Chương 77. Trở thành từng người

Chương 77. Trở thành từng người

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 4 - Osho

Sách về các Bí mật: Bình luận mới

Chương 77. Trở thành từng người


Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông.

Vậy rồi, bỏ sang bên mối quan tâm về cái ngã, trở thành từng người.

Tâm thức này tồn tại như từng người, và không cái gì khác tồn tại.

Tâm thức này là linh hồn hướng dẫn của từng người. Là người này.

Sự tồn tại như nó vậy là một. Vấn đề của con người nảy sinh vì việc tự ý thức của con người. Ý thức cho mọi người việc cảm thấy rằng họ là tách rời, và việc cảm thấy rằng bạn là tách rời khỏi sự tồn tại tạo ra mọi vấn đề. Về căn bản việc cảm này là giả, và bất kì cái gì dựa trên tính giả sẽ tạo ra phiền não, sẽ tạo ra vấn đề, sẽ tạo ra lẫn lộn. Và bất kì cái gì bạn làm, nếu nó dựa trên sự tách rời giả này, nó sẽ sai.

Cho nên từ chính lúc bắt đầu, vấn đề phiền não của con người phải được thảo luận: nó nảy sinh thế nào? Ý thức cho bạn cảm giác rằng bạn là trung tâm của hiện hữu của bạn, và ý thức làm cho bạn nhận biết rằng người khác là ‘người khác’, rằng bạn là khác với họ. Khác biệt này chỉ là vì bạn có ý thức. Khi bạn ngủ không có khác biệt - bạn lại được hội nhập với vũ trụ. Do đó nhiều phúc lạc thế bắt nguồn từ ngủ. Buổi sáng bạn cảm thấy được làm tươi tắn, được làm khoẻ lại, lại sống động, tươi mát.

Cái gì xảy ra trong ngủ say? Bạn làm mất bản ngã của bạn, bạn làm mất bản thân bạn, bạn rơi vào trong sự thống nhất với vũ trụ. Việc rơi trở lại đó vào trong sự thống nhất làm cho bạn thành tươi tắn và sống động, và buổi sáng bạn cảm thấy phúc lạc. Mọi phiền não biến mất; mọi xung đột, mọi rối loạn biến mất; mọi sợ, mọi chết biến mất - vì chết là có thể chỉ nếu bạn là tách rời. Nếu bạn không tách rời, thế thì chết là không thể được. Ai sẽ chết nếu bạn không tách rời? Ai có thể khổ nếu bạn không tách rời? Cho nên mọi Mật tông, yoga và những phương pháp thiền khác chỉ để làm cho bạn nhận biết rằng việc tách rời là giả và không tách rời là thực. Và nếu bạn có thể trở nên nhận biết rằng bạn sẽ là khác biệt toàn bộ, vì trung tâm sẽ biến mất khỏi bạn và nó sẽ lấy chỗ đúng của nó trong vũ trụ. Bạn sẽ chỉ là con sóng trên đại dương bao la này. Bạn sẽ không tách rời cho nên bạn sẽ không sợ. Bạn sẽ không cảm thấy bất an ninh. Bạn sẽ không cảm thấy phiền não của việc tiến tới cái chết và triệt tiêu. Mọi thứ biến mất cùng bản ngã.

Người Hindu bao giờ cũng tin rằng samadhi là ngủ có ý thức. Trong ngủ điều tự động xảy ra là bạn không hiện hữu. Sự tồn tại hiện hữu, và bạn không hiện hữu nữa; nhưng bạn là vô thức sâu cho nên bạn không biết cái gì đang xảy ra. Nếu cùng hiện tượng này có thể xảy ra một cách có ý thức, bạn trở nên chứng ngộ. Phật đi tới cùng cội nguồn, tới cùng cội nguồn mà bạn đi mọi đêm trong giấc ngủ say, trong giấc ngủ không mơ. Nhưng Phật đi tới cội nguồn đó một cách có ý thức, tỉnh táo, nhận biết. Ông ấy biết nơi ông ấy đi tới, ông ấy biết cái gì đang xảy ra, và khi ông ấy quay lại từ cội nguồn sâu đó, ông ấy về khác toàn bộ. Người cũ đã biến mất và người mới, năng lượng mới đã nảy sinh ra từ nó. Từ con người này, trung tâm là vũ trụ; và với việc chuyển trung tâm này, mọi lo nghĩ của bạn, mọi phiền não, mọi địa ngục của bạn biến mất, đơn giản biến mất. Nó không được giải, nó đơn giản không có đó. Nó không thể tồn tại mà không có bản ngã.

Cho nên làm sao là ngủ say có ý thức? Làm sao đi vào trong giấc ngủ một cách có ý thức? Làm sao vẫn còn tỉnh táo trong khi bạn làm mất bản ngã? Bản ngã là sản phẩm phụ, sản phẩm phụ của toàn thể việc giáo dưỡng của bạn, sản phẩm phụ của tiến trình sống tự nhiên. Nó phải có đó. Không có cách khác. Không người nào có thể tiến hoá mà không có sự tham gia của bản ngã. Nhưng một điểm tới khi bản ngã có thể bị bỏ đi và nên được bỏ đi, và con người phải siêu việt trên nó.

Bản ngã giống như vỏ trứng. Nó được cần tới, nó bảo vệ. Cũng như vỏ hạt mầm, nó được cần, nó bảo vệ. Nhưng việc bảo vệ có thể trở thành nguy hiểm nữa, nếu nó bảo vệ quá nhiều. Nếu nó liên tục bảo vệ và không cho phép hạt mầm đâm chồi, thế thì nó trở thành cản trở. Nó phải tan biến trong đất để cho sự sống bên trong tiến hoá ra khỏi nó. Nó phải chết.

Hạt mầm phải chết. Mọi con người được sinh ra như hạt mầm. Bản ngã là việc che phủ bên ngoài; nó bảo vệ đứa trẻ. Nếu đứa trẻ được sinh ra không có bản ngã, không có việc cảm rằng "Mình tồn tại", nó không thể sống sót. Nó sẽ không có khả năng bảo vệ bản thân nó, nó sẽ không có khả năng vật lộn, nó sẽ không có khả năng the bất kì cách nào để tồn tại. Nó cần một trung tâm mạnh. Cho dù trung tâm đó là giả, điều đó được cần tới. Nhưng một khoảnh khắc tới khi việc giúp đỡ này trở thành cản trở. Nó bảo vệ bạn từ bên ngoài, nhưng nó trở thành mạnh tới mức nó sẽ không cho phép bạn, con người bên trong, lan toả ra, đi ra ngoài nó, đâm chồi. Cho nên bản ngã được cần tới - và thế rồi việc siêu việt trên bản ngã được cần tới.

Nếu ai đó chết đi cùng bản ngã, người đó đã chết đi như hạt mầm. Người đó đã chết đi mà không thực sự đạt tới định mệnh mà đã là có thể, mà không đạt tới sự tồn tại có ý thức. Những kĩ thuật này dành cho cách phá huỷ hạt mầm này.

Kĩ thuật thứ nhất:

Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông.

Vậy rồi, bỏ sang bên mối quan tâm về cái ngã, trở thành từng người.

Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Trong thực tại nó là vậy, nhưng điều đó không được cảm thấy là vậy. Bạn cảm thấy tâm thức của bạn là của bạn, và tâm thức của người khác bạn không bao giờ cảm thấy. Nhiều nhất bạn suy diễn rằng người khác cũng có tâm thức. Bạn suy diễn vì bạn nghĩ rằng vì bạn có tâm thức, người khác giống bạn phải có tâm thức. Đây là suy diễn logic; bạn không cảm thấy họ là có tâm thức. Điều đó giống như khi bạn bị đau đầu bạn cảm thấy đau đầu, bạn có ý thức về nó. Nhưng nếu ai đó khác bị đau đầu, bạn suy diễn - bạn không thể cảm thấy đau đầu của người khác. Bạn đơn giản suy diễn rằng bất kì cái gì người đó nói đều phải đúng và người đó phải có cái gì đó giống bạn. Nhưng bạn không thể cảm được nó.

Việc cảm chỉ có thể tới nếu bạn trở nên ý thức về tâm thức của người khác - bằng không nó là suy diễn logic. Bạn tin, bạn tin cậy, rằng người khác đang nói cái gì đó một cách trung thực, và bất kì cái gì họ nói đều đáng tin vì bạn cũng có kiểu kinh nghiệm tương tự.

