Read more
Thầy Hoàn
Hảo (Tập 1) - Osho
Bài nói về
câu chuyện Sufi
Chương 1. Khi đệ tử sẵn sàng
Một người nào đó quyết định rằng mình sẽ đi tìm thầy hoàn hảo.
Anh ta đọc
nhiều sách, tới thăm hết hiền nhân nọ tới hiền nhân kia, lắng nghe, thảo luận
và thực hành, nhưng anh ta bao giờ cũng thấy bản thân mình hoài nghi hay không
chắc chắn.
Sau hai mươi
năm anh ta gặp một người mà mọi lời và hành động đều tương ứng với ý tưởng của
anh ta về người đã hiểu ra toàn bộ.
Lữ khách
không để mất thời gian. "Thầy," anh ta nói, "với tôi dường như
là thầy hoàn hảo. Nếu thầy là vậy, cuộc hành trình của tôi đi tới chỗ kết."
"Thực
ra ta là vậy đấy, như được cái tên đó mô tả," thầy nói.
"Thế
thì tôi xin thầy nhận tôi làm đệ tử."
"Điều
đó," thầy nói, "ta không thể làm được vì trong khi ông có thể muốn có
thầy hoàn hảo, thì đến lượt thầy, ông ấy lại chỉ yêu cầu đệ tử hoàn hảo."
Thầy chỉ xuất
hiện khi đệ tử sẵn sàng. Không bao giờ khác. Không theo cách khác. Không ở điểm
nào khác trong cuộc hành trình cuộc sống. Đệ tử phải sẵn sàng và chín muồi; chỉ
vào khoảnh khắc đó mà thầy mới trở thành thấy được. Đệ tử phải thu được mắt,
thu được tai, tạo ra trái tim, để cảm. Làm sao mặt trời xuất hiện được nếu bạn
mù? Mặt trời có thể xuất hiện nhưng bạn sẽ liên tục bỏ lỡ điều đó.
Chừng nào bạn
chưa có mắt, không có cái đẹp trong thế giới. Hoa sẽ nở, nhưng không dành cho bạn.
và các vì sao sẽ đầy bầu trời với cái đẹp mênh mông, nhưng không dành cho bạn.
Chừng nào bạn chưa có mắt, không có cái đẹp trong thế giới này.
Nếu bạn
không có yêu trong tim, bạn sẽ không tìm thấy người yêu. Yêu cầu cơ bản này phải
được đáp ứng. Chỉ yêu mới tìm ra người yêu. Mắt tìm ra cái đẹp, và tai tìm ra
âm nhạc và giai điệu.
Nhưng có những
người, và họ có nhiều - đa số bao gồm những người đó - người liên tục tìm và kiếm
cái gì đó ở đó mà không tạo ra cảm nhận tương ứng trong bản thân họ. Tôi đã bắt
gặp nhiều người tìm kiếm, những người đang tìm thầy - không nhận biết chút nào
rằng đệ tử đang vắng mặt hoàn toàn. Đệ tử không có đó chút nào. Làm sao bạn có
thể tìm ra thầy được?
Thầy không
chỉ là một hiện tượng đối thể ở đó. Đầu tiên thầy phải là cái gì đó nội tâm
trong bạn. Đó là điều tính đệ tử là gì: việc chuẩn bị, niềm khát khao, ham muốn
đam mê, một đam mê lớn về chân lí. Cái đó đang thiếu. Và thế rồi mọi người liên
tục đi tìm. Và nếu họ không tìm ra, điều đó không gây ngạc nhiên. Họ không định
tìm ra! Họ có thể bắt gặp nhiều thầy, nhưng họ sẽ liên tục bỏ lỡ.
Làm sao bạn
có thể thấy thầy nếu bạn không mong manh với thầy? Làm sao bạn có thể thấy thầy
nếu bạn thậm chí không biết tính đệ tử là gì? Khởi đầu của việc tìm ra thầy bắt
đầu bằng việc là đệ tử. Người tìm kiếm thực không lo nghĩ về thầy, về thầy ở
đâu. Toàn thể mối quan tâm của anh ta là làm sao tạo ra đệ tử trong bản thân
mình, làm sao là người học, mở với thực tại; làm sao vận hành từ hồn nhiên, và
làm sao không vận hành từ trạng thái của tri thức.
Nếu bạn vận
hành từ trạng thái của tri thức, bạn sẽ tìm thấy nhiều thầy giáo nhưng không
bao giờ tìm ra một thầy. Nếu bạn đã biết cái gì đó, và bạn nghĩ rằng bạn biết,
thế thì bạn sẽ thấy những người biết khác, người nói họ biết, người ở trước bạn.
Bạn sẽ gặp chỉ những người bạn có thể gặp. Bạn sẽ gặp những người giống như bạn.
Người vận hành từ trạng thái biết mà người đó đã thu thập sẽ tìm thấy nhiều thầy
giáo và sẽ học nhiều thứ - nhưng sẽ không bao giờ tìm thấy thầy.
Để tìm thấy
thầy bạn phải là đứa trẻ. Để tìm thấy thầy bạn phải là hồn nhiên hoàn toàn,
không biết cái gì, tâm trí trống rỗng - đầy đam mê về chân lí, nhưng không có kết
luận nào về nó. Đây là trạng thái của việc học thực. Và thế thì bạn thậm chí
không cần đi đâu cả: thầy sẽ tới với bạn.
Có nhiều
sannyasins ở đây người đã không tới tôi bởi vì việc tìm kiếm của họ nhưng bởi
vì tôi đã tìm thấy họ. Họ đã tới bởi vì tôi, không phải bởi vì bản thân họ. Đó
là việc tới thực. Khi bạn tới vì bản thân bạn, bạn không tới chút nào. Bạn vẫn
còn ở đó, bướng bỉnh, quá nhiều phần bạn, đầy phần bạn - không có không gian
cho tôi đi vào trong bạn.
Đây là một
trong những yêu cầu cơ bản cho người tìm kiếm: rằng người đó nên là người học.
Điều tôi ngụ ý bởi "học" là ở chỗ người ta bao giờ cũng phải vận hành
từ trạng thái hồn nhiên. Người ta phải không mang những kết luận bên trong bản
thân mình - vì những kết luận đó sẽ không cho phép bạn học. Nếu cái gì đó đi
ngược lại chúng, bạn nhất định bác bỏ nó. Và nếu cái gì đó không đi ngược lại
chúng, thế thì bạn không học cái gì cả - chỉ định kiến cũ của bạn được làm mạnh
thêm thôi.
Nếu cái gì
đó khớp với bạn, không có việc học. Nó đơn giản làm mạnh cho tâm trí cũ. Và thầy
không thể làm được điều đó - thầy phải phá huỷ cái cũ để cho cái mới hiện hữu;
thầy phải lấy đi mọi cái bạn đã từng mang dọc đường. Thầy phải tạo ra không
gian trong bạn. Nếu bạn níu bám lấy các kết luận, định kiến, ý tưởng, triết lí,
bạn sẽ không có khả năng gặp được thầy - vì toàn thể công việc của thầy bao gồm
trong việc phá huỷ mọi loại triết lí. Thầy quan tâm tới điều thực. Thầy không
quan tâm tới suy đoán về mọi thứ.
Mới hôm nọ
tôi đã đọc một phát biểu của Burke:
Phần lớn mọi
người đều coi khoai tây là quan trọng. Các bài diễn văn về khoai tây, tuy thế,
không được yêu mến như khoai tây. Khi khoai tây chiên ỉu, việc nói về khoai tây
không thay thế được cho khoai tây. Cho nên điều đó cũng là vậy với tôn giáo.
Tôi thích
phát biểu này. Thầy quan tâm tới khoai tây thực - không phải là triết lí về
khoai tây. Và nếu bạn tới với kết luận, bạn không thể tới được. Những kết luận
đó đứng như rào chắn lớn giữa bạn và thầy. Người ta phải tới mà để mở, sẵn có.
Người ta phải tới mà không biết. Điều này nên là hiển nhiên: nếu bạn đã biết rồi,
thế thì bạn không sẵn có. Chính tri thức của bạn gây chướng ngại lên con đường.
Trở thành đệ
tử đi. Đừng lo nghĩ về thầy. Khi bạn sẵn sàng, thầy xuất hiện.
Đôi khi thầy
xuất hiện theo những cách kì lạ, nhưng điều đó bao giờ cũng xảy ra. Bất kì khi
nào ai đó chín muồi, Thượng đế bắt đầu tới dưới nhiều hình dạng cho người đó.
Thầy là hình dạng cuối cùng của Thượng đế tới với đệ tử. Sau thầy có cái vô
hình dạng. Thầy là kinh nghiệm cuối cùng về hình dạng; bên ngoài thầy có vô
hình dạng - thế thì có Thượng đế mà không có hình dạng.
Thầy là người
cuối cùng trông như bạn, người sống như bạn, người mà bạn có thể chạm vào, người
mà bạn có thể có đối thoại, người nói như bạn. Bên ngoài thầy là im lặng - hoàn
toàn, tuyệt đối, nguyên sơ. Bên ngoài thầy là vô thân thể. Thầy đích xác ở giữa
thế giới và Thượng đế.
Nếu bạn thực
sự mệt mỏi với thế giới và đường mòn và thường lệ của nó, đừng bắt đầu tìm thầy
- thay vì thế, tìm cách trở thành đệ tử đi. Bắt đầu làm nhẹ gánh bản thân bạn
khỏi các định kiến, giáo điều. Quên mọi điều bạn biết đi...
Ramana
Maharshi thường nói với các đệ tử yêu thích của mình: Nếu các ông muốn ở cùng
ta, các ông sẽ phải dỡ bỏ. Nếu các ông không dỡ bỏ, thế thì ta chẳng có gì cho
các ông cả. Các ông đã quá đầy.
Bạn có biết
câu chuyện Thiền nổi tiếng này không?
Một giáo sư
triết học đi tới gặp một thầy lớn, và ông ta hỏi về Thượng đế, và ông ta hỏi về
nghiệp, và ông ta hỏi về lí thuyết đầu thai, và ông ta hỏi nhiều thứ... hết câu
hỏi tới câu hỏi tới câu hỏi. Và thầy nói, "Ông mệt rồi, cuộc hành trình
dài, và ta có thể thấy ông đang vã mồ hôi, đi lên núi vào trưa hè nóng bức thế.
