Chương 6. Chỉ một cực lạc

Chương 6. Chỉ một cực lạc

Price:

Read more

Thầy Hoàn Hảo (Tập 1) - Osho

Bài nói về câu chuyện Sufi

Chương 6. Chỉ một cực lạc


Câu hỏi 1

Làm sao thế giới kinh nghiệm bên trong có quan hệ tới thực tại bên ngoài?

Anurag, không có hai thực tại đâu. Mọi nhị nguyên chỉ là trong quan niệm hoá. Thực tại là một. Chính tâm trí phân chia ra: cái thấp hơn và cái cao hơn, cái tốt và cái xấu, cái bên trong và cái bên ngoài, cõi trời và địa ngục. Chính tâm trí mới phân chia! Nhưng thực tại vẫn còn không bị phân chia. Nó tất cả là một. Bạn không thể đặt làn ranh chỗ nào cái bên trong chấm dứt và chỗ nào cái bên ngoài bắt đầu. Không có khả năng tạo làn ranh.

Cái bên trong là cái bên ngoài, và cái bên ngoài là cái bên trong. Chúng là cái một tuyệt đối.

Thấy điều này là được tự do với mọi phân chia và với mọi phân liệt.

Với chủ định trí tuệ thì phân chia là tốt. Phân loại ra để hiểu mọi thứ là tốt. Nhưng để biết thực tại người ta phải bỏ mọi phân loại, mọi khái niệm tâm trí, vì chúng giới hạn. Chúng phải giới hạn để xác định. Bạn không thể xác định được cái vô giới hạn. Bạn phải phân chia và cắt ra thành nhiều mảnh. Chỉ bộ phận mới có thể được xác định: cái toàn thể không thể được xác định.

Nhưng khoảnh khắc bạn cắt cái toàn thể thành các mảnh, nó không còn là thực nữa. Cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể.

Lắng nghe những lời này của Lão Tử:

Đạo lớn tràn lấp,

Bên phải bên trái.

Vạn vật nhờ Nó mà sinh ra,

Mà không một vật nào bị Nó khước từ.

Xong việc rồi, không để tên.

Che chở, nuôi nấng muôn loài, mà không làm chủ.

Đạo liên tục tuôn tràn - sang trái, sang phải, sang tội nhân, sang thánh nhân, nó sẵn có. Nó liên tục mưa lên tất cả. Nó không phân biệt cao hơn và thấp hơn, cái được chấp nhận, được chọn, và cái bị bác bỏ, bị kết án. Đạo lớn tràn lấp... Nó không biết tới biên giới. Nó nhảy từ thứ này sang thứ khác. Từ đàn ông vào trong đàn bà, từ âm sang dương. Âm liên tục dương hoá và dương liên tục âm hoá.

Có những khoảnh khắc... bạn đã không quan sát trong bản thể riêng của bạn sao? Bình thường bạn có thể là người đàn ông. Đôi khi bạn không là đàn ông chút nào: bạn là đàn bà. Bình thường bạn có thể là người đàn bà, nhưng đôi khi bạn là đàn ông. Đạo liên tục tuôn chảy. Không cái gì có thể cản trở được nó. Có những khoảnh khắc nữ tính trong tâm thức của mọi nam, và có những khoảnh khắc nam tính trong tâm thức của mọi nữ. Đàn ông và đàn bà là cùng nhau, không phân chia, hai mặt của một đồng tiền.

Đạo lớn tràn lấp,

Bên phải bên trái.

Vạn vật nhờ Nó mà sinh ra,

Nó là đại dương vô hình của năng lượng, của tâm thức, của phúc lạc - satchitananda - nó là chân lí, nó là tâm thức, nó là phúc lạc. Nhưng ngay cả ba từ này cũng không là ba điều. Ý tưởng về ba ngôi trong Ki tô giáo là hay, nhưng không có ba Thượng đế - chỉ có một Thượng đế. Ba khuôn mặt. Ý tưởng của người Hindu về ba ngôi Trimurti thậm chí còn hay hơn: một Thượng đế với ba khuôn mặt. Thực ra, Thượng đế có nhiều mặt như có nhiều người vậy.

Thượng đế nghĩa là cái toàn thể. Bạn định để Thượng đế vào đâu? Trong thực tại bên ngoài hay ở bên trong? Khi bạn yêu, người yêu của bạn trở thành thực tại bên trong của bạn. Anh ấy hay cô ấy có là bên ngoài bạn không? Bạn có là bên ngoài với anh ấy hay cô ấy không? Tất cả những phân loại cũ đó bắt đầu biến mất - đó là cái đẹp của yêu, vì nó làm cho bạn nhận biết về sự thống nhất vô hình của tất cả.

