Chương 2. Có giao cảm

Chương 2. Có giao cảm

Price:

Read more

Thầy Hoàn Hảo (Tập 1) - Osho

Bài nói về câu chuyện Sufi

Chương 2. Có giao cảm


Câu hỏi 1

Osho ơi, hôm qua thầy nhắc rằng để là đệ tử người ta cần ở trong lời cầu nguyện - nhưng lời cầu nguyện đích xác là gì?

Lời cầu nguyện là một kinh nghiệm về phục sinh, tái sinh, việc sinh thành của cái nhìn mới, chiều hướng mới, cách nhìn mới vào mọi thứ, và cách hiện hữu mới. Lời cầu nguyện không phải là cái gì đó bạn làm: lời cầu nguyện là cái gì đó bạn trở thành. Nó là trạng thái của hiện hữu. Nó không liên quan gì tới lời mà bạn thốt ra trong đền chùa, đền thờ Hồi giáo, nhà thờ. Nó là đối thoại im lặng với sự tồn tại. Nó là ở trong hoà điệu với cái toàn bộ với cái toàn thể. Rơi vào trong hài hoà với cái toàn thể tôi gọi là lời cầu nguyện.

Kinh nghiệm này khổng lồ tới mức không thể nào đích xác về nó được. Nó là không xác định được. Mọi định nghĩa đều không đạt. Từng định nghĩa đều nói cái gì đó về nó, nhưng chỉ cái gì đó. Nhiều điều vẫn còn không được nói.

Và lời cầu nguyện là kinh nghiệm bao la tới mức nó chứa các mâu thuẫn. Cho nên người này có thể nói: Lời cầu nguyện là im lặng - và người đó là đúng, tuyệt đối đúng. Và người khác có thể nói: Lời cầu nguyện là đối thoại - và người đó cũng đúng, vì lời cầu nguyện là đối thoại trong im lặng. Bây giờ, đối thoại và im lặng dường như mâu thuẫn. Trong đối thoại bạn nói, trong im lặng bạn nghe. Trong đối thoại bạn trao đổi, trong im lặng bạn đơn giản hiện hữu ở đó - không có gì để nói.

Có thể nói gì với Thượng đế? Ngài biết mọi điều bạn có thể nói ngay chỗ đầu tiên. Bạn có thể cúi lạy. Bạn có thể mở hội. Nhưng dầu vậy việc cúi lạy của bạn, việc mở hội của bạn, lễ hội của bạn, lời cám ơn của bạn, lòng biết ơn của bạn, chúng vẫn là những cách nói. Bạn đang cố nói cái gì đó không lời, vì lời là rất nhỏ và trái tim thực sự muốn nói cái gì đó.

Cho nên nó là đối thoại, mặc dầu im lặng. Nó là trao đổi theo một nghĩa nào đó, vì bạn có đó và toàn thể sự tồn tại trở thành người yêu của bạn, toàn thể sự tồn tại trở thành một 'người'. Và vậy mà không có 'ta' và không có 'người' - cả hai biến mất. Cả hai gặp gỡ và hội nhập vào trong một đơn vị, một toàn thể hữu cơ. Cũng như hạt sương biến mất trong đại dương, bạn biến mất. Không có tách rời giữa bạn và sự tồn tại, cho nên làm sao có thể có đối thoại được?

Cả hai định nghĩa này đều đúng. Những người nói lời cầu nguyện là đối thoại - người Ki tô giáo nói điều đó, người Do Thái nói điều đó, người Hindu nói điều đó - họ là đúng. Nhưng họ đang nói chỉ là về một mảnh của kinh nghiệm vô cùng được gọi là lời cầu nguyện. Phật tử nói: Không có đối thoại. Người Jaina nói: Không có đối thoại - vì không có 'ta' và không có 'người'. Có im lặng tuyệt đối. Họ cũng đúng, nhưng thế thì rất khó để là đích xác về lời cầu nguyện.

Nó phải vẫn còn mông lung. Nó phải vẫn còn không thể nào hiểu thấu được. Bạn có thể có thoáng nhìn về nó, những thoáng nhìn lướt qua nhanh, nhưng bạn không thể có toàn thể lời cầu nguyện trong tay bạn được. Nó không thể bị qui lại thành một định nghĩa đơn giản.

Khi khoa học cho các định nghĩa, tôn giáo không thể cho các định nghĩa được. Bạn hỏi khoa học: khoa học là chính xác. Bạn hỏi "Nước là gì?" và nó nói "H2O." Đơn giản thế! Không cái gì còn lại sau H2O - mọi thứ đều được nói, vì nước là một đối thể. Nó có thể được phân tích.

Lời cầu nguyện mang tính chủ thể. Nó không phải là đối thể mà có thể được phân tích. Thực ra, bạn không thể trưng lời cầu nguyện của bạn ra cho bất kì ai. Và nếu ai đó cứ khăng khăng rằng "Tôi không thấy lời cầu nguyện nào trong ông," bạn không thể chứng minh được nó nữa. Nó giống như yêu - ít giống nước, nhiều giống yêu. Đó là lí do tại sao Jesus nói: Thượng đế là yêu. Yêu cũng không thể được định nghĩa.

Bao giờ cũng nhớ một điều: có những thứ bên dưới bạn và có những thứ bên trên bạn. Những thứ ở dưới bạn, bạn có thể đích xác về chúng được. Những thứ ở trên bạn, bạn không thể đích xác được về chúng. Chúng là lớn hơn bạn. Khi lời cầu nguyện tồn tại, không phải là lời cầu nguyện tồn tại trong bạn đâu - ngược lại, bạn tồn tại trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện là cao hơn bạn. Bạn chỉ rung động theo chiều rộng lớn đó, sự viên mãn đó.

Nhưng chúng ta đã được dạy, đặc biệt trong thế kỉ này, là đích xác về mọi thứ. Điều đó đã phá huỷ nhiều giá trị đẹp trong cuộc sống, ham muốn thường xuyên đó để được là đích xác. Và nếu bạn không thể là đích xác về cái gì đó, thế thì tâm trí cố phủ nhận nó.

Bạn không thể đích xác được về Thượng đế, cho nên tâm trí nói, "Thế thì Thượng đế không thể hiện hữu được." Bạn không thể đích xác về yêu; thế thì tâm trí nói, "Yêu chỉ là mơ và không gì khác." Bạn không thể đích xác được về đẹp; thế thì tâm trí nói, "Đẹp chỉ là hoang tưởng. Nó không phải là chân lí." Nhưng thế thì cái gì còn lại? Thế thì thế giới này không còn đẹp nữa, không còn yêu nữa, không còn tốt nữa - vì không còn Thượng đế nữa. Thế thì thế giới là trống rỗng nghĩa. Không phải là thế giới là trống rỗng nghĩa, nhưng ham muốn điên của bạn để là đích xác về mọi thứ đã làm cho nó thành trống rỗng nghĩa.

Nghĩa là hiện tượng tinh tế. Nó giống như hương thơm của hoa. Bạn không thể bắt giữ được nó trong tay - nhưng nó có đó, vẫn đang có đó, dù bạn bắt giữ nó hay không, dù bạn có thể giữ nó ở chỗ để an toàn hay không. Nó vẫn có đó!

Làm sao bạn có thể định nghĩa được âm nhạc? Nếu bạn đi định nghĩa nó, bạn sẽ phá huỷ nó. Thế thì nó chỉ là việc thu xếp các âm thanh, không gì nhiều hơn. Nó là tiếng ồn được bố trí theo cách nó không còn có vẻ là tiếng ồn. Chỉ là một loại tiếng ồn mượt mà. Tất cả những cái đang có đó có phải là âm nhạc không? Âm nhạc là nhiều hơn các nốt, nhiều hơn tổng của các nốt.

Nếu bạn liên tục hỏi câu hỏi này lặp đi lặp lại... thế thì thơ ca là gì? Chỉ là cách bố trí nào đó các từ sao? Nó không phải vậy. Nó là cái gì đó xảy ra trong việc bố trí từ nào đó, nhưng nó còn nhiều hơn bản thân việc bố trí từ đó. Nó không phải là văn phạm, nó không phải là ngôn ngữ - nó là cái gì đó siêu việt. Nó được khêu gợi bởi từ. từ được dùng như một cơ hội cho thơ ca xảy ra.

Và đích xác điều đó là điều âm nhạc là gì. Nhạc cụ được dùng, nốt được dùng, âm thanh được dùng, với im lặng đó mà âm nhạc xảy ra. Giữa hai âm thanh là âm nhạc, và giữa hai từ là thơ ca, và giữa hai dòng là mọi điều có ý nghĩa. Nó chưa bao giờ ở trong các dòng nhưng bao giờ cũng giữa các dòng. Và người ta phải học cách đọc khoảng trống, kẽ hở.

Dầu vậy, đôi điều có thể được nói về lời cầu nguyện - nhưng chúng sẽ không đích xác, cho nên tôi không thể đáp ứng cho ham muốn của bạn được. Chính bản chất của lời cầu nguyện ngăn cấm điều đó. Và thử làm cái gì đó ngược lại bản tính của nó là báng bổ.