Có một trường phái logic nói rằng không cái gì có thể được biết về người khác, điều đó là không thể được. Nhiều nhất có thể có suy diễn nhưng không cái gì chắc chắn có thể được biết về người khác. Làm sao bạn có thể biết rằng người khác có đau như bạn, rằng người khác có lo âu như bạn? Người khác có đó nhưng chúng ta không thể xuyên thấu vào họ, chúng ta chỉ có thể chạm vào mặt ngoài của họ. Con người bên trong của họ vẫn còn không được biết tới. Chúng ta vẫn còn bị đóng trong bản thân chúng ta.

Thế giới quanh chúng ta không phải là thế giới được cảm thấy, nó chỉ là được suy diễn - một cách logic, một cách hợp lí. Tâm trí nói nó có đó nhưng tâm không được nó chạm tới. Đó là lí do tại sao chúng ta cư xử với người khác dường như họ là đồ vật không phải người. Mối quan hệ của chúng ta với con người cũng dường như là với đồ vật. Chồng cư xử hướng tới vợ mình dường như cô ấy là đồ vật: anh ta sở hữu cô ta. Vợ sở hữu chồng giống như đồ vật. Nếu chúng ta cư xử với người khác dường như họ là người thế thì chúng ta chắc sẽ không cố sở hữu họ, vì chỉ đồ vật có thể bị sở hữu.

Người ngụ ý tự do. Người không thể bị sở hữu. Nếu bạn cố sở hữu họ, bạn sẽ giết họ, họ sẽ trở thành đồ vật. Mối quan hệ của chúng ta với người khác thực sự không phải là mối quan hệ 'tôi-bạn', sâu bên dưới nó chỉ là mối quan hệ 'tôi-nó'. Người khác chỉ là đồ vật để bị thao túng, để được dùng, bị khai thác. Đó là lí do tại sao yêu trở thành ngày càng không thể được, vì yêu ngụ ý coi người khác như con người, như người có tâm thức, như sự tự do, như cái gì đó có giá trị như bạn vậy.

Nếu bạn cư xử dường như mọi thứ là đồ vật, thế thì bạn là trung tâm và đồ vật chỉ để được dùng. Mối quan hệ trở thành tiện dụng. Mọi thứ không có giá trị trong bản thân chúng - giá trị là cái bạn có thể dùng chúng, chúng tồn tại cho bạn. Bạn có thể có quan hệ với nhà của bạn - nhà tồn tại vì bạn. Nó là một tiện ích. Xe tồn tại vì bạn, nhưng vợ không tồn tại cho bạn và chồng không tồn tại cho bạn. Chồng tồn tại cho bản thân anh ấy và vợ tồn tại cho bản thân cô ấy. Người tồn tại cho bản thân người đó; đó là điều việc là người ngụ ý gì. Và nếu bạn cho phép người là người và không thu người đó thành là đồ vật, bạn sẽ dần dần cảm thấy người đó. Bằng không bạn không thể cảm được. Mối quan hệ của bạn sẽ vẫn còn là quan niệm, trí tuệ, tâm trí sang tâm trí, đầu sang đầu - nhưng không tâm sang tâm.

Kĩ thuật này nói, Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Điều này sẽ là khó vì đầu tiên bạn phải cảm người này như là một người, như người có tâm thức. Ngay cả điều đó là khó.

Jesus nói, "Yêu hàng xóm của ông như ông yêu bản thân ông." Đây là cùng một điều - nhưng người khác trước hết phải trở thành người đối với bạn. Người đó phải tồn tại theo quyền riêng của người đó, không bị khai thác, thao túng, sử dụng, không như phương tiện mà là mục đích trong bản thân người đó. Trước hết, người khác phải trở thành người; người khác phải trở thành một 'người', có giá trị như bạn vậy. Chỉ thế thì kĩ thuật này có thể được áp dụng. Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Trước hết cảm thấy rằng người khác là có tâm thức, và thế thì điều này có thể xảy ra - bạn có thể cảm thấy rằng người khác có cùng tâm thức như bạn có. Thực sự, 'người khác' biến mất, chỉ tâm thức tuôn chảy giữa bạn và người đó. Các bạn trở thành hai cực của một tâm thức tuôn chảy, của một dòng chảy.

Trong yêu sâu điều xảy ra là hai người không còn là hai. Cái gì đó giữa hai người đã đi vào hiện hữu và họ đã chỉ trở thành hai cực. Cái gì đó đang tuôn chảy giữa hai cực. Khi dòng chảy này có đó bạn sẽ cảm thấy phúc lạc. Nếu yêu cho phúc lạc, nó cho phúc lạc chỉ bởi vì điều này: rằng hai người, chỉ trong một khoảnh khắc, mất đi bản ngã của họ - 'người kia' bị mất đi và tính một đi vào hiện hữu chỉ trong một khoảnh khắc. Nếu nó xảy ra, nó là cực lạc, nó là phúc lạc, bạn đã đi vào thiên đường. Chỉ một khoảnh khắc, và nó có thể là việc biến đổi.

Kĩ thuật này nói rằng bạn có thể làm điều này với mọi người. Trong yêu bạn có thể làm nó với một người, nhưng trong thiền bạn phải làm nó với mọi người. Bất kì ai tới gần bạn, đơn giản tan biến vào trong người đó và cảm thấy rằng các bạn không phải là hai mạng sống, mà là một mạng sống, tuôn chảy. Đây chỉ là thay đổi động thái. Một khi bạn biết cách thức, một khi bạn đã làm nó, nó rất dễ. Lúc ban đầu nó dường như là không thể được vì chúng ta bị mắc kẹt thế trong bản ngã riêng của chúng ta. Khó làm mất nó, khó trở thành dòng chảy. Cho nên sẽ là tốt nếu lúc ban đầu bạn thử với cái gì đó mà bạn không rất hoảng hay sợ.

Bạn sẽ ít sợ cây hơn cho nên nó sẽ dễ dàng hơn. Ngồi gần cây, chỉ cảm thấy cây và cảm thấy rằng bạn đã trở thành một với nó, rằng có dòng chảy bên trong bạn, sự trao đổi, đối thoại, việc tan chảy. Ngồi gần dòng sông chảy chỉ cảm dòng chảy, cảm thấy rằng bạn và sông đã trở thành một. Nằm dưới trời, chỉ cảm thấy rằng bạn và trời đã trở thành một. Lúc ban đầu nó sẽ chỉ là tưởng tượng nhưng dần dần bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đang chạm vào thực tại qua tưởng tượng.

Và thế rồi thử nó với người. Điều này là khó lúc ban đầu vì có sợ. Vì bạn đã từng thu con người thành đồ vật, bạn sợ rằng nếu bạn cho phép người nào đó được thân thiết thế, người đó cũng sẽ thu bạn thành đồ vật. Đó là nỗi sợ. Cho nên không ai cho phép nhiều thân thiết: kẽ hở bao giờ cũng được giữ và bị canh chừng. Quá nhiều gần gũi là nguy hiểm vì người kia có thể biến cải bạn thành đồ vật, người đó có thể cố sở hữu bạn. Đó là nỗi sợ. Bạn đang cố biến cải người khác thành đồ vật, và người khác đang cố biến cải bạn - và không ai muốn là đồ vật, không ai muốn trở thành phương tiện, không ai muốn bị dùng. Bị thu lại thành phương tiện cho cái gì đó là hiện tượng làm giảm giá trị nhất, không có giá trị trong bản thân bạn. Nhưng mọi người đều cố. Vì điều này có nỗi sợ sâu sắc và sẽ khó bắt đầu kĩ thuật này với người.

Cho nên bắt đầu với sông, với núi, với sao, với trời, với cây đi. Một khi bạn đi tới biết việc cảm về điều xảy ra khi bạn trở thành một với cây; một khi bạn đi tới biết bạn trở thành phúc lạc thế nào khi bạn trở thành một với sông, làm sao không mất bất kì cái gì bạn thu được toàn thể sự tồn tại - thế thì bạn có thể thử nó với người. Và nếu nó là phúc lạc thế với cây, với sông, bạn không thể tưởng tượng được nó sẽ phúc lạc nhiều thế nào với người, vì người là hiện tượng cao hơn, sinh linh tiến hoá cao hơn. Qua người bạn có thể đạt tới những đỉnh kinh nghiệm cao hơn. Nếu bạn có thể trở thành cực lạc với ngay cả tảng đá, với người bạn có thể cảm thấy cực lạc Thiêng liêng xảy ra cho bạn.