Chắc phải mệt rồi. Ông đợi đi; chả vội gì. Những câu hỏi này có thể đợi một
chút. Để ta đi pha trà cho ông. Và ai biết được? - trong khi uống trà ông có thể
có được câu trả lời."
Bây giờ ông
giáo sư này có hơi chút phân vân và vì cũng hơi hoài nghi liệu có là đúng mà đi
tới người điên này không. "Làm sao những câu hỏi này có thể được trả lời
chỉ bằng uống trà?" Nhưng bây giờ không có cách nào đi cả; ông ấy phải nghỉ
ngơi một chút. "Và trà đằng nào cũng sẽ chẳng làm hại gì, cho nên sao
không uống trà rồi trốn khỏi đây?"
Thầy mang
trà tới, bắt đầu rót từ ấm sang chén, và cứ thế rót. Chén đầy, và trà bắt đầu
tràn ra đĩa, và đĩa cũng đầy. Thế là ông giáo sư nói, "Dừng lại! Ông làm
cái gì thế? Trà sẽ bắt đầu tràn ra sàn đấy. Bây giờ chén thậm chí không còn chỗ
cho một giọt thêm nữa. Ông điên hay cái gì đó?"
Thầy cười
vui vẻ, và thầy nói, "Vậy đó, ông thông minh đấy! Ông có thể hiểu được. Nếu
không có chỗ trong chén thì chúng ta không thể nào rót thêm trà vào trong nó được.
Có chỗ nào trong đầu ông không? Ta muốn rót mọi điều ta đang có, nhưng có chỗ
nào trong đầu ông không? Nó không quá đầy, không quá nhiều chất liệu chứ?
"Đây là
câu trả lời của ta," thầy nói. "Lần sau tới đi. Trước hết làm trống rỗng
đầu ông đi đã. Tới trong trạng thái không biết. Ông quá thông thái. Ta có thể
nghe mọi tiếng ồn đang diễn ra bên trong ông. Tới mà có im lặng thêm chút nữa
đi. Và ông đã không tới để học - ông đã tới để cãi."
Tri thức bao
giờ cũng khao khát tranh cãi. Nó không quan tâm tới việc học. Trong học nó cảm
thấy bẽ bàng. Đó là lí do tại sao việc học trở nên ngày càng khó hơn: bạn càng
lớn lên, khả năng học tập bất kì cái gì của bạn càng ít hơn. Trẻ con có thể học
được bởi vì chúng không có bản ngã nào, và chúng học nhanh, và chúng học rất dễ
dàng. Nếu bạn phải học cùng điều đó khi bạn ba mươi nhăm hay bốn mươi hay năm
mươi, sẽ rất khó, đôi khi gần như không thể được. Cái gì xảy ra với thông minh
của bạn?
Sau năm mươi
năm kinh nghiệm thông minh của bạn đáng phải nhiều hơn nó đã vậy trước đây chứ,
nhưng sự thể lại không thế. Bạn đã thu thập nhiều đồ đồng nát trên đường. Vận
hành của trí tuệ không còn được tự do; nó bị nặng gánh quá nhiều với những thứ
tào lao!Và bạn cảm thấy bẽ mặt trong việc học bất kì cái gì. Bạn không thể cúi
mình xuống được. Bạn không thể nói, "Tôi không biết." Và đệ tử là người
có thể nói, "Tôi không biết - xin dạy cho tôi. Tôi sẵn sàng học. Tôi đã
không tới thầy với bất kì kết luận nào. Tôi đã không mang bất kì tri thức nào.
Tôi tới mà trống rỗng! Xin đổ đầy tôi!"
Việc tìm kiếm
thực là cách trở thành đệ tử, cách làm trống rỗng chiếc cốc của bản thể bạn, để
cho khi bạn bắt gặp một người đang tuôn trào với Thượng đế, bạn có thể được rót
đầy - rót đầy sự mãn nguyện của trái tim bạn. Nhưng mọi người tìm thầy, họ
không tìm tính đệ tử - đó là chỗ họ liên tục bỏ lỡ. Thế thì bạn sẽ bắt gặp nhiều
nhiều người, và bạn bao giờ cũng cảm thấy không được thoả mãn. Và lí do cho việc
không thoả mãn không phải là ở bên ngoài bạn: nó tới từ tâm trí bên trong riêng
của bạn. Bạn đang mang những kết luận cùng bạn.
Hôm nọ tôi
đã đọc về một nhà huyền môn Hassid rất hay, Levi-Yitzhak. Ông ấy đầy Thượng đế
và bài ca của Thượng đế và điệu vũ của Thượng đế tới mức khi ông ấy tôn thờ hay
cầu nguyện, ông ấy sẽ phát rồ dại. Người ta nói về ông ấy là ông ấy đơn giản toả
ra điệu vũ thiêng liêng trong tính hoang dã toàn bộ của nó. Ông ấy đã tôn thờ với
sự phóng túng tới mức tín đồ sùng đạo kinh hoàng đã bỏ đi theo bản năng. Nếu
ông ấy tôn thờ trong đền, mọi người sẽ trốn về nhà họ, vì tôn thờ của ông ấy là
rất hoang dã. Ông ấy khoa chân múa tay, la hét và nhảy nhót, nhảy từ góc này
sang góc kia, xô đẩy và lật nhào bất kì cái gì ở trên đường của ông ấy. Mọi người
dừng tồn tại cho ông ấy. Khi ông ấy cầu nguyện, bản thân ông ấy dừng tồn tại.
Bây giờ, nếu
bạn đã tới với kết luận nào đó đã có về thầy phải như thế nào, bạn sẽ nghĩ ông ấy
là người điên. Nếu bạn nghĩ một thầy phải ngồi như vị Phật dưới cây Bồ đề, và
người điên này, lật nhào mọi thứ xuống và chạy nháo nhào khắp chốn, và ông ấy
làm cho những người tôn thờ kinh hoàng, tất cả họ đều chạy ra ngoài vì không ai
biết ông ấy định làm gì... Nhưng người này là một thầy hoàn hảo.
Thượng đế
giáng xuống trong nhiều hình dạng - khi thì như Phật và khi thì như Krishna và
khi thì như Mahavir và khi thì như Mohammed. Và Thượng đế bao giờ cũng tới
trong số lớn hình dạng, còn các kết luận của bạn bao giờ cũng là từ cái cũ. Nếu
bạn được sinh ra trong một gia đình Phật tử, làm sao bạn có thể nghĩ được rằng
nhà huyền môn Hassid điên này có thể là vị Phật? Không thể được!
Nếu bạn đi
cùng với kết luận, bạn sẽ gặp khó khăn. Nếu - và đã có nhiều đệ tử của người
Hassid điên này - nếu họ bắt gặp Phật họ sẽ phủ nhận, họ sẽ không được thoả mãn
với Phật. Họ sẽ nói, "Việc nhảy của ông ấy đâu? Sao ông ấy không la hét?
Chỉ ngồi im lặng dưới cây Bồ đề - ông ấy là loại thầy gì vậy?" Nhưng chúng
ta liên tục mang những định kiến bắt rễ sâu trong chúng ta.
Và nhớ lấy:
những định kiến đó có thể có vẻ rất hợp lí cho bạn. Mới hôm nọ, Adi đã hỏi một
câu hỏi: "Osho ơi, bây giờ tôi không thể tin cậy được thầy thêm nữa."
Cái gì đã xảy ra cho Adi? Tại sao anh ấy không thể tin cậy được tôi thêm nữa? Một
điều đơn giản. Tôi đã nói rằng cùng cây đó tồn tại ở Bodhgaya mà dưới nó Phật
đã trở nên chứng ngộ, và cùng cây đó vẫn rung động với cái gì đó của phẩm chất
của Phật, của buổi sáng đẹp đó khi Phật biến mất và Thượng đế xuất hiện trong
ông ấy. Bây giờ anh ấy trích dẫn cuốn sách lịch sử và nói điều được viết trong
sách sử là cây đó đã bị chặt đi và bị phá huỷ bởi một nhà vua Hindu, và ngôi đền
đã được cải đạo thành điện thờ Hindu. Cho nên làm sao cùng cây đó có thể tồn tại
được? Nếu sách sử là đúng, tôi sai. Và làm sao Adi có thể tin cậy vào tôi khi
tôi đi ngược lại sách sử?
Đừng có tin cậy
ít thế, và đừng có vội vàng thế. Nếu tôi nói cái gì đó, đợi đấy, tìm đi và bạn
sẽ tìm ra cách thức. Chỉ đọc một cuốn sách sử và tin cậy của bạn bị phá huỷ!
Tôi vẫn nói nó là cùng cây, và sách sử là đúng. Điện thờ đã được chuyển thành
điện thờ Hindu và cây này đã bị phá huỷ... nhưng trước khi cây bị phá huỷ,
Ashoka đã gửi một phần của cây này, một cành của cây này, sang Ceylon để được
trồng ở đó. Cho nên cây này đã tiếp tục ở Ceylon. Thế rồi khi điện thờ lại được
chuyển thành chùa Phật giáo, một cành của cây từ Ceylon đã được mang trở lại và
được trồng lại.
Nó là cùng sự
liên tục. Nó là cùng cây đó. Và theo Phật, ngay cả cùng một cây cũng không bao
giờ là cùng một cho hai khoảnh khắc kế tiếp - nó thay đổi. Nó liên tục thay đổi.
Thân thể bạn thay đổi liên tục. Trong thời gian bẩy năm, thân thể bạn là mới
hoàn toàn; cái cũ biến mất và cái mới đã thế chỗ. Thậm chí không một tế bào nào
vẫn còn là cũ. Nhưng nó là sự liên tục: cùng một thứ theo nghĩa của tính liên tục.
Nó là cùng một cây trong Phật giáo, theo nghĩa khoa học.
