Read more
Thầy Hoàn
Hảo (Tập 1) - Osho
Bài nói về
câu chuyện Sufi
Chương 4. Qua lẫn lộn
Câu hỏi 1
Osho
ơi, bất kì cái gì thầy nói đều dường như là đúng theo quan điểm của điều thầy
đang nói vào khoảnh khắc đó. Nhưng nó có thể có tính mâu thuẫn. Thầy lôi người
nghe theo một hướng xác nhận một điểm đặc thù, và đồng thời thầy đi qua lối cửa
sau tới điểm đối lập. Nó là một dạng xoắn ốc - người nghe khó nhận ra cái gì có
thể xảy ra. Đây chẳng phải là lừa người nghe sao - trừ phi người đó nhận ra rằng
câu trả lời thực nằm bên ngoài lời nói ra của thầy?
Gourishankar Bharati, mọi phát biểu đều là của khoảnh
khắc. Không phát biểu nào có thể chứa cái vĩnh hằng. Và những người nói rằng
phát biểu của họ là vĩnh hằng đơn giản là dối trá. Họ không biết điều họ đang
nói.
Khoảnh khắc chỉ có thể chứa được khoảnh khắc đó thôi.
Cho nên bất kì cái gì tôi nói vào khoảnh khắc đó đều thuộc vào khoảnh khắc đó.
Nó là hoa của khoảnh khắc đó. Nếu trời mưa, tôi nói trời mưa. Về sau trời có thể
không mưa. Mây có thể tan đi. Trời có thể nắng.
Vâng, phát biểu của tôi bị mâu thuẫn bởi khoảnh khắc
khác - nhưng nó bị mâu thuẫn chỉ nếu nó tuyên bố rằng nó phải đúng mãi mãi.
Tôi không cho bạn giáo điều. Giáo điều là một phát biểu
với tuyên bố rằng nó là đúng mãi mãi. Tôi cho bạn chỉ những đoá hoa nhất thời.
Tôi không cho bạn một hệ thống mà sẽ còn lại mãi mãi và đúng mãi mãi. Đó là điều
đã xảy ra trong quá khứ, và con người đã đủ khổ vì nó rồi.
Điều Phật nói là đáp ứng của ông ấy cho khoảnh khắc của
ông ấy. Điều Mohammed nói là đáp ứng của ông ấy cho cuộc sống mà ông ấy đã
đương đầu. Nó không thể là đúng mãi mãi được. Và nếu nó phải là đúng mãi mãi,
thế thì cuộc sống sẽ không bao giờ thay đổi, thế thì cuộc sống sẽ trở thành tù
đọng. Đó là lí do tại sao những người tin vào giáo điều đều trở thành tù đọng.
Cuộc sống của họ không còn là dòng chảy, họ không giống dòng sông. Họ trở thành
bị đông cứng. Người Ki tô giáo, người Hindu giáo, người Mô ha mét giáo, Phật tử,
họ là những người đông cứng. Họ đã đánh mất dấu vết của mọi thứ liên tục thay đổi
thường xuyên.
Ngoại trừ thay đổi, không cái gì là vĩnh hằng.
Nếu tôi tạo ra giáo điều ở đây, thế thì tôi sẽ không
bao giờ mâu thuẫn với bản thân tôi. Bạn sẽ hạnh phúc với điều đó! vì bạn sẽ có
cái gì đó để bám vào. Bạn đã không tới đây để trở nên được chứng ngộ,
Gourishankar - bạn đã tới đây để trở nên thông thái. Nỗ lực của tôi không phải
là để truyền đạt tri thức cho bạn: nỗ lực của tôi là để thức tỉnh bạn. Tôi
không thể cho phép bạn níu bám lấy bất kì phát biểu nào - do đó tôi mâu thuẫn.
Tôi bao giờ cũng trong vội vàng để mâu thẫn, để cho bạn không có thời gian níu
bám lấy cái gì. Tôi muốn lấy đi mọi tri thức khỏi bạn. Tôi muốn bạn được bỏ lại
một mình, trong trống rỗng hoàn toàn và sự thuần khiết của nó, và tính trinh
nguyên của nó.
Đó là lí do tại sao khoảnh khắc của tôi là dành cho
khoảnh khắc đó. Nó không tuyên bố điều gì bên ngoài nó. Từng phát biểu mà tôi
đưa ra chỉ là cho khoảnh khắc. Tận hưởng nó đi! Cứ tận hưởng hoa hồng đã nở hoa
sáng nay - được tràn đầy hương thơm của nó, hát nó, nhảy múa cùng nó, mở hội
nó. Bạn may mắn bạn có thể có khả năng thấy đoá hoa này. Nhưng đừng hi vọng rằng
bạn có thể giữ được nó mãi mãi. Chừng nào nó không là hoa nhựa nó không thể
vĩnh hằng được. Chỉ những thứ giả mới có thể là thứ vĩnh hằng, nhân tạo, các thứ
nhân tạo có thể là vĩnh hằng.
Thực tại đang thay đổi, nó là một luồng, nó là dòng
sông. Ngày mai tôi không biết tôi sẽ nói gì. Tôi không nhớ điều tôi đã nói hôm
qua. Tôi không có cách nào quan tâm tới quá khứ của tôi, và không quan tâm tới
tương lai của tôi nữa. Khoảnh khắc này là tất cả cho tôi. Không cái gì khác tồn
tại bên ngoài nó. Tôi hoàn toàn bị ngắt ra khỏi quá khứ... và không có kế hoạch
nào cho tương lai. Khi ngày mai tới chúng ta sẽ thấy. Và điều tôi đang nói cho
bạn bây giờ sẽ không trở thành nghĩa vụ cho tôi để nói tiếp nó mãi mãi. Tôi
không có nghĩa vụ phải xác nhận quá khứ của tôi lặp đi lặp lại. Hôm qua là qua
rồi, các phát biểu đã đưa ra hôm qua cũng qua rồi.
Nhưng tôi hiểu vấn đề của bạn. Vấn đề của bạn là: Thế
thì tin vào cái gì? Làm sao tin được? Nhưng ai bảo bạn tin vào bất kì cái gì?
Hân hoan đi! Đừng tin. Bạn không thể thấy khác biệt sao? Nhấn mạnh là khác
nhau. Tôi không bảo bạn tin vào bất kì cái gì.
Tất nhiên, nếu tôi bảo bạn tin vào cái gì đó, thế thì
tôi phải kiên trì lặp đi lặp lại cùng một điều; tôi phải nói nó lặp đi lặp lại.
Điều đó sẽ là một loại thôi miên. Khi cái gì đó được lặp lại thường xuyên, bạn
trở nên bị thôi miên bởi nó. Tôi không ở đây để thôi miên bạn. Tôi ở đây để
dành cho chính điều đối lập lại: để giải thôi miên cho bạn - không chỉ các phát
biểu mà tôi đã đưa ra trong quá khứ mà cả những phát biểu của mọi người chứng
ngộ đã từng tồn tại.
Tôi phải phá huỷ tri thức của bạn, niềm tin của bạn.
Tôi phải phá huỷ bất kì cái gì bạn có thể níu bám lấy. Chỉ cái không mới được bỏ
lại ở đó...
Một sannyasin đã làm điều hay. Anh ấy đã gọi con đường
của tôi là via confusiva - điều đó là đúng. Điều đó là đúng hoàn hảo. Nó không
phải là via negativa cũng không via positive - nó là via confusiva.
Nếu bạn có thể bị lẫn lộn nhiều tới mức bạn bỏ mọi niềm
tin, từ lẫn lộn đó sáng tỏ sẽ tới. Khi nào bạn cảm thấy bị lẫn lộn? Đích xác
khi nào? Bất kì khi nào một trong những niềm tin của bạn bị công kích - bạn trở
nên nghi ngờ: Bây giờ biết tin vào cái gì? Bất kì khi nào một hoài nghi nảy
sinh... nhưng làm sao hoài nghi là có thể nếu không có niềm tin?
Con người của không tin không thể hoài nghi được cái
gì. Không có gì để hoài nghi cả. Trong khi phá huỷ niềm tin của bạn, tôi phá huỷ
chính khả năng của hoài nghi. Bạn không thể thấy ra vấn đề sao? Hoài nghi là
cái bóng của niềm tin. Nó có vẻ giống cái đối lập - nó không phải vậy. Chỉ những
người tin mới có thể hoài nghi. Nếu bạn tin vào Thượng đế, hoài nghi có thể nảy
sinh. Nhưng nếu bạn không tin vào Thượng đế, hoài nghi có thể nảy sinh từ đâu?
Làm sao hoài nghi có thể nảy sinh được? Một người không có bất kì loại niềm tin
nào sẽ hiện hữu mà không có bất kì loại hoài nghi nào nữa. Đó là sáng tỏ.
Khi tôi nói cái gì đó và nó đi ngược lại niềm tin của
bạn, hoài nghi nảy sinh: Bây giờ chọn cái gì? Bạn đã làm cho niềm tin của bạn bị
lâm nguy quá nhiều, bạn đã sống với nó lâu thế, và bây giờ đột nhiên hoài nghi
nảy sinh! Nó làm rung chuyển bạn. Nó làm cho bạn hoảng hồn.
Và nếu tôi liên tục nói những điều mâu thuẫn mọi ngày,
dũng cảm lớn là được cần để nghe tôi, Gourishanker, tấm lòng lớn để chứa đựng,
tình yêu lớn để hiểu tôi, và ham muốn mãnh liệt để biết, ham muốn đam mê để biết:
"Với bất kì giá nào, mình sẽ phải biết. Nếu mọi niềm tin bị phá huỷ và mọi
hệ thống phải bị loại bỏ và mọi tôn giáo bị ném vào lửa, mình sẵn sàng. Nhưng
mình sẽ biết."
Khi ham muốn đam mê này có đó, bạn sẽ gặp tôi. Thế thì
bạn sẽ hiểu những mâu thuẫn của tôi. Nó là phương cách. Nó tạo ra tình huống.
Tôi sẽ không cho phép người của tôi có bất kì khả năng nào tin vào bất kì cái
gì, thậm chí không tin cả vào tôi. Khi mọi niềm tin đã mất rồi, cái gì còn lại?
Bạn giống hệt chiếc gương phản xạ mọi tâm trạng của cuộc sống, phản xạ mọi khí
hậu. Mùa hè tới và bạn là mùa hè... và mùa đông tới và bạn là mùa đông... và
ngày tới và bạn là ngày... và đêm tới và bạn là đêm.