Nhưng bắt đầu với cái gì đó mà bạn không sợ mấy, hay, nếu có người bạn yêu, người bạn, người được yêu, người yêu, người mà bạn không sợ, người mà bạn có thể thực sự thân thiết và gần gũi mà không sợ gì, người mà bạn có thể làm mất bản thân bạn mà không bị hoảng sợ sâu bên dưới rằng người đó có thể biến bạn thành đồ vật - nếu bạn có người nào đó như thế, thế thì thử kĩ thuật này đi. Làm mất bản thân bạn một cách có ý thức trong người đó. Khi bạn làm mất bản thân bạn một cách có ý thức vào trong người nào đó, người nào đó đó sẽ làm mất bản thân người đó trong bạn; khi bạn mở và bạn tuôn chảy trong người khác, người khác bắt đầu tuôn chảy trong bạn và có gặp gỡ sâu sắc, có giao cảm. Hai năng lượng tan chảy trong nhau, Trong trạng thái đó không có bản ngã, không có cá nhân - đơn giản có tâm thức. Và nếu điều này là có thể với một cá nhân, nó là có thể với toàn thể vũ trụ. Điều các thánh nhân đã gọi là cực lạc, samadhi, chỉ là hiện tượng yêu sâu sắc giữa một người và toàn thể vũ trụ.

Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Vậy rồi, bỏ sang bên mối quan tâm về cái ngã, trở thành từng người. Chúng ta bao giờ cũng quan tâm tới cái ngã riêng của mình. Ngay cả khi chúng ta trong yêu, chúng ta quan tâm tới cái ngã riêng của chúng ta, đó là lí do tại sao yêu trở thành khổ. Nó có thể trở thành cõi trời nhưng nó trở thành địa ngục, vì ngay cả những người yêu cũng quan tâm tới cái ngã riêng của họ. Người kia được yêu vì người đó cho bạn hạnh phúc, người kia được yêu vì bạn cảm thấy thoải mái với người đó, nhưng người kia vẫn không được yêu khi người đó là cái gì có giá trị trong bản thân người đó. Giá trị tới qua việc tận hưởng của bạn. Bạn được hài lòng, bạn được thoả mãn theo cách nào đó, đó là lí do tại sao người kia đã trở thành có ý nghĩa. Đây cùng là việc dùng người kia.

Mối quan tâm về cái ngã ngụ ý khai thác người khác. Và tâm thức tôn giáo có thể đi vào trong sự tồn tại chỉ khi mối quan tâm về cái ngã bị mất đi, vì thế thì bạn trở nên không có tính khai thác. Với sự tồn tại mối quan hệ của bạn trở thành một, không của khai thác, nhưng của chia sẻ vô cùng, phúc lạc vô cùng. Bạn không dùng, bạn không bị dùng - nó trở thành mở hội vô cùng của hiện hữu.

Nhưng mối quan tâm về cái ngã phải bị vứt đi... và nó được bắt rễ rất sâu. Nó được bắt rễ sâu tới mức bạn thậm chí không nhận biết về nó. Một trong những cuốn Upanishads có nói rằng chồng yêu vợ mình, không phải vì vợ, mà vì bản thân anh ta; và mẹ yêu con, không phải vì con, mà vì bản thân cô ta. Mối quan tâm về cái ngã được bắt rễ sâu tới mức bất kì cái gì bạn làm, bạn làm vì bản thân bạn. Điều này ngụ ý rằng bạn bao giờ cũng làm hài lòng bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã, nuôi dường trung tâm giả mà đã trở thành rào chắn giữa bạn và vũ trụ.

Làm mất mối quan tâm về bản ngã đi. Nếu cho dù đôi khi, cho dù với vài khoảnh khắc, bạn có thể làm mất mối quan tâm về cái ngã và có thể trở nên quan tâm với người khác, với cái ngã của người khác, bạn sẽ đi vào một thực tại khác, một chiều khác. Do đó có nhiều nhấn mạnh thế vào phụng sự, yêu, từ bi. Vì từ bi, yêu, phụng sự, ngụ ý quan tâm tới cái ngã của người khác, không phải cái ngã riêng của bạn.

Nhưng nhìn đấy... tâm trí con người tinh ranh tới mức nó đã hoán cải phụng sự, từ bi và yêu thành mối quan tâm về cái ngã. Nhà truyền giáo Ki tô giáo phụng sự, và việc phụng sự của ông ấy là chân thành. Thực sự, không người nào khác có thể phụng sự sâu sắc và mãnh liệt thế như nhà truyền giáo Ki tô giáo. Không người Hindu nào có thể làm được điều đó, không người Mô ha mét giáo nào có thể làm được việc đó, vì Jesus đã nhấn mạnh phụng sự nhiều thế. Nhà truyền giáo Ki tô giáo đang phụng sự người nghèo, người ốm, người bệnh, nhưng sâu bên dưới ông ta quan tâm tới bản thân ông ta chứ không tới họ. Phụng sự này chỉ là phương pháp để lên tới cõi trời. Ông ta không quan tâm tới họ, ông ta không thực sự quan tâm tới họ chút nào, ông ta quan tâm tới cái ngã riêng của ông ta. Qua phụng sự ông ta có thể đạt tới cái ngã lớn hơn, cho nên ông ta đang làm việc phụng sự. Nhưng ông ta đã bỏ lỡ điểm cơ bản, vì phụng sự ngụ ý quan tâm tới người khác - người khác là trung tâm và bạn đã trở thành ngoại vi.

Đôi khi thử nó đi. Làm ai đó thành trung tâm - thế thì hạnh phúc của người đó trở thành hạnh phúc của bạn, khổ của người đó trở thành khổ của bạn. Bất kì cái gì xảy ra, xảy ra cho người đó và chảy tới bạn. Nhưng người đó là trung tâm. Nếu một lần, cho dù một lần, bạn có thể cảm thấy rằng người khác là trung tâm và bạn đã trở thành chỉ ngoại vi cho người đó, bạn đã đi vào một kiểu tồn tại khác, một chiều kinh nghiệm khác. Vì trong khoảnh khắc đó bạn sẽ cảm thấy phúc lạc sâu, không biết trước đây, không được trải nghiệm trước đây. Chỉ bằng việc làm cho người khác thành mối quan tâm, bạn sẽ mất mọi khổ. Trong khoảnh khắc đó sẽ không có địa ngục cho bạn; bạn đã đi vào thiên đường.

Tại sao nó xảy ra? Nó xảy ra vì bản ngã là rễ của mọi khổ. Nếu bạn có thể quên nó, nếu bạn có thể làm tan biến nó, mọi khổ tan biến cùng nó.

Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Vậy rồi, bỏ sang bên mối quan tâm về cái ngã, trở thành từng người. Trở thành cây, trở thành sông, trở thành vợ, trở thành chồng, trở thành con, trở thành mẹ, trở thành bạn - điều đó có thể được thực hành trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống. Nhưng trong thời gian đầu nó sẽ khó khăn. Vì vậy hãy làm điều đó ít nhất một giờ mỗi ngày. Trong giờ đó, bất cứ điều gì đi qua xung quanh bạn, hãy trở thành điều đó. Bạn sẽ tự hỏi làm thế nào nó có thể xảy ra. Không có cách nào khác để biết nó có thể xảy ra như thế nào - bạn phải thực hành nó.

Ngồi cùng cây và cảm thấy rằng bạn đã trở thành cây. Và khi gió tới và toàn thể cây bắt đầu rung lên và run rẩy, cảm thấy rằng việc rung và run trong bạn; khi mặt trời mọc và toàn thể cây trở thành sống động, cảm thấy rằng sự sống động ở trong bạn; khi mưa rào tới và toàn thể cây được thoả mãn và hài lòng, cơn khát lâu dài, sự chờ đợi lâu dài đã biến mất và cây hoàn toàn được thoả mãn và hài lòng, cảm thấy được thoả mãn và hài lòng với cây. Và thế thì bạn sẽ trở nên nhận biết về các tâm trạng tinh tế, về các sắc thái của cây.