Cho nên điều thứ nhất mà tôi có thể nói về lời cầu nguyện là: cảm giác biết ơn mênh mông, việc cám ơn. Bạn ở đây, trong thế giới đẹp này, cùng với những cây này và sông, núi và các vì sao. Trong cái đẹp vô cùng bạn đang đập rộn ràng, bạn sống động. Cơ hội này bạn đã không kiếm nó. Nó là món quà. Lời cầu nguyện là việc cám ơn về món quà này của cuộc sống. Chỉ thở cũng là niềm vui thế, chỉ mở mắt ra và thấy màu xanh. Chỉ lắng nghe tiếng líu lo của chim, hay âm thanh của nước chảy, hay im lặng của đêm và bóng tối như nhung. Hay bình minh và mặt trời mọc... chúng ta đã không kiếm nó! Nó đã được trao cho chúng ta, và chúng ta thậm chí đã không cám ơn. Liệu có Thượng đế hay không là không liên quan - việc cám ơn là điều phải có. Mọi người nghĩ rằng "Nếu có Thượng đế, thế thì chúng tôi sẽ cám ơn ngài." Tôi bảo bạn chính điều đối lập: "Nếu bạn bắt đầu cám ơn, bạn sẽ tìm thấy ngài." Không có cách khác. Nếu bạn bắt đầu cảm thấy biết ơn, bạn sẽ tìm thấy ngài vì ngài chỉ xảy ra trong chiều hướng biết ơn đó.

Cũng như bạn không thể thấy được từ tai và bạn không thể nghe được từ mắt - mắt chỉ có thể nhìn, tai chỉ có thể nghe - đích xác giống điều đó, chỉ lòng biết ơn mới có thể tìm ra Thượng đế. Lòng biết ơn là tính nhạy cảm của bạn với Thượng đế. Lời cầu nguyện là tính nhạy cảm đó.

Điều thứ hai: lời cầu nguyện là cách sống. Nó không chỉ là cái gì đó bạn làm mỗi sáng sớm như một nghi lễ. Nếu nó là nghi lễ, nó là vô nghĩa. Nếu nó là nghi lễ, nó sẽ không làm cho bạn có tính tôn giáo - nó sẽ làm cho bạn thành người Hindu, nó sẽ làm cho bạn thành người Mô ha mét giáo, nhưng không có tính tôn giáo. Lời cầu nguyện có cái gì đó tuyệt đối không hình thức, của trái tim, không của nghi lễ. Không phải cái gì đó mà bạn kết thúc bằng cách nào đó vào buổi sáng vì bạn phải làm nó và bạn đã được dạy làm nó - điều đó đã trở thành nghĩa vụ. Nếu bạn không làm nó, bạn cảm thấy chút ít mặc cảm; ngược lại, làm nó, bạn không cảm thấy vui vẻ từ nó. Khi bạn không làm nó, chỉ mặc cảm nảy sinh. Để tránh mặc cảm đó, bạn liên tục làm nó. Đây không phải là lời cầu nguyện.

Lời cầu nguyện là cách sống. Tôi ngụ ý gì? Con người của lời cầu nguyện vẫn còn trong lời cầu nguyện hai mươi bốn tiếng một ngày. Người đó ngủ trong lời cầu nguyện, giấc ngủ của người đó là một loại lời cầu nguyện. Người đó thảnh thơi trong giấc ngủ dường như người đó thảnh thơi trong lòng Thượng đế. Khi người đó đi ngủ, người đó ngủ trong Thượng đế. Khi người đó thức dậy, người đó thức trong Thượng đế. Người đó mở mắt ra và điều đầu tiên tới với tim người đó và với bản thể người đó là lòng biết ơn, hoàn toàn biết ơn. Người đó ăn Thượng đế, người đó uống Thượng đế. Người đó bước đi trong Thượng đế. Người đó thở trong Thượng đế, người đó thở Thượng đế. Hai mươi bốn giờ của người đó là sự liên tục của lời cầu nguyện. Nó cứ chạy như âm nhạc nền tảng. Bất kì cái gì người đó làm, điều đó không tạo ra bất kì khác biệt nào - lời cầu nguyện liên tục.

Và tôi không nói rằng bạn phải bắt đầu lặp lại "Ram, Ram, Ram," hay "Allah, Allah, Allah." Vấn đề không phải là lặp lại. Nếu bạn bắt đầu lặp lại, "Ram và Ram và Ram," thế thì nó sẽ là việc can thiệp vào cuộc sống của bạn. Thế thì bạn sẽ không có khả năng dẫn lái đúng trên đường, vì tâm trí bạn sẽ bị phân chia. Thế thì bạn sẽ không có khả năng làm bất kì công việc nào một cách toàn bộ.

Cho nên tôi không nói lặp lại bất kì cái gì. Vấn đề không phải là lặp lại bằng lời. Nó chỉ là một cảm giác, sự hiện diện. Cũng như người mẹ ngủ trong đêm và con cô ấy có đó bên cạnh cô ấy... và trời có thể đang trong mùa mưa, với mây và sấm chớp trên trời, nhưng cô ấy sẽ không bị thức dậy bởi mây và sấm. Nhưng nếu đứa trẻ chỉ trở nên chút ít không thoải mái, bắt đầu khóc, cô ấy sẽ được đánh thức dậy ngay lập tức. Sấm không đủ để đánh thức cô ấy, nhưng con cô ấy... Ngay cả trong giấc ngủ một phần của bản thể cô ấy vẫn nhớ tới đứa con. Đó là cách lời cầu nguyện là vậy.

Bạn sống ở bãi chợ, bạn làm việc, nhưng sâu bên dưới tại chính cốt lõi của bản thể bạn, bạn liên tục cúi mình với Thượng đế - lời cầu nguyện liên tục, lòng biết ơn liên tục. Đôi khi nó trào lên bề mặt khi bạn có khoảnh khắc im lặng; bằng không, nó liên tục đi ngầm.

Lời cầu nguyện là cách sống, không phải là cách có, mà là cách hỏi. Nó không thúc ép, không muốn sống từ quyền lực và sở hữu, mà từ khẩn nài để được phép hiện hữu. Việc hỏi là điều đối lập với đòi hỏi. Việc hỏi có tính mạo hiểm. Nó giao phó bản thân bạn cho im lặng và tính bất định của sự tồn tại.

Lời cầu nguyện không bao giờ đòi hỏi. Không có khả năng nào của bất kì đòi hỏi nào trong lời cầu nguyện vì chúng ta không thể đòi cái gì. Nhưng chúng ta có thể hỏi, cũng như đứa trẻ nhỏ hỏi mẹ nó. Không có đòi hỏi trong nó; nó bất lực, nó phụ thuộc. Nó đơn giản hỏi. Khi nó đói, nó khóc - đó là điều lời cầu nguyện là gì. Nó là sự bất lực như trẻ con.

Chúng ta nhỏ thế và sự tồn tại vô hạn thế... chúng ta chỉ hiện hữu vài khoảnh khắc ở đây, và sự tồn tại bao giờ cũng ở đây và bao giờ cũng sẽ ở đây. Chúng ta chỉ là những con sóng nhỏ trong đại dương vô hạn này. Chúng ta có thể hỏi, nhưng chúng ta không thể đòi hỏi. Chúng ta có thể hỏi vì chúng ta không là người lạ với sự tồn tại, chúng ta không phải là người ngoài. Chúng ta thuộc vào nó. Chúng ta là một phần của nó. Sự tồn tại đã giúp chúng ta. Chính ham muốn của sự tồn tại là chúng ta hiện hữu. Chúng ta có thể hỏi. Nhưng trong việc hỏi, không có đòi hỏi. Nếu nó được đáp ứng chúng ta cám ơn. Nếu nó không được đáp ứng, chúng ta cám ơn. Nhớ lấy điều đó. Đó là cái đẹp của lời cầu nguyện.

Nếu nó được đáp ứng, chúng ta cám ơn, hiển nhiên. Nếu nó không được đáp ứng, dầu vậy chúng ta vẫn cám ơn. Tại sao chúng ta cám ơn ngay cả khi nó không được đáp ứng? Vì thế thì người biết lời cầu nguyện là gì, người sống lời cầu nguyện, cũng biết rằng đôi khi chúng ta hỏi về một thứ mà không tốt cho chúng ta. Sự tồn tại biết rõ hơn. Nếu nó được cần nó sẽ được đáp ứng. Nếu nó không được cần nó sẽ không được đáp ứng.

Tôi đã nghe:

Búp bê của một đứa trẻ bị vỡ. Và nó khóc trên những mảnh vỡ nhỏ, nó nói với anh nó, "Em sẽ cầu nguyện Thượng đế để gắn các mảnh này lại với nhau."

"Em mong đợi Thượng đế trả lời lời cầu nguyện của em sao?" cậu anh hỏi.

"Anh sẽ thấy rằng Thượng đế sẽ trả lời," cô bé dự đoán.

Hai giờ sau khi cậu anh quay lại nó hỏi cô bé. "Thế nào, Thượng đế đã trả lời chưa?"

"Rồi ạ," cô bé đáp, trỏ vào các mảnh vỡ. "Ngài nói, 'Không."'

Đây là lời cầu nguyện. Bạn có thể hỏi, nhưng bạn không thể đòi hỏi. Nếu ngài nói không, thế thì điều đó là hoàn toàn được. Chung cuộc, quyết định là ở ngài. Việc đòi hỏi nghĩa là quyết định đã được lấy. Việc đòi hỏi nghĩa là bạn muốn Thượng đế tuân theo ý chí của bạn. Việc hỏi đơn giản nghĩa là, "Tôi để ham muốn của tôi ra trước ngài, nhưng ngài cứ theo ý của ngài đi - ý của ngài sẽ được thực hiện, vương quốc của ngài tới." Đây là những lời cuối cùng của Jesus trên cây chữ thập - đây là lời nguyện!

Một nhà thơ lớn, Huub Oosterhuis, nói:

Không ai có thể cầu nguyện mà không có lời, vì không ai tồn tại bên ngoài ngôn ngữ và mọi thứ đều là đối thoại.