Điều này tôi gọi là tính toàn bộ. Và sống trong tính
toàn bộ là sống trong Thượng đế.
Mọi điều tôi nói không phải là một loại học thuyết hoá
nào - nó không phải vậy chút nào. Chủ định của nó là khác toàn bộ. Nhưng chủ định
này là khác thế, đó là lí do tại sao những câu hỏi như vậy nảy sinh. Khi bạn cứ
lắng nghe ai đó khác, người đó có đó để đề nghị một triết lí; người đó giải
thích triết lí của mình cho bạn. Tôi không giải thích bởi vì tôi không có triết
lí. Tôi hoàn toàn là phản triết lí.
Khi bạn đi tới tu sĩ ông ấy có đó để giải thích cho bạn
một giáo điều nào đó mà ông ấy tin vào; ông ấy có đó để cải tâm bạn. Tôi không ở
đây để cải tâm bạn: tôi ở đây chỉ để phá huỷ bạn.
Cho nên nhớ lấy: mọi phát biểu đều là của khoảnh khắc,
cũng như mọi hoa đều là của khoảnh khắc. Xuân tới... và có nhiều hoa thế. Và thế
rồi xuân qua đi, và bạn không bao giờ đi tới tự nhiên và nói, "Mày có vẻ rất
mâu thuẫn đấy. Hoa đâu rồi? Và làm sao mày có thể liên tục tự mâu thuẫn với mày
theo cách này?"
Đạo là mâu thuẫn. Nó phải vậy. Đó là biện chứng của cuộc
sống. Nhưng bạn chưa bao giờ đi tới tự nhiên! Nếu con chim cúc cu đang hót và
thế rồi bất thần nó dừng lại chẳng bởi lí do nào cả, bạn không đi tới con chim
cúc cu và nói "Sao mày dừng lại? Điều này mâu thuẫn thế! Hót hay thế, và
thế rồi rơi vào im lặng sao? Hoặc là im lặng hoặc là cứ hót mãi đi chứ - phải
nhất quán!" Nhưng bạn không nói điều đó.
Trong mưa cây xanh tươi. Trong hè lá sẽ biến mất và
cành sẽ đứng đó trần trụi, trơ trụi, khô khốc, nổi trên bầu trời. Nhưng bạn
không đi tới cây mà nói "Sao mày dám mâu thuẫn thế!"
Tôi là một phần của Đạo này. Tôi không là triết gia.
Cho nên mọi phát biểu của tôi đều là của khoảnh khắc, vì khoảnh khắc. Nhớ điều
đó. Không cần tin vào chúng. Tận hưởng chúng đi! Nếm chúng đi! Trong khi hoa có
đó, uống cái đẹp của nó đi. Nó sẽ sớm mất đi thôi. Trước khi nó mất đi, mở hội
sự hiện hữu của nó.
Mở hội tôi đi! Thay vì tin vào tôi, thì mở hội tôi. Đó
là khác biệt - khác biệt của việc nhấn mạnh. Để sự hiện diện của tôi là bữa tiệc
cho bạn. Nó phải không trở thành nhà tù. Nó phải không trở thành một định nghĩa
của tâm trí bạn. Nó không nên lấp đầy bạn bằng các ý tưởng mà bằng điệu vũ và
bài ca.
Nếu bạn muốn nhớ tôi, đừng bao giờ nhớ tôi như một triết
gia, như một tu sĩ - không, đừng bao giờ. Đó là những từ bẩn thỉu với tôi. Nhớ
tôi như một nhà thơ đi. Bạn không bao giờ đi tới nhà thơ và nói với ông ấy,
"Ông mâu thuẫn bỏ xừ," vì bạn hiểu. Nhà thơ không có nghĩa vụ gì phải
nhất quán cả. Ông ấy có thể hát cả nghìn bài ca về các tâm trạng khác nhau. Khi
ông ấy buồn, ông ấy hát bài ca buồn; và khi ông ấy hạnh phúc, ông ấy ca bài ca
hạnh phúc. Bạn không tới ông ấy...
Hiện hữu của tôi còn nhiều hơn của nhà thơ. Và nếu bạn
thực sự muốn cảm thấy sự hiện diện của tôi, bạn cũng sẽ phải học cách thức của
thơ ca. Nghệ thuật với tôi là tôn giáo lớn nhất - tôn giáo của tương lai. Thẩm
mĩ với tôi là lời cầu nguyện.
Và thứ hai: không có đối lập với tôi. Nó có vẻ mâu thuẫn
với bạn; với tôi nó không. Với tôi không có mâu thuẫn chút nào, vì từng mâu thuẫn
đều không là gì ngoài việc là phần bù. Không có cách nào để mâu thuẫn thực sự.
Đêm không mâu thuẫn với ngày. Nó chỉ cho việc nghỉ ngơi để năng lượng ngày được
phục hồi lại vào buổi sáng. Nếu không có đêm, sẽ không có ngày nữa. Chính là
qua đêm mà ngày sống, thu lại sinh lực. Và chính là qua ngày mà đêm được sinh
ra. Chính là qua sống mà chết tới, và chính là qua chết mà sống quay lại lặp đi
lặp lại. Chúng không phải là kẻ thù: chúng là bạn, đối tác trong cùng trò chơi,
quan hệ bù nhau.
Cho nên nếu bạn hiểu tôi bằng tình yêu lớn, bạn sẽ thấy
rằng những mâu thuẫn đó có vẻ giống như mâu thuẫn với bạn bởi vì việc hiểu của
bạn là nhỏ. Khi việc hiểu của bạn lớn hơn chút ít, khi bạn đã đi tới giai đoạn
cao hơn chút ít của tâm thức, những mâu thuẫn đó sẽ không có vẻ giống như mâu
thuẫn - chúng sẽ là quan hệ bù nhau. Chúng sẽ làm cho bất kì cái gì tôi đang
nói thành rất giầu có. Nó làm cho chúng giầu có.
Nếu bạn nói chỉ về Thiền, nó có một loại tính giầu có.
Nếu bạn nói chỉ về Sufis, nó có một loại giầu có khác. Nhưng khi bạn nói về cả
Sufis và Thiền, giầu có của bạn là mênh mông. Nó nhiều hơn là tổng của Thiền và
Sufi giáo. Nó không phải chỉ là Thiền cộng với Sufi giáo: nó là Thiền nhân với
Sufi giáo - nó là đa chiều.
Do đó tôi liên tục nói qua các cửa sổ khác nhau. Lúc
thì tôi đứng ở cửa sổ mở sang phương đông và tôi nói về phương đông và mặt trời
mọc và buổi sáng. Và lúc thì tôi đứng ở cửa sổ mở sang phương tây và tôi nói về
buổi tối và mặt trời lặn và cái đẹp của nó. Và tôi liên tục thay đổi vì có nhiều
cánh cửa mở tới điều thiêng liêng.
Jesus nói: Có nhiều biệt thự trong cung điện của Thượng
đế. Có hàng triệu khả năng. Đó là tính vô hạn của Thượng đế, rằng bạn không thể
vét cạn ngài được. Nhưng chú ý tới mọi khả năng chắc chắn làm cho bạn giầu có
hơn vô hạn lần.
Cho nên không có đối lập với tôi, mà chỉ có các phần
bù.
Và điều thứ ba: không có câu trả lời, thực hay không
thực. Tôi không định cho bạn câu trả lời như vậy. Điều tôi đang cho bạn là cái
nhìn sâu vào trong bí ẩn của cuộc sống, không phải là câu trả lời mà là cái
nhìn sâu vào trong bí ẩn của cuộc sống. Nếu câu trả lời của tôi gợi ra điều huyền
bí trong bạn, tôi đã thành công. Nếu câu trả lời của tôi trở thành câu trả lời
của bạn, tôi đã thất bại.
Đừng coi câu trả lời của tôi như các câu trả lời. Tôi
không phải là thầy giáo phổ thông. Tôi không có câu trả lời để trao cho bạn.
Cái mà tôi phải trao cho bạn là ý nghĩa về điều bí ẩn và điều huyền bí.
Nhưng tôi hiểu. Điều đó là khó - tôi nói ngôn ngữ này,
bạn nói ngôn ngữ khác. Khi tôi nói 'ngôn ngữ' tôi không ngụ ý tiếng Anh, tiếng
Đức hay tiếng Pháp. Tôi ngụ ý... ngôn ngữ của tôi tới từ hiện hữu của tôi, ngôn
ngữ của bạn tới từ hiện hữu của bạn. Chúng ta có thể nói cùng ngôn ngữ trên bề
mặt, nhưng sâu bên dưới nó gần như không thể nào dịch ra được, điều tôi đang
nói với bạn đấy. Không thể nào dịch được nó vào ngôn ngữ của bạn. Thế thì tại
sao tôi vẫn cứ nói nó?
Tôi chỉ là dở hơi. Tôi không thể cưỡng lại được. Nó
tràn ngập ra. Không có cách nào ngăn cản nó. Tôi phải nói nó - hệt như mây trĩu
nặng với hạt mưa và nó phải mưa! Dù bạn có khả năng thấm đẫm nó hay không, đấy không
phải là vấn đề. Đá có thể không có khả năng thấm nó vào. Hay, mảnh đất nào đó
có thể thấm nó vào và sẽ tràn đầy xanh tươi và cái đẹp sẽ nảy sinh. Nhưng điều
đó tất cả đều không quyết định được. Nó là điều để mở. Nó có thể xảy ra, nó có
thể không xảy ra. Điều đó tuỳ thuộc vào cách bạn để tôi vào.
Tôi đã nghe một câu chuyện hay:
Vài năm trước ở Pháp, một cuộc gặp gỡ phi thường đã xảy
ra. Một số triết gia hàng đầu từ Anh và Mĩ đã được mời tới gặp gỡ với người
tương nhiệm trong lục địa. Họ đã trình bày các ý tưởng, chia sẻ kinh nghiệm, và
khám phá mức độ 'trao đổi' có thể giữa họ. Ngay giữa bầu không khí rất tương đắc
đó, các cuộc gặp gỡ được tổ chức, thảo luận xảy ra, và các bài diễn văn được đọc
lên. Nhiều tình bạn phải đã được thiết lập và không chút rượu nào được uống,
nhưng rõ ràng không có trao đổi triết học nào xảy ra.
Chẳng hạn, Gabriel Marcel đã cố gắng giải thích ý tưởng
của ông ấy về Thượng đế, duyên dáng và siêu việt. Ông ấy liên tục gặp phải chống
đối từ thính giả, từ các triết gia khác: "Nhưng ông ngụ ý gì bởi điều đó?