Nhưng đừng vội
vàng. Nếu bạn mất tin cậy nhanh thế và sớm thế và dễ dàng thế, nó chẳng đáng
giá gì mấy. Nó không phải là tin cậy thực. Bạn liên tục giữ định kiến của bạn
trong nền tảng, và bạn liên tục tìm khi nào bạn có thể tìm ra cái gì đó mà bạn
có thể không tin cậy được. Bạn quan tâm nhiều tới không tin cậy hơn là tới tin
cậy. Bạn đang tin cậy mặc cho bản thân bạn. Xu hướng tự nhiên của bạn là không
tin cậy và hoài nghi. Bạn sẽ cảm thấy rất thoải mái nếu bạn có thể hoài nghi. Nếu
bạn không thể tìm được cái gì để hoài nghi, bạn có thể bắt đầu cảm thấy ngột ngạt
- vì với hoài nghi bản ngã của bạn trở lại ngai vàng. Với tin cậy, bản ngã phải
tự tử.
Đây là chuyện
ngụ ngôn hay, và người Sufis là các bậc thầy quá khứ trong chuyện ngụ ngôn. Người
Sufis biết cách nói trong ngụ ngôn cho những điều không thể được nói ra. Họ đã
dựng lên những chuyện ngụ ngôn hay nhất trên thế giới. Đi từ từ vào trong chuyện
ngụ ngôn này đi. Nó nhỏ nhưng có ý nghĩa mênh mông.
Chuyện ngụ
ngôn là cách nói mọi thứ theo kiểu gián tiếp. Chân lí không thể được khẳng định
một cách trực tiếp. Điều đó là quá bạo hành, quá hùng hổ, quá nam tính. Chân lí
chỉ có thể được nói theo cách rất gián tiếp. Nó có thể được hướng dẫn, được chỉ
dẫn. Bạn không thể được đoan chắc về chân lí: bạn chỉ có thể được thuyết phục.
Và thầy là
người sẽ không đoan chắc cho bạn về chân lí nhưng là người sẽ dụ dỗ bạn vào
chân lí. Chuyện ngụ ngôn rất có tính dụ dỗ. Ngay cả những người không tìm chân
lí nào cũng có thể đột nhiên bị điểm trúng bởi chuyện ngụ ngôn: cái gì đó có thể
đột nhiên thành sẵn có cho họ.
Và mọi người
thích các câu chuyện. Và chuyện có xu hướng treo quanh tâm thức của bạn. Khó
quên được chúng; rất dễ nhớ chúng. Chúng có cách đạt tới cốt lõi sâu nhất của bản
thể bạn. Do đó, người Sufis đã từng dùng các chuyện ngụ ngôn. Nó là một thế giới
khác hoàn toàn với Thiền, Đạo, Yoga, Mật tông.
Tôi đón chào
bạn vào trong thế giới của người Sufis hôm nay... Nó nhiều tính nghệ sĩ hơn,
nhiều thơ ca hơn, nhiều thẩm mĩ hơn, và cách thức của nó là rất tinh tế.
Một người
nào đó quyết định rằng mình sẽ đi tìm thầy hoàn hảo.
Bây giờ, quyết
định là sai, vì quyết định sẽ tới từ kinh nghiệm quá khứ của bạn. Người ta
không thể quyết định đi tìm thầy hoàn hảo được. Người ta chỉ có thể trở thành sẵn
có theo cách thụ động. Tìm kiếm, quyết định là cách thức chủ động. Người ta phải
nhiều nữ tính hơn; người ta phải không trong vội vã thế. Người ta phải nhiều
tính quan sát hơn, tỉnh táo hơn về điều người ta đang cố làm.
Bạn đã biết
thầy nào trước đây chưa? Bạn có kinh nghiệm nào về thầy chưa? Bất kì cái gì bạn
đã nghe đều được vay mượn. Bạn không chắc chắn, bạn không thể chắc chắn được về
tính thực của nó. Làm sao bạn sẽ quyết định được? Và làm sao bạn sẽ tìm được thầy?
Tiêu chuẩn phán xét là gì? Làm sao bạn sẽ cân nhắc rằng đây thực sự là thầy
hoàn hảo? Bạn có năng lực cân nhắc, phán xét thầy hoàn hảo không? Thế thì bạn
là cao hơn, bạn đã cao hơn thầy hoàn hảo rồi. Bạn đang ngồi ở ghế của quan toà.
Bạn không phải là đệ tử khiêm tốn, thụ động. Và thầy chỉ xảy ra trong tính thụ
động của bạn, trong tính khiêm tốn của bạn, trong tính đơn giản của bạn.
Một người
nào đó quyết định rằng mình sẽ đi tìm thầy hoàn hảo.
Và tại sao
thầy hoàn hảo? Bản ngã bao giờ cũng tìm hoàn hảo. Nếu bạn theo đuổi tiền, bản
ngã muốn bạn là người giầu nhất trên thế giới, người hoàn hảo nhất trên thế giới.
Nếu bạn theo đuổi đạo đức, bạn muốn trở thành thánh nhân hoàn hảo nhất. Bản ngã
có ham muốn rất sâu để là hoàn hảo. Mọi kẻ bản ngã đều là người hoàn hảo, và mọi
người hoàn hảo đều thần kinh. Ý tưởng về hoàn hảo đưa mọi người tới điên.
Người khiêm
tốn biết những cái bất toàn, và người khiêm tốn chấp nhận cái bất toàn của
mình. Và người khiêm tốn không đòi hỏi cái không thể được. Chính bản ngã bao giờ
cũng đòi hỏi cái không thể được và thất bại.
Và cảm thấy
thất vọng, bị phản bội, bị lừa gạt. Nhưng lần nữa nó lại bắt đầu đòi hỏi cùng một
thứ.
Tại sao bạn
cần thầy hoàn hảo? Bạn đã coi một điều là đương nhiên: rằng bạn như vậy là con
người vĩ đại mà ít hơn điều đó sẽ không lợi gì cho bạn, sẽ không thoả mãn; ít
hơn điều đó sẽ làm hạ thấp bạn. Bạn là người hoàn hảo thế, bạn cần một thầy
hoàn hảo. Thầy thường sẽ không có tác dụng - nó phải là cái gì đó phi thường
cơ. Bạn chỉ có thể quan tâm tới cái phi thường.
Và điều ngược
đời là ở chỗ cái phi thường tồn tại theo cách rất bình thường. Cái phi thường
chưa bao giờ tồn tại như cái phi thường, vì mọi sự giả vờ đó về việc là phi thường
đều ngu xuẩn và ngốc nghếch.
Một người thực,
người đích thực, không có ý tưởng nào về việc là cao siêu theo bất kì cách nào
với bất kì ai khác. Người đó sống trong một thế giới nơi so sánh không tồn tại.
Bây giờ, chính ý tưởng về việc tìm thầy hoàn hảo là dựa trên so sánh.
Một người
nào đó quyết định rằng mình sẽ đi tìm thầy hoàn hảo.
Anh ta đọc
nhiều sách…
Nhưng làm
sao bạn có thể tìm ra thầy bằng việc đọc nhiều sách? Bạn sẽ trở nên bị chất chồng
ngày càng nhiều với tri thức, và điều đó sẽ là rào chắn. Nhưng đó là điều xảy
ra. Ai đó bắt đầu nghĩ về Thượng đế, hay chân lí, hay cái đẹp - người đó bắt đầu
đọc sách. Người đó nghĩ đó là cách để tìm ra nó.
Tôi nhớ tới
một nhà thơ Ấn Độ lớn, Rabindranath Tagore. Ông ấy liên tục nghĩ về cái đẹp, nó
là gì. Nhà thơ, một cách tự nhiên, quan tâm tới cái đẹp. Tâm trí ông ấy đang
suy tư về đẹp là gì. Một đêm trăng tròn, ông ấy ở trên thuyền và đêm thực oai
nghiêm: trăng tròn trên bầu trời và im lặng của dòng sông và rừng khắp xung
quanh. Và ông ấy một mình trên thuyền. Chỉ thỉnh thoảng một con chim kêu lên -
tất cả có vậy - và thế rồi im lặng sẽ tới còn sâu hơn trước đó.
Nhưng Tagore
đang nghiền ngẫm về câu hỏi: Đẹp là gì? Và ông ấy đang nhìn vào trong kinh sách
cổ. Ông ấy chỉ có một cây nến nhỏ đang cháy trong cabin. Mệt mỏi, giữa đêm, thất
vọng, vì ngay trong kinh sách cổ đó ông ấy không thể nào tìm ra cái gì đó thực
về cái đẹp, chỉ toàn lời và lời và lời... ông ấy thổi tắt nến và ông ấy không
thể nào tin được vào mắt mình.
Đột nhiên,
khi ông ấy thổi tắt nến, từ cửa sổ, từ cửa ra vào, ánh trăng lập tức bước vào.
Ông ấy được mang sang một thế giới khác! Ông ấy chạy xô ra. Ông ấy nhìn lên trăng,
nhìn cái im lặng của đêm, và trăng được phản xạ trong sông, và toàn thể dòng
sông bàng bạc, và rừng thẳm sâu trên bờ... và đây là cái đẹp!
Nhưng ông ấy
đã nhìn và trong sách - và cái đẹp đang chờ đợi ông ấy, đợi ngay cạnh cửa.
Nhưng ánh sáng nến vàng nhỏ bé đó đã ngăn cản vẻ huy hoàng của đêm. Và ông ấy
đã trở nên bị dính líu và bận bịu với những ý nghĩ về kinh sách tới mức ông ấy
đã quên hoàn toàn rằng đây là đêm trăng tròn.
Ông ấy ném
kinh sách xuống sông, và đó là ngày cuối cùng ông ấy đã nghĩ về cái đẹp. Ông ấy
nói: Suy nghĩ sẽ không giúp gì. Cái đẹp có đó - chúng ta phải sẵn có cho nó chứ.
Ông ấy nói: Chúng ta phải thổi tắt nến đi, chiếc nến nhỏ của bản ngã, thế thì
Thượng đế tới theo nhiều cách, và cái đẹp xuyên thấu vào ông.
Nhưng đó là
điều xảy ra. Nếu bạn bắt đầu nghĩ về tìm thầy hoàn hảo, bạn sẽ đi vào trong
sách vở để biết thầy hoàn hảo là ai. Bây giờ, sách vở sẽ làm bạn hoang mang, vì
mọi sách sẽ kể ra một câu chuyện khác. Nếu bạn đọc sách của người Jaina, nó đơn
giản mô tả Mahavir, và nói đây là những đặc trưng của thầy hoàn hảo. Chúng
không phải vậy! Chúng là những đặc trưng của một thầy hoàn hảo đặc biệt,
Mahavir. Nếu bạn đọc sách Phật, chúng cũng mô tả các đặc trưng về một thầy hoàn
hảo - chúng cũng không phải, nhưng những điều đó chỉ là một biểu lộ của thầy
hoàn hảo, Phật. Vân vân và vân vân.