Bây giờ, bạn thấy không? Phật nói: Lời cầu nguyện là im lặng. Và cả hai đều đúng. Oosterhuis cũng đúng. Từ quan điểm nào đó nó là đúng: không ai có thể cầu nguyện mà không có lời - vì không ai tồn tại bên ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ với chúng ta gần giống như đại dương đối với cá. Ngôn ngữ là đại dương của chúng ta.

Cho nên Oosterhuis là đúng. Và bởi vì ông ấy là nhà thơ, ông ấy hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ. Chỉ nhà thơ mới hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ - không phải nhà ngôn ngữ, không phải nhà ngữ pháp. Nhà ngữ pháp chỉ biết thân ngôn ngữ, nhà thơ biết trái tim của nó, linh hồn của nó, tinh thần của nó, chiều vô hình của nó.

Ông ấy là đúng: không người nào tồn tại bên ngoài ngôn ngữ và mọi thứ đều là đối thoại.

Vâng, lời cầu nguyện là đối thoại. Bộ phận đang nói với cái toàn thể. Bộ phận đang nói tới cái toàn thể. Và bạn sẽ phải học đối thoại này. Chẳng lẽ đôi khi ham muốn không nổi lên trong bạn để nói chuyện với cây sao? Biết hoàn toàn rõ rằng chúng sẽ không trả lời. Đôi khi bạn không nói lời chào với đoá hồng trong bụi sao? Bạn có thể đã không nói điều đó bởi vì nó có vẻ ngớ ngẩn thế, nhưng ham muốn chẳng lẽ không nảy sinh trong bạn sao? Đôi khi bạn không cảm thấy cần nói với các vì sao? Nếu bạn đã không cảm thấy, thế thì bạn đã đánh mất năng lực cảm rồi. Đôi khi bạn không chạm vào đá với tình yêu và đam mê lớn sao? Bề mặt của nó! Đôi khi bạn đã không cảm thấy cần nói cái gì đó với mọi cái vô hình bao quanh bạn sao? Đó là lời cầu nguyện, đó là đối thoại đấy.

Và người ta phải thu lấy dũng cảm. Vâng, người ta phải dũng cảm thế - chỉ thế thì lời cầu nguyện mới có thể xảy ra. Rất dễ đi vào trong nhà thờ và cầu nguyện, vì mọi người chấp nhận điều đó. Không ai sẽ gọi bạn là điên. Thực ra, mọi người sẽ nghĩ bạn có tính tôn giáo lớn, người tốt, người Ki tô giáo tốt, người Cơ đốc giáo hay người Hindu. Mọi người sẽ kính trọng bạn vì điều đó. Nhưng nếu bạn bắt đầu nói với cây... Nhìn mà xem: bạn có thể nói với cây chữ thập trong nhà thờ, cây gỗ chết - bạn không thể nói với cây đang sống. Và nếu bạn không thể nói được với cây đang sống, làm sao bạn có thể nói được với cây chữ thập?

Bắt đầu nói với sự tồn tại, với tự nhiên đi. Điên chút ít vào. Đôi khi thoát ra khỏi nhà tù của cái gọi là lành mạnh của bạn. Nó đang dẫn bạn tới mất trí, cái gọi là lành mạnh này. Hàng nghìn người phát điên mọi ngày. Hàng nghìn người tự tử khắp thế giới mọi ngày. Và hàng triệu người liên tục sống cuộc sống đờ đẫn và xám xịt, không vì lí do nào khác - chỉ vì một lí do: họ đã không cầu nguyện. Họ đã không có khả năng nói chuyện với sự tồn tại. Họ đã không có khả năng đổ trái tim họ ra. Bạn có biết tại sao phân tâm đã trở thành quan trọng thế trong thế giới hiện đại? Vì mọi người đã quên mất cách cầu nguyện.

Tu sĩ đang bị thay thế bởi nhà phân tâm bởi một lí do duy nhất: vì mọi người thường đổ trái tim họ vào tự nhiên; bây giờ họ không tìm được cách nào để đổ trái tim họ ra. Họ đi tới nhà phân tâm, họ trả tiền cho điều đó. Nhà phân tâm lắng nghe - họ đổ trái tim họ ra. Điều này tuyệt đối vô nghĩa. Bạn có thể làm cùng việc đó khi ngồi trong vườn. Và cây là tốt hơn nhà phân tâm vì chúng lắng nghe chăm chú thế, mãnh liệt thế. Nói với tảng đá đi! Và bạn có thể nói bất kì cái gì và chúng sẽ không bực mình. Bạn có thể đổ trái tim bạn ra và gánh nặng của bạn sẽ biến mất và căng thẳng của bạn sẽ biến mất.

Trong quá khứ con người bao giờ cũng sống cuộc sống không nặng gánh, ít căng thẳng thế. Lí do duy nhất là: mọi người đều có khả năng đi vào trong lời cầu nguyện. Điều đó đã là tự nhiên. Mọi người sẽ đi và nói với núi hay với sông hay với mặt trời hay với mặt trăng... đây toàn là các khuôn mặt của Thượng đế! Các biểu hiện của ngài. Sống động, đập rộn ràng, dao động, ngay bây giờ.

Và khi tôi nói bắt đầu nói chuyện với tự nhiên, tôi đang cho bạn bài học thứ nhất của lời cầu nguyện. Nhà thờ là do con người làm ra. Và bất kì cái gì do con người làm ra, tránh nó ra - vì những thứ con người làm đều mang đủ loại thần kinh mà con người có trong mình. Tại sao không đi tới cái gì đó do Thượng đế làm? Nếu bạn muốn cảm thấy Thượng đế, đi tới cái gì đó do ngài làm, nơi bạn có thể tìm thấy chữ kí của ngài.

Nhà thờ do con người làm, đền chùa cũng thế, gurudwaras cũng thế. Ở đó bạn sẽ chỉ thấy con người và chính trị. Ở đó bạn sẽ thấy con người và mọi ngu xuẩn của con người. Cây ít ngu hơn, sao thì không ngu. Bạn đi tới chúng, bạn mở trái tim mình ra - bắt đầu đối thoại với tự nhiên đi. Và phép màu xảy ra một ngày nào đó, khi đột nhiên bạn thấy rằng cây đã đáp ứng - thế thì bạn sẽ biết lời cầu nguyện là gì, thế thì bạn sẽ hiểu Oosterhuis người nói lời cầu nguyện là đối thoại. Vâng, một ngày nào đó cây trả lời, bạn chỉ phải đợi đủ lâu. Bạn chỉ phải thuyết phục cây rằng bạn đang thực sự nói với nó, có vậy thôi. Điều đó cần chút thời gian.

Và con người đã từng có tính tàn phá với cây tới mức chúng đã trở nên bị đóng. Để cho cây cảm thấy rằng bạn không phải là người điên, rằng bạn không bạo hành, hùng hổ, rằng bạn đã tới với tình yêu, yêu lớn lao. Rằng bạn muốn cảm thấy Thượng đế. Và đấng sáng tạo có thể được cảm thấy chỉ trong việc sáng tạo của ngài - đó là chỗ bắt đầu của cuộc hành trình.

Cho nên lời cầu nguyện đầu tiên phải là đối thoại - đối thoại với ai? Tôi nói đối thoại với tự nhiên. Cho nên ngay cả một người vô thần cũng có thể đi tới nó. Tôi chưa đem Thượng đế vào đâu. Đầu tiên đi vào trong đối thoại với tự nhiên đi - đó là ABC của lời cầu nguyện. Và thế rồi, dần dần dần dần, bắt đầu đi vào trong im lặng cùng tự nhiên. Ngồi bên cạnh bụi hồng và đi vào trong im lặng mênh mông, không lời giữa bạn và bụi hồng, chỉ im lặng đập rộn ràng... các con sóng của im lặng.

Qua đối thoại bạn sẽ biết Thượng đế vì ngài được biểu lộ trong tự nhiên, và qua im lặng bạn sẽ biết Thượng đế vì ngài là không biểu lộ. Qua đối thoại bạn sẽ biết Thượng đế như việc sáng tạo, và qua im lặng bạn sẽ biết Thượng đế như đấng sáng tạo.

Cho nên Phật cũng đúng; ông ấy đang nói về điều tối thượng trong lời cầu nguyện. Nhưng điều tối thượng là có thể chỉ nếu bạn làm điều gần nhất. Điều tối thượng hiện hữu chỉ qua điều gần nhất.

Người Do Thái cổ đại có một từ; từ đó là maranatha - nó có nghĩa "Tới đi, Trời, tới đi!" Đó là lời cầu nguyện. "Tôi sẵn sàng đây. Trái tim tôi mở vì ngài! Tôi đang đợi. Tới đi, Trời, tới đi!"

Việc chờ đợi lớn, với mọi cửa ra vào mở ra và mọi cửa sổ mở ra. Để cho làn gió thoảng của ngài thổi qua bạn. Và mặt trời của ngài tới cốt lõi sâu nhất của bạn và rót đầy bạn bằng ánh sáng: "Tới đi, Trời, tới đi!"

Người Do Thái có từ khác; đó là 'Hosanna' - điều đó nghĩa là "Tới và giải thoát cho chúng tôi! Tới và giải thoát chúng tôi khỏi dốt nát của chúng tôi! Tới và giải thoát cho chúng tôi khỏi tính hữu hạn của chúng tôi. Tới và giải thoát chúng tôi khỏi những giới hạn của chúng tôi, khỏi sự tù túng này mà chúng tôi đã tạo ra quanh bản thân mình. Tới và cho chúng tôi tự do! Tới và giải thoát - tới và giải phóng chúng tôi!"