Nhưng chắc chắn ông không ngụ ý điều này chứ? Làm sao lại có thể là...? Chẳng
phải đúng là...? vân vân và vân vân... "
Sau một chốc Marcel trở nên cáu tiết, và thính giả thì
nhao nhao cả lên. Cuối cùng, ai đó trong thính giả hỏi Marcel sao ông ấy không
đơn giản nói ra điều ông ấy ngụ ý. Vì ông ấy đã cố giải thích chính điều này một
lúc rồi, ông ấy đơn thuần đáp lại, "Có lẽ tôi không thể nào giải thích được
điều này cho các ông, nhưng nếu tôi có chiếc đàn piano ở đây tôi có thể chơi nó
được."
Và bởi vì không có đàn piano, không trao đổi nào là có
thể.
Nhưng tôi nghi ngờ: ngay cả với chiếc piano điều đó có
thể đã không xảy ra - vì người khác có thể không hiểu được ngôn ngữ của âm nhạc
nữa.
Vâng, đích xác đó là điều đang xảy ra ở đây. Điều tôi
đang cố nói cho bạn là một loại âm nhạc mà tôi đã nghe thấy. Nó đã không được
nghe bằng lời. Nó là âm thanh của tiếng nước chảy. Nó là trong tiếng gió thoảng
qua rặng thông. Nó là tiếng hót của chim. Nó là trong im lặng của bóng tối. Nó
là tia sáng mặt trời nhảy múa. Nó ở khắp chốn! Nhưng nó là âm nhạc. Và chừng
nào bạn còn chưa có khả năng hiểu âm nhạc này, bạn sẽ không thể nào hiểu được
tôi. Bạn sẽ liên tục hiểu lầm tôi.
Bạn nói: Đây chẳng phải là lừa người nghe sao?
Bạn phải đã tới đây để thu lấy niềm tin nào đó - và thế
thì chắc chắn bạn sẽ cảm thấy bị lừa, vì bạn không thể thu được niềm tin nào cả.
Ngược lại, bất kì cái gì bạn có sẽ bắt đầu tuột ra khỏi tay bạn. Nếu bạn đã tới
để thu thập thêm chút ít tri thức nữa, bạn sẽ cảm thấy bị lừa. Khi bạn đi, bạn
có nhiều rối loạn hơn, bạn sẽ có ít đi. Mặc cho bản thân bạn, bạn sẽ có ít đi.
Bạn sẽ mất cái gì đó ở đây. Chúng tôi cướp của mọi người tri thức của họ.
Cho nên bạn có thể cảm thấy rằng có một loại lừa gạt
nào đó đang diễn ra. Khi tôi nói cái gì đó, nó có vẻ rõ ràng thế, tuyệt đối
đúng thế - và khoảnh khắc tiếp tôi mâu thuẫn lại với nó. Thế rồi bất kì cái gì
tôi nói mâu thuẫn lại nó lại có vẻ đúng. Nhưng lần nữa tôi sẽ lại mâu thuẫn với
nó đấy!
Nghĩ về mọi người đi, Gourishankar - bạn ở đây chỉ
trong vài ngày - nghĩ về những người đã từng nghe tôi hết năm nọ tới năm kia. Họ
đã gần như dừng việc nghe rồi, nhưng một loại trao đổi mới, giao cảm thì đúng
hơn, đã bắt đầu. Họ không còn lo nghĩ về lời của tôi. Điều đó không còn là mối
bận tâm. Họ đã mất nhiệt tình với lời. Tôi đã phá huỷ nó.
Tôi đã tự mình mâu thuẫn nhiều tới mức bây giờ họ nhận
biết về điều đó - không cần níu bám, ngày mai tôi sẽ vứt nó đi. Cho nên vấn đề
là gì? Đợi tới mai đi. Dần dần, dần dần họ đã học được cái đẹp của không níu
bám. Dần dần, dần dần họ đã học được cách không để lời của tôi can thiệp vào,
và trao đổi trực tiếp, giao cảm... năng lượng của họ bắt đầu chảy cùng tôi. Họ
có thể chảy chỉ khi lời không còn quan trọng nữa. Thế thì cái gì đó cao siêu
hơn nhiều xảy ra.
Đó là lí do tại sao tôi đã từng nói nhiều thế. Nó
không phải là để trao đổi với bạn qua lời: nó là để phá huỷ bản thân nghĩa của
lời. Bạn sẽ ngỡ ngàng. Lí do tại sao tôi nói nhiều thế là ở chỗ tôi muốn phá huỷ
mọi nghĩa trong lời. Lắng nghe tôi, dần dần, dần dần nó biến mất. Và với việc
biến mất của nghĩa của lời, một kết nối mang tính tồn tại nảy sinh. Đó là khai
tâm thực - khi bạn bắt đầu nghe âm nhạc của tôi, khi bạn trở nên hoà điệu với sự
hiện diện của tôi, khi bạn thở cùng tôi. Nó xảy ra... nó đã xảy ra cho ai đó rồi.
Vasumati đã viết điều này:
Hôm nay và trong vài ngày qua trong bài nói, ngay khi
thầy bắt đầu nói, thân thể tôi nằm dài ra trên sàn. Và cái gì đó bắt đầu xảy
ra. Giọng thầy âu yếm tôi, làm thư giãn các cơ của tôi từng sợi một, dịu dàng
ru ngủ tôi và kéo tôi vào trong im lặng của thầy cho tới khi tôi giống như một
mảng rong biển trong sóng của đại dương vô hạn của thầy. Ôi, Osho ơi, tim tôi
chết đi theo thầy, dâng lên và hạ xuống cùng thầy, thở cùng thầy. Liệu có thể
là tôi đang trong tình yêu với thầy, đi cùng thầy, với rung động của thầy, sự
hiện diện ấm áp và thơm tho của thầy? Khi tôi ở gần thầy, mọi câu hỏi đơn giản
tan biến và chẳng có gì ngoài nhịp tim tôi, mưa và giọng thầy.
Vâng, Vasumati, nó đấy. Khi lời bắt đầu tan biến, cái
gì đó sâu sắc, sâu lắng hơn nhiều xảy ra. Giao cảm. Việc gặp gỡ của thầy và đệ
tử, không như hai tâm trí mà như hai sự hiện diện, hội nhập vào nhau, tan chảy
trong nhau, mất đi trong nhau.
Chẳng bao lâu khoảnh khắc đó xảy ra khi đệ tử không
còn tách rời, thầy không còn tách rời. Họ đã trở thành một. Sự hợp nhất đó là mục
đích của mọi tính đệ tử. Khi sự hợp nhất đó đã xảy ra, bạn đã biết thầy, bạn đã
say từ thầy, bạn đã hấp thu thầy. Bạn đã tới nhà.
Câu
hỏi 2
Đôi
khi nghe thầy nói, tôi có được linh ảnh về việc sống một loại cuộc sống Zorba
người Hi Lạp - ăn, uống và vui vẻ - cường tráng và đam mê, và tôi nghĩ đây là đạo.
Lúc khác tôi cảm thấy thầy đang nói rằng đạo là ngồi im lặng, quan sát và bất động,
như sư. Vậy chứ chúng tôi nên là ai - Zorba hay sư - và làm sao việc trộn lẫn họ
lại là có thể được? Tôi cảm thấy rằng thầy đã xoay xở để tích hợp những điều
mâu thuẫn, nhưng chúng tôi có thể là cả các Zorba, di chuyển theo đam mê và ham
muốn, và chư phật, thản nhiên, bình thản và bình tĩnh được không?
Đó là việc tổng hợp tối thượng đấy - khi Zorba trở
thành vị Phật. Tôi đang cố tạo ra ở đây không phải là Zorba người Hi Lạp mà là
Zorba Phật.
Zorba là đẹp, nhưng cái gì đó bị thiếu. Đất là của ông
ấy, nhưng trời bị thiếu. Ông ấy có tính đất, được bắt rễ, như cây tuyết tùng khổng
lồ, nhưng ông ấy không có cánh. Ông ấy không thể bay được vào bầu trời. Ông ấy
có rễ nhưng không có cánh.
Ăn, uống và vui vẻ là hoàn toàn tốt trong bản thân nó:
không cái gì sai trong nó. Nhưng nó là không đủ. Chẳng mấy chốc bạn sẽ mệt mỏi
với nó. Người ta không thể chỉ cứ ăn, uống và vui vẻ mãi được. Chẳng mấy chốc
cuộc vui miệt mài biến thành nỗi buồn miệt mài - vì nó có tính lặp lại. Chỉ tâm
trí rất tầm thường mới có thể liên tục sung sướng với điều đó. Nếu bạn có chút
ít thông minh, sớm hay muộn bạn sẽ thấy cái vô tích sự hoàn toàn của nó. Bạn có
thể cứ ăn, uống và vui vẻ được bao lâu? Sớm hay muộn câu hỏi này nhất định nảy
sinh - tất cả những cái đó phỏng có ích gì? Tại sao? Không thể nào né tránh được
câu hỏi này lâu đâu. Và nếu bạn rất thông minh, nó bao giờ cũng có đó, kiên trì
ở đó, gõ búa lên trái tim bạn đòi câu trả lời: Cho tôi câu trả lời đi! - tại
sao?
Và một điều cần được ghi nhớ: không phải là những người
nghèo, chết đói, trở nên thất vọng với cuộc sống đâu - không. Họ không thể trở
nên bị thất vọng được. Họ chưa sống - làm sao họ có thể bị thất vọng được? Họ
có hi vọng chứ. Người nghèo bao giờ cũng có hi vọng. Người nghèo bao giờ cũng
ham muốn rằng cái gì đó sẽ xảy ra, hi vọng rằng cái gì đó sắp xảy ra. Nếu không
phải hôm nay thì ngày mai, hay ngày kia. Nếu không phải trong kiếp này thì
trong kiếp sau.
Bạn nghĩ gì? Ai là những người này, người đã mô tả cõi
trời như câu lạc bộ Kẻ ăn chơi - ai là những người này? Người đói, người nghèo,
người đã bỏ lỡ cuộc sống của họ. Họ phóng chiếu các ham muốn của mình lên cõi
trời. Trên trời có những dòng sông rượu. Ai là những người này, người đang tưởng
tượng về các dòng sông rượu? Họ phải đã bỏ lỡ ở đây. Và có kalpavrakshas - cây
thoả ước. Bạn ngồi dưới chúng, và khoảnh khắc bạn ham muốn, ngay lập tức nó được
đáp ứng. Thậm chí không một khoảnh khắc trôi qua ở giữa việc ham muốn và việc
đáp ứng nó, không cái bóng nào ở giữa ham muốn và việc đáp ứng. Nó là ngay lập
tức, tức khắc!