Và một khi bạn
bị mắc vào trong những kết luận nào đó từ các sách vở, bạn bắt đầu tìm, nhưng
việc tìm của bạn mang định mệnh thất bại từ chính lúc bắt đầu. Bạn đã có định
kiến tiên thiên rồi. Bây giờ bạn đang tìm Phật và Phật không bao giờ được lặp lại.
Bây giờ bạn đang tìm Zarathustra và Zarathustra chỉ là một lần và không bao giờ
có lần nữa. Bây giờ bạn đang tìm Lão Tử, và Lão Tử không bao giờ tới lần nữa. Một
lần là tất cả. Không cái gì đã bao giờ lặp lại. Tính sáng tạo của Thượng đế là
vô hạn. Ngài không có tính lặp lại.
Và nếu bạn đọc
về một Phật tử, một người nho giáo, một Đạo nhân, thế thì bạn sẽ bị hoang mang
hơn - vì họ mô tả các thứ khác nhau. Và bạn có thể là người rất láu lỉnh, người
thông minh, trí thức, và bạn có thể nối mọi đặc trưng đó lại với nhau. Bây giờ
bạn sẽ không bao giờ tìm ra thầy hoàn hảo. Bây giờ bạn có một ý tưởng mà tuyệt
đối ngớ ngẩn. Điều đó giống như lấy một bộ phận từ xe bò kéo, lấy bộ phận khác
từ xe Rolls Royce, và gắn chúng lại với nhau - và các bộ phận từ xe đạp và các
bộ phận từ động cơ... Bạn sẽ có cái gì đó kì lạ và nó sẽ không làm việc. Ngay cả
xe bò kéo cũng còn tốt hơn cái đó, dù chậm thế nào, nhưng bạn có thể đi được, bạn
có thể tới chỗ nào đó, bạn có thể dùng nó. Cái này sẽ là vô dụng hoàn toàn, con
quỉ này mà bạn đã tạo ra. Và đó là điều xảy ra.
Những người
đọc nhiều kinh sách và nhiều sách vở, họ dần dần dần dần tạo ra ý tưởng về thầy
hoàn hảo là ai. Và ý tưởng này chỉ là tổ hợp của nhiều đặc trưng được rút ra,
thu thập, từ các nguồn khác nhau. Điều đó là không thể được. Người như vậy chưa
bao giờ tồn tại, và người như vậy không bao giờ sẽ tồn tại. Bây giờ bạn đang
tìm ảo ảnh - bạn sẽ không bao giờ tìm thấy nó. Và bạn có thể bắt gặp nhiều thầy!
Nhưng vì ý tưởng của mình, bạn sẽ cứ bác bỏ họ, vì cái gì đó này khác sẽ thiếu
trong người đó. Chính vì ý tưởng của bạn mà bạn bỏ lỡ, không phải là các thầy
không có đó - họ bao giờ cũng hiện hữu.
Thế giới bao
giờ cũng đầy các thầy, và Thượng đế không phải là người keo kiệt, nhớ lấy. Người
Do Thái nói rằng chỉ có ba mươi sáu thầy trên thế giới vào một lúc - chỉ ba
mươi sáu thôi sao? Thượng đế là người keo kiệt thế sao? Và tại sao lại ba mươi
sáu? Nhưng dầu vậy người Do Thái vẫn là người hào phóng nếu bạn nghĩ tới các
tôn giáo khác. Người Jaina nói chỉ có hai mươi bốn thầy hoàn hảo trong toàn thể
việc sáng tạo, từ bắt đầu tới kết thúc. Một sự sáng tạo, từ bắt đầu tới kết
thúc, điều đó có nghĩa là hành triệu và hàng triệu thời đại... chỉ hai mươi bốn
thôi sao? Vậy là trong hàng triệu năm không có một thầy nào sẵn có.
Người Hindu
thậm chí còn keo kiệt hơn một chút: họ nói chỉ có mười. Người Ki tô giáo thậm
chí còn keo hơn: họ nói Thượng đế chỉ có một con trai, Jesus Christ. Duy nhất
Jesus Christ là thầy hoàn hảo, không ai khác. Thế thì làm sao bạn có thể tìm ra
được một thầy hoàn hảo?
Tôi nói với
bạn: Thượng đế hào phóng lắm. Không có giới hạn, không có con số cố định đâu.
Các thầy liên tục xảy ra. Chỉ mỗi việc mọi người mù, mọi người điếc. Điều này
gây đau! Biết rằng bạn là mù và điếc, điều này gây đau. Đó là lí do tại sao những
lí thuyết này có hấp dẫn. Chỉ hai mươi bốn, chỉ mười, chỉ một: đó là điều an ủi
lớn cho bạn, nhớ lấy. Điều đó nghĩa là nếu bạn đã không tìm ra được thầy hoàn hảo,
bạn có thể làm gì được? Đó không phải là trách nhiệm của bạn. Chỉ thỉnh thoảng
thầy hoàn hảo mới xảy ra, và lần này ông ấy không có ở đây. Bạn không tìm được
ông ấy thì đó không phải là lỗi của bạn. Nếu bất kì ai có lỗi, đó là Thượng đế,
không phải bạn. Bạn được làm giảm nhẹ.
Tôi nói với
bạn: các thầy hoàn hảo bao giờ cũng sẵn có - như hoa hồng bao giờ cũng sẵn có
và hoa sen bao giờ cũng sẵn có. Và mặt trời mọc mọi sáng, và có hàng triệu ngôi
sao bao giờ cũng sẵn có. Bạn chỉ phải mở mắt ra, bạn phải không bị bịt mắt.
Nhưng tình
huống của chúng ta thực sự là tồi tệ. Tôi đã đọc một câu chuyên - đây là câu
chuyện về bạn:
Một người
đàn bà vừa sinh con nhưng còn chưa thấy nó. Bà ấy đề nghị bác sĩ mang đứa bé tới
cho bà ấy, nhưng bác sĩ không chiều theo:
"Tôi e
nhìn nó ngay bây giờ không phải là ý hay cho bà."
Nhưng khi bà
ấy nài nỉ thiết tha, ông ấy bắt đầu biện minh cho việc từ chối của mình:
"Bà thấy
đấy, thưa bà, qua một tai nạn không may nhất của số phận, con bà được sinh ra bất
bình thường, và tôi cảm thấy sẽ là tốt cho bà được phục hồi đầy đủ sau việc
sinh nở trước khi thấy con bà."
"Nói
cho tôi đi, bác sĩ! Tôi phải biết điều gì đã ảy ra chứ!!! Tôi phải nhìn thấy
con tôi."
Bác sĩ, muốn
miễn cho bà ấy nhìn đứa con của mình, đánh bạo giải thích cho bà ấy về bản chất
của dị dạng: "Tôi sẽ nói thẳng, thưa bà. Con bà không có chân!"
Bà ấy há hốc
miệng kinh ngạc, nhưng được phục hồi từ tai hoạ bày, bà ấy tự bình tĩnh lại và
đề nghị được nhìn đứa con.
"Thưa
bà, với ước muốn miễn cho bà thấy sự thực trần trụi, tôi đã bỏ không nói cho bà
toàn thể tình huống... con bà không có chân không có tay."
"Bác sĩ
ơi," bà ấy khóc, "đem đứa con tới cho tôi đi. Nó sẽ có chân tôi và
tay tôi. Tôi phải thấy nó."
"Tôi hiểu,"
ông ấy đáp, "Tôi thậm chí phải độc ác hơn - con bà không có thân mình nữa."
"Không
chân! Không tay! Không thân!!" bà ấy nức nở. "Đem nó lại cho tôi đi.
Nó cần tôi còn nhiều hơn nữa."
Bác sĩ cuối
cùng nhân nhượng và đem đứa bé tới cho bà ấy. Bà ấy giật mình khi thấy nó. Được
bọc trong tã lót là một cái tai dài một bộ.
Bà ấy cầm
cái tai lên và đu đưa nó một cách an ủi: "Sẽ ổn thôi, con yêu, chúng ta sẽ
làm nó bằng cách nào đó..."
Bác sĩ ngắt
lời bà ấy: "Thưa bà, bà phí hơi thôi. Đứa bé điếc."
Đó là tình
huống con người đang ở vào. Bạn mù, bạn điếc, bạn không có tim... nhưng thấy điều
đó gây đau. Hiểu ra nó, nhận ra nó là đau đớn. Cho nên chúng ta liên tục tìm
cách giải thích để né tránh chân lí về bản thân chúng ta.
Đệ tử không
sẵn sàng - đó là lí do tại sao anh ta không thể thấy được thầy. Nhưng anh ta
liên tục nói không có thầy.
Tôi là sinh
viên trong đại học, và hôm đó là ngày chứng ngộ của Phật - ngày đó được tổ chức
kỉ niệm trong đại học. Và ông phó hiệu trưởng nói, với niềm đam mê và với xúc động
lớn lao, "Nếu như tôi đã ở vào thời của Phật, tôi chắc đã từ bỏ thế giới,
ngồi dưới chân ông ấy, đi theo ông ấy như cái bóng."
Và tôi biết
người này! Tôi không thể quan niệm được về ông ấy đi theo vị Phật. Tôi phải đứng
dậy. Và tôi nói, "Xin thầy rút lại lời của thầy, vì em biết hoàn toàn rõ:
thầy là người cuối cùng sẽ theo Phật. Và thầy nghĩ chư Phật không sẵn có bây giờ
sao? Thầy đã bao giờ đi tới Ramana Maharshi?"
Ông ấy phải
nói, "Không."
Tôi nói,
"Nhưng ông ấy vẫn còn sống. Mới mấy năm trước ông ấy vẫn còn sống. Ông ấy
là người đương đại với thầy."