Và cái tên Christ, Jesus, nghĩa là người giải thoát. Nguyên gốc là 'Jehoshuah' hay Jesus. Nó có nghĩa là người đã tới để giải thoát. 'Hosanna' và 'Jehoshuah' - hai từ này bắt nguồn từ cùng một gốc Do Thái, liên quan lẫn nhau như câu hỏi và câu trả lời, hi vọng và đáp ứng, lời cầu nguyện và câu trả lời cho lời cầu nguyện này.

Nếu bạn thực sự đi vào trong đam mê mãnh liệt với Thượng đế, nó được trả lời. Jesus là câu trả lời cho lời cầu nguyện của nhiều người. Phật là câu trả lời cho lời cầu nguyện của nhiều người, Mahavir cũg vậy, Mohammed cũng vậy, Nanak cũng vậy. Đây là những câu trả lời! Nghĩ về họ như những câu trả lời cho những người đã cầu nguyện.

Mới hôm nọ tôi đã bảo các bạn: Khi đệ tử sẵn sàng, thầy xuất hiện - và không có cách khác. Khi đệ tử đã thực sự chuẩn bị trái tim mình, đã mở bản thân mình ra, là mong manh, đã bỏ vũ khí của mình xuống, Thầy lập tức xuất hiện. Đệ tử là câu hỏi; thầy là câu trả lời.

Lời cầu nguyện là cây cầu bắc giữa câu hỏi và câu trả lời giữa đệ tử và thầy, giữa người tìm kiếm và cái được tìm, giữa cái trực tiếp và cái tối thượng, giữa ham muốn và đáp ứng.

Lời cầu nguyện được sinh ra từ kinh nghiệm của chúng ta về yêu, cách chúng ta gọi lẫn nhau. Đôi khi bạn không cảm thấy khác biệt sao? Chúng ta dùng cùng từ, nhưng phẩm chất thay đổi. Khi bạn nói 'anh' với ai đó mà bạn dửng dưng, từ này vẫn như thế, nhưng không có lời cầu nguyện trong nó. Và khi bạn nói 'anh' với người đàn bà bạn yêu hay người đàn ông bạn yêu, từ vẫn như thế nhưng phẩm chất là khác. Khi bạn nói 'anh' với người đàn bà bạn yêu, có lời cầu nguyện, có yêu. Từ này rung động, sống động, chảy trào. Khi bạn nói 'anh' với ai đó ở bãi chợ, từ này là chết.

Lời cầu nguyện đã nảy sinh, dần dần dần dần, từ kinh nghiệm về yêu. Khi một người rơi vào tình yêu với một người, niềm vui lớn thế nảy sinh mà, dần dần dần dần, nó trở thành rõ ràng cho nhưng người đủ thông minh, đủ nhận biết rằng "Nếu nhiều vui vẻ thế tới bởi việc rơi vào yêu với một người, bao nhiêu vui vẻ sẽ tới nếu mình rơi vào yêu với cái toàn thể!" Yêu lát đường cho lời cầu nguyện.

Mọi người cầu nguyện cho nhau khi họ đang trong yêu. Nhìn vào mắt người yêu khi họ nhìn nhau. Cái nhìn đó là thiêng liêng. Nó có thể nhất thời, nó có thể mất, nhưng với một khoảnh khắc ngọn lửa có đó. Trong một khoảnh khắc, khách đã tới từ cõi bên kia. Mọi người cầu nguyện lẫn nhau khi họ đang trong yêu. Cách một người nói 'anh' (hay 'em') với người kia, một cách kính trọng, thân thiết, mãnh liệt. Cách người nào đó nói 'anh' (hay 'em') với bạn - một cách hi vọng, mong đợi, mạnh mẽ, tiếng nói của người đó tìm kiếm hay chăm nom.

Có thể là lời cầu nguyện tới Thượng đế đã phát triển ra theo cách này khi mọi người có nói với nhau lúc họ đang trong yêu. Vâng, đó là cách nó đã dần dần bừng lên trong tâm thức con người - rằng nếu chúng ta có thể nói 'người' với sự tồn tại bằng tình yêu lớn, mong đợi, mạnh mẽ, tìm kiếm, cầu khẩn, hỏi, với nước mắt trong mắt, với hi vọng, với sự bất lực; nếu chúng ta có thể nói 'người' với sự tồn tại, đó là lời cầu nguyện, sự bắt đầu của lời cầu nguyện. Một điểm tới khi 'ta' và 'người' cũng biến mất - đó là kết thúc của lời cầu nguyện, cao trào.

Vào thời xưa lời cầu nguyện thành vấn đề tới mức không một kinh sách nào có câu hỏi này được nảy sinh: Lời cầu nguyện là gì? Vedas không hỏi câu hỏi này: Lời cầu nguyện là gì? Koran không hỏi câu hỏi này: Lời cầu nguyện là gì? Lời cầu nguyện được coi là đơn giản thế, nó hiển nhiên thế với mọi người... khi một thứ là hiển nhiên, không ai hỏi câu hỏi cả. Bây giờ mọi người đang hỏi: Lời cầu nguyện là gì? Yêu là gì? Những điều này đã biến mất khỏi cuộc sống; chúng đã trở thành câu hỏi.

Nếu bạn đi ngược lại xa vào lúc bắt đầu của tâm thức con người, không ai hỏi: Thượng đế là gì? Thượng đế là ai? Thượng đế có tồn tại hay không? Gần như là Thượng đế đã bước đi cùng mọi người trên thế gian, ngài đã sống cùng mọi người trên thế gian. Ngài là thấy được thế, không ai hỏi câu hỏi cả. Nghĩ mà xem - có ai hỏi câu hỏi này: Mặt trời là gì? Ánh sáng là gì? Không ai đã từng hỏi.

Nhưng nếu một hôm nào đó đột nhiên toàn thể nhân loại bị mù, và thỉnh thoảng một người có mắt tới, thế thì mọi người sẽ hỏi người đó: Mặt trời là gì? Ánh sáng là gì? Câu hỏi này đơn giản chỉ ra ốm yếu mà chúng ta đã rơi vào tới sự kiệt quệ nào.

Trong Kinh Thánh, không có từ nào dành cho lời cầu nguyện. Nó là kinh nghiệm trộn lẫn nhiều tới mức ngay cả một từ cũng không được cần cho nó - nhiều tới mức trong tiếng Do Thái khó mà dịch được từ 'pray', 'lời cầu nguyện'. Việc cầu nguyện là việc gọi tới, việc hân hoan, việc cười, việc khóc, việc mắng nhiếc, việc van nài, tuỳ theo cách người ta cảm thấy. Nhưng không có từ cho nó.

Con người đã đánh mất nhiều năng lực, và một trong những năng lực quan trọng nhất đã từng có là năng lực cầu nguyện - vì chính chỉ qua lời cầu nguyện mà chúng ta tạo ra chiếc cầu giữa cái ta tí hon của mình và cái vô hạn và cái tuyệt đối.

Bạn nói: Đích xác lời cầu nguyện là gì?

Tôi không thể định nghĩa nó một cách đích xác được - tôi chỉ có thể chỉ dẫn. Tôi có thể hướng dẫn. Tôi có thể cho bạn vài chiều hướng. Bạn sẽ phải biết nó bằng kinh nghiệm riêng của bạn.

Họ nói rằng con người có thể được chia thành ba nhóm: những người làm cho mọi sự xảy ra, những người quan sát mọi sự xảy ra, và những người ngạc nhiên về điều đã xảy ra. Xin ở phân loại thứ nhất cho. Đi vào trong lời cầu nguyện đi - đó là cách duy nhất để biết nó là gì. Yêu đi nếu bạn muốn biết yêu là gì; có nếm trải về nó. Làm sao bạn có thể giải thích cho ai đó, người chưa bao giờ nếm rượu, xem nó là gì và cái gì xảy ra qua nó? Người đó chưa bao giờ say. Không có cách nào để giải thích. Mọi điều bạn có thể làm là mời người đó, để người đó uống rượu. Để người đó cảm thấy bị mất hút. Để người đó quên thế giới. Để người đó biến mất vào trong thế giới của ngất ngây... và người đó sẽ biết. Đó là cách duy nhất để biết.

Lời cầu nguyện là chất gây say. Lời cầu nguyện làm cho bạn say với Thượng đế. Nhưng chỉ người say mới biết nó, đích xác nó là gì. Và ngay cả những người biết nó cũng không thể đưa nó vào lời được. Để nó trở thành kinh nghiệm đi. Để chúng ta không chỉ thảo luận về nó - để chúng ta đi vào trong nó. Chính khoảnh khắc này. Nếu bạn cảm thấy biết ơn, im lặng lớn sẽ bao quanh bạn, phúc lành lớn sẽ bắt đầu bao quanh bạn. Chính khoảnh khắc này! Ngay bây giờ! Bạn có thể cám ơn về mọi điều mà cái toàn thể đã làm cho bạn.

Nếu bạn là người tôn giáo, bạn có thể nghĩ về cái toàn thể dưới dạng Thượng đế; nếu bạn không vậy, không cần dùng từ 'Thượng đế'. Quên hết tất cả về nó đi. Từ không thành vấn đề. Gọi nó là 'cái toàn thể'. Chỉ cảm thấy điều nó đã làm cho bạn, nó đã cho bạn bao nhiêu và nó vẫn liên tục rót bao nhiêu vào bạn. Và bạn chưa bao giờ cám ơn nó; bạn không biết ơn thế. Và dầu vậy nó vẫn cứ rót vào! Việc chia sẻ của nó, việc cho của nó, là vô điều kiện.

