hội, mọi nền văn hoá, nhìn vào cùng thực tại nhưng thấy ra thực tại khác ở đó, vì hình mẫu của họ, quan niệm của họ là khác nhau. Có nhiều nền văn hoá trên thế giới, các nền văn hoá nguyên thuỷ. Họ nhìn vào cùng thế giới theo những cách rất khác nhau; diễn giải của họ là khác toàn bộ. Thực tại là cùng một với chúng ta và với họ, nhưng hình mẫu được nhìn qua là khác. Chẳng hạn, Phật tử nói rằng không có bản chất trong thế giới, thế giới là quá trình. Không có cái gì là bản chất. Mọi thứ là trong vận động - hay thậm chí điều đó có thể không là điều đúng để nói. Vận động là thứ duy nhất. Khi chúng ta nói rằng mọi thứ là trong vận động, lần nữa lại có ảo tưởng cũ - dường như có cái gì đó đang vận động. Phật nói không có cái gì đang vận động - chỉ vận động có đó. Đó là mọi thứ có đó. Cho nên ở các nước Phật giáo như Thái Lan hay Miến Điện, họ không có bất kì từ nào tương ứng cho 'hiện hữu' trong ngôn ngữ của họ. Khi Kinh Thánh được dịch sang tiếng Thái Lan lần đầu tiên, việc dịch nó trở thành vấn đề vì trong Kinh Thánh có nói rằng "Thượng đế hiện hữu." Bạn không thể nói rằng "Thượng đế hiện hữu" trong tiếng Miến Điện hay trong tiếng Thái Lan; bạn không thể nói được nó. Bất kì cái gì họ nói sẽ ngụ ý, "Thượng đế trở thành." Mọi thứ đang vận động, không cái gì hiện hữu. Khi người Miến Điện nhìn vào thế giới, người đó nhìn vào vận động. Khi chúng ta nhìn, khi đặc biệt tâm trí phương Tây hướng Hi Lạp nhìn, không có quá trình, chỉ có chất liệu. Có những thứ chết, không vận động. Ngay cả khi bạn nhìn sông, bạn thấy sông như "hiện hữu." Sông không có đó - sông chỉ ngụ ý chuyển động, cái gì đó thường xuyên trở thành. Và một điểm không bao giờ tới nơi bạn nói nó đã trở thành, nó là quá triình không kết thúc. Khi chúng ta nhìn cây, chúng ta thấy cây "hiện hữu". Tiếng Miến Điện không có cái gì để nói. Họ chỉ có thể nói rằng cây đang trở thành, cây đang chảy, cây đang lớn, cây đang trong quá trình. Nếu đứa trẻ đang được nuôi lớn lên với hình mẫu này trong tâm trí - thế thì mọi thứ là quá trình - thế giới, thực tại, sẽ khác toàn bộ. Với bạn nó là khác và thực tại là một và vẫn cùng một vậy. Nhưng bạn đem tâm trí nào vào nó để diễn giải nó? Thế thì nó thay đổi.
Nhớ một điều cơ bản: chừng nào hình mẫu của tâm trí bạn chưa bị vứt đi, chừng nào bạn chưa được "giải hình mẫu", chừng nào việc ước định của bạn chưa bị vứt đi và bạn chưa được giải ước định, bạn sẽ không biết thực tại là gì - bạn sẽ chỉ biết các cách diễn giải. Những cách diễn giải đó là công việc của tâm trí riêng của bạn. Thực tại phi hình mẫu là thực tại duy nhất. Và kĩ thuật này là để giúp bạn giải hình mẫu, giải ước định, làm tan biến khỏi tâm trí các từ đã được thu thập ở đó. Bạn không thể nhìn được vì chúng. Bất kì cái gì có vẻ thực với bạn để cho nó được tan biến đi.
Tưởng tượng năng lượng, không chất liệu, không cái gì tĩnh tại, nhưng quá trình, chuyển động, nhịp điệu, nhảy múa, và liên tục tưởng tượng cho tới khi toàn thể vũ trụ được tâm linh hoá. Nếu bạn kiên trì, trong vòng ba tháng làm việc mãnh liệt cho chỉ một giờ mỗi ngày, bạn có thể đi tới việc cảm này. Trong vòng ba tháng bạn có thể có việc cảm khác về toàn thể sự tồn tại quanh bạn. Vật chất không còn đó, chỉ có sự tồn tại phi vật chất, đại dương, như sóng, các rung động. Khi điều này xảy ra thế thì bạn biết Thượng đế là gì. Đại dương năng lượng đó là Thượng đế. Thượng đế không phải là người. Thượng đế không ở đâu đó ngồi trên ngai vàng trên trời. Toàn thể năng lượng sáng tạo của sự tồn tại là Thượng đế. Nhưng chúng ta có hình mẫu suy nghĩ. Chúng ta nói Thượng đế là đấng sáng tạo. Thượng đế không là đấng sáng tạo. Thay vì thế, Thượng đế là lực sáng tạo, chính bản thân việc sáng tạo.