Sự vụ này đã
xảy ra đâu đó quãng 1955, và Ramana chết năm 51, chỉ bốn năm trước. Và ông phó
hiệu trưởng là một ông già bẩy mươi tuổi. Tôi nói, "Ông ấy là người đương
đại với thầy. Arunachel không xa xôi gì. Trong thời Phật thầy phải mất vài năm
để làm cuộc hành trình đi tới Phật - nó chỉ một giờ bay thôi. Thầy đã tới đó
chưa?
Thầy có ở
cùng với J. Krishnamurti bao giờ chưa? Ông ấy vẫn còn sống. Và thầy đang nói với
xúc động và đam mê thế. Thầy đang cố lừa ai vậy?"
Nhưng ông ấy
là người tốt. Ông ấy hiểu ra vấn đề. Nước mắt tràn trên mắt ông ấy; ông ấy rút
lại lời của mình. Về sau ông ấy gọi tôi và ông ấy nói, "Nghe đây, nếu em
phải nói cái gì đó cho tôi, em có thể tới ở chỗ riêng tư."
"Sao lại
riêng tư? Thầy đã đưa ra phát biểu ở chỗ công cộng rồi: em phải bác bẻ nó ở chỗ
công cộng chứ. Và thầy đừng bao giờ làm phát biểu đó lần nữa, vì em vẫn sẽ ở
đây trong hai, ba năm. Thầy nghĩ kĩ về nó đi. Thầy đã ở vào thời của Phật nữa đấy,"
tôi bảo ông ấy.
Ông ấy giật
mình. Ông ấy nói, "Làm sao em biết?"
Tôi nói,
"Em biết chứ! Thầy cứ nhìn vào mắt em đây: thầy đã ở trong thời của Phật nữa
rồi, nhưng thầy chưa bao giờ đi cả. Và bây giờ thầy đang nói với xúc động thế.
Thầy đang lừa người khác, nhưng đó không phải là vấn đề lớn: thầy đang lừa bản
thân thầy."
Mọi người
liên tục nghĩ rằng thầy thường xảy ra chỉ trong quá khứ, bây giờ họ không xảy
ra, bây giờ họ không còn đó. Và cùng điều đó là hoàn cảnh trong thời Phật. Có
những câu chuyện: mọi người sẽ tới và hỏi Phật, "Ông có phải là thầy hoàn
hảo không?" Có những người sẽ đi tới Jesus và sẽ hỏi, "Ông có phải là
Chúa cứu thế mà chúng tôi đang chờ đợi không?"
Chúa cứu thế
có đó đang đứng trước mắt họ, ngay trước họ, và họ hỏi, "Ông có phải là
Chúa cứu thế không?" Nếu người đó nói không, họ sẽ hạnh phúc. Nếu người đó
nói có, họ sẽ bị khó chịu.
Jesus nói
có, đó là lí do tại sao họ đã khó chịu. "Vậy là kẻ giả vờ này nghĩ mình là
Chúa cứu thế đây sao? Con ông thợ mộc này, Joseph sao? Và chúng ta biết nó từ
thời trẻ con. Nó đã chơi trên phố của thị trấn, và bây giờ đột nhiên nó đã trở
thành Chúa cứu thế sao?"
Họ bao giờ
cũng hỏi. Vào thời Phật họ đã nói, "Trong quá khứ đã thường có các thầy
hoàn hảo, vào những ngày của Upanishads, vào những ngày của Vedas, thường có
các thầy hoàn hảo. Nhưng bây giờ, trong những ngày xấu xa này, họ tất cả đã biến
mất."
Và họ liên tục
nói cùng một điều bây giờ! Và họ sẽ tiếp tục nói cùng một điều mãi mãi. Họ thực
sự không muốn thấy.
Một người
nào đó quyết định rằng mình sẽ đi tìm thầy hoàn hảo.
Anh ta đọc
nhiều sách, tới thăm hết hiền nhân nọ tới hiền nhân kia, lắng nghe, thảo luận
và thực hành, nhưng anh ta bao giờ cũng thấy bản thân mình hoài nghi hay không
chắc chắn.
Bạn có thể đọc,
bạn có thể cãi, bạn có thể trở thành rất logic về nó, nhưng không cái gì sẽ
giúp ích, hoài nghi sẽ dai dẳng - trừ phi bạn kinh nghiệm. Duy nhất kinh nghiệm
giết chết hoài nghi. Nhưng làm sao kinh nghiệm được thầy? Bạn phải là đệ tử trước
nhất; bạn phải hoàn thành yêu cầu đó. Và yêu cầu về đệ tử là gì? Tính cầu nguyện
là yêu cầu của tính đệ tử. Năng lực chờ đợi. Năng lực là trống rỗng. Năng lực
buông xuôi. Năng lực là sẵn có. Đó là điều lời cầu nguyện là gì! Và nếu bạn biết
cách cầu nguyện, bạn sẽ biết mọi điều được cần để biết. Bạn sẽ không chỉ bắt gặp
thầy hoàn hảo - bạn sẽ bắt gặp bản thân Thượng đế.
Suy ngẫm về
những lời này của Rainer Maria Rilke:
"Cầu nguyện:
tới ai? Tôi không thể nói cho bạn được. Lời cầu nguyện là việc phát xạ bản thể
chúng ta khi đột nhiên bị bắt lửa; nó có chiều hướng vô hạn và vô chủ định, cái
đi kèm hừng hực của các hi vọng của chúng ta, cái đi qua vũ trụ mà không đạt tới
điểm đến nào. Ôi, nhưng sáng nay tôi biết tôi ở xa thế nào với những người tham
đó, người trước khi cầu nguyện, đã hỏi liệu Thượng đế có tồn tại không. Nếu
ngài không tồn tại hay chưa tồn tại, điều đó tạo ra khác biệt gì? Lời cầu nguyện
của tôi, cái sẽ đem ngài vào trong hiện hữu, vì toàn bộ nó là điều sáng tạo khi
nó nâng lên hướng tới cõi trời. Và nếu Thượng đế mà nó phóng chiếu ra từ bản
thân nó không còn mãi chút nào, chừng nấy càng tốt: chúng tôi sẽ làm đi làm lại
điều đó và nó sẽ ít xoàng xĩnh trong vĩnh hằng."
Lời cầu nguyện
tạo ra Thượng đế. Lời cầu nguyện tạo ra thầy hoàn hảo. Lời cầu nguyện có tính
sáng tạo. Lời cầu nguyện khải lộ - nó có tính khải lộ. Nó chuẩn bị cho bạn về
việc khải lộ.
Người ta phải
không đi tìm thầy: người ta phải học cách cầu nguyện... và thầy tới. Và thầy tới
theo cách riêng của thầy. Hay thầy gọi bạn tới dù bạn ở bất kì chỗ nào, nhưng
thế thì cuộc hành trình là khác toàn bộ - khi bạn được gọi tới. Phẩm chất là
khác, sự mãnh liệt là khác. Bạn không cảm thấy bạn tới: bạn cảm thấy bạn được gọi
tới. Bạn biết rằng không có khả năng nào cưỡng lại nó. Nó là không thể cưỡng nổi.
Bạn bị kéo tới! dường như một từ lực lớn đang kéo bạn. Bạn bất lực, nhưng bạn
xúc động vì bạn đã được chọn. Bạn tới vừa nhảy múa. Bạn may mắn là bạn đã được
chọn.
Chỉ cần chuẩn
bị bất kì chỗ nào bạn đang hiện hữu. Đừng hỏi: Nếu không có thầy hoàn hảo, phỏng
có ích gì mà chuẩn bị cho tính đệ tử? Đừng lo nghĩ. Thầy bao giờ cũng tồn tại.
Đó là nghĩa của những lời hay này của Rilke:
"Lời cầu
nguyện là việc phát xạ bản thể chúng ta khi đột nhiên bị bắt lửa; nó có chiều
hướng vô hạn và vô chủ định..."
Lúc ban đầu
bạn không biết lời cầu nguyện của bạn đi đâu; nó không thể có địa chỉ nào, nó
không thể có phương hướng nào.
Làm sao bạn
có thể cầu nguyện tới Thượng đế được? Bạn không biết Thượng đế - đó là lí do tại
sao bạn cầu nguyện. Bạn muốn biết Thượng đế là gì, nhưng bạn không biết. Đó là
lí do tại sao bạn đổ trái tim bạn ra. Nó đang chờ đợi cái không biết tới sở hữu
bạn. Đây là đức tin, đây là tin cậy.
Tâm trí ngần
ngại muốn trước hết được chắc chắn liệu có Thượng đế hay không: "Thế thì
tôi sẽ cầu nguyện." Rilke là đúng:
" Ôi,
nhưng sáng nay tôi biết tôi ở xa thế nào với những người tham đó, người trước
khi cầu nguyện, đã hỏi liệu Thượng đế có tồn tại không."
"Chúng
tôi sẽ cầu nguyện chỉ nếu Thượng đế tồn tại" - thế thì bạn sẽ không bao giờ
cầu nguyện cả, vì nếu không có việc cầu nguyện, bạn sẽ không bao giờ biết rằng
Thượng đế tồn tại. Bạn đã làm ra một điều kiện không thể được cho việc cầu nguyện.
Nó không được đáp ứng. Bạn phải cầu nguyện đã. Đừng hỏi câu hỏi liệu Thượng đế
có tồn tại hay không. Thượng đế là không liên quan tại điểm này. Tại điểm này,
làm lời cầu nguyện thành có thể đi.
Lời cầu nguyện
là bài ca của trái tim gửi tới cái không biết. Có thể ngài hiện hữu, có thể
ngài không hiện hữu, nhưng đó không phải là vấn đề. Người ta vui vẻ trong việc
rót trái tim mình ra. Nó là niềm vui lên bản thân nó. Liệu Thượng đế có tồn tại
hay không là phụ. Lời cầu nguyện là chính. Và khi lời cầu nguyện là chính, nó
khải lộ Thượng đế, nó mở mắt bạn ra. Nó tạo ra Thượng đế. Đột nhiên thế giới trở
nên rực cháy khi bạn rực cháy. Khi trái tim bạn bùng cháy, đột nhiên bạn thấy
toàn thế giới bùng cháy với điều thiêng liêng, với cái không biết, với điều huyền
bí.
"Nếu
ngài không tồn tại hay chưa tồn tại, điều đó tạo ra khác biệt gì?"
Điều này là
hay. Đây là cách người tôn giáo thực sự suy nghĩ.