Bạn đã thấy cây đó trong nhiều năm, nhưng bạn không biết tâm trạng của nó. Đôi khi nó hạnh phúc; đôi khi nó bất hạnh. Đôi khi nó buồn, chết, lo nghĩ, thất vọng; đôi khi nó rất phúc lạc, cực lạc. Có những tâm trạng. Cây sống động và nó cảm. Và nếu bạn trở thành một với nó, thế thì bạn sẽ cảm thấy nó. Thế thì bạn sẽ cảm thấy liệu cây là trẻ hay già; liệu cây bị bất mãn với cuộc sống của nó hay được thoả mãn; liệu cây đang trong yêu với sự tồn tại hay không - là phản đối, chống đối, bực bội, giận dữ; liệu cây là bạo hành hay có từ bi sâu sắc trong nó. Như bạn đang thay đổi mọi khoảnh khắc, cây cũng đang thay đổi - nếu bạn có thể cảm thấy sự đồng cảm sâu sắc với nó, điều họ gọi là thông cảm.

Thông cảm ngụ ý bạn đã trở thành thông cảm tới mức thực sự bạn trở thành một. Các tâm trạng của cây trở thành tâm trạng của bạn. Và thế thì, nếu điều này đi sâu hơn và sâu hơn và sâu hơn, bạn có thể nói, bạn có thể có trao đổi với cây. Một khi bạn biết các tâm trạng của nó bạn bắt đầu hiểu ngôn ngữ của nó, và cây sẽ chia sẻ tâm trí của nó với bạn. Nó sẽ chia sẻ đau đớn và cực lạc của nó.

Và điều này có thể xảy ra với toàn thể vũ trụ.

Trong ít nhất một giờ mỗi ngày cố ở trong thông cảm với cái gì đó. Lúc ban đầu bạn sẽ có vẻ ngu xuẩn với bản thân bạn. Bạn sẽ nghĩ, "Mình đang làm cái loại ngu xuẩn gì vậy?" Bạn sẽ nhìn quanh và bạn sẽ cảm thấy rằng nếu ai đó nhìn hay ai đó thấy hay ai đó đi tới biết, họ sẽ nghĩ bạn đã là dở hơi. Nhưng chỉ lúc ban đầu thôi. Một khi bạn đi vào trong thế giới này của thông cảm, toàn thể thế giới sẽ có vẻ điên với bạn. Họ đang bỏ lỡ nhiều thứ thế một cách không cần thiết. Sống cho trong sự dư thừa thế và họ đang bỏ lỡ nó. Họ đang bỏ lỡ vì họ bị đóng: họ không cho phép sự sống đi vào trong họ. Và sự sống có thể đi vào bạn chỉ nếu bạn đi vào sự sống qua nhiều, nhiều cách, qua nhiều con đường, qua đa chiều. Là thông cảm trong ít nhất một giờ mọi ngày đi.

Đây là nghĩa của lời cầu nguyện lúc bắt đầu của mọi tôn giáo. Nghĩa của lời cầu nguyện đã là ở trong sự thông cảm với vũ trụ, ở trong trao đổi sâu sắc với vũ trụ. Trong lời cầu nguyện bạn đang nói với Thượng đế - Thượng đế nghĩa là tính toàn bộ. Đôi khi bạn có thể giận Thượng đế, đôi khi lại cám ơn, nhưng một điều là chắc chắn - bạn ở trong trao đổi. Thượng đế không phải là một khái niệm tâm trí, nó đã trở thành mối quan hệ sâu sắc, thân thiết. Đó là điều lời cầu nguyện nghĩa là gì.

Nhưng lời cầu nguyện của chúng ta đã là vô giá trị vì chúng ta không biết cách trao đổi với các sinh linh. Và nếu bạn không thể trao đổi được với các sinh linh, bạn không thể trao đổi được với Người - Người với chữ 'N' hoa - điều đó là không thể được. Nếu bạn không thể trao đổi được với cây, làm sao bạn có thể trao đổi được với sự tồn tại toàn bộ? Và bạn cảm thấy ngu xuẩn khi nói với cây, bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn hơn khi nói với Thượng đế.

Để một giờ mọi ngày dành cho trạng thái cầu nguyện của tâm trí, và đừng làm lời cầu nguyện của bạn thành chuyện lời nói. Làm nó thành việc cảm đi. Thay vì nói bằng cái đầu, cảm nó đi. Đi và chạm vào cây, ôm cây, hôn cây; nhắm mắt lại và hiện hữu cùng cây dường như bạn là cùng với người yêu của bạn. Cảm nó đi. Và bạn sẽ sớm đi tới hiểu biết sâu về gạt cái ngã sang bên ngụ ý gì, trở thành người khác ngụ ý gì.

Cảm thấy tâm thức của từng người như tâm thức riêng của ông. Vậy rồi, bỏ sang bên mối quan tâm về cái ngã, trở thành từng người.

Kĩ thuật thứ hai:

Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại.

Các nhà khoa học hay nói trong quá khứ rằng chỉ vật chất tồn tại, không cái gì khác. Những hệ thống triết lí lớn đã nảy sinh dựa trên quan niệm rằng chỉ vật chất tồn tại. Nhưng ngay cả những người đã tin rằng vật chất tồn tại đã phải nhân nhượng rằng có cái gì đó như tâm thức. Thế thì nó là gì? Họ nói rằng tâm thức chỉ là hiệu quả phụ, chỉ là sản phẩm phụ của vật chất. Nó không là gì ngoài vật chất trá hình, cái gì đó rất tinh tế những vẫn là vật chất. Nhưng nửa thế kỉ này đã chứng kiến phép màu rất lớn xảy ra.

Các nhà khoa học cố và cố tìm ra vật chất là gì, nhưng họ càng cố, họ càng đi tới nhận ra rằng chẳng có gì như vật chất. Vật chất đã được phân tích và người ta thấy rằng nó đã biến mất. Nietzsche đã nói mới một trăm năm trước, "Thượng đế chết." Với Thượng đế chết không thể có tâm thức vì Thượng đế ngụ ý tính toàn bộ của tâm thức. Nhưng trong vòng một trăm năm vật chất chết - và nó chết không phải bởi vì người tôn giáo tin nó vậy mà bởi vì các nhà khoa học đã đi tới một kết luận dứt khoát rằng vật chất chỉ là dáng vẻ. Nó dường như là nó vậy vì chúng ta không thể thấy được rất sâu. Nếu chúng ta có thể thấy sâu nó biến mất, và thế thì năng lượng còn lại.

Hiện tượng năng lượng này, lực năng lượng phi vật chất này, đã được các nhà huyền bí biết tới từ lâu trước đây. Trong Vedas, trong Kinh Thánh, trong Koran, trong Upanishads - trên khắp thế giới các nhà huyền bí đã xuyên thấu vào trong sự tồn tại và bao giờ cũng kết luận rằng vật chất chỉ là dáng vẻ; sâu bên dưới không có vật chất, chỉ có năng lượng. Với điều này khoa học bây giờ đồng ý. Và nhà huyền bí đã nói một điều nữa mà khoa học còn chưa đồng ý - nhưng với điều đó nó sẽ phải đồng ý một ngày nào đó! Nhà huyền bí đã đi tới kết luận khác nữa. Họ nói rằng khi bạn xuyên thấu sâu vào trong năng lượng, năng lượng cũng biến mất và chỉ tâm thức còn lại.

Cho nên đây là ba tầng. Vật chất là tầng thứ nhất, bề mặt. Nếu bạn xuyên thấu bề mặt thế thì tầng thứ hai trở thành rõ ràng: bạn có thể cảm nhận tầng thứ hai là năng lượng. Thế rồi nếu bạn xuyên thấu năng lượng, tầng thứ ba trở nên được soi sáng - tầng thứ ba đó là tâm thức. Lúc ban đầu, khoa học nói rằng các nhà huyền bí chỉ mơ, vì khoa học chỉ thấy vật chất và không cái gì khác. Thế rồi khoa học cố xuyên thấu, và tầng thứ hai của nhà huyền bí được làm lộ ra: vật chất chỉ là dáng vẻ - sâu bên dưới nó không là gì ngoài năng lượng. Và tuyên bố khác của nhà huyền bí là: xuyên thấu thêm nữa vào trong năng lượng và năng lượng cũng biến mất, thế thì còn lại chỉ tâm thức. Tâm thức đó là Thượng đế. Đó là cốt lõi sâu nhất.