Điều đã bị áp đặt đi áp đặt lại lên tâm trí chúng ta là ở đâu đó trong quá khứ, Thượng đế đã tạo ra thế giới - và ngay lúc ấy việc sáng tạo được kết thúc. Người Ki tô giáo có câu chuyện rằng trong vòng sáu ngày Thượng đế đã tạo ra thế giới và vào ngày thứ bẩy ngài nghỉ ngơi. Đó là lí do tại sao ngày thứ bẩy, chủ nhật, là ngày nghỉ. Thượng đế lấy ngày nghỉ vào ngày đó. Trong sáu ngày ngài đã tạo ra thế giới, mãi mãi và bất kì lúc nào - và kể từ đó đã không có việc sáng tạo. Từ ngày thứ sáu đã không có sáng tạo. Đây là quan niệm rất chết. Mật tông nói Thượng đế là chính tính sáng tạo. Việc sáng tạo không phải là biến cố lịch sử mà đã xảy ra đâu đó trong quá khứ - nó đang xảy ra mọi khoảnh khắc, Thượng đế đang sáng tạo mọi khoảnh khắc. Nhưng lần nữa ngôn ngữ tạo ra vấn đề và chúng ta nói, "Thượng đế đang sáng tạo." Nó cho cảm giác rằng Thượng đế là ai đó liên tục sáng tạo. Không, chính tính sáng tạo liên tục di chuyển và di chuyển mọi khoảnh khắc, chính tính sáng tạo đó là Thượng đế. Cho nên bạn đang trong việc sáng tạo mọi khoảnh khắc. Đây là quan niệm rất sống động. Không phải là Thượng đế đã tạo ra cái gì đó và từ đó đã không có đối thoại giữa con người và Thượng đế, đã thực sự không có kết nối, không có quan hệ - ngài đã sáng tạo và sự việc được kết thúc. Mật tông nói rằng mọi khoảnh khắc bạn đang được sáng tạo, mọi khoảnh khắc bạn đang trong mối quan hệ sâu sắc với điều thiêng liêng, với cội nguồn của tính sáng tạo. Đây là quan niệm rất sống động.
Qua kĩ thuật này bạn sẽ có thoáng nhìn về lực sáng tạo, bên trong và bên ngoài. Và một khi bạn có thể cảm thấy lực sáng tạo và cái chạm, tác động của nó, bạn sẽ trở thành khác toàn bộ, bạn sẽ không bao giờ là cùng người cũ nữa. Thượng đế đã đi vào bạn. Bạn đã trở thành chỗ trú ngụ.
Kĩ thuật thứ hai:
Với toàn thể tâm thức của ông trong chính
cái bắt đầu của ham muốn, về việc biết, biết.
Điều cơ bản về kĩ thuật này là toàn thể tâm thức. Nếu bạn có thể mang toàn thể tâm thức của bạn vào bất kì cái gì, nó sẽ trở thành lực biến đổi. Biến đổi xảy ra bất kì khi nào bạn ở toàn bộ trong nó - trong bất kì cái gì. Nhưng điều đó là khó, vì bất kì chỗ nào chúng ta hiện hữu, chúng ta chỉ ở đó theo bộ phận, không bao giờ trong tính toàn bộ.
Bạn ở đây nghe tôi. Chính việc nghe này có thể trở thành việc biến đổi. Nếu bạn là toàn bộ ở đây, chính khoảnh khắc này ở đây và bây giờ, nếu việc nghe là tính toàn thể của bạn, việc nghe đó sẽ trở thành thiền: bạn sẽ đi vào cõi cực lạc khác, thực tại tách rời. Nhưng bạn không là toàn bộ. Đó là vấn đề với tâm trí con người, nó bao giờ cũng bộ phận. Một phần đang lắng nghe. Các phần khác có thể ở đâu đó khác, hay có thể ngủ, hay có thể nghĩ về điều đang được nói, hay đang tranh cãi bên trong. Điều đó tạo ra phân chia và phân chia là việc tiêu tán năng lượng. Cho nên khi làm bất kì cái gì, đem toàn bộ hiện hữu của bạn vào nó đi. Khi bạn không giữ lại bất kì cái gì, thậm chí không một phần thiểu số nào là tách rời, khi bạn đã lấy cú nhảy, toàn bộ, toàn thể, toàn thể hiện hữu của bạn đã đi vào trong nó, thế thì bất kì hành động nào cũng trở thành có tính thiền.