Mà không một vật nào bị Nó khước từ.

Thượng đế vẫn còn im lặng. Đạo vẫn còn im lặng. Nó không đưa ra lời phàn nàn nào.

Che chở, nuôi nấng muôn loài,

không phân biệt gì,

mà không làm chủ.

Đó là điều khác hay thế về Đạo, về Thượng đế thực: nó không hách dịch! Khoảnh khắc Thượng đế của bạn trở nên hống hách, bản ngã của bạn đã đi vào trong Thượng đế của bạn rồi, bạn đã bóp méo Thượng đế. Đó là cách nhiều Thượng đế đã trở thành Thượng đế không thực. Tâm trí bạn đã làm biến chất họ. Bạn đã mang mọi thứ vô nghĩa của bạn vào khái niệm Thượng đế. Bạn đã đầu độc chính khái niệm này.

Che chở, nuôi nấng muôn loài, mà không làm chủ.

Vậy Đạo là cái gì đó có tính giúp đỡ thuần khiết - chưa bao giờ ép buộc. Đạo nhân chưa bao giờ nói về vâng lời, nhưng chỉ nói về trong hài hoà với Đạo. Cái bên trong và cái bên ngoài là trong hài hoà, trong hài hoà tuyệt đối. Chúng là các nốt, hai nốt, của cùng một âm nhạc - hai nhạc cụ trong cùng một dàn nhạc, trong hài hoà tuyệt đối: Trong hài hoà là cách thức của Đạo.

Trong khoảnh khắc thức tỉnh với cái thực, người ta nhận ra, không phải là người ta phải không nổi dậy chống lại Đạo hay Thượng đế, nhưng mà người ta đơn giản không thể nổi dậy được.

Bạn không thể khác đi được! Bất kể điều gì bạn liên tục tin. Bạn có thể nghĩ về bản thân bạn như một cá nhân - bạn không vậy đâu, vì bạn không tách rời. Suy nghĩ của bạn chỉ là suy nghĩ của bạn thôi. Nó là một ý tưởng riêng tư. Nó không tương ứng với thực tại chút nào và, do đó, nó sẽ tạo ra khổ cho bạn.

Ý tưởng này về bên trong và bên ngoài đã tạo ra nhiều khổ cho con người, vì thế thì mọi người bắt đầu bỏ cái bên ngoài. Đó là cách ý tưởng về từ bỏ đã nảy sinh: "Từ bỏ cái bên ngoài và là cái bên trong!" Nhưng làm sao bạn có thể làm được nó?

Có một quả táo trên cây. Nó là bên ngoài. Nếu bạn ăn nó, nó trở thành bên trong: nó sẽ là máu bạn, xương bạn, tuỷ bạn. Khi nào nó trở thành bên trong? Làm sao cái bên ngoài trở thành cái bên trong? Và một ngày nào đó bạn sẽ chết, và mọi thứ đã ở bên trong bạn sẽ lại là ở bên ngoài, trở lại trong đất. Nó sẽ nuôi dưỡng quả táo nào đó, nhiều quả táo sẽ mọc.

Bạn thở vào và nó trở thành bên trong. Thế rồi bạn phải thở ra. Việc thở trở thành bên trong ở đâu? Quan sát mà xem. Đó là điều Phật nói: Quan sát việc thở của ông - và xem nó trở thành bên trong ở đâu và nó lại trở thành bên ngoài ở đâu. Cứ quan sát hơi thở của bạn, mọi phân biệt sẽ biến mất. Bạn sẽ thấy nó là cùng vòng tròn. Bên trong là bên ngoài và bên ngoài là bên trong.

Khoảnh khắc bạn thấy điều này trong vòng tròn thở của bạn, bạn đã giải quyết được một vấn đề lớn, một lưỡng phân lớn bị tan biến. Thế thì bạn không còn là thân thể hay linh hồn. Thế thì bạn không nói về những lời này. Thế thì tất cả những lời này chỉ là trẻ con - có thể hữu dụng, nhưng chúng không có thực tại, không có chân lí. Chỉ hữu dụng, tiện dụng.

Bạn hỏi tôi, Anurag: Làm sao thế giới kinh nghiệm bên trong có quan hệ tới thực tại bên ngoài??