Ai là những người này? Người đói, đã không có khả năng
sống cuộc sống của họ. Làm sao họ có thể bị thất vọng với cuộc sống được? Họ đã
không kinh nghiệm - chính là chỉ thông qua kinh nghiệm mà người ta mới đi tới
biết cái vô tích sự hoàn toàn tất cả của mọi nó. Chỉ Zorbas mới đi tới biết cái
vô tích sự hoàn toàn tất cả của nó.
Bản thân Phật đã là một Zorba. Ông ấy có mọi đàn bà đẹp
sẵn có trong nước của ông ấy. Bố ông ấy đã thu xếp mọi gái đẹp ở quanh ông ấy.
Ông ấy có các cung điện đẹp nhất - các cung điện khác nhau cho các mùa khác
nhau. Ông ấy có tất cả mọi xa hoa có thể có, hay xa hoa có thể có vào thời đó.
Ông ấy đã sống cuộc sống của một Zorba người Hi Lạp - do đó, khi ông ấy chỉ mới
hai mươi chín tuổi ông ấy đã trở nên hoàn toàn bị thất vọng. Ông ấy là một người
rất thông minh. Nếu ông ấy mà là người tầm thường, thế thì ông ấy chắc đã sống
trong nó. Nhưng chẳng mấy chốc ông ấy thấy ra vấn đề: nó có tính lặp lại, nó là
một. Mọi ngày bạn ăn, mọi ngày bạn làm tình với người đàn bà... và ông ấy có
đàn bà mới mọi ngày để làm tình. Nhưng được bao lâu...?! Chẳng mấy chốc ông ấy
chán ngán.
Kinh nghiệm về cuộc sống là rất cay đắng. Nó là ngọt
ngào chỉ trong tưởng tượng thôi. Trong thực tại nó rất cay đắng. Ông ấy đã trốn
khỏi cung điện và người đàn bà và những của cải và xa hoa và mọi thứ...
Cho nên, tôi không chống lại Zorba người Hi Lạp vì
Zorba người Hi Lạp là chính nền tảng của Zorba Phật. Phật nảy sinh từ kinh nghiệm
đó. Cho nên tôi ủng hộ tất cả cho thế giới này, vì tôi biết thế giới kia chỉ có
thể được kinh nghiệm qua thế giới này. Cho nên tôi không nói trốn khỏi nó,
Prabhu Maya; tôi sẽ không nói bạn phải trở thành sư. Sư là người đã đi ngược lại
Zorba; người đó là kẻ trốn chạy, kẻ hèn nhát; người đó đã làm cái gì đó trong vội
vàng, từ không thông minh. Người đó không phải là người trưởng thành. Sư là
chưa trưởng thành, vẫn còn tham - tham thế giới kia, và muốn nó quá sớm, và mùa
vụ vẫn còn chưa tới, và người đó còn chưa chín.
Sống trong thế giới này đi vì thế giới này cho việc
chín chắn, trưởng thành, toàn vẹn. Thách thức của thế giới này cho bạn việc định
tâm, nhận biết. Và nhận biết đó trở thành chiếc thang. Thế thì bạn có thể đi từ
Zorba tới Phật.
Nhưng để tôi nhắc lại lần nữa: chỉ những Zorba mới trở
thành chư Phật - và Phật không bao giờ là sư. Sư là người không bao giờ là một
Zorba và không bao giờ trở nên được ca tụng bởi lời của chư Phật. Sư là kẻ bắt
chước, người đó là giả, rởm. Người đó bắt chước chư Phật. Người đó có thể là
người Ki tô giáo, người đó có thể là một Phật tử, người đó có thể là một người
Jaina - điều đó không tạo ra khác biệt gì mấy - nhưng người đó bắt chước chư Phật.
Khi một sư đi khỏi thế gian, ông ấy tranh đấu với nó.
Đó không phải là việc đi thảnh thơi gì. Toàn thể con người ông ấy bị kéo về thế
gian. Ông ấy vật lộn chống lại nó. Ông ấy trở nên bị phân chia. Một nửa con người
ông ấy là dành cho thế giới này và một nửa trở nên tham về thế giới kia. Ông ấy
bị giằng xé ra. Sư về căn bản bị phân liệt, là người bị chia chẻ, bị phân chia
vào cái thấp hơn và cái cao hơn. Và cái thấp hơn liên tục kéo ông ấy, và cái thấp
càng bị kìm nén càng trở nên ngày một hấp dẫn hơn. Và bởi vì ông ấy đã không sống
cái thấp hơn, ông ấy không thể đi vào cái cao hơn.
Bạn có thể đi vào trong cái cao hơn chỉ khi bạn đã sống
qua cái thấp hơn. Bạn có thể kiếm được cái cao hơn chỉ bằng việc đi qua mọi đau
khổ và cực lạc của cái thấp hơn. Trước khi sen trở thành hoa sen nó phải đi qua
bùn - bùn đó là thế giới. Sư đã trốn khỏi bùn, ông ấy sẽ không bao giờ trở
thành hoa sen. Dường như là hạt mầm sen sợ rơi vào bùn - có thể là từ bản ngã rằng
"Mình là hạt mầm sen! Và mình không thể rơi vào trong bùn được."
Nhưng thế thì nó sẽ vẫn còn là hạt mầm thôi; nó sẽ không bao giờ nở ra như hoa
sen. Nếu nó muốn nở hoa như hoa sen, nó phải rơi vào trong bùn, nó phải sống
mâu thuẫn này. Không có mâu thuẫn này của việc sống trong bùn, không có việc đi
ra ngoài.
Bạn hỏi tôi, Maya: Đôi khi nghe thầy nói, tôi có được
linh ảnh về việc sống một loại cuộc sống Zorba người Hi Lạp - ăn, uống và vui vẻ
- cường tráng và đam mê, và tôi nghĩ đây là đạo. Lúc khác tôi cảm thấy thầy
đang nói rằng đạo là ngồi im lặng, quan sát và bất động, như sư.
Không. Tôi sẽ là người cuối cùng làm ra sư từ bạn - bằng
không, tại sao sư và ni chống lại tôi nhiều thế? Tôi muốn bạn trở nên được bắt
rễ trong đất. Tôi hoàn toàn đồng ý với Friedrich Nietzsche người nói: "Tôi
cầu xin bạn, người anh em của tôi, vẫn còn trung thành với đất và không tin vào
những người nói về các hi vọng thế giới khác!" Học bài học đầu tiên của bạn
về tin cậy bằng việc tin vào đất đi. Nó là nhà của bạn ngay bây giờ đấy!
Đừng khao khát thế giới kia. Sống thế giới này đi, và
sống nó với sự mãnh liệt, với đam mê. Sống nó với tính toàn bộ, với toàn thể bản
thể bạn. Và từ toàn thể tin cậy đó, từ cuộc sống đam mê đó, yêu và vui, bạn sẽ
trở nên có khả năng đi ra ngoài.
Thế giới kia được ẩn trong thế giới này. Vị Phật ngủ
trong Zorba. Nó phải được đánh thức dậy. Và không ai có thể đánh thức được bạn
ngoại trừ bản thân cuộc sống.
Tôi ở đây để giúp bạn là toàn bộ dù bạn ở bất kì chỗ
nào, dù bạn ở trong bất kì trạng thái nào - sống trạng thái đó một cách toàn bộ
đi. Chính là chỉ sống một điều một cách toàn bộ mà người ta mới siêu việt lên
trên nó.
Đầu tiên trở thành một Zorba, đoá hoa của đất này, và
qua điều đó thu lấy năng lực để trở thành vị Phật - đoá hoa của thế giới kia.
Thế giới kia không phải là xa xôi khỏi thế giới này đâu; thế giới kia không chống
lại thế giới này: thế giới kia được ẩn trong thế giới này đấy. Thế giới này chỉ
là một biểu hiện của thế giới kia, và thế giới kia là phần không biểu hiện của
thế giới này.
Câu
hỏi 3
Osho
kính yêu ơi,
Không
ốc đảo, không sa mạc,
Không
núi non, không thung lũng,
Không
hè, không đông,
Không
mưa, không tuyết,
Không
có và không!
Không
Sufi, không Thiền,
Không
Mật tông, không mật chú,
Không
vương miện, không chữ thập,
Không
được, không mất!
Tất
cả trong thầy.
Vô
hạn, vĩnh hằng
Có
và không! Mãi mãi với thầy!
Seeta, đây là cách để hiểu tôi đấy. Tôi không Sufi
không Thiền. Tôi không nam không nữ. Tôi không khẳng định không phủ định. Và
tôi ở đây để giúp bạn siêu việt lên trên mọi cực. Do đó tôi nói về các cực, để
cho bạn có thể hiểu chúng, để cho bạn có thể trở nên nhận biết về chúng - nhiều
tới mức bạn không bị mắc bẫy bởi chúng.
Tôi nói với bạn về Sufi giáo và về Thiền để cho một
ngày nào đó bạn có thể đi ra ngoài cả hai. Bạn phải đi ra ngoài tất cả mọi quan
điểm! Bạn phải đi ra ngoài mọi loại nguyên tắc, giáo điều, con đường, phương
pháp, kĩ thuật.
Ở cùng tôi là trên con đường hướng tới siêu việt. Tôi
không là người hữu thần không là người vô thần, không là người Hindu không là
người Mô ha mét giáo.
Tôi đơn giản là nhận biết - đầy tình yêu. Bạn cũng có
thể trở thành điều đó, bởi vì bất kì cái gì tôi đã trở thành bạn đều có thể trở
thành, bởi vì bất kì chỗ nào bạn ở tôi cũng đã ở đó một ngày nào đó rồi, với
cùng đau đớn, cùng đau khổ, cùng sự lưỡng phân - với cùng những vấn đề! Tôi
cũng đã giống như bạn thôi. Đó là lí do tại sao tôi nói bạn cũng có thể giống hệt
như tôi.