Chuyện kể rằng một hôm Lâm Tế đang làm việc trong vườn - Lâm Tế là một Thiền sư - và ai đó tiến tới. Người này đã tới để hỏi những câu hỏi triết lí nào đó. Người này là người tìm kiếm theo triết lí. Ông ta không biết rằng người đang làm việc trong vườn là đích thân Lâm Tế. Ông ta nghĩ người này phải là người làm vườn, người hầu, cho nên ông ta hỏi, "Lâm Tế ở đâu?" Lâm Tế nói, "Lâm Tế bao giờ cũng ở đây." Tất nhiên, người này tưởng rằng người làm vườn này dường như điên vì ông ấy đã nói rằng Lâm Tế bao giờ cũng ở đây. Thế là ông ta nghĩ chắc không ích gì mà đi hỏi bất kì cái gì từ người này lần nữa, và ông ta bắt đầu bỏ đi để hỏi ai đó khác. Lâm Tế nói, "Đừng đi bất kì đâu, vì ông sẽ không tìm thấy ông ấy ở bất kì đâu đâu. Ông ấy bao giờ cũng ở đây." Nhưng ông ta đã trốn thoát khỏi người điên này.
Thế rồi ông ấy hỏi những người khác và họ nói, "Người đầu tiên ông gặp là Lâm Tế đó." Thế là ông ta quay lại và nói, "Tôi xin lỗi, xin thứ lỗi cho tôi, tôi cứ tưởng ông điên. Tôi đã tới để hỏi về cái gì đó. Giờ tôi muốn biết chân lí là gì. Tôi phải làm gì để biết nó?" Lâm Tế nói, "Làm bất kì cái gì ông muốn làm, nhưng làm nó một cách toàn bộ."
Vấn đề không phải là bạn làm cái gì, cái đó không liên quan. Vấn đề là ở chỗ bạn làm nó một cách toàn bộ.
"Chẳng hạn," Lâm Tế nói, "khi ta đang đào hố trong đất, tính toàn thể của ta có đó trong hành động đào đất. Không có Lâm Tế còn lại đằng sau. Cái toàn thể đã đi vào trong việc đào. Thực sự không có người đào nào còn lại, chỉ có việc đào. Nếu người đào còn lại, thế thì ông bị phân chia."
Bạn đang nghe tôi. Nếu người nghe còn lại, thế thì bạn không là toàn bộ. Nếu chỉ có việc nghe và không có người nghe nào còn lại đằng sau, bạn là toàn bộ, ở đây và bây giờ. Thế thì chính khoảnh khắc này trở thành thiền. Trong kinh này Shiva nói, Với toàn thể tâm thức của ông trong chính cái bắt đầu của ham muốn, về việc biết, biết. Nếu ham muốn nảy sinh bên trong bạn, Mật tông không nói tranh đấu với nó. Điều đó là vô tích sự. Không người nào có thể tranh đấu với ham muốn. Điều đó là ngu xuẩn nữa, vì bất kì khi nào bạn bắt đầu tranh đấu với cái gì đó bên trong bạn, bạn đang tranh đấu với bản thân bạn, bạn sẽ trở thành tinh thần phân liệt, nhân cách của bạn sẽ bị chia chẻ. Và mọi cái gọi là tôn giáo đã giúp nhân loại dần dần trở nên tinh thần phân liệt. Mọi người bị chia chẻ, mọi người bị phân chia và tranh đấu với bản thân người đó vì cái gọi là tôn giáo đã từng bảo bạn, "Cái này là xấu. Không làm điều này." Nếu ham muốn tới, phải làm gì? Bạn liên tục tranh đấu với ham muốn. Mật tông nói không tranh đấu với ham muốn. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn trở thành nạn nhân của nó. Điều đó không có nghĩa là bạn mê đắm trong nó. Mật tông cho bạn một kĩ thuật rất tinh tế. Khi ham muốn nảy sinh, tỉnh táo ngay lúc bắt đầu bằng tính toàn bộ của bạn. Nhìn nó bằng tính toàn bộ của bạn. Trở thành cái nhìn. Không bỏ người nhìn ở sau. Mang toàn bộ tâm thức của bạn vào ham muốn đang nảy sinh này. Đây là phương pháp rất tinh tế, nhưng kì diệu. Điều huyền bí là hiệu quả của nó.