Nó không có quan hệ đâu! vì chúng không phải là hai. Chúng là một. Điều đó thường trở thành câu hỏi lớn. Nhưng câu hỏi này về căn bản là giả, cho nên mọi câu trả lời đã được cho cũng là giả. Một khi bạn bắt đầu bằng một câu hỏi giả, bạn sẽ lại đi tới kết luận giả.

Trong ít nhất năm nghìn năm, con người đã từng bị phân vân bởi một điều: vấn đề thân thể/tâm trí. Chúng có quan hệ thế nào? Đầu tiên bạn phân chia... phân chia là giả. Không có thân thể và không có tâm trí tách rời. Nó là thân thể tâm trí. Nó là một thực thể. Tâm trí chỉ là cách nhìn vào thân thể, và thân thể cũng là cách nhìn vào tâm trí. Nó là cùng một thực tại được nhìn từ các góc độ khác nhau. Nó không phải là hai. Nhưng một khi bạn đã nghĩ rằng thân thể và tâm trí là hai, thế thì vấn đề nảy sinh: Chúng có quan hệ thế nào?

Quan sát một hành động nhỏ: bạn nghĩ giơ tay lên - bạn làm điều đó thế nào? Một hiện tượng đơn giản thế, giơ tay lên - bạn làm nó thế nào? Các triết gia đã từng phân vân và đã không thể nào trả lời được điều đó, nó xảy ra như thế nào, vì cái bên trong và cái bên ngoài này: chúng là tâm trí và thân thể được giơ lên - làm sao thân thể có thể tuân theo mệnh lệnh từ tâm trí được?

Tâm trí là vô hình, phi vật chất; thân thể là hữu hình, vật chất - làm sao vật chất tuân theo tâm trí? Móc nối là gì? Làm sao nó được dịch thành ngôn ngữ thân thể? Làm sao nó đáp ứng? Nhưng với tôi, về căn bản vấn đề là giả: không có hai thực thể trong bạn - nó tất cả là một. Thế thì vấn đề biến mất.

Bạn hỏi tôi làm sao thực tại bên trong có quan hệ với thực tại bên ngoài. Không có hai thực tại. Không có vấn đề về bên trong và bên ngoài. Chúng không có quan hệ. Chúng là một. Làm sao hai người yêu có quan hệ với nhau được? Nếu họ là những người yêu, họ không có quan hệ - họ đơn giản là một. Trong yêu họ biết sự thống nhất. Nếu họ không là người yêu, thế thì họ có quan hệ. Thế thì mối quan hệ là không mấy đâu. Nó nhiều tính xung đột và ít tính quan hệ. Nó nhiều tranh đấu hơn là cùng nhau.

Nếu yêu xảy ra, trong khoảnh khắc đó điều trở thành tuyệt đối rõ ràng là không có phân chia. Thế thì họ bắt đầu vận hành trong hài hoà. Và không phải là hài hoà phải được áp đặt từ bên ngoài. Không, nó tới theo cách riêng của nó, không có nỗ lực, không trau dồi, không ước định. Nó đơn giản xảy ra. Như cây mọc lên trời... hệt như điều đó. Như chim có thể bay... hệt điều đó. Như hoa có thể nở... hệt điều đó. Nó là tự nhiên.

Bên trong và bên ngoài là trong hài hoà tuyệt đối. Không có phân chia. Nhưng con người đã tạo ra phân chia và đã tạo ra nhiều lo âu về điều đó. Bỏ phân chia, và đi ra ngoài lo âu đi.

Bỏ nhị nguyên người ta trở nên có tính tôn giáo. Đừng nghĩ về bản thân bạn tách rời khỏi thế giới. Đó là điều Thiền nhân nói: Thế giới là niết bàn. Không có chứng ngộ khác.

Đó là lí do tại sao hôm nọ tôi đã nói về Phật Zorba. Zorba là hướng ngoại, Phật là hướng nội. Zorba không có ý tưởng ông ấy là ai, Phật đã từ bỏ thế giới, ông ấy chỉ nghĩ về ông ấy là ai. Toàn thể tâm thức của ông ấy đi vào bên trong. Zorba quan tâm tới đàn bà và rượu và nhảy múa và bài ca; toàn thể năng lượng của ông ấy đi ra ngoài.

Với tôi, thầy hoàn hảo sẽ là người không có phân chia. Ông ấy tuôn chảy theo mọi hướng - bên trong, bên ngoài - vì không có vấn đề gì cả. Nó tất cả là một luồng chảy. Ở trong một luồng chảy này là biết Thượng đế.