Nếu bạn xuyên thấu vào trong thân thể bạn, ba tầng này có đó. Ngay trên bề mặt là thân thể bạn. Thân thể có vẻ vật chất, nhưng sâu bên dưới có dòng chảy của sự sống, prana, sinh lực. Không có sinh lực đó thân thể bạn chỉ là cái xác. Nó là sống động, với cái gì đó chảy trong nó. 'Cái gì đó' chảy đó là năng lượng. Nhưng sâu hơn, vẫn sâu hơn, bạn là nhận biết, bạn có thể chứng kiến. Bạn có thể chứng kiến cả thân thể bạn và sinh lực của bạn. Việc chứng kiến đó là tâm thức của bạn.

Mọi sự tồn tại đều có ba tầng. Tầng sâu nhất là tâm thức chứng kiến. Ở giữa là sinh lực và ngay trên bề mặt là vật chất, thân thể vật chất.

Kĩ thuật này nói, Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại. Bạn là gì? Bạn là ai? Nếu bạn nhắm mắt lại và cố tìm ra bạn là ai, chung cuộc bạn nhất định đi tới kết luận rằng bạn là tâm thức. Mọi thứ khác có thể thuộc về bạn, nhưng bạn không là cái đó. Thân thể thuộc về bạn, nhưng bạn có thể nhận biết về thân thể - và cái mà là nhận biết về thân thể trở thành tách rời. Thân thể trở thành đối thể của tri thức và bạn trở thành chủ thể. Bạn có thể biết thân thể bạn. Không chỉ bạn có thể biết, bạn có thể thao túng thân thể bạn, bạn có thể làm nó hoạt động hay làm nó thụ động. Bạn là tách rời. Bạn có thể làm cái gì đó với thân thể bạn.

Và không chỉ bạn không là thân thể của bạn, bạn không là tâm trí của bạn nữa. Bạn có thể trở nên nhận biết về tâm trí của bạn nữa. Nếu ý nghĩ di chuyển, bạn có thể thấy chúng, và bạn có thể làm cái gì đó với chúng: bạn có thể làm chúng biến mất hoàn toàn, bạn có thể trở thành vô ý nghĩ. Hay, bạn có thể tập trung tâm thức của bạn vào một ý nghĩ và không cho phép nó di chuyển khỏi đó. Bạn có thể hội tụ bản thân bạn vào nó và làm nó vẫn còn ở đó. Hay, bạn có thể cho phép dòng chảy ý nghĩ tựa sông. Bạn có thể làm cái gì đó với ý nghĩ của bạn. Bạn thậm chí có thể làm tan biến chúng hoàn toàn cho tới khi không có ý nghĩ - nhưng bạn vẫn hiện hữu. Bạn sẽ biết rằng không có ý nghĩ, rằng chân không đã đi vào hiện hữu; nhưng bạn sẽ có đó, chứng kiến chân không đó.

Điều duy nhất bạn không thể tách rời khỏi bản thân bạn là năng lượng chứng kiến. Điều đó ngụ ý bạn là cái đó. Bạn không thể tách rời khỏi nó. Bạn có thể tách rời bản thân bạn khỏi mọi thứ khác: bạn có thể biết rằng bạn không là thân thể, không là tâm trí, nhưng bạn không thể biết rằng bạn không là việc chứng kiến của bạn vì bất kì cái gì bạn làm đều sẽ là việc chứng kiến. Bạn không thể tách rời bản thân bạn khỏi việc chứng kiến. Việc chứng kiến đó là tâm thức. Và chừng nào bạn chưa đi tới điểm từ đó việc tách rời trở thành có thể, bạn đã không đi tới bản thân bạn.

Cho nên có những phương pháp qua đó người tìm kiếm liên tục loại bỏ dần. Người đó liên tục loại bỏ - đầu tiên là thân thể, thế rồi tâm trí, và thế rồi người đó đi tới điểm mà không cái gì có thể bị loại bỏ. Trong Upanishads họ nói, neti, neti. Đây là phương pháp sâu: "Cái này không có, cái kia không có." Cho nên người tìm kiếm liên tục biết, "Cái này không có, cái này không phải là tôi, cái này không phải là mình." Người đó cứ liên tục làm thế mãi tới chung cuộc người đó đi tới điểm mà người đó không thể nói "Cái này không là tôi." Chỉ bản thân việc chứng kiến còn lại. Tâm thức thuần khiết còn lại. Tâm thức thuần khiết này tồn tại như từng người.

Bất kì cái gì có trong sự tồn tại chỉ là hiện tượng của tâm thức này, chỉ là sóng, chỉ là việc kết tinh của tâm thức này - và không cái gì khác tồn tại. Nhưng điều này phải được cảm thấy. Phân tích có thể giúp ích, việc hiểu về trí tuệ có thể giúp ích, nhưng nó phải được cảm thấy rằng không cái gì khác tồn tại, chỉ mỗi tâm thức tồn tại. Thế rồi cư xử dường như duy nhất tâm thức tồn tại.

Tôi đã nghe nói về Lâm Tế, một Thiền sư. Một hôm ông ấy đang ngồi trong lều, ai đó tới gặp ông ấy. Người này tới mà đang giận. Người đó đã đánh nhau với vợ hay với ông chủ hay cái gì đó - nhưng người đó giận dữ. Người đó xô cửa trong giận dữ, người nó ném giầy trong giận dữ và thế rồi người đó vào, rất cung kính, và cúi lạy Lâm Tế. Lâm Tế nói, "Trước hết ra xin lỗi cửa và giầy đi." Người này phải đã nhìn vào Lâm Tế một cách rất kì quái. Đã có những người khác cũng ngồi đó và họ bắt đầu cười. Lâm Tế nói, "Thôi!" và thế rồi nói với người này, "Nếu ông không làm điều đó thì về đi. Ta sẽ chẳng có gì làm với ông." Người này nói, "Hỏi xin lỗi giầy và cửa thật là dở hơi." Lâm Tế nói, "Chẳng phải là dở hơi khi ông diễn đạt giận của ông đó sao. Bây giờ nó có là dở hơi không? Mọi thứ có tâm thức. Cho nên ông đi đi, và chừng nào cửa chưa tha thứ cho ông, ta sẽ không cho phép ông vào."

Người này cảm thấy vụng về nhưng ông ta phải đi ra. Về sau bản thân ông ta trở thành sư và trở nên chứng ngộ. Khi ông ta trở nên chứng ngộ, ông ta kể lại toàn thể giai thoại này và ông ta nói, "Khi ta đứng trước cửa, hỏi xin tha thứ, ta đã cảm thấy vụng về, ngu xuẩn. Nhưng thế rồi ta nghĩ rằng Lâm Tế nói vậy, phải có cái gì đó trong nó chứ. Ta đã tin cậy Lâm Tế, cho nên ta nghĩ rằng ngay cả làm việc đó cũng là ngu xuẩn. Lúc ban đầu bất kì cái gì ta nói với cửa đều chỉ là bề ngoài, giả tạo; nhưng dần dần ta bắt đầu được ấm lòng lại. Và Lâm Tế đang đợi và ông ấy đã nói rằng ông ấy sẽ theo dõi. Nếu cửa tha thứ cho ta, chỉ thế ta có thể bước vào; bằng không ta phải ở đó cho tới khi ta đã thuyết phục được cửa và giầy tha thứ cho ta. Dần dần ta trở nên ấm lòng. Ta quên mất rằng nhiều người đang nhìn. Ta quên mất về Lâm Tế - và thế rồi mối quan tâm trở thành chân thành và thực. Ta đã bắt đầu cảm thấy cửa và giầy đã thay đổi tâm trạng của chúng. Và khoảnh khắc ta nhận ra rằng cửa và giầy đã thay đổi và chúng cảm thấy hài lòng, Lâm Tế lập tức nói rằng ta có thể vào. Ta đã được tha thứ."