Ba điều phải được hiểu. Thứ nhất, khi ham muốn đã nảy sinh bạn không thể làm được bất kì cái gì. Thế thì nó sẽ lấy tiến trình đầy đủ của nó, nó sẽ hoàn thành vòng tròn của nó, và bạn không thể làm được bất kì cái gì. Chỉ lúc bắt đầu cái gì đó có thể được làm - hạt mầm phải bị thiêu cháy ngay lúc đó. Một khi hạt mầm đã đâm chồi và cây đã bắt đầu mọc ra, nó là khó, gần như không thể nào làm được cái gì đó. Bất kì cái gì bạn làm sẽ tạo ra nhiều khổ hơn, tiêu tán năng lượng, thất vọng, yếu ớt. Khi ham muốn nảy sinh, ngay lúc bắt đầu, ngay thoáng nhìn đầu tiên, cảm giác thoáng qua đầu tiên rằng ham muốn đang nảy sinh, đem toàn bộ ý thức của bạn, toàn thể sự hiện hữu của bạn để nhìn vào nó. Không làm bất kì cái gì. Không cái gì khác được cần. Với toàn thể sự hiện hữu, cái nhìn nảy lửa tới mức hạt mầm bị thiêu cháy, không vật lộn, không xung đột, không đối kháng. Chỉ cái nhìn sâu với toàn thể sự hiện hữu và ham muốn đang tới biến mất hoàn toàn. Và khi ham muốn biến mất không có tranh đấu, nó để lại bạn mạnh mẽ thế, với năng lượng mênh mông thế, với nhận biết vô cùng thế, bạn không thể tưởng tượng được nó. Nếu bạn tranh đấu, bạn sẽ bị thất bại. Cho dù bạn không bị thất bại và bạn đánh bại ham muốn, điều đó nữa sẽ dẫn đến cùng một điều. Không năng lượng nào sẽ còn lại. Bạn sẽ cảm thấy thất vọng dù bạn thắng hay thua. Trong cả hai trường hợp bạn sẽ yếu lúc cuối, vì ham muốn đã tranh đấu với năng lượng của bạn và bạn đã tranh đấu với cùng năng lượng này. Năng lượng đã tới từ cùng nguồn, bạn đã nhận từ cùng nguồn - cho nên nguồn này sẽ bị yếu đi dù kết quả là bất kì cái gì. Nhưng nếu ham muốn biến mất ngay lúc ban đầu, không có bất kì xung đột nào - nhớ lấy, điều này là căn bản - không có bất kì tranh đấu nào, chỉ với cái nhìn, thậm chí không phải là cái nhìn đối kháng, thậm chí không có tâm trí phá huỷ, không thù địch, chỉ là cái nhìn toàn bộ, trong sự mãnh liệt của cái nhìn toàn bộ đó, hạt mầm bị thiêu cháy. Và khi ham muốn, ham muốn đang nảy sinh, biến mất, giống như khói trên trời, bạn được bỏ lại với năng lượng vô cùng - chính năng lượng đó là phúc lạc. Điều đó sẽ cho bạn cái đẹp của riêng nó, sự duyên dáng.
Cái gọi là các thánh nhân những người đang tranh đấu với ham muốn của họ bao giờ cũng là xấu. Khi tôi nói xấu, tôi ngụ ý họ bao giờ cũng kém cỏi, tranh đấu. Toàn thể nhân cách của họ trở thành phi duyên dáng. Và họ bao giờ cũng yếu, bao giờ cũng thiếu năng lượng, vì mọi năng lượng của họ bị dùng hết trong tranh đấu bên trong. Vị Phật là khác toàn bộ. Và duyên dáng đã tới cho nhân cách của Phật là duyên dáng của việc biến mất ham muốn mà không có bất kì vật lộn hay tranh đấu nào, không có bất kì bạo hành bên trong nào.
Với toàn thể tâm thức của ông trong chính cái bắt đầu của ham muốn, về việc biết, biết. Trong chính khoảnh khắc đó đơn giản biết, nhìn, thấy. Không làm bất kì cái gì. Không cái gì khác được cần. Mọi điều được cần là ở chỗ toàn bộ sự hiện hữu của bạn phải hiện diện ở đó. Sự hiện diện toàn bộ của bạn được cần. Đây là một trong những bí mật của việc đạt tới chứng ngộ tối thượng mà không có bất kì bạo hành nào. Và nhớ, bạn không thể đi vào vương quốc của Thượng đế bằng bạo hành. Không, những cánh cửa đó sẽ không bao giờ mở ra cho bạn, dù bạn gõ thế nào. Gõ và liên tục gõ đi. Bạn có thể đập đầu bạn nhưng những cửa đó sẽ không bao giờ mở. Nhưng với những người ở sâu bên trong là bất bạo hành và không tranh đấu với bất kì cái gì, những cửa đó bao giờ cũng mở, chúng không bao giờ đóng. Jesus nói, "Gõ và cửa sẽ được mở ra cho ông." Tôi nói với bạn rằng không có nhu cầu ngay cả gõ. Nhìn đi, cửa là mở đấy. Chúng bao giờ cũng mở.
Chúng không bao giờ đóng. Chỉ lấy cái nhìn sâu, toàn bộ, toàn thể là đủ.
Kĩ thuật thứ ba:
O shakti, từng cảm nhận đặc biệt bị giới hạn,
biến mất trong toàn quyền.