Câu hỏi 2

Tôi rơi vào tình yêu với vợ anh bạn, người lại yêu vợ tôi - điều đó không kì lạ chứ?

Nó vậy đấy. Toàn thể cuộc sống này là kì lạ. Mọi thứ xảy ra ở đây, những điều kì lạ. Tôi có thể hiểu vấn đề của bạn. Không anh chồng nào đã bao giờ có thể tin được rằng bất kì ai cũng có thể rơi vào tình yêu với vợ mình - mặc dầu anh ta có thể rơi vào tình yêu với vợ của ai đó khác và không có vấn đề gì. Nhưng ai đó khác rơi vào tình yêu với vợ anh ta sao? và anh ta chán ngán người đàn bà này thế? và anh ta không thể thấy được cái đẹp gì trong cô ấy? và mọi cái xấu đã trồi lên bề mặt?

Một người đàn ông về nhà và thấy đối tác của mình đang làm tình với vợ anh ta. Đối tác này rất sợ: "Bây giờ sẽ có rắc rối rồi." Và người này tới và vỗ vai anh ta và nói, "Đi với tôi sang phòng khác. Tôi muốn có lời nói với anh."

Và đối tác này run rẩy: "Bây giờ sẽ có nguy hiểm rồi - có thể đánh nhau hay cái gì đó." Và người này đưa anh ta sang phòng khác và đóng cửa lại và nói, "Nói cho tôi một điều: tôi thì phải vậy, nhưng sao lại anh? Điều gì đã xảy ra cho anh? Anh đã phát điên hay cái gì?"

Tôi có thể hiểu vấn đề của bạn: ai đó rơi vào tình yêu với vợ bạn sao? Để tôi kể cho bạn một giai thoại:

Hai người đàn ông chơi golf vào một sáng, nhưng không thể chơi nhanh được như họ muốn vì có hai người đàn bà đang chơi ở lỗ phía trước họ, những người di chuyển quá chậm.

Cuối cùng, từ sự thất vọng, một trong những người đàn ông bắt đầu bước tới những người đàn bà để yêu cầu họ thôi buôn chuyện nhiều thế và chơi golf, nếu không thì xin tránh ra nhường đường cho đàn ông.

Anh ta đi trong quãng ba mét tới những người đàn bà và đột nhiên dừng lại, quay ngược lại và chạy về phía bạn mình.

"Tốt hơn cả là anh đi đi," anh ta nói. "Một người trong họ là vợ tôi và người kia là bồ tôi."

Thế là người thứ hai bắt đầu bước tới những người đàn bà. Anh ta tới quãng bốn mét rưỡi cách những người đàn bà và anh cũng quay ngược lại và chạy theo hướng khác. Anh quay trở lại với bạn mình và nói, "Thế giới nhỏ quá!"

Câu hỏi 3

Tôn giáo Do Thái, cũng như Thiền, dựa trên chỉ cái vô dạng và không cho phép tôn thời hình dạng. Nhưng ngay từ khi tới Ấn Độ tám năm trước, tôi đã đi xa khỏi ý tưởng này và đã rơi vào tình yêu sâu sắc không chỉ với hình dạng của thầy, mà còn với tôn giáo Hindu, nhiều nhân vật huyền thoại của nó và những câu chuyện quanh họ - Ram, Krishna, Shiva, v.v. Tôi thích phòng của tôi được trang hoàng với những bức hình về hình dạng thầy và tất cả những người này nữa, và nhúng chìm bản thân tôi vào trong cảm giác được bao quanh bởi thế giới huyền thoại Ấn Độ về các nam thần và nữ thần, mặc dầu về mặt trí tuệ tôi biết ảo tưởng của nó.

Tôi cũng yêu thích hình dạng theo cách cây cối, bầu trời và tự nhiên của Ấn Độ, cũng như con người Ấn Độ - nói chung và nói riêng - và tôi dường như đi tới sống động ở đây ở Ấn Độ trong điệu vũ nhịp đập trái tim lớn của niềm vui mà tôi chưa bao giờ có thể cảm thấy khi sống ở phương Tây.

Cái đầu tôi biết chân lí của khái niệm về cái vô dạng và của ý tưởng về 'giết Phật', nhưng trái tim tôi tuyệt đối bị nhận chìm trong tình yêu và sự tôn thờ hình dạng. Tôi thậm chí không có ham muốn về chứng ngộ thêm nữa và thà yêu Phật còn hơn là trở thành ông ấy, trong những cách thức riêng của tôi.