Và khoảnh khắc việc cám ơn của bạn nảy sinh trong bạn - điều này có thể nảy sinh chính khoảnh khắc này - có lời cầu nguyện. Không cái gì khuấy động trong bạn, mọi thứ đều tĩnh lặng. Nhưng đột nhiên người ta cảm thấy giống như việc cúi mình với lực không biết nào đó, với lực huyền bí nào đó. Việc cúi mình đó là lời cầu nguyện.

Câu hỏi 2

Mọi lần tôi ngồi xuống để viết cho thầy một câu hỏi, câu trả lời bao giờ cũng tới trước khi tôi kết thúc

viết. Vậy mà ham muốn này để viết cho thầy và để được trả lời vẫn còn lại. Ham muốn này là gì?

T.b. Tôi biết câu trả lời.

Anahata, không câu trả lời nào sẽ giúp cả - đó là lí do tại sao ham muốn này còn lại. Một câu hỏi nảy sinh, và nếu bạn im lặng chờ đợi điều nhất định xảy ra là câu trả lời sẽ nảy sinh. Thực ra, câu trả lời có đó rồi, đó là lí do tại sao câu hỏi đã nảy sinh. Câu trả lời có đó trước khi câu hỏi đã nảy sinh trong bạn.

Câu trả lời đang che giấu bản thân câu hỏi. Nếu bạn đi sâu vào trong câu hỏi bạn sẽ thấy câu trả lời. Câu hỏi không là gì ngoài cái vỏ cứng bao quanh câu trả lời. Bạn bao giờ cũng tìm thấy câu trả lời nếu bạn đợi đủ lâu. Và nếu bạn chờ đợi một cách im lặng. Nhưng dầu vậy, không câu trả lời nào sẽ giúp ích - đó là lí do tại sao ham muốn hỏi vẫn còn lại.

Người ta phải đi ra ngoài các câu hỏi và ra ngoài câu trả lời - vì từng câu trả lời đến lượt nó sẽ tạo ra những câu hỏi mới. Cho nên nếu một câu hỏi được trả lời, câu trả lời đến lượt nó sẽ tạo ra mười câu hỏi... và cứ thế cứ thế mãi. Và bạn có thể cứ tiếp tục mãi. Và bạn cứ săn đuổi và săn đuổi, và bạn sẽ không bao giờ đạt tới.

Khi mọi câu hỏi biến mất - và không chỉ câu hỏi mà mọi câu trả lời nữa - thế thì ham muốn hỏi sẽ biến mất. Chưa bao giờ có điều đó trước đây.

Tái bút của bạn làm tôi nhớ tới một câu chuyện Sufi rất nổi tiếng:

Một nhà huyền môn Sufi đi tới Mecca trên cuộc haj - cuộc hành hương của ông ấy. Ông ấy tới một thị trấn, một thị trấn nhỏ, và ngay cả trước khi ông ấy tới thị trấn đó thông điệp đã đạt tới rằng nhà huyền môn lớn này sắp tới thị trấn, cho nên cả thị trấn tụ tập lại. Nhà huyền môn này là người rất im lặng, và dân thị trấn hỏi ông ấy, van nài ông ấy cho họ bài nói. "Chúng tôi đã từng chờ đợi nhiều tháng rồi, và bây giờ thầy đã tới chúng tôi không thể để thầy đi chừng nào chúng tôi chưa nghe được cái gì đó từ thầy."

Thầy ngần ngại. Ông ấy nói, "Nhưng ta không có gì để nói cả." Nhưng họ không chịu nghe. Họ cứ kiên trì. Thầy nói, "Và cái mà ta biết thì không thể nói được!" Nhưng họ vẫn không nghe. Thầy lại càng ngần ngại, họ càng trở nên quan tâm hơn, cũng là tự nhiên.

Và họ nói, "Chúng tôi sẽ ngồi đây, chúng tôi sẽ nhịn ăn và chúng tôi sẽ không ăn cho tới khi thầy cho chúng tôi thông điệp - vì hiếm khi có một người chứng ngộ như thế đi qua làng này. Chúng tôi không thể cho phép thầy đi được."

Thế là thầy đồng ý. Họ đi tới nhà thờ. Cả thị trấn tụ tập lại, với mong đợi lớn về điều thầy sẽ nói. Và họ biết điều đó hoàn toàn rõ, rằng trước đây thầy chưa bao giờ nói trong bất kì làng nào khác. Thầy đã từng du hành, tới từ xa nghìn dặm, và mọi người đã từng hỏi thầy, nhưng thầy đã giữ im lặng. Họ sung sướng - đó là một đặc ân rằng thầy đã đồng ý nói với họ.

Thầy tới. Thầy nhìn mặt khán giả và hỏi một câu hỏi: "Các ông có biết ta định nói gì với các ông không?"

Tất cả họ đều nói, "Tất nhiên làm sao chúng tôi có thể biết được? Chúng tôi không biết đâu." Tất cả họ đều nói, "Chúng tôi không biết thầy định nói gì."

Thầy nói, "Thế thì ta không thể nói cho những người dốt nát như vậy được, những người thậm chí không biết ta sẽ định nói về cái gì!"

Mọi người rất phân vân và thầy đi mất. Ham muốn của họ trở nên bùng cháy hơn. Họ nghĩ câu trả lời của họ không đúng. "Phải rồi, thầy là đúng: làm sao thầy có thể nói cho những người dốt nát như thế được?" Họ chạy xô lại, đưa thầy trở lại và họ nói, "Thầy nói nữa đi. Câu trả lời của chúng tôi là sai, nhưng thầy tới đi - cho chúng tôi một cơ hội nữa."

Thầy tới và thầy nói, "Các ông có biết ta định nói về gì không?"

Họ nói, "Có! Tất cả chúng tôi đều biết thầy định nói về gì."

Và thầy nói, "Thế thì xong rồi! Nếu các ông đã biết rồi, thế thì cần gì để ta nói cho các ông? Thị trấn đã chứng ngộ thế còn gì!"

Bây giờ mọi người thậm chí còn phân vân hơn. Và thầy lại rời bỏ họ lần nữa. Họ nói chuyện giữa họ với nhau; cả thị trấn sốt ruột chỉ với một điều: "Phải làm gì? Và ngày mai thầy sẽ ra đi! Phải tìm ra cách nào chứ."

Họ nói và họ thảo luận và họ tìm ra cách thức và họ nửa đêm đi và họ đánh thức thầy dậy và họ nói, "Chúng tôi tới đây - câu trả lời của chúng tôi là sai, chúng tôi lấy làm tiếc. Thầy hỏi lại đi!"

Thầy quay lại nhà thờ và lần nữa thầy hỏi, "Các ông có biết ta định nói gì cho các ông không?" Và một nửa số người nói, "Có," và một nửa số người nói, "Không." Đó là cách duy nhất. Bây giờ thầy trốn đằng trời?

Và thầy nói, "Ha, ha, ha! Vậy những người biết nên nói cho những người không biết. Cần gì ta ở đây? Cứ nói cho mọi người đi, nói chuyện giữa các ông đi. Ta tuyệt đối không cần thiết.

Thực ra, nếu bạn đi sâu vào trong câu hỏi riêng của bạn, bạn không cần hỏi bất kì ai. Mọi việc hỏi đều không cần thiết, vì bất kì câu trả lời nào tôi cho bạn đều thực sự đã có bên trong bạn rồi. Tôi chỉ làm nó rõ ràng ra thôi. Tôi giúp nó trồi lên bề mặt trong bạn. Tôi không có câu trả lời làm sẵn cho bạn. Tôi không có sách giáo lí vấn đáp. Không phải là câu trả lời của tôi được cố định mãi mãi.

Bạn hỏi câu hỏi. Tôi nhìn vào trong câu hỏi của bạn.

Tôi cố làm điều tự bản thân bạn đáng phải làm, và thế rồi tìm câu trả lời ở đó, và tôi làm cho nó thành rõ ràng cho bạn. Công việc của thầy là làm cho câu trả lời của riêng bạn thành rõ ràng cho bạn. Thầy đem tới tính hiếm hoi, thầy không cho bạn bất kì câu trả lời nào. Thầy không phải là học giả, thầy không phải là giáo sư. Thầy không cho bạn câu trả lời. Thầy đơn giản đem tới sự sáng tỏ, cách nhìn, năng lực để thấy.

Cho nên nếu bạn ở đây... như Anahata ở đây, và anh ấy đã từng lắng nghe tôi, và sáng tỏ phát triển lên, và minh bạch phát triển lên. Cho nên bất kì khi nào một câu hỏi nảy sinh trong anh ấy, đột nhiên câu trả lời có đó. Điều này là hay. Đây là cách nó phải vậy - với mọi người. Thế thì tôi sẽ được để dành cho rắc rối.

Nhưng nhớ lấy: vấn đề không phải là các câu hỏi được trả lời. Cái gì đó nhiều hơn được cần tới. Chỉ 'cái gì đó nhiều hơn' đó sẽ là lộc trời cho mà sẽ làm thoả mãn bạn, đáp ứng cho bạn, làm dịu cơn khát của bạn. Việc truyền trao đó - việc truyền trao đó của năng lượng từ thầy sang đệ tử, như ngọn lửa nhảy từ cây nến đã cháy sang cây nến chưa cháy. Vấn đề không phải là câu trả lời hay câu hỏi. Nó không phải là nói ra lời, nó không phải là trí tuệ. Nó có tính tồn tại.