Bất kì cái gì chúng ta thấy đều bị giới hạn, bất kì cái gì chúng ta cảm đều bị giới hạn, mọi cảm nhận đều bị giới hạn. Nhưng nếu bạn có thể trở nên nhận biết, thế thì mọi thứ bị giới hạn đang biến mất vào trong cái vô giới hạn. Nhìn lên trời mà xem. Bạn sẽ thấy một phần giới hạn của nó, không phải bởi vì bầu trời bị giới hạn những bởi vì mắt bạn bị giới hạn, sự hội tụ của bạn bị giới hạn. Nhưng nếu bạn có thể trở nên nhận biết rằng giới hạn này là vì sự hội tụ, vì mắt, không phải là bầu trời bị giới hạn, thế thì bạn sẽ thấy các biên giới tan chảy vào trong cái vô giới hạn. Bằng không sự tồn tại là vô giới hạn, bằng không mọi thứ đang tan chảy vào trong cái gì đó khác. Mọi thứ đang mất đi biên giới của nó, mọi khoảnh khắc sóng đang biến mất vào trong đại dương - và không có tận cùng cho bất kì cái gì và không có bắt đầu. Mọi thứ cũng là mọi thứ khác.
Giới hạn bị áp đặt bởi chúng ta. Nó là vì chúng ta, vì chúng ta không thể thấy được cái vô hạn, rằng chúng ta phân chia nó. Chúng ta đã làm điều đó trong mọi thứ. Bạn làm ra hàng rào quanh nhà bạn và bạn nói, "Mảnh đất này thuộc về tôi và bên ngoài hàng rào là đất của ai đó khác." Nhưng sâu bên dưới đất của bạn và đất của nhà hàng xóm của bạn là một. Hàng rào chỉ là vì bạn. Đất không bị phân chia, hàng xóm và bạn bị phân chia - vì tâm trí của bạn.
Các quốc gia bị phân chia vì tâm trí của bạn. Đâu đó Ấn Độ kết thúc và Pakistan bắt đầu, nhưng chỉ vài năm trước Ấn Độ đã là chỗ mà Pakistan bây giờ hiện hữu. Vào thời đó Ấn Độ đã trải liên tục tới các giới hạn của Pakistan, các giới hạn thời nay. Nhưng bây giờ Pakistan bị phân chia ra, có rào chắn. Nhưng đất vẫn còn là như vậy.
Tôi đã nghe một câu chuyện mà đã xảy ra khi Ấn Độ và Pakistan bị phân chia. Có một nhà thương điên, nơi giữ những người điên, ngay trên đường biên giới của Ấn Độ và Pakistan. Các chính khách không lo nghĩ gì mấy về nhà thương điên đi đâu, sang Pakistan hay sang Ấn Độ, nhưng ông phụ trách nhà thương rất lo nghĩ. Thế là ông ấy hỏi nhà thương điên sẽ là ở đâu, liệu nó sẽ ở trong Ấn Độ hay trong Pakistan. Ai đó từ Delhi thông báo cho ông ấy rằng ông ấy nên hỏi người bị giam giữ, người điên, và lấy phiếu bầu cho nơi họ muốn sang.
Ông phụ trách này là người duy nhất không bị điên và ông ấy cố gắng giải thích. Ông ấy tập hợp tất cả mọi người lại và nói với họ, "Bây giờ điều đó là tuỳ ở các anh, bất kì chỗ nào các anh muốn, các anh có thể đi. Nếu các anh muốn đi sang Ấn Độ, các anh có thể đi sang Ấn độ. Nếu các anh muốn đi sang Pakistan, các anh có thể đi sang Pakistan." Nhưng người điên nói, "Chúng tôi muốn vẫn còn ở đây. Chúng tôi không muốn đi bất kì chỗ nào." Ông ấy cố và cố giải thích. Ông ấy nói, "Các bạn sẽ vẫn còn ở đây. Đừng lo nghĩ về điều đó. Các bạn sẽ vẫn còn ở đây, nhưng các bạn muốn đi đâu?" Những người điên đó nói, "Mọi người bảo chúng tôi là điên, nhưng ông có vẻ điên hơn. Ông nói ông sẽ vẫn còn ở đây, và chúng tôi sẽ vẫn còn ở đây, cho nên sao phải lo nghĩ về việc đi tới bất kì chỗ nào?" Ông phụ trách đâm ra lúng túng làm sao giải thích được toàn thể sự việc.
Chỉ có một cách. Ông ấy dựng lên một bức tường, và chia nhà thương thành hai phần ngang nhau. Một phần trở thành Ấn Độ, phần kia trở thành Pakistan. Và tương truyền rằng đôi khi người điên từ nhà thương điên Pakistan trèo qua tường, và người điên từ Ấn Độ họ cũng nhảy qua tường, và họ vẫn bị lẫn lộn nhiều về cái gì đang xảy ra. "Chúng ta đang ở trong cùng một chỗ, và ông đã đi sang Pakistan, và chúng tôi đã đi sang Ấn Độ, và không ai đã đi bất kì chỗ nào!"
Những người điên đó nhất định là lúng túng, họ sẽ không bao giờ có khả năng hiểu, vì ở Delhi và Karachi có những người điên to hơn.
Chúng ta liên tục phân chia. Sự sống, sự tồn tại, là không bị phân chia. Mọi đường ranh giới đều do con người tạo ra. Chúng là hữu dụng, nếu bạn không phát điên về chúng, và nếu bạn biết rằng chúng chỉ là thứ nhân tạo, người làm ra, tiện dụng, không là thực, không đúng, rằng chúng chỉ là huyền thoại, rằng chúng giúp đỡ nhưng chúng không đi sâu hơn chút nào.