Sự vụ này đã trở thành hiện tượng biến đổi trong đời ông ấy vì lần đầu tiên ông ấy trở nên nhận biết rằng mọi thứ thực sự là sự kết tinh của tâm thức. Nếu bạn không thể thấy được nó, đó là vì bạn mù. Nếu bạn không thể nghe được nó, đó là vì bạn điếc. Không có cái gì thành vấn đề với các thứ quanh bạn. Mọi thứ là tâm thức được cô đặc lại. Vấn đề là với bạn - bạn không mở và không nhạy cảm.

Kĩ thuật này nói, Tâm thức này tồn tại như từng con người, và không gì khác tồn tại. Sống với khái niệm này đi. Là nhạy cảm với điều này và bất kì chỗ nào bạn di chuyển, di chuyển cùng với tâm trí này và tâm này - rằng mọi thứ đều là tâm thức và không cái gì khác tồn tại. Sớm hay muộn, thế giới sẽ thay đổi mặt của nó. Sớm hay muộn, các vật biến mất và người bắt đầu xuất hiện ở mọi nơi. Sớm hay muộn, toàn thể thế giới sẽ đột nhiên được chói sáng và bạn sẽ biết rằng bạn đã sống trong thế giới của những vật chết chỉ bởi vì sự không nhạy cảm của bạn. Bằng không mọi thứ là sống động - không chỉ sống động, mọi thứ là ý thức.

Mọi thứ sâu bên dưới không là gì ngoài tâm thức. Nhưng nếu bạn để nó như một lí thuyết, nếu bạn tin nó như một lí thuyết, thế thì không cái gì sẽ xảy ra. Bạn sẽ phải làm nó thành cách sống, phong cách sống - cư xử dường như mọi thứ là ý thức. Lúc ban đầu nó sẽ là 'dường như', và bạn sẽ cảm thấy ngu xuẩn, nhưng nếu bạn có thể kiên trì trong cái ngu xuẩn của bạn, và nếu bạn có thể dám là ngu xuẩn, thế giới sẽ sớm bắt đầu khải lộ những điều huyền bí của nó.

Khoa học không phải là phương pháp luận duy nhất được dùng để đi vào điều huyền bí của sự tồn tại. Thực sự, nó là phương pháp luận thô nhất, cái chậm nhất. Nhà huyền bí có thể đi vào sự tồn tại trong một khoảnh khắc. Khoa học sẽ mất hàng triệu năm để xuyên thấu chừng nấy. Upanishad nói rằng thế giới là ảo vọng, rằng vật chất là ảo vọng, nhưng chỉ sau năm nghìn năm khoa học mới có thể nói rằng vật chất là ảo vọng. Upanishad nói rằng sâu bên dưới năng lượng là ý thức - khoa học sẽ mất thêm năm nghìn năm nữa. Huyền môn là cú nhảy; khoa học là sự vận động rất chậm chạp. Trí tuệ không thể nhảy được; nó phải tranh cãi - tranh cãi mọi sự kiện, chứng minh, bác bỏ, thực nghiệm. Nhưng tâm có thể nhảy ngay lập tức.

Nhớ, với trí tuệ quá trình là cần thiết, thế thì kết luận tới - quá trình trước, thế rồi tới kết luận - logic. Với tâm, kết luận tới trước, thế rồi quá trình tới. Nó chính là việc đảo ngược. Đó là lí do tại sao các nhà huyền bí không thể chứng minh được bất kì cái gì. Họ có kết luận, nhưng họ không có quá trình.

Bạn có thể không nhận biết, bạn có thể đã không để ý, rằng các nhà huyền bí đơn giản nói về các kết luận. Nếu bạn đọc Upanishads bạn sẽ thấy chỉ toàn kết luận. Khi lần đầu tiên chúng được dịch sang ngôn ngữ phương Tây, các triết gia phương Tây không thế thấy ra được vấn đề - vì không có luận cứ. Làm sao bạn đạt tới kết luận này? Bằng chứng là gì? Dựa trên tiền đề nào mà bạn tuyên bố, "Có Brahma"? Upanishad không nói bất kì cái gì, chúng đơn giản đi tới kết luận. Tâm đạt tới kết luận ngay lập tức. Và khi kết luận được đạt tới, bạn có thể tạo ra quá trình. Đó là nghĩa của thượng đế học.

Các nhà huyền bí đạt tới kết luận và các nhà thượng đế học tạo ra quá trình. Jesus đã đạt tới kết luận và thế rồi các nhà thượng đế học - Thánh Augustine, Thomas Aquinas - họ đã tạo ra quá trình. Cái đó là phụ. Kết luận đã được đạt tới, bây giờ bạn phải tìm ra bằng chứng. Bằng chứng là trong cuộc đời của nhà huyền bí. Ông ấy không thể tranh cãi về nó. Bản thân ông ấy là bằng chứng - nếu bạn có thể nhìn thấy nó. Nếu bạn không thể thấy được, thế thì không có bằng chứng. Thế thì tôn giáo là ngớ ngẩn.

Đừng làm những kĩ thuật này thành lí thuyết. Chúng không là vậy. Chúng nhảy vào trong trải nghiệm, nhảy vào trong kết luận.

Kĩ thuật thứ ba:

Tâm thức này là linh hồn hướng dẫn của từng người. Là người này.

Điều thứ nhất là ở chỗ bạn có người hướng dẫn bên trong bạn nhưng bạn không dùng nó. Và bạn đã không dùng nó lâu, nhiều kiếp tới mức bạn thậm chí có thể không nhận biết rằng người hướng dẫn tồn tại bên trong bạn. Tôi đã đọc cuốn sách của Castaneda. Thầy của ông ta, Don Juan, cho ông ta một thực nghiệm hay để làm. Đó là một trong những thực nghiệm cổ nhất.

Vào một đêm tối, trên con đường mòn rất nhiều đồi núi, nguy hiểm, không có ánh sáng nào, thầy của Castaneda nói, "Ông đơn giản tin vào người hướng dẫn bên trong và bắt đầu chạy." Điều đó là nguy hiểm. Nó là đường mòn qua nhiều đồi núi, không biết, có cây, bụi, vực thẳm. Ông ấy có thể ngã bất kì chỗ nào. Ngay cả ban ngày ông ấy đã phải bước đi tỉnh táo ở đó, vào ban đêm mọi thứ là tối. Ông ấy không thể thấy được bất kì cái gì và thầy ông ấy nói, "Không bước, chạy đi!" Ông ấy không thể tin được vào điều đó! Nó đơn giản là tự tử. Ông ấy trở nên hoảng sợ - nhưng thầy chạy. Thầy chạy đi như con vật hoang, và chạy lại. Và Castaneda không thể hiểu được làm sao thầy đã làm điều đó. Thầy không chỉ chạy trong bóng tối này, mà mỗi lần thầy chạy thẳng tới ông ấy, dường như thầy có thể nhìn thấy. Thế rồi dần dần Castaneda thu lấy dũng cảm. Nếu ông già này có thể làm được điều này, tại sao ông ấy không làm được? Ông ấy thử, và dần dần ông ấy cảm thấy ánh sáng bên trong tới. Thế rồi ông ấy bắt đầu chạy.

Bạn chỉ hiện hữu bất kì khi nào bạn dừng suy nghĩ. Khoảnh khắc bạn dừng suy nghĩ, cái bên trong xảy ra. Nếu bạn không nghĩ, mọi thứ là ổn - dường như người hướng dẫn bên trong nào đó đang làm việc. Lí trí của bạn đã dẫn sai đường cho bạn. Và việc dẫn sai đường lớn nhất đã là điều này: bạn không thể tin được vào người hướng dẫn bên trong.

Đầu tiên, bạn phải thuyết phục lí trí của bạn. Cho dù người hướng dẫn bên trong của bạn nói, "Tiến lên," bạn phải thuyết phục lí trí của bạn và thế thì bạn bỏ lỡ các cơ hội. Vì có những khoảnh khắc... bạn có thể dùng chúng hay bạn có thể bỏ lỡ chúng. Trí tuệ cần thời gian, và trong khi bạn đang đắn đo, suy tư, suy nghĩ, bạn bỏ lỡ khoảnh khắc đó. Sự sống không đợi bạn. Người ta phải sống ngay tức khắc. Người ta phải thực sự là chiến binh - như họ nói trong Thiền - vì khi bạn đang chiến đầu trên chiến trường với chiếc kiếm, bạn không thể nghĩ được. Bạn phải hành động không nghĩ.