Ở cùng thầy là ở cùng với người đã từng giống hệt bạn,
vì chỉ người đó mới có thể giúp bạn, người đã hệt như bạn. Nếu thầy giáng xuống
từ Thượng đế, ông ấy không thể giúp gì được mấy - vì ông ấy chưa bao giờ là một
con người. Nếu bản thân Thượng đế tới thế gian và đi trong các bạn, ngài sẽ chẳng
giúp ích gì chút nào. Đó là lí do tại sao ngài chưa bao giờ thử. Hay có thể
ngài đã thử và thất bại, cho nên ngài đã bỏ toàn thể dự án này.
Thượng đế không thể giao cảm với bạn được. Ngài chưa
bao giờ là người. Ngài sẽ không biết bạn ở đâu. Ngài sẽ không biết bạn khổ thế
nào. Ngài sẽ không có từ bi nào với bạn. Ngài sẽ không có hiểu biết. Và ngài
bao giờ cũng ở đó nơi bạn muốn ở. Khoảng cách sẽ là bao la. Cho dù Thượng đế
đương đầu với bạn, sẽ có kẽ hở giữa bạn và Thượng đế lớn tới mức nó sẽ không thể
nào được bắc cầu qua. Do đó mới có nghĩa của thầy.
Thầy là người đã từng giống hệt bạn, người đã vươn lên
từ bạn, người đã đi ra khỏi bạn và đi lên trước. Thầy biết mọi đau đớn của cuộc
hành trình. Thầy biết toàn thể quá khứ của con người. Thầy hiểu - đó là lí do tại
sao thầy có từ bi. Và thầy có thể giúp, vì thầy vẫn còn trong thân thể. Một tay
thầy vẫn trong thế giới, tay kia của thầy đã đạt tới Thượng đế. Thầy có thể trở
thành chiếc cầu. Thầy là chiếc cầu.
Seeta, đây là cách để hiểu tôi. Đừng để nó vẫn còn chỉ
trong tâm trí. Để nó trở thành rung động trong từng tế bào và thớ thịt thân thể
bạn. Để nó trở thành nhịp tim của bạn và việc thở của bạn.
Câu
hỏi 4
Tại
sao các nhà huyền môn nói ngôn ngữ của riêng họ?
Họ có cái gì đó để nói cho bạn, để chia sẻ với bạn,
nhưng cái gì đó đó thậm chí chưa bao giờ được bạn mơ tới. Họ phải thông thạo
ngôn ngữ của bạn, nhưng theo cách mà, theo sắc thái mà, quanh co ngoắt ngéo tới
mức họ có thể cho bạn một ý tưởng về cái gì đó mà không được chứa bởi ngôn ngữ
của bạn.
Đó là lí do tại sao các nhà huyền môn dùng ngôn ngữ
theo cách nào đó, và các nhà huyền môn khác nhau quyết định theo những cách
khác nhau. Người Sufi đã quyết định dùng ngụ ngôn; thông điệp của họ tất cả đều
trong các câu chuyện. Câu chuyện có cái hay. Ngay cả trẻ con cũng có thể hiểu
được chúng. Chúng có thể đi tới người thấp nhất, người không thể hiểu được cái
gì cao hơn, và ngay cả người đó cũng có thể hiểu được câu chuyện này. Người đó
sẽ hiểu tương ứng theo năng lực của mình, nhưng nếu bạn liên tục suy ngẫm về
câu chuyện này... và người ta phải suy ngẫm kĩ về những câu chuyện này. Đây
không phải là những câu chuyện mà bạn đọc một lần và quẳng chúng đi. Chúng có
nghĩa lớn ẩn bên trong chúng. Bạn phải đào đi đào lại mãi. Bạn phải suy ngẫm. Dần
dần, dần dần những nghĩa mới tới. Khi bạn trưởng thành trong thông cảm, trong
tin cậy, trong tâm thức, trong thiền, nghĩa cũng trưởng thành.
Người Sufi nói theo ngụ ngôn. Họ đã chọn cách đó vì có
nhiều người thế trong thế giới và ở những giai đoạn khác nhau của cuộc sống, ở
những ga khác nhau. Cái gì đó phải được nói mà có thể được tất cả hiểu. Bây giờ,
ngụ ngôn có cái hay: nó có thể được mọi người hiểu theo những cách khác nhau.
Nó là rất vô giới hạn. Những người không thể hiểu được, ngay cả họ cũng có thể
thích thú nó. Nếu hôm nay họ thích thú nó, ngày mai họ có thể hiểu nó.
Mahavir đã chọn một phương pháp khác. Ông ấy không nói
chút nào. Ngôn ngữ đã bị loại bỏ. Im lặng là ngôn ngữ của ông ấy. Ông ấy đơn giản
ngồi cùng các đệ tử của mình. Bây giờ điều này sẽ là khó; không phải mọi người
đều sẽ có khả năng hiểu điều đó - chỉ những người cao nhất thôi. Người ta nói về
Mahavir: buổi thuyết giảng đầu tiên của ông ấy, tất nhiên trong im lặng, đã được
hiểu chỉ bởi các thần. Đó là cách nói rằng không ai hiểu được nó. Phải mất nhiều
năm cho người, vài người, hiểu ông ấy.
Jaina giáo là tôn giáo nhỏ khi có liên quan tới số tín
đồ. Tại sao? Lí do là ở đây: Mahavir đã không chọn một phương pháp mà có thể được
nhiều người hiểu theo nhiều cách. Ông ấy là người rất toán học - đó là lí do đằng
sau điều đó. Ông ấy thích chính xác. Ông ấy không thể dùng ngụ ngôn được. Ngụ
ngôn về căn bản là không chính xác. Ngụ ngôn phải mông lung. Cho nên nhiều
nghĩa có thể có trong nó; không nghĩa nào đặc biệt, và nhiều nghĩa trong nó. Nó
phải là cái túi thần: bạn có thể lấy ra từ nó bất kì nghĩa nào bạn muốn. Nó sẽ
được hiểu bởi nhiều người. Hàng triệu người sẽ có khả năng hiểu, ngay cả trẻ
con cũng có khả năng đọc nó. Và cái gì đó sẽ xảy ra cho họ.
Mahavir rất toán học. Vì ông ấy rất toán học nên ông ấy
sẽ vẫn còn giữ im lặng - vì ông ấy biết rằng nếu ông ấy nói cái gì đó nó sẽ
không đích xác như nó ở trong ông ấy, cho nên tốt hơn cả là không nói. Im lặng
là ngôn ngữ của ông ấy. Chỉ vài linh hồn rất tiến hoá mới có thể hiểu ông ấy.
Thiền có phương pháp khác của riêng nó. Nó không dùng
ngụ ngôn. Nó cũng không giữ im lặng. Nó dùng công án, câu đố, điều khó hiểu, điều
không thể nào được giải bằng tâm trí con người. Đó là cách của nó để phá huỷ
tâm trí con người. Điều đó cần nhiều năm.
Đừng bao giờ bị lừa khi bạn đọc sách về Thiền rằng Thầy
đánh đệ tử và anh ta lập tức trở nên chứng ngộ - bạn không biết toàn thể câu
chuyện. Anh ta đã thiền trong hai mươi sáu năm. Phần đó không được kể trong điều
dó. Sau hai mươi sáu năm anh ta đã được cú đánh của thầy; điều đó không dành
cho mọi người đâu. Đừng nghĩ rằng khi bạn đi tới Thiền sư, ông ấy sẽ đánh vào đầu
bạn và bạn lập tức trở nên chứng ngộ. Ông ấy sẽ không đánh bạn chút nào đâu.
Ông ấy sẽ rất lịch sự với bạn. Ông ấy sẽ nói, "Chào ông, thật vinh hạnh
cho tôi được ông tới thăm! Tôi hân hoan trong sự hiện diện của ông." Đừng
nghĩ rằng ông ấy sẽ đánh bạn. Điều đó phải được thu lấy. Phải mất nhiều năm để
có được cú đánh đó của thầy. Cú đánh đó có thể được cho chỉ vào khoảnh khắc cuối
cùng.
Khi giữa bạn và thực tại chỉ còn một tầng rất mỏng còn
lại, vậy thì chỉ một cú đánh và tầng này bị phá vỡ và con chim chui ra khỏi trứng...
Nhưng con chim đó phải được cho cơ hội để trưởng thành trong trứng trước tiên.
Đừng đập vỡ trứng trước khi chúng trưởng thành, bằng không bạn sẽ giết chết con
chim. Bạn sẽ không giúp gì cả.
Thiền có phương pháp luận riêng của nó, rất điên rồ,
nhưng mạnh mênh mông.
Bạn hỏi tôi: Tại sao các nhà huyển môn nói ngôn ngữ
riêng của họ?
Họ phải nói vậy. Từng nhà huyền môn đều phải tạo ra một
ngôn ngữ tương ứng với hiểu biết của người đó, tương ứng với năng lực của người
đó, tương ứng với quá khứ của người đó, kinh nghiệm của người đó. Khi Jesus
nói, ông ấy nói như con trai của ông thợ mộc. Khi Phật nói ông ấy nói như một
hoàng đế. Đó là quá khứ của họ. Khi bạn nói bạn phải dùng quá khứ của bạn.
Phật không thể nói theo cùng cách như Jesus. Thuật ngữ
của ông ấy nhất định là khác. Ông ấy chưa bao giờ ở trong rừng, ông ấy chưa bao
giờ chẻ củi, ông ấy chưa bao giờ mang gỗ về cho xưởng thợ của bố ông ấy. Ông ấy
không biết mùi gỗ mới chặt thế nào. Ông ấy không thể nói ngôn ngữ đó được. Ông ấy
không thể dùng ngụ ngôn về người chăn cừu và cừu, cừu bị lạc. Không, ông ấy
không có hiểu biết về người chăn cừu và cừu. Jesus có thể dùng ngụ ngôn đó.
Phật nói như nhà vua - ngôn ngữ của triều đình, ngôn
ngữ của triết học, không phải là ngôn ngữ của người thường. Ông ấy đã không phải
là người thường - làm sao ông ấy có thể nói được ngôn ngữ đó?
Cho nên từng nhà huyền môn đều phải dùng ngôn ngữ
riêng của ông ấy. Và nhớ lấy: việc nói là nhất thời. Mọi người nói quanh chủ đề,
ngắt lại, đổi chủ đề, không hiểu, đều im lặng. Lời chữa lành và làm tổn thương,
dựng lên và gieo lẫn lộn. Dùng lời là dùng một vũ khí rất rất nguy hiểm. Nó có
thể được dùng cho giải phẫu; nó cũng có thể được dùng để chặt họng ai đó. Và
người ta phải rất khéo léo. Nhiều nhà huyền môn đã quyết định không nói chút
nào. Và những người đã nói, họ cũng đã nói liên tục chống lại việc nói. Và cho
dù họ rất rất thông minh, rất có kinh nghiệm với ngôn ngữ, nói rất thạo, thế nữa...