Liệu điều này có nghĩa là tôi bị mắc kẹt ở đâu đó và cần thầy là một Totapuri để cắt trán tôi, hay thế là được để cho tôi vẫn còn trong thế giới nhịp đập trái tim, cực lạc hiện thời của tôi?

Ananda Prem, khái niệm Do Thái về Thượng đế là vô hình dạng, và khái niệm Thiền là không như nhau đâu. Thiền không có khái niệm về Thượng đế - vì làm sao bạn có thể có khái niệm về Thượng đế vô hình dạng được? Điều đó là ngớ ngẩn! Khoảnh khắc bạn có một khái niệm bạn đã tạo ra một hình dạng rồi. Đó là lí do tại sao Thiền chưa bao giờ nói về Thượng đế, Phật chưa bao giờ nhắc tới Thượng đế chút nào. Ông ấy đã được mọi người hỏi đi hỏi lại mãi, nhưng ông ấy giữ lặng thinh, ông ấy sẽ không nói.

Nếu bạn nói về Thượng đế vô dạng, bạn nói gì? Bạn ngụ ý gì bởi 'Thượng đế vô dạng'? Nếu bạn suy tư về tính vô dạng của Thượng đế bạn sẽ ngạc nhiên: hoặc là bạn phải bỏ ý tưởng về Thượng đế như Phật, như Thiền, hoặc là bạn phải tạo ra hình dạng nào đó. Hoặc cái vô dạng có thể vẫn còn lại và Thượng đế phải ra đi, hoặc Thượng đế có thể còn lại nhưng thế thì tính vô dạng phải ra đi.

Cho nên nhớ điều đó: Thiền không có ý tưởng nào về Thượng đế. Tính vô dạng không thể được gọi là Thượng đế. Khoảnh khắc bạn gọi nó bằng bất kì cái tên nào, bạn đã cho nó một hình dạng nào đó; tính vô dạng bị bóp méo đi, bị phá huỷ. Nó không còn là vô dạng nữa. Về Thượng đế vô dạng bạn chỉ có thể im lặng. Bạn thậm chí không thể nói chừng ấy được - rằng Thượng đế là vô dạng. Điều đó là báng bổ! điều đó là phạm thượng! Bạn không thể định nghĩa được theo bất kì cách nào: Thậm chí bạn không được phép nói rằng Thượng đế là không thể xác định được vì điều đó trở thành định nghĩa. Bạn đã nói cái gì đó, bạn đã nói điều gì đó rồi. Và bạn đang nói không cái gì có thể được nói.

Phật là rất logic theo cách đó. Thiền là rất rõ ràng. Do Thái giáo không rõ ràng được thế. Nó chống lại việc tạo ra hình dạng của Thượng đế, điều đó là đúng - nhưng quá nhiều chống đối đơn giản chỉ ra nó bị ám ảnh với ý tưởng về hình dạng. Đó là cách người Mô ha mét giáo cũng bị ám ảnh, vì họ là khơi xa của Do Thái giáo.

Do Thái giáo bị ám ảnh rằng phải không có tượng về Thượng đế trong bất kì đền đài nào. Và người Mô ha mét giáo đã đi xa thêm một bước: rằng nếu bạn tìm thấy bất kì tượng nào, phá chúng đi! giải phóng mọi người khỏi các hình dạng của Thượng đế! Dường như bạn có thể giải phóng bất kì ai khỏi các hình dạng của Thượng đế - vì hình dạng tồn tại trong tâm trí, không trong đền đài. Chúng không ở trong các tượng mà ở trong quán tưởng trí tuệ về Thượng đế.

Tại sao Do Thái giáo lại không cho phép tôn thờ các hình dạng? Chính nỗ lực phủ nhận các hình dạng chỉ ra rằng bằng cách nào đó bạn vẫn bị gắn bó với hình dạng. Nó không phải là vô dạng đâu! Nó có thể là thái độ phản hình dạng, nhưng không phải là vô dạng.

Thiền mới thực sự là vô dạng. Và bởi vì điều này, cũng như Prem nói:

Tôn giáo Do Thái, cũng như Thiền, dựa trên chỉ cái vô dạng và không cho phép tôn thời hình dạng.