Các Thiền sư đã dùng kiếm như một kĩ thuật cho thiền, và họ nói ở Nhật Bản rằng nếu hai Thiền sư, hai thiền nhân, đang đánh nhau bằng gươm, không thể có kết luận được. Không ai có thể bại và không ai sẽ thắng, vì cả hai đều không nghĩ. Kiếm không chỉ trong tay họ, họ ở trong tay của người hướng dẫn bên trong của họ, người hướng dẫn bên trong vô suy nghĩ, và trước khi người kia tấn công, người hướng dẫn biết và phòng thủ. Bạn không thể nghĩ về điều đó được vì không có thời gian. Người kia đang nhắm vào tim bạn. Trong một nhoáng chốc lưỡi kiếm sẽ xuyên vào tim. Không có thời gian để nghĩ về điều đó, về làm gì. Khi ý nghĩ, "xuyên vào tim" xuất hiện cho người đó, đồng thời ý nghĩ, "phòng thủ" phải xuất hiện cho bạn - đồng thời, không kẽ hở - chỉ thế thì bạn có thể phòng thủ. Bằng không bạn sẽ không còn nữa.

Cho nên họ dạy kiếm thuật như cách thiền và họ nói, "Là khoảnh khắc sang khoảnh khắc cùng với người hướng dẫn bên trong, không nghĩ. Cho phép người bên trong làm bất kì cái gì xảy ra cho nó. Không can thiệp bằng tâm trí." Điều này rất khó vì chúng ta được huấn luyện thế với tâm trí. Trường học, cao đẳng, đại học, toàn thể nền văn hoá, toàn thể hình mẫu văn minh, dạy cho cái đầu của chúng ta. Chúng ta đã mất tiếp xúc với người hướng dẫn bên trong. Mọi người được sinh ra cùng với người hướng dẫn bên trong đó nhưng nó không được phép làm việc, vận hành. Nó gần như bị tê liệt, nhưng nó có thể được làm sống lại.

Kinh này dành cho người hướng dẫn bên trong đó. Tâm thức này là linh hồn hướng dẫn của từng người. Là người này. Không nghĩ bằng đầu. Thực sự, không nghĩ chút nào. Chỉ hành động. Thử nó trong một số tình huống. Nó sẽ khó, vì thói quen cũ sẽ bắt đầu nghĩ. Bạn sẽ phải tỉnh táo: không nghĩ, nhưng cảm bên trong điều đang tới với tâm trí. Bạn có thể bị lẫn lộn nhiều lần vì bạn sẽ không có khả năng biết liệu nó có đang tới từ người hướng dẫn bên trong hay từ bề mặt của tâm trí. Nhưng bạn sẽ sớm biết việc cảm này, sự khác biệt.

Khi cái gì đó tới từ bên trong, nó tới từ rốn bạn đi lên. Bạn có thể cảm thấy luồng chảy, hơi ấm, tới từ rốn đi lên. Bất kì khi nào tâm trí bạn nghĩ, nó chỉ trên bề mặt, trong đầu, và thế rồi nó đi xuống. Nếu tâm trí bạn quyết định cái gì đó, thế thì bạn phải buộc nó đi xuống. Nếu người hướng dẫn bên trong của bạn quyết định, thế thì cái gì đó bật lên trong bạn. Nó tới từ cốt lõi sâu của con người của bạn hướng tới tâm trí. Tâm trí nhận nó, nhưng nó không phải của tâm trí. Nó tới từ cõi bên kia - và đó là lí do tại sao tâm trí sợ về nó. Với suy luận nó là tin cậy vì nó tới từ đằng sau - không có bất kì suy luận nào cùng nó, không có bất kì bằng chứng nào. Nó đơn giản bật lên.

Thử nó trong những tình huống nào đó đi. Chẳng hạn, bạn lạc đường trong rừng. Thử nó đi. Không nghĩ - chỉ nhắm mắt lại, ngồi xuống, có tính thiền, và không nghĩ. Vì nghĩ là vô tích sự - làm sao bạn có thể nghĩ được? Bạn không biết. Nhưng suy nghĩ đã trở thành thói quen tới mức bạn liên tục nghĩ ngay cả trong những khoảnh khắc khi không cái gì có thể bắt nguồn được từ nó. Suy nghĩ chỉ có thể nghĩ về cái gì đó đã biết rồi. Bạn bị lạc trong rừng, bạn không có bản đồ nào, không có người nào để bạn có thể hỏi. Bạn nghĩ về cái gì? Nhưng dầu vậy bạn nghĩ. Suy nghĩ đó sẽ chỉ là lo nghĩ, không phải suy nghĩ. Và bạn càng lo nghĩ, người hướng dẫn bên trong càng ít có thể có năng lực.

Là vô lo nghĩ đi. Ngồi xuống dưới cây, và chỉ cho phép ý nghĩ rơi rụng đi và rút đi. Cứ đợi, không nghĩ. Không tạo ra vấn đề, chỉ đợi. Và khi bạn cảm thấy một khoảnh khắc của vô suy nghĩ đã tới, thế thì đứng dậy và bắt đầu di chuyển. Bất kì chỗ nào thân thể bạn di chuyển, cho phép nó di chuyển. Bạn chỉ là nhân chứng. Không can thiệp. Đường lạc có thể được tìm ra rất dễ dàng. Nhưng điều kiện duy nhất là, "Không can thiệp bằng tâm trí."

Điều này đã xảy ra nhiều lần một cách vô tình. Các nhà khoa học lớn nói rằng bất kì khi nào một khám phá lớn được thực hiện, nó không bao giờ được thực hiện bằng tâm trí; nó bao giờ cũng được thực hiện bằng người hướng dẫn bên trong.

Bà Curie đã cố gắng và cố gắng giải một bài toán toán học. Bà ấy đã làm hết sức, mọi thứ là có thể. Thế rồi bà ấy phát chán. Trong nhiều ngày liền, nhiều tuần liền, bà ấy đã từng làm việc và chẳng cái gì đi ra. Bà ấy cảm thấy như điên. Không con đường nào dẫn tới lời giải. Thế rồi một đêm, chỉ vì kiệt sức, bà ấy nằm xuống và ngủ mất. Và trong đêm, trong mơ, kết luận bật ra. Bà ấy quan tâm tới kết luận này tới mức giấc mơ bị tan vỡ, bà ấy thức dậy. Ngay lập tức bà ấy viết ra kết luận này - vì không có quá trình nào trong mơ, chỉ kết luận. Bà ấy viết nó lên tập giấy và thế rồi lại đi ngủ. Đến sáng bà ấy phân vân; kết luận là đúng, nhưng bà ấy đã không biết làm sao nó đã được đạt tới. Không có quá trình, không phương pháp. Thế rồi bà ấy cố tìm ra quá trình; bây giờ điều đó là chuyện dễ hơn vì kết luận đã ở trong tay, và dễ đi ngược lại từ kết luận này. Bà ấy được giải thưởng Nobel vì giấc mơ này - nhưng bà ấy bao giờ cũng tự hỏi làm sao nó đã xảy ra.

Khi tâm trí bạn bị kiệt sức và không thể làm được thêm bất kì cái gì, nó đơn giản rút lui. Trong khoảnh khắc rút lui đó người hướng dẫn bên trong có thể cho hướng dẫn, manh mối, chìa khoá. Một người đã được giải thưởng Nobel về cấu trúc bên trong của tế bào người, đã thấy nó trong mơ. Ông ấy đã thấy toàn thể cấu trúc của tế bào người, tế bào bên trong, trong mơ, và thế rồi đến sáng ông ấy chỉ làm ra bức tranh về nó. Bản thân ông ấy không thể tin được rằng nó có thể là vậy, cho nên ông ấy đã phải làm việc trong nhiều năm. Sau nhiều năm làm việc ông ấy có thể kết luận rằng giấc mơ này là thực.