Các phát biểu của Phật dường như là khó và không thể
được cho chúng ta những người đầy các ý tưởng và chẳng hiểu gì. "Cái đó là
ngươi" - một phát biểu như biển. Bạn không thể bước lên nó, bạn không thể
xây dựng trên nó. Nó chạy như nước luồn qua ngón tay bạn. "Nếu ông gặp Phật
trên đường, giết ông ấy đi" - một phát biểu như núi. Bạn không thể thấy được
qua nó, bạn không biết cái gì nằm sau nó. Bạn không có ý tưởng nào nó ngụ ý gì,
nó tất cả là gì.
Mới vài ngày trước, tôi nhận được một bức thư từ Mĩ.
Ai đó phải đã đọc trong một trong những cuốn sách của tôi ở đâu đó: " Nếu
ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy đi." Bây giờ người đó rất giận. Phải
là một Phật tử rất đáng thương. Người đó giận và tức tới mức người đó viết cho
tôi trong cơn phẫn nộ lớn: "Ông là ai mà bảo chúng tôi giết Phật? Làm sao
ông có thể nói một điều báng bổ thế? Giết Phật sao? Phật phải được tôn thờ,
không bị giết. Phật là con người vĩ đại nhất đã từng bước đi trên thế gian. Ông
ngụ ý gì bởi việc nói 'Giết Phật đi nếu ông gặp ông ấy trên đường'?"
Người đó thực sự giận. Tôi có thể hiểu cơn giận của
người đó. Người đó không hiểu Phật, người đó không hiểu những phát biểu vĩ đại
này. Và nó không phải là phát biểu của tôi nữa. Thiền nhân đã từng nói điều đó
suốt nhiều thời đại; nó cổ ít nhất cũng hơn hai nghìn năm. Nhưng người đó có thể
không nhận biết về điều đó. Người đó phải nghĩ rằng tôi là ai đó chống lại Phật.
Nhưng Phật chết rồi! Nếu tôi chống lại ông ấy, làm sao tôi có thể nói giết ông ấy
được?
Những phát biểu này giống như núi, núi vĩ đại. Chúng
như đỉnh Everest, rất khó trèo lên nữa - có mọi khả năng của việc không bao giờ
đạt tới hiểu biết về chúng.
Người đó không thể hiểu được, người Mĩ này không thể
hiểu được, vì người đó phải đã được nuôi lớn lên theo cách Ki tô giáo, và thế rồi
người đó có thể đã trở nên quan tâm tới Phật. Đó là vấn đề. Không người Ki tô
giáo nào có thể nói rằng: "Nếu ông gặp Jesus trên đường, giết ông ấy
đi." Điều đó không phải là ngôn ngữ của họ. Họ sẽ nghĩ đây là báng bổ - đó
là điều người đó đã viết trong thư: "Điều này là báng bổ! Ông phải là kẻ
vô thần, người phi tôn giáo. Ông phải là quỉ Satan mà đi nói điều như thế như
'Giết Phật."' Giáo dục của người đó phải là giáo dục Ki tô giáo; đó là loại
ngôn ngữ khác. Người đó không biết cách thức Thiền về nói mọi điều.
Điều đó không chống lại Phật - nó chứa toàn thể thông
điệp của Phật! Phật sẽ tuyệt đối đồng ý với điều đó. Đó là điều ông ấy đã làm
khi ông ấy rời khỏi thế gian. Phát biểu cuối cùng của ông ấy là đích xác điều
này. Ông ấy nói với đệ tử của mình, Ananda, người đang kêu và khóc, "Đừng
kêu khóc vì ta! Thực ra ta đã là rào chắn cho ông. Bây giờ rào chắn này sắp chết
rồi, ông được tự do, và có thể dễ dàng hơn cho ông để được chứng ngộ. Là ánh
sáng chiếu lên bản thân ông đi."
Và Ananda đã sống cùng Phật trong bốn mươi năm, và đã
sống không chứng ngộ. Và sau khi Phật mất rồi, trong vòng hai mươi bốn giờ, ông
ấy đã trở nên chứng ngộ. Cái gì đã xảy ra? Ông ấy đã níu bám lấy ý tưởng về Phật.
Chính níu bám đó là rào chắn.
Chuyện xảy ra trong hoàn cảnh của Ramakrishna nữa:
Ông ấy là một người tôn thờ Kali - nữ thượng đế Mẹ. Và
thế rồi ông ấy bắt gặp một người rất kì lạ, Totapuri. Một người như Totapuri rất
hiếm khi xảy ra trên thế gian. Ông ấy giống như Bồ đề đạt ma. Một người rất kì
lạ. Ông ấy thường bước đi trần trụi, hoàn toàn tự do với mọi loại đạo đức, luân
lí, qui tắc, qui chế. Ông ấy là một paramahansa, một jeevan mukta - ông ấy tự
do trong đời mình, tuyệt đối tự do. Tự do là phẩm chất của ông ấy. Chỉ vẩn vơ
quanh sông Hằng, ông ấy đi tới Dakshineshwar. Ramakrishna thấy ông ấy, trở nên
quan tâm tới ông ấy. Ông này chưa bao giờ thấy một sự tự do như vậy, và duyên
dáng như vậy và đẹp như vậy. Và ông này đề nghị ông ấy, "Xin giúp tôi với."
Ông ấy nhìn vào Ramakrishna và ông ấy nói, "Được,
ta sẽ giúp ông. Những chỉ với một điều: ông sẽ phải tiêu diệt nữ thượng đế Mẹ."
Ramakrishna bắt đầu run rẩy và lập cập và vã mồ hôi.
Ông này nói, "Ông nói gì vậy? Làm sao tôi có thể tiêu diệt được nữ thượng
đế Mẹ? Bà ấy là Mẹ tôi! Bà ấy đã giúp tôi mãi cho tới giờ. Bà ấy là tất cả của
tôi trong tất cả. Bà ấy là linh hồn của tôi, chính trái tim tôi. Tôi sẽ chết!"
Totapuri nói, "Vậy tốt hơn cả là chết đi, nhưng
giết Mẹ này đi. Nếu ông thực sự muốn có tự do, ông phải tiêu diệt mọi kết nối
và mọi gắn bó. Và đây là gắn bó của ông. Ông không bị gắn bó với vợ ông, cho
nên đó không phải là vấn đề. Ông không bị gắn bó với tiền, cho nên đó không phải
là vấn đề. Ông không bị gắn bó với thế gian, cho nên đó không phải là vấn đề.
Toàn thể gắn bó của ông là với Mẹ này, ý tưởng này về nữ thượng đế Mẹ. Và ta biết,
nó là đẹp, nhưng dầu vậy nó sẽ giữ ông xa khỏi chân lí."
Ramakrishna sẽ ngồi trong thiền ngay trước Totapuri,
nhưng khoảnh khắc ông ấy nhắm mắt lại, nữ thượng đế Mẹ có đó với mọi huy hoàng
của bà ấy. Và ông này bắt đầu đung đưa, và nước mắt ứa ra trong mắt ông này. Và
ông này quên tất cả về Totapuri chấm dứt tự do của mình. Và Totapuri lay ông
này và ông ấy nói, "Ông lại rơi vào trong mơ rồi. Nó toàn là mơ thôi! Sao
ông không lấy chiếc kiếm và chặt bà ấy ra làm đôi? Tiêu diệt bà ấy đi!"
Điều đó xảy ra nhiều lần và Ramakrishna vẫn không thể
nào... Nói gì tới chém? - ông này sẽ quên mọi thứ về Totapuri và ý tưởng mà ông
ấy đã trao cho ông này. Và ông này sẽ nhìn vào mặt của Mẹ ở bên trong, và nó sống
động thế và đẹp thế, đầy ánh sáng. Đó không phải là kinh nghiệm thường: đó là
linh ảnh vĩ đại nhất, linh ảnh tối thượng về hình dạng, Thượng đế như hình dạng,
bên ngoài điều đó chỉ là cái vô dạng.
Totapuri phát chán và ông ấy nói, "Bây giờ, hôm
nay ta đi đây. Trước khi ta đi, ông thử thêm một lần nữa đi, và ta đã mang tới
mảnh kính này."
Ramakrishna nói, "Để làm gì?"
Ông ấy nói, "Khi ta thấy rằng nước mắt bắt đầu chảy
ra và ông bắt đầu đung đưa và ông đang cảm thấy cực lạc, ta sẽ cắt vào con mắt
thứ ba của ông bằng mảnh kính này. Máu sẽ bắt đầu chảy ra. Và ta sẽ cắt sâu, chỉ
để nhắc nhở ông rằng ta ở đây! Chỉ để nhắc nhở ông: cầm kiếm và chém Mẹ thành
hai mảnh."
Và Ramakrishna nói, "Lấy kiếm từ đâu được?"
Và Totapuri nói, "Ông đã mang Mẹ này vào từ đâu?
Từ cùng nguồn đó - nó toàn là tưởng tượng."
Và hôm đó Ramakrishna đã thử. Totapuri cắt con mắt thứ
ba của ông này bằng mảnh kính đó. Máu chảy ra, và ông ấy ấn miếng kính sâu vào
trong con mắt thứ ba. Trong một khoảnh khắc của nhận biết, Ramakrishna vớ lấy
thanh kiếm, chém Mẹ thành hai mảnh. Mẹ biến mất, và điều đó mở ra cánh cửa cho
cái vô dạng.
Trong sáu ngày ông này đã trong samadhi. Và khi ông
này quay lại, lời đầu tiên ông này thốt ra là, "Rào chắn cuối cùng đã sụp
đổ. Tôi biết ơn vô hạn với thầy, Thầy Totapuri - biết ơn vô hạn với thầy. Rào chắn
cuối cùng đã sụp đổ."
Đây là nghĩa khi Thiền nhân nói, hay tôi nói với bạn,
"Nếu ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy đi." Thực ra tôi đáng phải
nói với bạn, "Nếu bạn gặp tôi trên đường, giết tôi đi " - vì bạn có
thể không gặp Phật, bạn có thể gặp tôi. 'Trên đường' nghĩa là khi bạn bắt đầu
đi từ hình dạng sang vô dạng, thầy của bạn sẽ là rào chắn cuối cùng. Bạn đã trở
nên gắn bó thế với thầy. Bạn đã ở trong tình yêu thế với thầy. Bạn đã tận hưởng
nhiều vui sướng và cực lạc qua thầy. Dường như là cực kì vô ơn mà chém thầy - không,
nó không phải vậy. Nhưng đây là cách thức Thiền nói về một điều.