Nếu Thượng đế là vô dạng, bạn là ai mà cho phép hay không cho phép? Chính ý tưởng về cho phép là có tính phá huỷ tự do. Do Thái giáo đã không trao tự do cho mọi người. Không phải là ngẫu nhiên mà mọi nhà cách mạng đều đã bắt nguồn từ người Do Thái. Đó là việc nổi dậy. Từ Jesus tới Freud, mọi nhà cách mạng đều đã bắt nguồn từ người Do Thái. Tại sao? Không có tôn giáo nào khác đã tạo ra nhiều nhà cách mạng đến thế - không tôn giáo nào khác có tính hạn định thế.

Nếu tôn giáo là tự do, nhà cách mạng chẳng có gì làm ở đó. Hindu giáo đã không tạo ra bất kì nhà cách mạng nào. Phật giáo đã không tạo ra bất kì nhà cách mạng nào. Tại sao? Vì tự do là toàn bộ thế! Vấn đề là gì?

Nếu như Jesus đã được sinh ra ở Ấn Độ, chắc không ai nghĩ về ông ấy là nhà cách mạng. Mọi người chắc đã cho phép, bởi vì không có câu hỏi - ai có đó để cho phép hay không cho phép? Đó là chọn lựa riêng của mọi người.

Vì người Do Thái đã không cho phép các hình dạng, Jesus được sinh ra. Và Jesus trở thành hình dạng của Thượng đế cho người Ki tô giáo, cho hàng triệu người. Và thế rồi điều đó đã từng xảy ra lặp đi lặp lại.

Marx xuất thân từ người Do Thái, và Albert Einstein, và Sigmund Freud. Tại sao? Tôn giáo có tính rất hạn chế. Nó không có hương vị của Thiền.

Và khi tôi nói về người Do Thái, tôi để sang bên các thầy Hassid. Họ có hương vị của Thiền. Nhưng người Do Thái không chấp nhận họ nữa. Họ bị coi là nổi dậy. Và bất kì khi nào một tôn giáo trở nên quan tâm quá nhiều tới việc cho phép và không cho phép, nó trở thành có tính nghi lễ, đờ đẫn, chết. Nó trở thành hình thức.

Thấy ra vấn đề đi: Người Do Thái nói về tính vô dạng của Thượng đế và toàn thể tôn giáo của họ đã trở thành tuyệt đối hình thức! Chỉ nghi lễ. Không cái gì của cái bên trong, không cái gì của trái tim. Chỉ nghi thức xã hội.

Tôi đã nghe:

Một đôi đăng kí vào một khách sạn nhỏ ở Vermont. Họ được yêu cầu cho xem giấy phép kết hôn. Người đàn ông thò ra giấy phép cho nhân viên cận thị và đặt nó lên bàn.

Sau khi đôi này đi lên cầu thang nhân viên kiểm tra lại giấy phép cẩn thận hơn và chạy xô lên theo họ. Anh ta đập cửa la lên, "Nếu anh chị chưa làm điều đó, đừng làm điều đó! Đây không phải là giấy phép cho nó!"

Ai có thể cho phép? Ai có thể cho bạn giấy phép về bất kì cái gì? Nếu có bất kì khả năng năng nào để biết Thượng đế đó là qua tự do. Nó là tự do tuyệt đối.

Bạn nói: Nhưng ngay từ khi tới Ấn Độ, tôi đã đi xa khỏi ý tưởng này...

Điều tốt là bạn đã đi xa khỏi ý tưởng này - đó chỉ là một ý tưởng, không phải là kinh nghiệm của bạn. Nhưng bây giờ bạn đã chuyển sang ý tưởng khác, chính là cái đối lập. Đó là điều đã từng xảy ra cho những người Do Thái trong suốt nhiều thời đại. Khi họ nổi dậy, họ chuyển sang ý tưởng đối lập. Chính cái đối lập. Điều đó bao giờ cũng xảy ra. Bạn đọc, và bạn chuyển sang cực đoan khác.

Bây giờ, Prem nói cô ấy đã đi xa khỏi ý tưởng này. Bạn có thể đã đi, nhưng bạn đã đi sang hướng đối lập. Bây giờ cô ấy được bao quanh bởi mọi loại nam thần và nữ thần: Ram và Krishna, Shiva... Ở Ấn Độ bạn có hàng triệu thần. Họ nói có nhiều thần hơn người ở Ấn Độ.