Điều được cần là ngọn lửa nhảy từ tôi sang bạn, để cho bạn cũng trở nên bắt lửa, cháy, để cho bản thể bên trong của bạn không còn trong bóng tối nữa. Trong bóng tối mọi loại câu hỏi nảy sinh. Nếu bạn trở nên thông minh, rõ ràng, tỉnh táo, nhận biết hơn một chút, bạn sẽ thấy câu trả lời.

Nhưng từng câu trả lời sẽ đem tới nhiều câu hỏi hơn. Nó là quá trình vô hạn, đến phát ngán. Bạn có thể cứ tiếp tục mãi... Điều đó sẽ không làm biến đổi bạn. Đó là lí do tại sao, Anahata, ham muốn hỏi vẫn còn lại.

Câu hỏi 3

Việc trở thành sannyasin của tôi đã tạo ra khuấy động lớn trong cộng đồng của tôi. Họ nghĩ rằng tôi đã phát rồ, mặc dầu tôi chưa bao giờ thấy hạnh phúc và phúc lạc như tôi đang vậy bây giờ. Osho ơi, xin thầy nói cái gì đó về nó?

Họ đúng đấy! Bạn đã phát rồ. Họ có ý tưởng nào đó về lành mạnh là gì. Vì ý tưởng đó, họ không thể nói được rằng bạn là lành mạnh. Nếu bạn lành mạnh, thế thì họ là không lành mạnh. Ý tưởng đó có thể cho phép sự lành mạnh chỉ cho một người: hoặc cho họ hoặc cho bạn. Và ai sẵn lòng để mất tính lành mạnh riêng của mình?

Họ nói cùng điều đó với Jesus, "Ông điên rồi." Họ nói cùng điều đó với Socrates, "Ông điên rồi." Họ nói cùng điều đó với tôi, rằng tôi điên. Họ sẽ nói cùng điều đó với bạn, rằng bạn điên. Họ không thực sự nói gì về bạn đâu; họ đơn giản đang nói rằng sự hiện diện của bạn tạo ra rối loạn trong họ. Chính sự hiện diện của bạn làm cho họ nghi ngờ về tính lành mạnh của họ.

Và, một cách tự nhiên, nghi ngờ này trở thành rất rất mạnh vì bạn đang vui vẻ và bạn hạnh phúc và bạn đang mở hội và họ khổ. Lành mạnh phải cho mọi người vui vẻ chứ. Nó đã không cho họ vui vẻ. Họ trở nên nghi ngờ, hoài nghi. Bất kì khi nào họ bắt gặp một người thực sự vui vẻ, họ trở nên nghi ngờ về toàn thể phong cách sống của họ: "Có cái gì sai trong đó nhỉ?" Và, một cách tự nhiên, để bảo vệ phong cách sống của họ, họ phải nói với bạn rằng bạn là sai. Đó là biện pháp phòng thủ của họ. Đừng giận họ, cứ hiểu vấn đề của họ đi.

Vấn đề của họ là ở chỗ toàn thể cách sống của họ đang lâm nguy bởi vì sự hiện diện của bạn. Họ sẽ gọi bạn là điên. Và nếu việc dung thứ cho sự tồn tại của bạn trở thành quá khó với họ, họ sẽ sát hại bạn. Họ đã làm điều đó với Jesus. Họ đã từng làm điều đó cho hàng nghìn nhà huyền môn suốt nhiều thế kỉ. Và tôi đang cố hết sức mình để biến đổi bạn thành nhà huyền môn.

Tính chất sannyas này không phải là hiện tượng bình thường đâu. Nó là bước nhảy lượng tử vào trong những điều huyền bí của cuộc sống. Và, tất nhiên, tôi sẽ cho bạn một cách nhìn khác toàn bộ. Họ nhất định phản ứng. Và họ sẽ cứng rắn với bạn.

Tôi nhớ tới một câu chuyện cổ của một giáo sư đại học tên là A2:

A2 sống ở vùng Đất Bằng. Mọi thứ ở Đất Bằng chỉ có hai chiều, chiều dài và chiều rộng. Không cái gì có chiều sâu. Nếu một người bạn quay sang bên, bạn không thể nhìn thấy người đó. Mọi người sống trong nhà phẳng, ăn bữa ăn phẳng, uống nước giải khát phẳng, nghĩ các ý nghĩ phẳng, và sống cuộc sống phẳng.

A2 dạy toán cao cấp ở đại học. Một đêm, ông ấy lao vào tiệc tùng vì một số bạn bè. Trên gác đứa con trai nhỏ sớm phát triển của ông ấy, Pentagon, đang cố ngủ. Khi nó trở mình trên giường, nó bắt đầu mơ. Nó mơ một giấc mơ mà không ai đã từng mơ trước đây. Đột nhiên, Pentagon mơ thấy rằng mọi thứ đã không chỉ có chiều dài chiều rộng, mà có cả chiều sâu! Nhà và phố và đặc biệt các cô gái trông khác thế. Nó cảm thấy khác biệt. Cuộc sống lấy toàn thể phạm vi mới. Chiều mới này đã ảnh hưởng tới cách mọi người nghĩ và hành động. Thế rồi, bất ngờ như nó đã bắt đầu, giấc mơ kết thúc.

Pentagon không thể giữ được giấc mơ như cái đã được giữ kín bên trong bản thân nó. Chân trần của nó chạm sàn và mang nó xuống cầu thang ngay giữa bữa tiệc của bố nó. Ở đó nó đứng trong bộ quần áo ngủ nhăn nhúm đổ ra giấc mơ về một chiều chưa từng nghe nói tới về cuộc sống. Pentagon cố giải thích chiều sâu giống cái gì và cảm thấy giống cái gì. Mọi người không phải tiếp tục sống cuộc sống nhỏ bé phẳng và suy nghĩ các ý nghĩ nhỏ bé phẳng. Họ có thể chìm vào gốc rễ của họ trong toàn thể một chiều sâu mới.

A2 không thể che giấu được sự bối rối của mình. Ông ấy cũng không thể làm cho Pentagon im miệng. Bữa tiệc kết thúc trong sự hỗn loạn. Mãi trong đêm A2 vẫn cố suy luận với con trai mình, nhưng Pentagon dán chân xuống đất và cứ nói rằng chiều khác của cuộc sống tồn tại.

Sáng hôm sau, Pentagon kể cho bất kì ai chịu nghe. Mọi người nghĩ cậu bé đáng thương này đã mất tiếp xúc với thực tại rồi. Cho nên vì sự lành mạnh của mình và của họ, họ khoá trái cậu bé lại.

Mọi người đang sống ở đất bằng. Họ đã đánh mất chiều sâu. Và chiều đó là Thượng đế! Tôi đang dạy bạn chiều sâu ở đây. Và một khi bạn bắt đầu sống trong chiều sâu, bạn sẽ thường xuyên trong rắc rối - rắc rối từ mọi người. Bạn sẽ hoàn toàn hạnh phúc bên trong bản thân bạn, cực kì hạnh phúc, vì bạn chưa bao giờ như vậy trước đây. Cuộc sống của bạn sẽ trở nên ngày càng giầu có hơn mọi khoảnh khắc. Bạn sẽ biết mọi thứ mà bạn chưa bao giờ biết chúng. Toàn thể sự tồn tại sẽ trở thành phiêu diêu. Cây sẽ xanh hơn và hoa hồng sẽ hồng hơn, và lần đầu tiên bạn sẽ hát những bài ca của chim. Và lần đầu tiên bạn sẽ thấy xứ sở thần kì làm sao mà bạn bao giờ cũng đang sống với mắt nhắm. Cuộc sống của bạn sẽ trở thành điệu vũ, bài ca sẽ bùng phát trong bản thể bạn.

Nhưng từ bên ngoài, từ bầy đàn, từ đám đông, sẽ có những tiếng la hét. Họ sẽ nói rằng bạn đã phát điên, rằng bạn rồ dại. Đây không phải là cách hiện hữu! Nhảy múa, ca hát, một cách phóng túng sao? Yêu, sống, với sự phóng túng đó sao? Điều này không được phép. Điều này là đi ngược lại qui tắc của trò chơi. Người ta phải nghiêm chỉnh và buồn, và người ta phải có mặt dài. Ít nhất các thánh nhân không được mong đợi nhảy múa, hay ca hát, hay vui vẻ. Thánh nhân phải là người chết.

Bằng việc trở thành một sannyasin bạn đã đi vào trong một cách nhìn mới. Cái nhìn đó sẽ thường xuyên hiện diện trong một thế giới mà không hỗ trợ cho nó, điều không thể hỗ trợ cho nó. Bạn sẽ không được hỗ trợ bởi mọi người. Bạn sẽ đụng độ với họ. Cho nên bạn phải học một điều: khi bạn ở cùng với mọi người, đừng quá vui vẻ. Giữ nó ở trong đi. Và đừng cố nói về chiều hướng của độ sâu - trừ phi ai đó sẵn lòng nghe nó. Hành động dường như bạn buồn đi. Hành động dường như bạn có mặt dài. Hành động mà bạn như là thánh nhân chết. Tránh mọi người đi. Khi bạn muốn nhảy múa, nhảy múa một mình.

Và đây không phải là giáo huấn mới tôi đang cho bạn đâu. Người Sufi bao giờ cũng nói điều đó, rằng khi bạn cầu nguyện, cầu nguyện khi bạn một mình. Không ai sẽ nghe thấy nó, không ai sẽ biết về nó. Ngay cả vợ bạn cũng không biết! Vào nửa đêm, thức dậy và cúi lạy trong niềm vui mênh mông, vui sướng. Đừng để người đàn bà đó biết, vì cô ấy sẽ nói với hàng xóm ngày mai và mọi thứ sẽ lan ra xung quanh, được thổi phồng lên theo nhiều cách. Và bạn sẽ trong rắc rối.