Người Ki tô giáo sẽ cảm thấy bị xúc phạm, người Jaina
sẽ cảm thấy bị xúc phạm, người Hindu sẽ cảm thấy bị xúc phạm, người Mô ha mét
giáo sẽ cảm thấy bị xúc phạm - đây không phải là cách đúng để nói về thầy của bạn!
Các nhà huyền môn khác nhau đã chọn những cách nói
khác nhau, nhưng nếu bạn nhìn sâu xuống thì thông điệp là không rất khác biệt.
Các bình chứa là khác nhau nhưng nội dung là không khác. Và mọi người đều phải
chọn cách nói của mình, và phải chọn cách thức mà đệ tử của mình sẽ hiểu.
Một giáo sư tâm lí tiến hành một thực nghiệm để chứng
minh một điểm về công việc. Ông ấy thuê một người để đập khúc gỗ bằng sống lưng
của rìu. Người này được bảo rằng anh ta sẽ được trả gấp đôi số tiền anh ta thường
làm ra. Anh chàng này kéo được nửa ngày. Anh ta bỏ nó, giải thích, "Tôi phải
thấy mảnh gỗ văng ra chứ."
Bây giờ, một người chặt củi, nếu người đó được bảo chặt
củi bằng sống lưng của rìu, chẳng mấy chốc người đó sẽ mất hứng thú. Người đó cần
thấy mảnh gỗ văng ra - chúng giữ cho người đó hứng thú, chúng giữ cho người đó
chuyển động, chúng giữ cho năng lượng của người đó tuôn chảy. Đó là ngôn ngữ của
người đó! Người đó chỉ có thể làm việc trong ngôn ngữ đó. Đó là khí quyển của
người đó - không có điều đó người đó không thể vận hành được.
Và từng nhà huyền môn phải nói tương ứng với bản thân
người đó và tương ứng với các đệ tự tụ tập quanh người đó. Và từng nhà huyền
môn hấp dẫn một loại người nào đó. Bạn không thể thấy được điều đó: ở đây, một
loại người nào đó đã tụ tập lại - người của tương lai. Bạn sẽ không thấy những
người chính thống ở đây, bạn không thể tìm được. Không thể nào. Bạn sẽ không
tìm thấy những người khắt khe đạo đức ở đây, những nhà đạo đức. Bạn sẽ không thấy
những kẻ đạo đức giả ở đây. Đây không phải là chỗ cho họ! Tôi không phải là người
dành cho họ.
Một nhà đông phương học người Pháp tới gặp George
Gurdjieff. Chỉ một lần ông ấy tới thăm ông này. Nhà đông phương học sống ở
Paris; tên ông ấy là Guenon. Và ngay cạnh đó, cách vài dặm từ Paris, là
Gurdjieff. Nhưng chỉ một lần ông ấy tới, trong nửa giờ. Và thế rồi ông ấy quay
lại và ông ấy bắt đầu nói chống lại Gurdjieff - ông ấy nói trong cả đời chống lại
Gurdjieff. Ông ấy thường nói với mọi người: "Trốn khỏi Gurdjieff như ông
trốn khỏi bệnh dịch - cứ trốn khỏi ông ta! Ông ta là loại bệnh tật nguy hiểm nhất
trên thế gian." Cái gì đã xảy ra? Ông ấy là nhà đạo đức, rất rất khắt khe
đạo đức. Và điều ông ấy thấy ở đó trong nửa giờ là rất rất khác.
Gurdjieff thường ép những người không phải là người uống
rượu, ông ấy sẽ ép họ uống nhiều nhất có thể được. Bây giờ, đó là phương cách của
ông ấy. Khi một người hoàn toàn say, người đó trở nên rất rất thực và thật thà.
Đây là trạng thái rất tệ, nhưng đây là cách nó vậy. Mọi người đã trở nên giả tới
mức để thấy khuôn mặt nguyên thuỷ của họ bạn phải đợi... chỉ khi họ tuyệt đối
say. Thế thì các mặt nạ của họ tuột ra; họ không thể giữ được chúng, họ say thế.
Mọi thứ trở thành dễ lung lay và họ bắt đầu cho nổi lên mầu sắc thực của họ.
Cho nên từng đệ tử phải trải của cuộc hành hạ đó. Nó
là hành hạ với ai đó đã không uống quá nhiều hay người chống lại rượu cồn. Cứ
nghĩ tới Morarji Desai mà xem: nếu ông ấy mà đi tới Gurdjieff...! Ông này sẽ buộc
mọi người uống rượu nhiều tới mức họ sẽ ngã ra trên đất, bắt đầu thốt ra điều
vô nghĩa, la hét, rền rĩ, lăng mạ. Và đó là cách của ông ấy quan sát họ: thế rồi
ông ấy sẽ ngồi im lặng và quan sát, lắng nghe họ. Một khi ông ấy đã hiểu thực tại
của bạn, thế thì không có vấn đề gì - thế thì công việc được bắt đầu. Nhưng bạn
để lộ ra thực tại của bạn chỉ khi bạn say. Bằng không, bạn vẫn duy trì mặt giả
của bạn.
Nhà đạo đức này thấy việc xảy ra này, và ông ấy kinh
hoàng. Ông ấy không thể nào hiểu nổi nó. Đôi khi những người chính thống tới
đây, nhưng họ trốn đi; họ không bao giờ quay lại nữa. Đó là một loại giao cảm
khác. Tôi có thể được hiểu chỉ bởi con người mới sẽ được sinh ra, đó là cách
duy nhất. Quá khứ không thể hiểu được tôi. Cho nên tôi phải dùng ngôn ngữ của
tương lai.
Và bạn biết, mọi người phải dùng ngôn ngữ riêng của họ.
Tôi đã nghe:
Nếu một luật sư ước ao cho ai đó một quả cam, ông ấy
có thể nói, "Tôi cho anh tất cả và riêng đất đai và lợi tức của tôi, tước
hiệu và quyền đúng, và tiền ứng trước của quả cam và trong quả cam này, với mọi
vỏ của nó, lớp cùi vỏ, nước cam, tép cam, và mọi quyền và ưu thế có đó với đầy
đủ quyền để cắn, cắt, mút hay ăn theo cách khác cùng quả cam này, hay cho đi
cũng quả cam này, có hay không có vỏ của nó, lớp cùi vỏ, nước cam, tép cam, bất
kì cái gì từ đó hay từ đó về sau hay trong bất kì hành vi hay các hành vi nào,
các dụng cụ thuộc bất kì loại nào hay bất kì bản chất nào, mà mâu thuẫn lại
theo bất kì cách nào."
Bây giờ chỉ một quả cam ông ấy đang cho ai đó đấy!
Nhưng đây là cách luật sư nói, cách thức của luật pháp.
Hai kẻ lang thang đang ngồi dưới một cây. Kẻ lang
thang thứ nhất, nằm trên ghế dài công viên dưới cây, "Tớ mơ tớ có việc
làm."
Kẻ lang thang thứ hai, "Vâng, cậu có vẻ mệt."
Có những ngôn ngữ và ngôn ngữ. Các nhà huyền môn cũng
xảy ra trong mọi hình dạng và kích cỡ. Và tất nhiên, họ phải dùng ngôn ngữ mà bạn
biết, và ngôn ngữ mà họ muốn được mọi người hiểu. Và ngôn ngữ mà họ dùng phải
có tính diễn đạt về kinh nghiệm của họ.
Kabir nói theo cách này, Krishna nói theo cách khác,
Nanak lại khác nữa - họ là những người của các thế kỉ khác nhau, bầu không khí
khác nhau, khí hậu khác nhau, và họ nói cho những loại người khác nhau và những
tiềm năng khác nhau.
Câu
hỏi 5
Tại
sao tôi tốt thế với người khác và khó thế với bản thân tôi?
Để tôi kể cho bạn một câu chuyện:
"Thầy ơi," một người đánh xe trẻ bực mình
phàn nàn với thầy thuyết giảng, "Tôi đang bí với ngựa của tôi. Chúng chẳng
ăn gì ngoài thịt băm viên và khoai tây chiên. Chúng đã gầy tới mức tôi sợ là
chúng sẽ không sống được lâu mấy nữa."
"Để ta hỏi anh cái gì đó đã," người thuyết
giảng nói. "Anh có cầu nguyện hàng ngày không?"
"Sao, không thường xuyên," người đánh xe lầu
bầu.
"Anh có luôn luôn rửa tay trước mọi bữa ăn
không?"
"Không phải bao giờ cũng vậy."
"Và anh có hỏi xin ân huệ của Thượng đế trước khi
anh ăn không?"
"Không!" người lái xe trả lời một cách cộc lốc.
"Thế thì mọi sự là hoàn toàn rõ ràng," thầy
giảng nói. "Đó là sự xoắn xuýt không thể bỏ qua được với luật thiêng liêng
về bù trừ. Vì anh ăn như ngựa, ngựa của anh ăn như người."
Bạn hỏi, Deva Sharan: Tại sao tôi tốt thế với người
khác và khó thế với bản thân tôi?
Đó là luật bù trừ. Nếu bạn tốt thế với người khác, bạn
sẽ khó với bản thân bạn. Bạn thực sự muốn khó với người khác, nhưng bạn che giấu
nó, bạn kìm nén nó. Nó trở nên được tích luỹ trong bạn. Và bạn không thể khó với
người khác được; bạn đã được dạy không khó với người khác. Cho nên chung cuộc,
bạn sẽ đi đâu để đổ đống rác này của bạn? Chỉ mỗi bạn còn lại.
Điều đó gần như bao giờ cũng xảy ra: những người tốt với
người khác là khó với bản thân họ - họ phải vậy thôi. Bình thường chỉ có hai kiểu
người: kẻ giết người và kẻ tự tử. Kẻ giết người là những người nguy hiểm cho
người khác, rất nguy hiểm - họ có thể giết. Và những người không nguy hiểm cho
người khác có xu hướng là nguy hiểm cho bản thân họ - họ có thể tự tử.