"Lời cầu
nguyện của tôi, cái sẽ đem ngài vào trong hiện hữu..."
Lời cầu nguyện
sẽ trở thành bụng mẹ. Tôi sẽ cho việc sinh ra Thượng đế qua lời cầu nguyện của
tôi. Đây là cách tiếp cận Sufi. Rilke gần như phản xạ chính trái tim của Sufi
giáo. Nhưng đây là cách những người yêu bao giờ cũng cảm thấy, và nhà thơ và
nhà huyền môn.
"Nếu
ngài không tồn tại hay chưa tồn tại, điều đó tạo ra khác biệt gì? Lời cầu nguyện
của tôi, cái sẽ đem ngài vào trong hiện hữu, vì toàn bộ nó là điều sáng tạo khi
nó nâng lên hướng tới cõi trời. Và nếu Thượng đế mà nó phóng chiếu ra từ bản
thân nó không còn mãi chút nào, chừng nấy càng tốt: chúng tôi sẽ làm đi làm lại
điều đó và nó sẽ ít xoàng xĩnh trong vĩnh hằng."
Chúng ta sẽ
liên tục làm điều đó, chúng ta sẽ liên tục tạo ra Thượng đế. Thực ra, điều đó
không phải là việc sáng tạo: nó là việc khải lộ. Nhưng với những người cầu nguyện,
và với những người mà Thượng đế được khải lộ ra cho họ lần đầu tiên, điều đó có
vẻ như việc sáng tạo - dường như lời cầu nguyện đã tạo ra nó. Nó khải lộ. Nó lấy
đi một tầng bóng tối dầy khỏi mắt bạn. Tim bạn bắt đầu đập như nó đáng phải đập.
Bạn rơi vào trong nhịp điệu với cái toàn thể. Đột nhiên Thượng đế có đó.
Nhưng trước
khi Thượng đế xuất hiện, thầy xuất hiện. Thầy là móc nối giữa bạn và Thượng đế.
Đầu tiên lời cầu nguyện khải lộ ra thầy. Đó là một bước, và một nửa cuộc hành
trình. Và bước thứ hai và cuộc hành trình là đầy đủ.
Lời cầu nguyện
là ngây thơ: nó chờ đợi ai đó người không bao giờ tới... hỏi xin cái gì đó hay
ai đó mà không có đó, ít nhất là không có bây giờ. "Nếu có một Thượng đế
yêu con người, để ngài nói đi. Bây giờ."
Đây là điều
nhà thơ Seneca nói trong bi kịch Thyestes. Trái tim cầu nguyện đang nói,
"Tôi đang nói với ngài, tôi đang khiêu khích ngài - ngài có đó không? Cho
tôi chút ít hướng dẫn, một lời nhỏ, một cử chỉ đi, và điều đó sẽ có tác dụng.
Ngài có đó không?" Và cả nghìn lẻ một lần bạn hét lên trời và không có đáp
ứng. Lời cầu nguyện của bạn biến mất vào trong thinh không. Nhưng cho dù lời cầu
nguyện biến mất vào trong thinh không, và không có đáp ứng từ phía bên kia, từ
bờ bên kia, dầu vậy lời cầu nguyện vẫn liên tục thay đổi bạn.
Hiệu quả là
rất thấy được. Nó không thể thay đổi được thực tại bên ngoài bạn, nhưng nó liên
tục làm thay đổi bạn. Bạn trở nên ngày càng mềm mại hơn, ngày càng nữ tính hơn,
và một ngày nào đó khi bạn đã thực sự tan ra, khi bạn không còn cứng rắn và vững
đặc, khi bạn là dòng chảy, sự đáp ứng tới - và không từ bờ bên kia nhưng từ cốt
lõi bên trong nhất của bản thể bạn. Thực sự, đó mới là bờ bên kia.
Nhưng trước
khi điều đó xảy ra, bạn sẽ đi tới móc nối giữa bờ này và bờ kia, giữa cái này
và cái kia - móc nối đó là thầy. Và thực ra hỏi về thầy hoàn hảo là ngu xuẩn,
vì là thầy là hoàn hảo rồi; đó là việc lặp lại lời. Không có phân loại như vậy:
thầy không hoàn hảo và thầy hoàn hảo. Thầy là hoàn hảo! Nếu thầy có vẻ không
hoàn hảo với bạn, thế thì bạn có ý tưởng nào đó về hoàn hảo mà thầy không đáp ứng.
Thầy không bao giờ đáp ứng cho ý tưởng của bất kì ai. Thầy sống trong cuộc sống
riêng của mình, nhưng thầy sống trong hoàn hảo.
Nhớ lấy, khi
tôi dùng từ 'hoàn hảo' tôi bao giờ cũng dùng nó theo nghĩa đầy đủ. Tôi chưa bao
giờ dùng nó theo nghĩa bạn dùng nó. Đây là vấn đề thường xuyên. Khi tôi nói
'hoàn hảo', bạn bắt đầu nghĩ rằng "Thầy sẽ giống thế này, thầy sẽ giống thế
kia... rằng thầy sẽ không bao giờ giận." Nhưng đã có nhiều thầy giận dữ,
và khi họ giận họ là cơn giận hoàn hảo.
Ngay cả
Ramana Maharshi, một hiền nhân im lặng thế, thỉnh thoảng cũng trở nên giận. Và
thế thì ông ấy thực sự là cơn giận. Ông ấy là cơn giận, giận thuần khiết. Một
hôm chuyện xảy ra: một học giả tới và bắt đầu hỏi những câu hỏi ngu xuẩn.
Ramana lắng nghe. Những câu hỏi của ông ta rất dài và ông ta trích dẫn kinh
sách để hỗ trợ cho câu hỏi của mình. Và Ramana nói đi nói lại, "Xin ông
suy ngẫm cho. Điều duy nhất để ông làm là hỏi câu hỏi: Tôi là ai? Các câu hỏi
khác là không liên quan."
Nhưng người
này không nghe, và ông ta cứ lải nhải mãi. Đột nhiên, các đệ tử không thể nào
tin được điều đó, Ramana lấy cây thiền trượng của mình rượt theo người này và
người này sợ tới mức ông ta trốn ra ngoài phòng, và Ramana đuổi theo ông ta tới
tận biên giới đạo tràng. Và thế rồi ông ấy quay lại cười to. Các đệ tử không thể
nào tin được vào điều đó, và họ nói, "Nhưng thầy, và giận sao?"
Và ông ấy
nói, "Nhìn vào sự hoàn hảo của nó."
Nếu bạn có ý
tưởng rằng thầy không bao giờ giận, không nên giận, thế thì sẽ có khó khăn. Nếu
bạn có ý tưởng rằng thầy phải không có vẻ lo nghĩ, bạn sẽ gặp khó khăn.
Krishnamurti thỉnh thoảng có vẻ rất lo nghĩ. Ông ấy không có lo nghĩ của riêng
ông ấy, nhưng ông ấy trở nên lo nghĩ về bạn. Ông ấy liên tục nói một điều và mọi
người không hiểu, và họ liên tục khăng khăng trong dốt nát, và ông ấy trở nên rất
rất giận, gần như su ýt tự đánh mình.
Một người tới
tôi và người đó nói, "Tôi hay nghĩ rằng Krishnamurti phải giống như vị Phật,
nhưng hôm nay tôi thấy ông ấy trong bài nói của mình - ông ấy trở nên giận dữ
thế. Và chẳng vì lí do nào cả!"
Tôi nói,
"Bạn cứ kể cho tôi toàn thể câu chuyện đi."
Người đó
nói, "Ông ấy nói về sự kiện là không phương pháp nào được cần, không thiền
nào được cần. Bạn phải bỏ mọi phương pháp, mọi thiền, mọi con đường. Và thế rồi
một bà già, bà rất già đứng lên và hỏi, 'Làm sao làm điều đó?' Và ông ấy trở
nên rất giận."
Tôi nói,
"Tôi biết bà già đó, vì bà ấy tới tôi nữa. Và tôi có thể hiểu được; tôi thấy
thông cảm với Krishnamurti. Và bà đó đã từng nghe Krishnamurti trong gần năm
mươi năm. Bà ấy là một trong những thính giả thường xuyên, và bà ấy bao giờ
cũng ngồi trong góc kia, trong năm mươi năm. Bất kì khi nào Krishnamurti tới
Bombay, bà ấy đều có đó. Krishnamurti phải phát mệt về bà ấy nữa. Và bà ấy bao
giờ cũng hỏi 'làm sao?' Và ông ấy đang nói liên tục rằng không có 'làm sao' -
phương pháp nghĩa là làm sao. Khi chúng ta nói rằng không có phương pháp, chúng
ta đang nói không có làm sao. Hoặc là được chứng ngộ ngay bây giờ, hoặc vẫn còn
không chứng ngộ - đó là quyết định của bạn - nhưng không có làm sao. Quyết định
hiện hữu hay không hiện hữu, nhưng đừng hỏi làm sao. Không có làm sao! Hoặc mở
mắt bạn ra và nhìn, nếu không thì cứ giữ mắt nhắm và mơ, nhưng đừng hỏi làm
sao.
"Và
trong năm mươi năm ông ấy đã từng nói cùng một điều, và người đàn bà này vẫn cố
chấp. Và bà ấy bao giờ cũng đứng dậy và hỏi, 'Làm sao? Làm sao làm nó?' Điều đó
là tự nhiên. Ông ấy không thực sự giận theo nghĩa bạn trở nên giận: đó là đáp ứng
của ông ấy, nó thực sự là từ bi của ông ấy. Nó có phẩm chất khác. Ông ấy từ bi!
Ông ấy yêu! Ông ấy muốn giúp! Nhưng khi ông ấy thấy bạn đi mãi trong cùng một
đường mòn, lay bạn dậy, ông ấy trở nên tuyệt đối giận.
"Ý tưởng
này, về hoàn hảo trong tâm trí bạn, là ở chỗ ông ấy đáng phải như thế này, ông ấy
đáng phải như thế kia, ông ấy đáng phải như... Ông ấy không giống bất kì ai
khác. Ông ấy chỉ giống như bản thân ông ấy. Chỉ một điều là đúng, rằng ông ấy
bao giờ cũng toàn bộ. Bất kì cái gì ông ấy làm ông ấy đều toàn bộ trong nó. Ông
ấy chưa bao giờ bộ phận, chưa bao giờ phân mảnh. Nếu ông ấy giận, thế thì ông ấy
toàn bộ là cơn giận. Nếu ông ấy yêu, ông ấy toàn bộ là việc yêu. Tính toàn bộ
đó là phẩm chất duy nhất. Đó là điều tôi ngụ ý bởi 'hoàn hảo'."