O shakti, từng cảm nhận đặc biệt bị giới hạn, biến mất trong toàn quyền. Cho nên, bất kì khi nào bạn thấy bất kì cái gì bị giới hạn, bao giờ cũng nhớ rằng bên ngoài giới hạn này nó đang biến mất, giới hạn đang biến mất. Bao giờ cũng nhìn ra ngoài và ra ngoài.
Điều này bạn có thể làm thành thiền. Chỉ ngồi dưới cây và nhìn, và bất kì cái gì tới trong cái nhìn của bạn, đi ra ngoài, nhìn ra ngoài, và không dừng lại ở bất kì chỗ nào. Tìm chỗ cây này đang tan chảy. Cây này, cây nhỏ này ngay trong vườn của bạn, có toàn thể sự tồn tại ở trong nó. Nó đang tan chảy mọi khoảnh khắc. Nếu mặt trời không lên ngày mai cây này sẽ chết, vì sự sống của cây này được gắn cùng với sự sống của mặt trời. Khoảng cách giữa chúng là rất xa - để cho tia sáng mặt trời đạt tới trái đất, cần mất thời gian, thời gian quãng 10 phút. Thời gian quãng mười phút là rất dài, vì ánh sáng du hành với tốc độ rất nhanh, vô cùng. Ánh sáng đi ba trăm nghìn ki lô mét một giây và phải mất tám phút để ánh sáng tới cây này từ mặt trời. Khoảng cách là mênh mông, bao la. Nhưng nếu mặt trời không còn đó, cây sẽ lập tức biến mất. Chúng tồn tại cùng nhau. Cây đang tan chảy mọi khoảnh khắc vào trong mặt trời và mặt trời đang tan chảy vào trong cây. Mọi khoảnh khắc mặt trời đang đi vào trong cây, làm cho nó sống động... Những điều khác còn chưa được khoa học biết tới, nhưng tôn giáo nói điều khác đó cũng đang xảy ra - vì trong sống không cái gì có thể tồn tại mà không đáp ứng. Nếu mặt trời đang cho sự sống cho cho cây, cây phải đang cho lại sự sống cho mặt trời, vì trong sống bao giờ cũng có đáp ứng. Và năng lượng cân bằng. Cây phải đang cho mặt trời sự sống. Chúng là một. Thế thì cây đã biến mất, giới hạn đã biến mất.
Bất kì khi nào bạn nhìn, tìm cõi bên kia và đừng dừng lại ở bất kì chỗ nào. Đi tiếp và tiếp nữa, cho tới khi bạn làm mất tâm trí của bạn, cho tới khi bạn làm mất mọi hình mẫu giới hạn của bạn. Đột nhiên bạn sẽ được chiếu sáng. Toàn thể sự tồn tại là một. Tính một đó là mục đích. Và đột nhiên tâm trí bị mệt mỏi với hình mẫu, giới hạn, biên giới - và khi bạn khăng khăng đi ra ngoài, khi bạn liên tục kéo nó ra ngoài và ra ngoài, tâm trí tụt ra, đột nhiên nó bị rơi mất, và bạn nhìn vào sự tồn tại như tính một bao la, mọi thứ tan chảy vào lẫn nhau, mọi thứ thay đổi thành thứ khác.
O shakti, từng cảm nhận đặc biệt bị giới hạn, biến mất trong toàn quyền. Bạn có thể làm ra thiền từ nó. Ngồi trong một giờ và làm việc với nó. Không tạo ra bất kì giới hạn ở bất kì đâu. Dù giới hạn là bất kì cái gì chỉ cố tìm ra cõi bên kia, và di chuyển và liên tục di chuyển. Tâm trí sớm trở nên mệt mỏi vì tâm trí không thể xử trí được với cái vô giới hạn. Chỉ với cái bị giới hạn nó mới có thể được quan hệ. Với cái vô giới hạn, nó không thể có quan hệ: nó phát chán, nó phát mệt, nó nói, "Đủ rồi, giờ dừng lại!" Nhưng đừng dừng lại, tiếp tục di chuyển. Một khoảnh khắc sẽ tới khi tâm trí bị bỏ lại đằng sau và chỉ tâm thức di chuyển. Trong khoảnh khắc đó bạn sẽ có việc chiếu sáng của cái một, của bất nhị. Đó là mục đích. Đó là đỉnh tâm thức cao nhất. Và đó là cực lạc lớn nhất có thể có cho tâm trí con người, và là phúc lạc sâu nhất.
Kĩ thuật thứ tư:
Trong chân lí hình dạng là không tách rời.
Không tách rời là hiện diện khắp nơi và hình dạng riêng của ông. Nhận ra từng
hình dạng như được làm bằng tâm thức này.