Những người này đang sống một cuộc sống rất buồn, thần kinh, không lành mạnh chút nào, bệnh hoạn. Cho nên khi ai đó trở thành lành mạnh, người đó phải rất tỉnh táo.

Có lần một trong những người bạn của tôi đã trở nên điên. Anh ấy bị cảnh sát bắt - câu chuyện này xưa rồi, trước khi Ấn Độ bị phân chia - và anh ấy đã bị giữ trong tù ở Lahore. Anh ấy bị cầm tù ở đó trong chín tháng. Sau sáu tháng, chỉ là tình cờ... nhưng anh ấy trở nên lành mạnh. Anh ấy đã bị điên và anh ấy đã tìm ra một lon phenol, thế là anh ấy uống nó. Lon này chắc phải đã đưa tới cho buồng tắm. Anh ấy tìm thấy nó trong nhà tắm và anh ấy bị điên cho nên anh ấy đã uống nó.

Nó làm cho anh ấy nôn oẹ ầm ĩ, cũng là tự nhiên. Trong mười lăm ngày anh ấy bị tiêu chảy, nôn mửa, nhưng tiêu chảy và nôn mửa đó đã chữa cho anh ta khỏi chứng điên. Có thể đó là việc tẩy rửa tốt; mọi chất độc trong thân thể đều được tống ra ngoài. Và sau mười lăm ngày, khi anh ấy trở nên mạnh khoẻ trở lại và chứng nôn mửa biến mất và tiêu chảy biến mất, anh ấy hoàn toàn lành mạnh. Thế là rắc rồi bắt đầu.

Trong sáu tháng anh ấy đã sống giữa một nghìn hai trăm người điên, và không có vấn đề gì vì anh ấy cũng điên. Bây giờ anh ấy lành mạnh, và một nghìn hai trăm người điên... nghĩ tới anh ấy! Ai đó kéo chân anh ấy, ai đó cố ngồi lên đầu anh ấy - và anh ấy lành mạnh! Họ đã làm điều này cả sáu tháng rồi, nhưng bản thân anh ấy mất trí, cho nên không có vấn đề gì trong đó. Điều đó được chấp nhập. Nó đã đích xác như mọi sự phải vậy.

Anh ấy đi tới giám thị và anh ấy nói, "Bây giờ thì khó - bây giờ tôi lành mạnh." Nhưng giám thị không chịu nghe vì ông ấy nói, "Tất cả họ đều nói rằng họ là lành mạnh - mọi người điên đều nói rằng họ đang bị hành hạ một cách không cần thiết. Họ lành mạnh!'? Từng người điên đều nghĩ rằng anh ta là người lành mạnh nhất trên thế giới. Thực ra, các nhà tâm lí nói: Ngày người điên nghĩ mình là điên, người đó đã lành mạnh - vì người điên không bao giờ nghĩ rằng họ là điên. Cho nên không ai nghe người đó.

Ba tháng đó, anh ấy đã kể cho tôi, là địa ngục tới mức anh ấy bắt đầu cầu nguyện với Thượng đế "Xin làm cho con điên lại đi!"

Sống với người điên, cho dù trong ba tháng, người ta cần phải điên.

Bạn đang sống cùng một loại thế giới nào đó, thế giới phẳng, không niềm vui, không chiều sâu, hời hợt. Cuộc sống của mọi người chỉ là tầm thường. Họ sống vì tiền hay vì quyền, danh - toàn là những thứ vô nghĩa. Trong tính toán tối thượng họ không mang trọng lượng nào. Cái chết tới và mọi tiền và mọi quyền và mọi danh đều biến mất - và bạn bị ném vào thùng rác. Không ai đã bao giờ nhớ tới bạn lần nữa. Bạn có thể đã là thủ tướng hay tổng thống đất nước - chẳng ai quan tâm chút nào. Bạn có thể đã là người giầu nhất trên thế giới, nhưng cái chết rất có tính cộng sản. Dù bạn là kẻ ăn xin hay người giầu, cái chết đối xử với mọi người một cách bình đẳng. Nó tới và phá huỷ mọi thứ, không có ngoại lệ nào.

Mọi người đang sống trong thế giới phẳng. Cho nên khi bạn bắt đầu đi vào trong chiều sâu, bạn phải tỉnh táo một chút - bằng không bạn sẽ bị rắc rối từ bên ngoài. Niềm vui bên trong sẽ phát triển, và khi nó phát triển, xung đột bên ngoài sẽ phát triển theo cùng tỉ lệ. Cho nên chừng nào bạn chưa tận hưởng xung đột đó, hành động dường như không cái gì đã xảy ra cho bạn. Chỉ chia sẻ niềm vui của bạn với những người hiểu.

Đó là lí do tại sao satsang là có giá trị mênh mông. Bạn có thể chia sẻ niềm vui của bạn với người mặc áo mầu cam khác. Họ sẽ hiểu. Họ sẽ hạnh phúc. Họ sẽ vui vẻ qua niềm vui của bạn. Họ sẽ thấy điều đã xảy ra cho bạn. Nhưng đừng liên tục chia sẻ nó cho những người không hiểu - trừ phi bạn thích thú điều đó. Nếu bạn thích thú điều đó, thế thì nó là hoàn toàn được.

Một thánh nhân có lần đã nghe tới một thành phố ác Sodom. Là thánh nhân, ông ấy tới thành phố đó bằng tình yêu và quan tâm tới mọi người của nó. Khi ông ấy thấy sự độc ác với mình, ông ấy bắt đầu thuyết giảng và bào chữa và phản đối hàng ngày.

Sau nhiều năm làm điều này, một người bạn hỏi, "Tại sao bận tâm tới tất cả thế? Ông đã chẳng thay đổi được họ lấy một chút!"

Thánh nhân này đáp, "Trong thành phố này của tính điên và tội lỗi, ta phải đi ra ngoài mà kêu to, để thuyết giảng và bào chữa và phản đối - không phải là họ phải trở thành giống như ta, mà là ta phải không trở thành giống như họ."

Mọi điều bạn có thể làm, và mọi điều là được cần là: không trở thành giống họ. Làm mọi thứ, lấy mọi thận trọng. Nếu bạn cảm thấy một ham muốn rất mạnh để chia sẻ với những người không hiểu, thế thì đi vào trong điều đó mà biết hoàn toàn rõ rằng họ sẽ đối xử với bạn theo cùng cách như họ bao giờ cũng đối xử với người khác. Đi một cách có chủ ý vào trong điều đó; thế thì nếu họ bắt đầu ném đá vào bạn, đừng phàn nàn. Đây là chọn lựa của bạn. Nếu họ đóng đinh bạn, đừng phàn nàn. Đây là điều bạn đã chọn theo cách riêng của bạn.

Một nông dân đang đánh xe của mình đi qua một nhà thương điên. Một người bị giam giữ kêu lên với anh ta, "Ông có gì trong xe thế?"

"Đống phân ngựa đấy," là lời đáp của người nông dân.

"Ông làm gì với phân ngựa?" người bị giam giữ hỏi. "Bón nó cho dâu tây," người nông dân trả lời.

"Điều đó thực sự điên," người bị giam giữ nói ra. "Ông đáng phải ở đây. Chúng tôi để đường và kem lên dây tây của chúng tôi."

Bao giờ cũng nhớ bạn đang nói với ai... bằng không bạn sẽ tạo ra rắc rối cho bản thân bạn.

Câu hỏi cuối cùng:

Vợ tôi rất chống lại lí trí. Cô ấy gọi mọi lí trí là 'hợp lí hoá'. Lí trí là gì? Và hợp lí hoá là gì?

Tôi có thể hiểu được rắc rối của bạn. Lí trí có tính nam, tình cảm có tính nữ - do đó mới có khó khăn của trao đổi giữa đàn ông và đàn bà, giữa chồng và vợ. Họ bao giờ cũng quát tháo nhau, nhưng thông điệp không bao giờ đạt tới người kia - vì cách hiểu của họ là khác toàn bộ.

Thực ra, bởi vì các cách thức là khác nhau, đó là lí do tại sao họ quan tâm tới nhau, họ bị hấp dẫn tới nhau. Họ là các đối lập cực như dương và âm trong điện. Họ bị kéo lại với nhau. Nhưng bởi vì họ là đối lập, trao đổi là rất khó khăn, gần như không thể được.

Đàn ông bao giờ cũng nói từ cái đầu, và đàn bà bao giờ cũng nói từ trái tim. Bây giờ đây là hai ngôn ngữ khác nhau: dường như bạn nói tiếng Trung Quốc và tôi nói tiếng Đức. Và không có trao đổi. Bạn có thể hỏi Hari Das: Hari Das nói tiếng Đức và Geeta, bạn gái của anh ấy, nói tiếng Nhật Bản. Nhưng điều này là vậy với mọi người! Với mọi Hari Dasas và mọi Geetas. Ngôn ngữ là khác nhau.

Họ vừa có trận cãi nhau và anh chồng nói, "Thôi không cãi nhau nữa, em yêu, chúng ta thảo luận chuyện này một cách biết điều đi."

"Không," cô vợ giận dữ nói, "Mọi lúc chúng ta thảo luận cái gì đó một cách biết điều, em đều thua!"