Tôi đã biết những người cả ngày mất hút trong tôn thờ. Tôi thường sống với một người. Anh ta có ít nhất ba trăm bức tượng trong ngôi đền nhỏ của mình, ngôi đền riêng của anh ta. Ba trăm bức tượng đủ loại nam thần và nữ thần. Và từ bốn giờ sáng sớm anh ta sẽ bắt đầu tôn thờ - bạn phải chăm sóc cho ba trăm thần cơ mà. Nửa ngày bị phí hoài vào việc đó. Và anh ta vội vã tới mức anh ta không thể tôn thờ cho dù một thần, vì anh ta biết, "Bây giờ vẫn còn hai trăm chín mươi chín thần đang đợi," và anh ta phải xô tới mọi thần. Và anh ta phải cẩn thận, bằng không ai đó có thể trở nên giận - ba trăm thần ghen tị đó. Bạn phải chú ý như nhau tới từng thần chứ.

Anh ta phát rồ! Tôi nói, "Anh sẽ phát điên đấy! Ba trăm thần nhiều quá."

Bây giờ Prem nói cô ấy đang cảm thấy cực lạc. Vâng, bạn sẽ cảm thấy cực lạc bởi vì bạn đã chuyển sang cực đối lập. Nó cho tự do. Nhưng đây không phải là tự do đúng - chẳng mấy chốc bạn sẽ đánh mất nó. Chẳng mấy chốc bạn sẽ trở nên mệt mỏi. Và thế rồi có mọi khả năng tâm trí sẽ bắt đầu chuyển sang cực đoan kia lần nữa. Và chân lí đích xác ở giữa, nhớ lấy. Chân lí đích xác ở giữa.

Ở Hi Lạp cổ đại, trong ngôi đền Delphi, có hai lời khắc ghi. Một lời rất nổi tiếng, lời kia không được nổi tiếng thế. Phải có nguyên nhân nào đó tại sao lời kia không bao giờ trở nên được nổi tiếng thế. Một lời là: Biết bản thân ông. Và lời kia là: Không bao giờ thái quá. Nhưng lời kia không nổi tiếng thế, và chúng cả hai là cùng nhau. Từng lời chúng đều quan trọng như lời kia, với cùng sự viên mãn, cùng tiềm năng.

Người ta có thể biết tới bản thân mình chỉ nếu người ta sống cuộc sống không thái quá, nếu người ta đi ở ngay chính giữa. Bằng không, người ta trở thành nạn nhân của các cực đoan.

Bây giờ, từ ý tưởng về Thượng đế vô dạng bạn đang trở thành nạn nhân của hàng nghìn hình dạng. Cứ ở chính giữa, nơi các thần biến mất; không hình dạng không vô dạng, khi có im lặng hoàn toàn - có nhà.

Và Prem nói: Tôi thậm chí không có ham muốn về chứng ngộ thêm nữa và thà yêu Phật còn hơn là trở thành ông ấy...

Đọc câu hỏi của bạn, Prem này, tôi bắt đầu trở nên lo nghĩ về Phật. Điều đó là hoàn toàn được, bạn sẽ yêu Phật - nhưng Phật thì sao? Yêu của bạn sẽ là yêu của bạn, với mọi chất độc của nó. Thực ra, yêu của bạn không phải là yêu chút nào. Chỉ qua ánh sáng mà yêu mới nảy sinh. Chỉ sau chứng ngộ yêu mới tuôn chảy. Trước điều đó nó chỉ là ảo tưởng về yêu.

Bạn có thể liên tục yêu Phật, nhưng bạn sẽ không bao giờ biết Phật là gì - làm sao bạn có thể yêu được? Yêu của bạn sẽ không là gì ngoài một loại ảo tưởng, ảo giác.

Bạn đã yêu mọi người trước đây, bây giờ bạn phóng chiếu cùng năng lượng ảo tưởng đó lên Phật. Và nếu Phật còn sống ông ấy sẽ không cho phép điều đó. Ông ấy sẽ cố gắng phá huỷ nó theo mọi cách, vì ông ấy sẽ nghĩ về bạn trong ảo tưởng này, trong mơ này. Bạn có thể cảm thấy thoải mái, nhưng đây là mơ tất cả như nhau. Sớm hay muộn bạn sẽ thức dậy và thế rồi bạn sẽ thấy rằng bạn đã phí hoài cuộc sống của bạn.

Vâng, có kích động nhưng không có cực lạc đâu. Và đừng nghĩ kích động của bạn là cực lạc. Chúng có vẻ giống nhau. Và nguy hiểm lớn nhất trong cuộc sống là từ những thứ trông có vẻ giống nhau. Kích động có vẻ giống cực lạc - nó không phải vậy. Cực lạc không có kích động. Nó là trạng thái rất yên bình. Cực lạc là im lặng tuyệt đối, cái không. Nó là chứng ngộ!