Trong chân lí hình dạng là không tách rời. Chúng dường như tách rời, nhưng mọi hình dạng được nối với hình dạng khác. Thực tại của chúng ta là đồng tồn tại. Nó thực sự là liên thực tại, liên tính chủ thể. Chẳng hạn, nghĩ về bản thân bạn một mình trên trái đất này. Bạn sẽ là cái gì? Toàn thể nhân loại đã biến mất, bạn bị bỏ lại một mình sau thế chiến thứ ba, một mình trên thế giới, một mình trên trái đất lớn này. Bạn sẽ là ai?
Điều đầu tiên là ở chỗ không thể nào quan niệm được bản thân bạn một mình. Không thể quan niệm được, tôi nói, bản thân bạn một mình. Bạn sẽ cố và cố và bạn sẽ thấy rằng ai đó đang đứng đó - vợ bạn, con bạn, bạn bè của bạn - vì bạn không thể tồn tại một mình được, ngay cả trong tưởng tượng. Bạn tồn tại cùng người khác. Họ cho bạn sự tồn tại. Họ đóng góp. Bạn đóng góp cho họ và họ đóng góp cho bạn.
Bạn sẽ là ai? Bạn sẽ là người tốt hay người xấu? Không cái gì có thể được nói, vì tốt và xấu tồn tại trong quan hệ. Bạn sẽ là đẹp hay xấu? Không cái gì có thể được nói. Bạn sẽ là đàn ông hay đàn bà? Không cái gì có thể được nói, vì dù bạn là bất kì cái gì, bạn có quan hệ với ai đó khác. Bạn sẽ khôn hay ngu? Dần dần bạn sẽ thấy rằng mọi hình dạng đã biến mất. Và với những hình dạng khác này đã biến mất, mọi hình dạng bên trong bạn cũng đã biến mất. Bạn không ngu không khôn, không tốt không xấu, không xấu không đẹp, không đàn ông không đàn bà. Thế thì bạn sẽ là gì? Nếu bạn liên tục loại bỏ mọi hình dạng, bạn sẽ sớm nhận ra rằng chỉ hư không còn lại. Chúng ta thấy các hình dạng như tách rời, nhưng chúng không phải vậy. Mọi hình dạng đều được móc nối với các hình dạng khác. Hình dạng tồn tại trong hình mẫu.
Kinh này nói, Trong chân lí hình dạng là không tách rời. Không tách rời là hiện hữu khắp nơi và hình dạng riêng của ông. Ngay cả hình dạng của bạn và hình dạng của toàn thể sự tồn tại là không tách rời. Bạn là một với nó. Bạn không thể hiện hữu mà không có nó. Và điều khác cũng là đúng nhưng khó quan niệm: vũ trụ không thể hiện hữu mà không có bạn. Vũ trụ không thể hiện hữu mà không có bạn cũng như bạn không thể hiện hữu mà không có vũ trụ. Bạn bao giờ cũng đã từng tồn tại trong nhiều, nhiều hình dạng và bạn bao giờ cũng sẽ tồn tại trong nhiều, nhiều hình dạng. Nhưng bạn sẽ có đó. Bạn là một phần bản chất của vũ trụ này. Bạn không xa lạ, bạn không là người lạ với nó, bạn không là người ngoài. Bạn là người trong, phần bản chất. Và vũ trụ không thể đảm đương được việc mất bạn vì nếu nó mất bạn, nó sẽ mất bản thân nó. Hình dạng là không tách rời, chúng là không tách rời. Chúng là một. Chỉ dáng vẻ cho sự phân ranh giới và các biên giới. Điều này có thể trở thành việc nhận ra nếu bạn suy tư về nó, xuyên thấu vào nó; nó trở thành việc nhận ra, không phải là học thuyết, không phải là ý nghĩ, mà là việc nhận ra rằng, "Đúng, mình là một với vũ trụ và vũ trụ là một với mình."
Đây là điều Jesus đã nói cho người Do Thái. Nhưng họ cảm thấy bị xúc phạm vì Jesus đã nói, "Ta và cha ta trên trời là một." Người Do Thái cảm thấy bị xúc phạm. Ông ấy đã tuyên bố cái gì? Ông ấy đã tuyên bố rằng ông ấy và Thượng đế là một sao? Điều này là báng bổ. Ông ấy phải bị trừng phạt. Nhưng ông ấy đơn giản dạy một kĩ thuật, không gì khác. Ông ấy đơn giản dạy một kĩ thuật rằng các hình dạng là không tách rời, rằng bạn và cái toàn thể là một - "Ta và cha ta trên trời là một." Nhưng đây không phải là lời tuyên bố, đây chỉ là một kĩ thuật được gợi ý. Và khi Jesus nói, "Ta và cha ta là một," ông ấy không ngụ ý rằng bạn và cha và điều Thiêng liêng là tách rời. Khi ông ấy nói 'ta', mọi cái 'tôi' được đại diện. Bất kì khi nào 'tôi' tồn tại, cái 'tôi' đó và điều Thiêng liêng là một. Nhưng điều đó có thể bị hiểu lầm, và cả người Do Thái và người Ki tô giáo đã hiểu lầm. Ngay cả người Ki tô giáo cũng đã hiểu lầm, vì họ nói ông ấy là đứa con duy nhất của Thượng đế, đứa con duy nhất, cho nên không người nào khác có thể tuyên bố rằng mình cũng là con của Thượng đế.