Nếu đàn bà sẵn sàng để thua, chỉ thế thì cô ấy mới nói một cách hợp lí, biết điều. Và mọi đàn bà đều biết điều đó - điều đó không phải là cách để thắng. Cô ấy sẽ bị thua! Vì tâm trí nam là chuyên gia trong lập luận. Cho nên thay vì có tính logic, cô ấy bắt đầu khóc - bây giờ bạn thua. Bạn yêu người đàn bà và cô ấy khóc. Bây giờ phỏng có ích gì mà tranh cãi với cô ấy? Bạn nói, "Thôi được, em đúng." Và cô ấy đã học được cách thức này, rằng nước mắt có tác dụng hơn nhiều. Cho nên vấn đề không phải là cái gì là đúng: vấn đề là ai thắng.

Nếu bạn thực sự muốn trao đổi với người đàn bà của bạn hay người đàn bà muốn trao đổi với người đàn ông của cô ấy, cách duy nhất là ở chỗ cả hai phải biến mất khỏi lí trí và tình cảm, cả hai phải trở nên có tính thiền hơn. Thiền không là lí trí không là tình cảm - nó đi ra ngoài, nó đi ra ngoài tính cực. Nó là siêu việt. Thiền đưa bạn ra ngoài lập luận và ra ngoài tình cảm; nó không là của cái đầu hay của trái tim. Và khả năng duy nhất của bất kì giao cảm nào, của bất kì trao đổi nào, giữa đàn ông và đàn bà là thiền. Bằng không, không có khả năng.

Đàn bà sẽ gọi lập luận của bạn là hợp lí hoá. Và bạn gọi nó là gì khi người đàn bà của bạn bắt đầu biểu lộ tình cảm? Bạn gọi nó là đa cảm. Đây là những từ kết án. Hợp lí hoá là từ có tính kết án. Khi bạn gọi việc biểu lộ tình cảm của người đàn bà là 'đa cảm', đó là từ kết án. Và bạn cảm thấy đúng trong bản thân bạn, và người đàn bà cảm thấy đúng trong bản thân cô ấy. Những cách suy nghĩ khác nhau. Không ai là đúng và không ai là sai - vì mọi cách nghĩ đều là sai. Trạng thái vô ý nghĩ là đúng. Trạng thái vô tình cảm là đúng.

Cho nên khi bạn yêu người đàn bà và người đàn bà yêu bạn sâu sắc, có giao cảm, vì trong yêu đó có thiền.

Nhưng yêu đó tới và đi. Bạn còn chưa có đủ khả năng để giữ nó mãi mãi, cho nên tuần trăng mật sớm biến mất. Khi bạn rơi vào tình yêu với người đàn bà, mọi thứ diễn ra tốt đẹp. Cả hai bạn đều đồng ý lẫn nhau. Chưa bao giờ có biện luận nào. Cho nên hiểu biết về nhau, từ bi thế với nhau, thông cảm thế. Nhưng sau khi tuần trăng mật qua rồi, thế thì những điều nhỏ bé... nhỏ tới mức khi bạn muốn nói về chúng bạn cảm thấy bối rối. Điều đó xảy ra mọi ngày với tôi:

Một đôi tới tôi. Họ đã từng đánh nhau, trên bờ của sự chia tách. Và tôi hỏi, "Có chuyện gì vậy?" Và người đàn ông nói với người đàn bà, "Em nói điều đó đi," và cô ấy nói, "Anh nói điều đó đi." Sự kiện là cả hai đều bối rối vì vấn đề chả có gì, tầm thường. Chỉ là điều nhỏ bé. Có thể cãi nhau đã bắt đầu... người đàn bà muốn mặc bộ áo sari này và người đàn ông không thích mầu đó, và anh ta nói, "Anh không đi cùng em tới bữa tiệc trong bộ sari này!"

Ngu xuẩn làm sao - ngu xuẩn của cả hai, nhưng nó có thể dẫn tới, nó có thể làm lẩy cò, một biện luận lớn. Và thế rồi họ bắt đầu đem những điều lớn lao khác vào trong nó, và mọi khác biệt của họ ngay lập tức trồi lên bề mặt. Họ hục hặc với nhau. Họ đã làm ra trái núi từ đống đất chuột đùn. Và họ liên tục kết án lẫn nhau: "Anh sai - mọi lập luận của anh chỉ là hợp lí hoá." Và tôi không nói rằng mọi lập luận của bạn là lập luận - chín mươi chín phần trăm nó là hợp lí hoá. Và tôi không nói rằng mọi biểu lộ tình cảm của đàn bà là tình cảm - chín mươi chín phần trăm chúng là đa cảm.

Tâm trí rất thủ đoạn - cả hai, nam hay nữ. Tâm trí là rất tinh ranh.

Người đàn ông năm mươi lấy người đàn bà ba mươi. Hôn nhân của họ gây ra chút bàn tán trong giới của họ. Một lần, khi ai đó hỏi người đàn ông mới lấy vợ về khác biết lớn trong tuổi tác, ông ta đáp, "Điều đó không tệ chút nào cả. Khi cô ấy nhìn tôi, cô ấy cảm thấy già hơn mười tuổi và khi tôi nhìn cô ấy tôi cảm thấy trẻ hơn mười tuổi. Vậy có gì sai? Cả hai chúng tôi đều bốn mươi!"

Đây là hợp lí hoá. Hợp lí hoá là cách che giấu mọi thứ. Nó là cách thức láu lỉnh, rất láu lỉnh. Bạn có thể hợp lí hoá về mọi thứ có thể, và bạn có thể giả vờ rằng nó là lập luận. Nó không phải vậy. Lập luận phải có tính khách quan, không có định kiến nào về phần bạn.

Một lần một người đàn ông tới tôi. Ông ấy đã viết nhiều sách, và ông ấy là trưởng khoa trong đại học về huyền bí hay công trình nghiên cứu cận tâm lí. Ông ấy tới tôi và ông ấy nói, "Tôi đang cố gắng chứng minh rằng đầu thai là chân lí khoa học."

Tôi hỏi ông ấy, "Chừng nào ông chưa chứng minh được điều đó, đừng nói điều đó - bởi vì điều đó chỉ ra một định kiến. Ông đã chấp nhận ý tưởng này rằng nó là chân lí khoa học, bây giờ mọi điều được cần là chứng minh nó. Điều này không còn khách quan hay khoa học. Điều này không phải là có lí. Sâu bên dưới ông là người Hindu và ông chấp nhận lí thuyết này. Nếu ông mà người Mô ha mét giáo, ông sẽ cố chứng minh rằng 'Không có đầu thai và mình sẽ chứng minh điều đó một cách khoa học."'

Cả hai đều không là nhà khoa học. Người Mô ha mét giáo không tin, cho nên người đó cố gắng chứng minh niềm tin của mình bằng sự giúp đỡ của khoa học. Bạn đang cố chứng minh niềm tin của bạn bằng sự giúp đỡ của khoa học. Đây là hợp lí hoá.

Con người của lí trí thuần khiết không có niềm tin, không định kiến, không có ý tưởng theo suy diễn. Người đó đơn giản đi vào trong việc truy hỏi mà không phán xét, không kết luận. Việc truy hỏi sẽ quyết định kết luận là gì. Điều đó sẽ được quyết định bởi bản thân việc truy hỏi. Nếu bạn thậm chí còn có một ham muốn bị che giấu để chứng minh cái gì đó, bạn sẽ chứng minh nó, nhưng bạn đã phá huỷ tính khoa học của nó. Nó không còn là lập luận. Nó là hợp lí.

Và tình cảm cũng vậy. Tình cảm là thuần khiết; đa cảm là thủ đoạn. Bạn đã học một thủ đoạn. Đàn bà biết rằng nếu cô ấy khóc, cô ấy là người thắng. Bây giờ, thỉnh thoảng việc khóc không tới chút nào, vì việc khóc là không dễ bị thao túng thế. Nhưng cô ấy cố gắng đem nó lại, cô ấy diễn kịch, cô ấy giả vờ. Những nước mắt đó là giả. Cho dù chúng tuôn ra qua mắt, chúng là giả - vì chúnh không tới, chúng được mang tới.

Đa cảm là tình cảm được bịa ra, bị thao túng, một cách tinh ranh. Tính hợp lí là một điều; việc hợp lí hoá là thao túng của lí trí cũng như đa cảm là thao túng của tình cảm. Nếu bạn hợp lí, thực sự hợp lí, bạn sẽ trở thành nhà khoa học. Nếu bạn thực sự có tình cảm, bạn sẽ trở thành nhà thơ. Đây là những điều đẹp. Nhưng dầu vậy, đối thoại sẽ là không thể được - nó sẽ dễ dàng hơn. Với hợp lí hoá và đa cảm điều đó là rất khó, nhưng với lí trí và tình cảm nó không khó thế - vẫn sẽ có khó khăn, nhưng sẽ có từ bi, một nỗ lực để hiểu lẫn nhau. Người hợp lí sẽ cố hiểu quan điểm của đàn bà một cách hợp lí; và người đàn bà sẽ cố hiểu quan điểm của đàn ông - một cách tình cảm, tất nhiên, nhưng từ bi sẽ có đó.

Bước đầu tiên là: bỏ mọi hợp lí hoá và mọi đa cảm đi. Và bước thứ hai là: bỏ lí trí và tình cảm nữa. Và thế thì trong trạng thái đó của cực lạc, của thiền, có giao cảm. Và giao cảm đó là lời cầu nguyện. Trong giao cảm đó khi bạn nói 'người', không có đàn bà, có Thượng đế; không có đàn ông, có Thượng đế.

Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post