Mọi thầy đều
hoàn hảo, cho nên không có vấn đề tìm thầy hoàn hảo. Trở nên ngày càng là một đệ
tử đi. Đó là chỗ bạn phải bắt đầu cuộc hành trình.
Anh ta đọc
nhiều sách, tới thăm hết hiền nhân nọ tới hiền nhân kia, lắng nghe, thảo luận
và thực hành, nhưng anh ta bao giờ cũng thấy bản thân mình hoài nghi hay không
chắc chắn.
Sau hai mươi
năm anh ta gặp một người mà mọi lời và hành động đều tương ứng với ý tưởng của
anh ta về người đã hiểu ra toàn bộ.
Bây giờ anh
ta đang mang ý tưởng nào đó trong hai mươi năm.
Anh ta đang
tìm bản sao giấy than. Anh ta đã quyết định thầy hoàn hảo là gì; bây giờ mọi điều
được cần là ai đó khớp với ý tưởng của anh ta. Và nhớ cho, chính ý tưởng của
anh ta là ai đó khác phải khớp vào. Đây là bản ngã, bản ngã thuần khiết. Đây
không phải là khiêm tốn. Đây không phải là cách thức của đệ tử. Đây không phải
là cách thức của người khiêm tốn. Đây không phải là cách thức của người tìm kiếm
thực.
Anh ta vận
hành qua kết luận. Anh ta đã quyết định rằng kết luận của anh ta là đúng. Làm
sao kết luận của bạn có thể là đúng được? Nếu kết luận của bạn là đúng, bản
thân bạn là thầy hoàn hảo và không cần bất kì thầy nào.
Sau hai mươi
năm anh ta gặp một người mà mọi lời và hành động đều tương ứng với ý tưởng của
anh ta về người đã hiểu ra toàn bộ.
Phải đã là một
sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Lữ khách
không để mất thời gian. "Thầy," anh ta nói, "với tôi dường như
là thầy hoàn hảo. Nếu thầy là vậy, cuộc hành trình của tôi đi tới chỗ kết."
Nhưng nhìn đấy,
vẫn cái 'nếu' còn dai dẳng. Bởi vì anh ta có kết luận nào đó đã tới trong dốt
nát của anh ta, làm sao anh ta có thể tin cậy vào điều đó được? Nếu anh ta
không thể tìm được ai đó tương ứng với ý tưởng của mình, người đó không phải là
thầy. Nếu anh ta tìm ra ai đó tương ứng, chỉ bởi trùng hợp ngẫu nhiên, bây giờ
hoài nghi lớn nảy sinh: có thể ý tưởng của anh ta là đúng, có thể ý tưởng của
anh ta là sai. Do đó mới có 'nếu'. Cho nên anh ta nói:
"Thầy với
tôi dường như là thầy hoàn hảo. Nếu thầy là vậy, cuộc hành trình của tôi đi tới
chỗ kết."
"Thực
ra ta là vậy đấy, như được cái tên đó mô tả," thầy nói.
Vì với một
thầy tất cả những điều này chỉ là cái tên. Gọi thầy là vị Phật, gọi thầy là người
chứng ngộ, một Christ, một Chúa cứu thế, một thầy hoàn hảo - đây chỉ là những
cái tên. Chúng không mô tả thực tại của người đó. Đây chỉ là những cái nhãn. Có
thể mọi người cần chúng, nhưng thầy không cần chúng. Thầy đã về nhà, nơi mọi lời
đã trở thành vô nghĩa. Thầy đã đi tới im lặng đó, nơi lời không tồn tại, tới im
lặng vô lời đó.
Cho nên thầy
nói:
"Thực
ra ta là vậy đấy, như được cái tên đó mô tả."
Thầy không
nói "Ta là vậy" hay "Ta không vậy." Thầy đơn giản nói,
"Vâng, mọi người mô tả ta bởi cái tên đó."
"Thế
thì tôi xin thầy nhận tôi làm đệ tử."
Nhưng người
này đã không chuẩn bị cho bản thân mình là một đệ tử chút nào. Và bây giờ đột
nhiên anh ta muốn được chấp nhận.
"Điều
đó," thầy nói, "ta không thể làm được vì trong khi ông có thể muốn có
thầy hoàn hảo, thì đến lượt thầy, ông ấy lại chỉ yêu cầu đệ tử hoàn hảo."
Tìm kiếm của
hai mươi năm phí hoài. Tìm kiếm của hai mươi năm chảy hết ra mương. Và thầy là
đúng. Thầy nói, "Anh nghĩ gì? Nếu anh muốn một thầy hoàn hảo, thế thì thầy
hoàn hảo muốn một Đệ tử hoàn hảo. Đi đi, trở thành hoàn hảo đi! Đi đi, trở
thành đệ tử trước hết!"
Mọi người
nghĩ tính đệ tử không là cái gì để được đạt tới. Trở thành đệ tử cần có kỉ luật
lớn. Cả hai từ, 'discipline- kỉ luật' và 'disciple- đệ tử', có nghĩa như nhau.
Gốc nguyên thuỷ nghĩa là năng lực học. Người này không có năng lực học. Hai
mươi năm anh ta đã đi với kết luận được đặt của mình. Anh ta đã không học một
điều nào. Trong hai mươi năm anh ta đã bắt gặp nhiều hiền nhân, nhưng anh ta đã
đánh giá ý tưởng của riêng mình cao hơn các hiền nhân đó. Anh ta đã không nhìn
vào thực tại của những con người đó mà anh ta đã bắt gặp. Anh ta vẫn còn bị cột
vào bản ngã của mình.
Và bây giờ
anh ta nói, "Vì ông tương ứng với ý tưởng của tôi, tôi nghĩ ông là thầy
hoàn hảo. Không phải là ông là thầy hoàn hảo đâu, nhưng chỉ bởi vì ông tương ứng
với ý tưởng của tôi thôi." Bây giờ, bạn là ai? Và làm sao ý tưởng của bạn
có thể quyết định được? Làm sao chúng có thể có tính quyết định được? Bạn đã
thu thập chúng từ đâu? từ sách vở? từ thảo luận? từ biện luận? Chúng toàn là được
vay mượn. Và trong dốt nát của mình bạn đã thu thập đủ mọi loại vô nghĩa.
Thực ra, khi
bạn đọc một cuốn sách, bạn không hiểu điều được viết ở đó - bạn chỉ hiểu cái mà
dốt nát của bạn có thể hiểu. Làm sao bạn có thể hiểu được Koran? Để hiểu Koran
bạn sẽ cần trái tim của một Mohammed. Làm sao bạn có thể hiểu được Gita? Để hiểu
Gita bạn sẽ cần tâm thức Krishna.
Nghe vài câu
chuyện:
"Mẹ
ơi," bé Jimmy nói, "Con muốn sống với Carol nhà hàng xóm."
"Nhưng
cả hai con mới sáu tuổi," mẹ nó mỉm cười. "Con sẽ sống ở đâu?"
"Trong
phòng ngủ của bạn ấy."
"Các
con sẽ sống bằng gì? Con không có tiền - và con sẽ làm gì nếu cháu bé tới?"
"Thế
này," Jimmy nói một cách nghiêm chỉnh, "chúng con đều ổn tới đó... và
nếu bạn ấy đẻ trứng thì con sẽ ấp trứng!"
Con người của
dốt nát gần giống như trẻ con, như đứa trẻ này, Jimmy. Bạn có thể có ý tưởng gì
về hoàn hảo? về thầy? về Thượng đế? Ý tưởng của bạn sẽ trẻ con. Và bạn sẽ cứ hiểu
cái mà bạn có thể hiểu được. Và lời bao giờ cũng mông lung. Chúng không thực
mang nghĩa. Nghĩa phải được bạn phóng chiếu vào trong lời. Lời chỉ là trống rỗng.
Bạn phải rót đầy nó bằng nghĩa của bạn.
Hai người
hippie đang trượt và trườn qua đầm lầy Louisiana. Khi một người hippie bước lên
đất khô, người hippie kia nói, "Này anh bạn, một con cá sấu cắn chân
tôi."
"Cá sấu
nào?" người hippie thứ nhất nói.
"Tôi
không biết, anh bạn. Tôi không thể biết con cá sấu nào từ những con khác."
Lời không có
xu hướng nào. Nó tuỳ vào bạn, bạn sẽ cho chúng nghĩa gì.
Một bác sĩ
được gọi tới để thăm một quí bà sống một cuộc đời rất phóng đãng. Khi được đề
nghị giải thích bà ấy cảm thấy thế nào, bà ấy bình luận, "Gần đây tôi đã
không ngủ được nhiều đêm. Đêm qua chúng tôi đã ăn tối ở Carlton sau khi xem hát
và rồi đã uống rượu. Tôi thực sự cảm thấy rằng dạ dầy của tôi mất trật tự."
"Tôi
hoàn toàn chắc về điều đó," ông ấy nói. "Bà phải ăn kiêng thôi."
"Ồ, bác
sĩ, đáng yêu làm sao!" bà ấy nói. "Mầu gì?"
Hay:
Một người Ai
len tới thăm Mĩ bình luận về phong tục Mĩ kì lạ. "Ông lấy một cốc rượu gừng,"
ông ta nói, "và thêm u ýt ki vào để làm cho nó mạnh và rồi thêm nước vào để
làm cho nó yếu; thêm chanh vào để làm cho nó chua và thêm đường vào để làm cho
nó ngọt. Ông nâng cốc và nói, 'Cốc này dành cho anh,' và thế rồi ông uống hết
nó cho bản thân ông!"
Khi bạn nhìn
cái gì đó, bạn đọc cái gì đó, bạn cho nó nghĩa. Nó bao giờ cũng là nghĩa của bạn.
Nó không thể khác được. Cho nên bạn có thể tiếp tục đọc nhiều sách nhất có thể
và bạn sẽ thu được nhiều rác rưởi - nhưng nghĩa sẽ là của bạn. Bạn có thể trích
dẫn Kinh Thánh, nhưng bạn sẽ đơn giản trích dẫn bản thân bạn.