Không cần phải bị xếp vào hai loại này, bạn có thể đi
ra ngoài chúng. Và đó là việc dạy của tôi. Không cần quyết định trước rằng bạn
phải khó với người khác hay bạn phải tốt với người khác. Bạn phải có ý thức
trong bản thân bạn. Vấn đề không phải là khó hay tốt với bất kì ai - bạn phải
có ý thức bên trong bản thân bạn. Và hiệu quả đầu tiên sẽ là ở chỗ bạn sẽ tốt với
bản thân bạn. Việc trưởng thành đầu tiên về có ý thức là việc trở thành tốt với
bản thân người ta - việc trưởng thành đầu tiên của tâm thức là việc yêu cái ta.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết điều này, bởi vì bạn bao giờ
cũng được dạy rằng yêu cái ta là một loại ích kỉ - nó không phải vậy đâu. Nó là
nền tảng của mọi tình yêu vị tha đấy. Yêu cái ta là cơ sở của mọi tình yêu có
thể có - yêu vợ bạn, yêu con bạn, yêu Thượng đế. Chừng nào bạn còn chưa yêu bản
thân bạn, bạn không thể yêu được bất kì ai khác.
Suy ngẫm về lời của Jesus: Yêu hàng xóm ông như yêu bản
thân ông. Nhưng bản thân bạn tới trước nhất. Mọi người đã bắt đầu yêu hàng xóm
của họ và đã quên mất rằng họ không yêu bản thân họ. Cho nên khi bạn yêu hàng
xóm của bạn và bạn thấy người đó rất không đáng yêu - và bạn phải yêu anh ta bởi
vì bạn đã từng được dạy, và đây là cách xử sự tốt, và văn minh và văn hoá, đến
tương ứng qua nó, và bạn yêu hàng xóm của bạn - bạn sẽ ghét bản thân bạn. Thế
thì luật bù trừ sẽ có tác dụng.
Và nếu bạn ghét bản thân bạn, làm sao bạn có thể yêu
được hàng xóm của bạn? Bạn chỉ có thể giả vờ; chỉ trên bề mặt bạn có thể biểu lộ.
Sâu bên dưới, bạn sẽ muốn giết người đó. Sâu bên dưới, bạn đầy ghét. Đây là
tình huống đã xảy ra cho nhân loại.
Cách tiếp cận của tôi là khác toàn bộ: Có ý thức! Và
chín chắn đầu tiên sẽ là yêu cái ta, bạn sẽ yêu bản thân bạn, vì bạn là gần nhất
với bản thân bạn. Và nó phải bắt đầu từ đó. Cũng như bạn ném hòn đá vào cái hồ
im lặng và gợn sóng nảy sinh, đầu tiên chúng chỉ bao quanh hòn đá, và thế rồi
chúng lan rộng hướng tới bờ. Thế rồi chúng cứ lan rộng mãi....
Yêu bản thân bạn đi. Với điều đó bạn phải rất có ý thức.
Chỉ người có ý thức mới có thể yêu được bản thân mình, vì chỉ người có ý thức mới
biết rằng "Mình không có đó, chỉ Thượng đế là có." Làm sao bạn có thể
yêu bản thân bạn được? Bạn không biết ai có đó. Bạn thậm chí đã không nếm trải
bất kì cái gì ở đó, bạn đã không thấy bất kì ai ở đo. Nó toàn là bóng tối.
Và bạn đã được dạy rằng bạn là xấu xa, rằng bạn là vô
giá trị: "Cải tiến bản thân bạn đi! Là cái này đi! Là cái kia đi!"
Không ai đã bảo bạn chấp nhận bản thân bạn. Mọi người đều bảo bạn bác bỏ bản
thân bạn, cho nên bạn ghét bản thân bạn và thế rồi bạn trở thành khe khắt với bản
thân bạn. Hận thù là khe khắt. Và thế rồi bạn liên tục nghĩ về bất kì cái gì,
Deva Sharan này, rằng "Tôi hiền dịu và tốt với những người khác," cái
hiền dịu và cái tốt đó là đạo đức giả, nó không thật - nó không thể là thật được.
Cái tốt thực dành cho người khác chỉ có thể nảy sinh nếu
bạn là tốt với bản thân bạn. Bắt đầu từ đó đi. Quên tất cả về điều bạn đã được
bảo. Các ưu tiên của bạn toàn sai. Đừng để người khác là quan trọng hơn bạn.
Không ai là quan trọng hơn bạn. Bạn là người quan trọng nhất trên thế giới, bạn
là trung tâm của thế giới. Và tôi không bảo bạn trở nên có tính bản ngã: tôi
đơn giản nói ra chân lí - rằng từng người đều là một trung tâm của toàn thế giới,
của toàn vũ trụ. Thượng đế tồn tại trong bạn, bạn phải là trung tâm. Tôi không
nói rằng người khác không là trung tâm - mọi người đều là trung tâm. Nhưng làm
sao bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của người khác nếu bạn không biết ý nghĩa của bạn?
Yêu bản thân bạn đi. Và từ tình yêu đó mà tình yêu lớn
sẽ nảy sinh với người khác, vì họ cũng giống bạn.
Và câu hỏi cuối cùng:
Bí mật thương mại của các tu sĩ là gì? Làm sao họ đã
có khả năng khai thác con người lâu thế?
Nó rất đơn giản. Chỉ vài câu chuyện sẽ làm cho nó
thành rõ ràng với bạn:
Hai sinh viên âm nhạc đang thảo luận về việc làm bán
thời của họ. Một người nói, "Tôi làm việc trong rạp hát ban đêm và mang một
chiếc giáo trong một tiết mục."
Bạn anh ta hỏi, "Làm sao anh xoay xở vẫn thức
trong đêm muộn vậy?"
"Điều đó là đơn giản," người thứ nhất đáp.
"Người đằng sau tôi mang một chiếc giáo nữa."
Chuyện thứ hai:
Thầy thuyết giảng Pitts đã đảm nhận cả sáng đó để mô tả
những nỗi khủng khiếp của địa ngục cho giáo đoàn.
"Hỡi các anh và các chị," ông ấy lên giọng,
"một số trong các vị đã thấy sắt chảy ra từ lò luyện, phải không? Nó mầu
trắng, kêu xèo xèo và rít lên. Đấy, chỗ tôi đang nói tới, họ dùng chất liệu đó
để làm kem."
Đức cha Walker đứng trước giáo đoàn và theo một kiểu
cách năng động lên mặt nói về tính nguy hại của giao hợp. Sau hai mươi phút
huênh hoang về tội lỗi của dục, ông ấy dướn người lên cao hết cỡ, nghiêng về
phía bục giảng kinh, và nói oang oang:
"Hỡi các anh và các chị, nếu có người nào trong số
các vị đã phạm tội ngoại tình, lưỡi của quí vị có thể dính chặt vào tiếng sủa
gâu gâu từ mồm quí vị."
Và nếu bạn làm cho mọi người sợ, bạn cũng trở nên sợ.
Nó có tác dụng theo hai cách. Cho nên vấn đề không chỉ là các tu sĩ đã làm cho
bạn sợ - bản thân ông ấy đã trở nên sợ, ông ấy cũng run rẩy.
Sợ đã là bí mật thương mại của họ. Tạo ra sợ trong mọi
người, và khi mọi người kinh hoàng họ sẵn sàng trở thành nô lệ, thế thì họ sẵn
sàng làm bất kì cái gì.
Tôi muốn bạn tuyệt đối tự do với sợ. Không có sợ. Sự tồn
tại này là của bạn, không có địa ngục - trừ phi bạn quyết định tạo ra địa ngục.
Thế thì nó là chuyện riêng tư. Thế thì bạn có thể tạo ra nó. Nhưng không có địa
ngục! Nó toàn là cõi trời thôi. Và cõi trời không phải là chỗ cuối khi bạn đạt
tới Thượng đế, không. Cõi trời là mọi con đường đi tới Thượng đế. Từng khoảnh
khắc đều có tính cõi trời. Toàn thể cuộc hành trình có tính cõi trời.
Cõi trời là cách nhìn vào mọi sự, và địa ngục cũng vậy.
Nhưng trong quá khứ sợ đã được dùng như một bí mật thương mại. Và được nối với
sợ là tham. Đó là mặt kia của cùng một đồng tiền. Một mặt là sợ, mặt kia là
tham. Cả hai đã bị khai thác. Và người tôn giáo thực sự là người tự do với sợ
và tham.
Và nếu bạn tự do với sợ và tham, bạn sẽ tự do khỏi việc
khai thác đã được diễn ra mãi suốt nhiều thế kỉ. Vì điều đó, tôn giáo đã không
có ích gì cho nhân loại; thay vì thế, nó đã là tai ương, nó đã không phải là
phúc lành. Làm nó thành phúc lành đi. Bỏ sợ và tham đi. Sống một cách vui vẻ
đi! Sống theo cách của cõi trời chính khoảnh khắc này, bây giờ.
Sống... Yêu... hiện hữu... và quên mọi sợ đi. Không có
gì phải sợ cả. Chúng ta là một phần của sự tồn tại này. Sự tồn tại này không đối
kháng với chúng ta. Nó rất thân thiện. Nó đã tạo ra chúng ta! Làm sao nó có thể
không thân thiện được? Và không có ai ngồi đó mà đếm tội của bạn đâu, và không
ai có đó để trừng phạt bạn. Thượng đế không phải là để sợ.
Và nếu có sợ, bạn không thể yêu được. Sợ giết chết mọi
khả năng để yêu. Trong mọi ngôn ngữ của thế giới, có những từ như 'Thượng đế
đáng sợ' - chúng là các từ xấu. Bỏ chúng đi. Đừng bao giờ dùng chúng. Để cho
tôn giáo này là tôn giáo của tình yêu - là Thượng đế đáng yêu. Và thế thì bạn ở
ngoài kìm kẹp và cái bẫy của các tu sĩ.
Và không chỉ bạn ở ngoài kìm kẹp và cái bẫy của tu sĩ
- bạn sẽ tự do với tu sĩ nữa. Ông ấy cũng khổ cùng bạn. Liên tục nói với bạn lặp
đi lặp lại về địa ngục và cõi trời, ông ấy cũng trở nên được thuyết phục về nó.
Không phải là chỉ có bạn mới là nạn nhân đâu - ông ấy cũng là nạn nhân. Nó trở
thành cơn ác mộng cho tất cả.
Đây là điều tôi ngụ ý bởi tâm thức tôn giáo mới trên
thế giới: tự do với sợ và tham. Toàn thể năng lượng phải được đổ ra như lễ hội...
..............................
0 Đánh giá