Tôi đã đọc một cuốn sách rất khôi hài. Nhan đề là Ba Christs. Trong một nhà thương điên, có ba người đàn ông, và cả ba người đều tuyên bố rằng họ là Christ. Đây là sự kiện thực tại chứ không là câu chuyện. Cho nên một nhà phân tâm đã nghiên cứu cả ba người này. Thế rồi một ý nghĩ tới với tâm trí ông ấy rằng chắc sẽ rất buồn cười để cho họ giới thiệu với nhau để xem cái gì sẽ xảy ra - họ sẽ giới thiệu bản thân họ thế nào và phản ứng của họ sẽ là gì. Cho nên ông ấy đã mang cả ba lại cùng nhau và để họ trong một phòng để giới thiệu bản thân bọ. Người thứ nhất nói, "Ta là đứa con duy nhất đây, Jesus Christ." Người khác cười và trong tâm trí mình ông ta nghĩ ông này chắc phải điên! Ông ta nói, "Làm sao ông có thể là vậy được? Ta mới là Jesus Christ. Ông cũng là một phần của cái toàn thể đó. Một mảnh của tâm thức đó cũng là trong ông. Nhưng Jesus Christ, đứa con duy nhất của Thượng đế - ta mới là điều đó."
Người thứ ba nghĩ rằng cả hai người này đều ngu xuẩn, rằng cả hai người này đã phát điên. Ông ta nói, "Các ông nói về cái gì vậy? Nhìn tôi đây. Con của Thượng đế ở đây."
Thế rồi nhà phân tâm hỏi họ một cách riêng biệt, "Phản ứng của ông là gì?" Tất cả họ đều nói, "Cả hai người kia điên. Hai người kia đã phát rồ."
Và điều này không chỉ là hoàn cảnh cho người điên. Nếu bạn hỏi người Ki tô giáo họ nghĩ gì về Krishna, vì ông ấy đã tuyên bố rằng ông ấy là Thượng đế, họ sẽ nói rằng chỉ có một, một xuyên thấu của cõi bên kia, và đó là Jesus Christ. Tại chỉ một thời điểm trong lịch sử Thượng đế đã xuyên thấu vào trong thế giới, và đó là với Jesus Christ. Krishna là tốt, người vĩ đại nhưng không là điều Thiêng liêng, không là bản thân Thượng đế.
Nếu bạn hỏi người Hindus, họ sẽ cười Jesus. Cùng tính điên tiếp diễn, và thực tại là ở chỗ mọi người đều là đứa con duy nhất của Thượng đế - mọi người. Bằng không thì không thể được. Bạn tới từ cùng cội nguồn, dù bạn là Jesus hay Krishna hay A, B, C, bất kì người nào hay bất kì ai, bạn tới từ cùng cội nguồn. Và mọi cái 'tôi', mọi tâm thức, lập tức có quan hệ với điều Thiêng liêng. Jesus đã cho chỉ kĩ thuật. Ông ấy đã bị hiểu lầm.
Kĩ thuật này là cùng một điều đó. Trong chân lí hình dạng là không tách rời. Không tách rời là hiện hữu khắp nơi và hình dạng riêng của ông. Nhận ra từng hình dạng như được làm từ tâm thức này. Không chỉ nhận ra rằng bạn được làm từ tâm thức này, nhận ra rằng mọi thứ quanh bạn được làm từ tâm thức này. Vì rất dễ nhận ra rằng bạn được làm từ tâm thức này, nó có thể cho bạn cảm giác rất bản ngã, nó có thể là việc đáp ứng sâu cho bản ngã. Nhưng nhận ra rằng người khác cũng là vậy, thế thì nó trở thành tính khiêm tốn. Khi mọi thứ là Thiêng liêng bạn không thể có bất kì tâm trí bản ngã nào. Khi mọi thứ là Thiêng liêng, bạn là khiêm tốn. Thế thì không có vấn đề về việc là ai đó của bạn, hay là cái gì đó bên trên, thế thì toàn thể sự tồn tại là Thiêng liêng, và bất kì chỗ nào bạn nhìn, bạn nhìn vào điều Thiêng liêng. Người nhìn và cái được nhìn cả hai là Thiêng liêng vì các hình dạng là không tách rời. Bên dưới mọi hình dạng được ẩn kín cái một vô hình dạng.
Xem tiếp Chương 76 - Quay về Mục lục Tập 4 - Quay về Mục lục Toàn tập
..............................
0 Đánh giá