Với Bà Curie điều đã xảy ra là khi bà ấy đi tới biết về quá trình bên trong này của người hướng dẫn bên trong, bà ấy quyết định thử nó. Một lần đã có vấn đề mà bà ấy muốn giải, cho nên bà ấy nghĩ, "Sao lo nghĩ về nó làm gì, và sao không thử? Chỉ đi ngủ." Bà ấy ngủ ngon, nhưng không có lời giải. Thế là bà ấy phân vân. Nhiều lần bà ấy thử: khi có vấn đề lập tức bà ấy sẽ đi ngủ. Nhưng không có lời giải. Thứ nhất, trí tuệ phải được cố gắng, hoàn toàn; chỉ thế thì giải pháp có thể bật ra. Cái đầu phải bị cạn kiệt hoàn toàn bằng không nó liên tục vận hành, ngay cả trong mơ.

Cho nên bây giờ các nhà khoa học nói rằng mọi khám phá lớn đều là trực giác, không phải trí tuệ. Đây là điều được ngụ ý bởi người hướng dẫn bên trong.

Tâm thức này là linh hồn hướng dẫn của từng người. Là người này. Mất đi cái đầu và rơi vào trong người hướng dẫn bên trong này đi. Nó có đó. Các kinh sách cổ nói rằng thầy hay guru - guru "bên ngoài" - có thể giúp ích chỉ trong việc tìm ra guru bên trong. Có vậy thôi. Một khi guru bên ngoài đã giúp bạn tìm ra guru bên trong, chức năng của guru bên ngoài không còn nữa.

Bạn không thể đạt tới chân lí qua thầy; bạn chỉ có thể đạt tới thầy bên trong qua thầy - và thế thì thầy bên trong này sẽ dẫn bạn tới chân lí. Thầy bên ngoài chỉ là đại diện, cái thay thế. Ông ấy có người hướng dẫn bên trong của mình và ông ấy có thể cảm thấy người hướng dẫn bên trong của bạn nữa, vì họ cả hai tồn tại trên cùng bước sóng - họ cả hai tồn tại trong cùng việc điều chỉnh và cùng chiều hướng. Nếu tôi đã tìm thấy người hướng dẫn bên trong của tôi, tôi có thể nhìn vào trong bạn và cảm thấy người hướng dẫn bên trong của bạn. Và nếu tôi thực sự là người hướng dẫn của bạn, mọi hướng dẫn của tôi sẽ là để đưa bạn tới người hướng dẫn bên trong của bạn.

Một khi bạn ở trong tiếp xúc với người hướng dẫn bên trong, tôi không còn được cần tới. Bây giờ bạn có thể đi một mình. Cho nên mọi điều guru có thể làm là đẩy bạn từ đầu xuống rốn, từ việc suy luận của bạn tới lực trực giác, từ tâm trí biện luận tới người hướng dẫn tin cậy của bạn. Và điều này không chỉ như vậy với con người, nó là vậy với con vật, với chim, với cây, với mọi thứ. Người hướng dẫn bên trong tồn tại, và nhiều hiện tượng mới đã được khám phá, điều là huyền bí.

Có một số trường hợp. Chẳng hạn, cá mẹ chết ngay sau khi đẻ trứng. Thế rồi cá bố giúp cho trứng được thụ tinh, và thế rồi nó chết. Trứng vẫn còn một mình không mẹ không bố. Nó chín. Thế rồi cá mới được sinh ra. Cá này không biết bất kì cái gì về bố, mẹ; nó không biết chúng tới từ đâu. Nhưng mặc dầu vậy con cá đặc biệt này sống ở một phần đặc biệt của biển, nó sẽ đi tới phần từ đó bố và mẹ đã tới đẻ trứng. Nó sẽ đi tới cội nguồn. Điều này đã từng xảy ra lặp đi lặp lại, và khi nó muốn đẻ trứng, nó sẽ đi tới bờ này, đẻ trứng, và chết. Cho nên không có trao đổi giữa bố mẹ và con cái của chúng nhưng cá con bằng cách nào đó biết nơi chúng phải đi, nơi chúng phải di chuyển tới - và chúng không bao giờ bỏ lỡ. Và bạn không thể dẫn sai đường chúng được. Điều đó đã được thử, nhưng bạn không thể dẫn sai đường chúng được. Chúng sẽ đạt tới cội nguồn. Người hướng dẫn bên trong nào đó đang làm việc.

Ở nước Nga xô viết họ đã từng thực nghiệm với mèo, với chuột, và với nhiều con vật nhỏ. Mèo, mèo mẹ, bị tách rời khỏi con của nó và con con được đem sâu xuống biển; nó không thể biết được cái gì đang xảy ra cho con nó. Mọi kiểu dụng cụ khoa học được gắn với con mèo này để đo điều đã xảy ra bên trong tâm trí nó và tim nó, và thế rồi một con con bị giết, sâu trong biển. Ngay lập tức con mẹ trở nên nhận biết. Nhịp máu của nó thay đổi. Nó trở nên phân vân và lo nghĩ, nhịp tim của nó tăng lên… ngay khi con con bị chết. Và các dụng cụ khoa học nói rằng nó cảm thấy đau đớn vô cùng. Thế rồi sau một chốc mọi thứ trở lại bình thường. Thế rồi con con khác bị giết - lại cùng thay đổi. Và cùng điều này với con con thứ ba. Điều đó xảy ra mọi lần. Cái gì đã xảy ra?

Bây giờ các nhà khoa học Xô viết nói con mẹ có người hướng dẫn bên trong, và trung tâm cảm bên trong và nó được nối với những đứa con của con mèo này, dù chúng ở bất kì đâu. Và nó lập tức cảm thấy mối quan hệ viễn cảm. Người mẹ con người sẽ không cảm được nhiều thế. Điều này gây phân vân. Sự việc đáng phải hoàn toàn ngược lại chứ: người mẹ con người phải cảm thấy nhiều hơn vì cô ấy tiến hoá hơn. Nhưng cô ấy sẽ không vậy vì cái đầu đã nắm mọi thứ trong tay nó và các trung tâm bên trong tất cả nằm tê liệt.

Tâm thức này là linh hồn hướng dẫn của từng người. Là người này. Bất kì khi nào bạn bị phân vân trong một tình huống và bạn không thể thấy được làm sao thoát ra khỏi nó, đừng nghĩ; cứ ở trong việc vô suy nghĩ sâu và cho phép người hướng dẫn bên trong hướng dẫn bạn. Lúc ban đầu bạn sẽ cảm thấy sợ, bất an ninh, nhưng chẳng mấy chốc, khi bạn đi tới kết luận đúng mọi lúc, khi bạn đi tới cánh cửa đúng mọi lúc, bạn sẽ thu lấy dũng cảm và bạn sẽ trở nên tin cậy.

Nếu tin cậy này xảy ra, tôi gọi nó là đức tin. Đây thực sự là đức tin tôn giáo - tin cậy vào người hướng dẫn bên trong. Suy luận là một phần của bản ngã. Chính bạn tin vào bản thân bạn. Khoảnh khắc bạn đi sâu vào bên trong bạn, bạn đã đi tới chính hồn của vũ trụ. Người hướng dẫn bên trong của bạn là một phần của sự hướng dẫn Thiêng liêng. Khi bạn đi theo nó, bạn đi theo điều Thiêng liêng; khi bạn đi theo bản thân bạn, bạn làm phức tạp mọi thứ lên, và bạn không biết bạn đang làm gì. Bạn có thể nghĩ bản thân bạn là rất trí huệ. Bạn không vậy đâu.

Trí huệ tới từ tâm, nó không tới từ trí tuệ. Trí huệ tới từ chiều sâu bên trong nhất của hiện hữu của bạn, nó không từ cái đầu. Chặt đầu bạn đi, là vô đầu đi - và đi theo sự hiện hữu, dù bất kì cái gì, dù bất kì chỗ nào nó đưa tới. Cho dù nó dẫn vào trong nguy hiểm, đi vào trong nguy hiểm, vì đó sẽ là con đường dành cho bạn và trưởng thành của bạn. Qua nguy hiểm đó bạn sẽ trưởng thành và trở nên chín chắn. Cho dù người hướng dẫn bên trong dẫn bạn tới chết, đi vào trong nó đi, vì điều đó sẽ là con đường dành cho bạn. Đi theo nó, tin cậy nó, và di chuyển cùng nó.

Xem tiếp Chương 78 - Quay về Mục lục Tập 4 - Quay về Mục lục Toàn tập

.............................. 

0 Đánh giá

Ads Belove Post