Và điều đó
đã xảy ra trong nhiều thời đại. Khi một kinh sách được dịch sang ngôn ngữ khác,
nhiều điều thay đổi trong nó. Điều đó đã xảy ra cho Kinh Thánh, vì Jesus nói
trong tiếng Aramaic, thế rồi nó được dịch sang tiếng Do Thái, thế rồi sang tiếng
Hi Lạp, thế rồi từ tiếng Hi Lạp sang tiếng Anh. Nó đã được dịch nhiều lần tới mức
hương thơm nguyên bản của nó đã hoàn toàn bị mất. Nó không còn là cùng hương
thơm đó nữa. Nó không thể thế được. Nhiều người diễn giải, nhiều người dịch, đứng
vào giữa. Họ đã cho nghĩa riêng của họ cho nó.
Trong John
8: 24 chúng ta đọc: "Except ye believe that I am he, ye shall die in your
sins..." (Ngoại trừ ông tin rằng ta là ngài, ông sẽ chết trong tội lỗi của
ông.) Nhưng ở đây từ 'he' không thấy có trong bản thảo gốc chút nào. Người dịch
thời đầu đã bị phân vân bởi việc thiếu một đối thể, và do vậy họ đơn giả giả định
rằng từ này bị thiếu. Họ đã đổi phát biểu: "Except ye believe that I
AM" (Ngoại trừ ông tin rằng ta đây) - đây là phát biểu gốc - "Except
ye believe that I am." Họ phải đổi nó; nó có vẻ không đầy đủ: "Ông là
ai, mà chỉ nói 'ta đây'? Nó có vẻ không đầy đủ." Cho nên họ đã làm cho nó
đọc thành: "Except ye believe that I am he - I am Thượng đế." (Ngoại
trừ ông tin rằng ta là ngài - ta là Thượng đế.)
Do vậy cái đẹp
và ý nghĩa mênh mông của bản gốc đã bị mất. Nó vẫn theo cách đó trong Kinh
Thánh: "I am he." (Ta là ngài) Jesus đơn giản nói: "I am!"
(Ta đây). Cái ta đây là chính phẩm chất của sự tồn tại. Ông ấy không nói
"Ta là Thượng đế" - vì nếu bạn nói "Ta là Thượng đế," bạn
đã chấp nhận nhị nguyên của 'ta' và 'Thượng đế'. Thế thì 'đây' chỉ là chiếc cầu
giữa nhị nguyên này.
Khi Jesus
nói "Ta đây" ông ấy đơn giản nói rằng bạn có thể gọi nó là Thượng đế
hay bạn có thể gọi nó là ta. Nó là cùng một điều - hai cách diễn dạt cho cùng một
thứ.
Điều này là
tốt hơn nhiều, cao siêu hơn nhiều so với phát biểu của Upanishad nói:
"Ngươi là cái đó." Nó đã chấp nhận nhị nguyên. Để phủ nhận, nó phải
được chấp nhận. Nó phủ nhận; nó nói "Ngươi là cái đó," nhưng nhị
nguyên này được chấp nhận. Jesus là cao siêu hơn trong phát biểu của ông ấy khi
ông ấy nói "Ta đây."
Moses đã hỏi
Thượng đế khi ông ấy gặp ngài trên đỉnh núi, "Mọi người sẽ hỏi tôi về
ngài. Tôi sẽ phải nói gì về ngài?"
Và ngài nói,
"Cứ đi và bảo họ rằng Thượng đế nói: ta là ta đây."
Những lời kì
lạ, nhưng có ý nghĩa lớn lao.
Khi Jesus
nói, ông ấy nói từ tâm thức của ông ấy; ông ấy rót tâm thức của ông ấy vào
trong nó. Nhưng khi nó đạt tới bạn, chỉ những lời trống rỗng đạt tới. Linh hồn
của ông ấy bị mất trên đường. Thế rồi bạn rót vào trong từ trống rỗng đó bằng
linh hồn riêng của bạn, và bạn nói rằng bạn đã đọc nó trong Kinh Thánh hay bạn
đã đọc nó trong Koran hay trong Veda, nhưng bạn đang đọc chỉ bản thân bạn.
Mọi kinh
sách đều là những tấm gương - bạn chỉ thấy mặt bạn. Và nhớ lấy: nếu khỉ nhìn
vào gương, nó sẽ không tìm thấy thiên thần ở đó.
Người này đã
đọc, nghe, thảo luận, thực hành, nhưng hoài nghi vẫn còn lại. Hai mươi năm tìm
kiếm, anh ta đã đi tới bắt gặp nhiều hiền nhân nhưng không thể cảm thấy được
hài lòng với người nào. Anh ta chắc sẽ không cảm thấy hài lòng ngay cả với việc
được đương đầu với Thượng đế! Và có thể, ai biết được, anh ta có thể đã đương đầu
với Thượng đế rồi - vì Thượng đế tới trong nhiều kích thước và hình dạng thế...
Có một câu
chuyện về nhà huyền môn lớn:
Nhà huyền
môn này là người Mô ha mét giáo và ông ấy sống trong một đền thờ Hồi giáo,
nhưng ông ấy có một tín đồ Hindu. Người Hindu này là một Brahmin và người Hindu
này sẽ nấu thức ăn cho ông ấy và sẽ đem nó tới nhà thờ, và anh ta thường sống
cách nhà thờ năm dặm. Và chừng nào thầy còn chưa ăn, anh ta sẽ ngồi đó và chờ đợi
- và thầy là người khùng. Lúc thì thầy ăn vào buổi sáng, lúc thì vào buổi trưa,
lúc thì vào buổi tối, lúc thì vào buổi đêm, và đệ tử này sẽ đợi và anh ta sẽ
không ăn chừng nào thầy còn chưa ăn. Cho nên đôi khi anh ta bị đói cả ngày. Và
đến lúc anh ta về tới nhà anh ta mệt tới mức anh ta nghĩ, "Mai đi, bây giờ
ai muốn chuẩn bị thức ăn nữa?" Anh ta sẽ rơi vào giấc ngủ mà vẫn đói.
Một hôm thầy
nói, "Nghe đây, anh không cần tới như thế nữa. Đích thân ta có thể tới đó,
cho nên ngày mai anh chuẩn bị thức ăn đi và ta sẽ tới. Đi tới đây quá nóng, và
thế rồi đôi khi anh phải đợi cả ngày - bây giờ đổi điều đó đi. Anh sẵn sàng: ta
sẽ tới."
Ngày hôm sau
anh ta chuẩn bị thức ăn ngon cho thầy, vì thầy tới lần đầu tiên. Anh ta xúc động.
Đây là ân huệ: Thầy mình tới nhà mình! Anh ta trang hoàng ngôi nhà, anh ta rải
vài đoá hoa lên đường đi... nhưng không ai xuất hiện, chỉ mỗi một con chó. Anh
ta đuổi con chó ra vì con chó muốn ăn, và anh ta đuổi và con chó quay lại và muốn
vồ lấy thức ăn. Anh ta đã thấy nhiều con chó, nhưng con chó này thật kì lạ. Anh
ta đánh con chó nhưng nó vẫn tới. Anh ta thực sự cho nó một cú đánh rõ đau, thế
rồi anh ta thấy nước mắt chảy ra từ mắt con chó. Và thế rồi nó biến mất.
Anh ta đợi
mãi tới tối, và thế rồi anh ta nghĩ, "Người này khùng - ông ấy có thể đã
quên." Thế là anh ta đem thức ăn, đi tới đền thờ - và anh ta thấy nước mắt
trong mắt thầy. Cùng nước mắt đó! Anh ta phân vân và anh ta nói, "Sao thầy
khóc?"
Và thầy nói,
"Sao ta lại không khóc được? Anh đã đánh ta nhiều thế!"
Và đệ tử này
nói, "Thầy nói gì vậy? Tôi, và tôi có thể đánh thầy sao? Và thầy đã bao giờ
tới đâu và thầy đã hứa rồi!"
Và thầy nói,
"Ta đã tới - và không chỉ một lần. Ít nhất là mười hai lần!"
Thế rồi đệ tử
này nhớ lại con chó - đích xác mười hai lần con chó đã cố đi vào.
Và thầy nói,
"Bây giờ anh có năng lực thấy cái vô hình dạng. Đừng quá bị gắn bó với
hình dạng. Tại sao anh cứ phải được nghĩ chỉ trong hình dạng này, trong thân thể
này? Tại sao anh không thể tìm được ta trong các hình dạng khác?"
Cho nên tôi
nói có thể người tìm kiếm lớn này đã bắt gặp Thượng đế... thực ra làm sao bạn
có thể né tránh được Thượng đế? Bất kì ai bạn bắt gặp, bạn bao giờ cũng đi tới
bắt gặp Thượng đế. Nhưng anh ta có những ý tưởng lớn lao, và ngay cả Thượng đế
cũng không thể đáp ứng được cho những ý tưởng đó. Anh ta vẫn còn trống rỗng,
nghi ngờ, không tin cậy, và việc tìm kiếm tiếp tục.
Và một hôm
khi anh ta đi tới một người đáp ứng cho ý tưởng của anh ta, thầy tạo ra vấn đề
khác. Thế thì thầy nói:
"Điều
đó ta không thể làm được - ta không thể chấp nhận được ông làm đệ tử - vì trong
khi ông có thể muốn có thầy hoàn hảo, thì đến lượt thầy, ông ấy lại chỉ yêu cầu
đệ tử hoàn hảo."
Thầy đang
nói, "Nếu như ông đã chuẩn bị cho bản thân ông trong hai mươi năm này là một
đệ tử, ông chắc đã tìm thấy ta sớm hơn nhiều. Ông có thể bắt gặp ta nhiều lần,
nhưng ông đã bỏ lỡ. Và lần này ông cũng phải bỏ lỡ."
Đây là cách
tiếp cận Sufi để có tiếp xúc và giao cảm với thầy: trở thành đệ tử. Đừng tìm thầy:
tìm tính đệ tử đi. Và để tôi nhắc lại: Thầy xuất hiện khi đệ tử sẵn sàng.
..............................
0 Đánh giá