Bây giờ, bạn nói: tôi thậm chí không có ham muốn chứng ngộ...

Theo một cách nào đó điều đó là tốt, vì nếu bạn không có ham muốn nào về chứng ngộ, chứng ngộ trở nên có khả năng hơn. Nhưng theo cách bạn nói thì dường như là bạn đang níu bám, bạn sợ. Nó không chỉ là một phát biểu về vô ham muốn: nó là phát biểu về bác bỏ. Bạn sợ chứng ngộ, bạn sợ trở nên có ý thức thế - vì thế thì mọi ảo tưởng này sẽ biến mất và mọi thần huyền thoại này mà bạn được họ bao quanh sẽ có vẻ ngu xuẩn. Bạn sẽ ráng sức ném họ xuống sông. Bạn sẽ ráng sức gạt bỏ họ, vì họ đang chiếm không gian một cách không cần thiết.

Bạn không yêu được Phật chừng nào bạn chưa trở thành vị phật! Và trở thành vị phật là điều chứng ngộ là gì, và đó là điều cực lạc là gì.

Prem này, bạn không trong cực lạc đâu. Bạn có thể trong kích động tim đập thình thịch, bạn có thể tận hưởng trò này, nhưng được bao lâu? Và những thần này mà bạn để bao quanh đó thì tất cả không là gì ngoài phóng chiếu của bạn. Bạn đã tạo ra họ. Bạn có thể để năng lượng của bạn vào trong Ram, và thế thì ông ấy trở nên sống động, nhưng đó là năng lượng của bạn.

Tại sao không trở thành tiến trình sống động? Tại sao đặt nó vào trong Ram và làm ông ấy sống động? Tại sao đi xa thế? Và bạn nói:

Liệu điều này có nghĩa là tôi bị mắc kẹt ở đâu đó và cần thầy là một Totapuri để cắt trán tôi?

Tôi không là Totapuri. Ramakrishna đã quá gắn bó với hình dạng, và Totapuri gắn bó quá nhiều với vô dạng. Tôi không bị gắn bó chút nào! Với tôi cả hai là như nhau. Gắn bó với hình dạng hay với vô dạng là như nhau. Tôi không cho bạn Thượng đế vô dạng, tôi không định thay thế hình dạng bằng vô dạng - không, tôi muốn bạn vứt bỏ cả hình dạng và vô dạng và chỉ là... tự do với mọi ảo tưởng. Trong chính hiện hữu đó là tự do. Suy ngẫm về những dòng này của J. Kerouac:

Không có cách nào để mất.

Nếu có cách,

Thế thì

Khi mặt trời chiếu sáng ao

Và ta đi về phương Tây, ông đi về phương Đông,

Mặt trời thực đi theo người nào?

Người thực nào đi theo người nào?

Vì cả hai đều là người thực,

Không có một con đường thực.

Và mặt trời là ảo tưởng

Về con đường được nhân lên bởi hai người

Và được nhân lên cả triệu lần.

Vì không có đường, không chư phật,

Không pháp, không quan niệm,

Duy nhất một cực lạc,

Và chính tâm

Là việc lưu tâm

Rằng con đường là vô đường

Bằng cách nào đó là con đường nào đó.

Chỉ một cực lạc. Cực lạc không có liên quan gì tới hình dạng hay vô dạng. Cực lạc không có liên quan gì tới Do Thái giáo, Hindu giáo, Phật giáo. Chỉ một cực lạc. Và cái đó là gì? Tôi dạy bạn chỉ cái đó, và cái đó là gì? Cái đó là việc yên tĩnh hoàn toàn, bất động, không đi đâu cả, không ham muốn cái gì, không mơ cái gì - các thần hay vô thần, hình dạng hay vô dạng - không ý nghĩ chút nào. Ý nghĩ về hình dạng, ý nghĩ về vô dạng, tất cả đều như nhau. Bạn không thể ở trong tấm gương đó như im lặng được sao? thậm chí không cái gì được phản xạ! Tấm gương là trống rỗng. Đó là một cực lạc.

Một cực lạc đó là Thượng đế. Vị của nó là Thượng đế. Thượng đế không phải là người có hình dạng hay không có hình dạng. Thượng đế là vị của lưỡi bạn vào khoảnh khắc đó - khoảnh khắc đó của phúc lạc, khoảnh khắc đó của Đạo, khoảnh khắc đó khi tất cả đều dừng lại, thời gian dừng lại, và thế giới dừng lại.

Tôi không phải là một Totapuri chút nào. Ông ấy rất bị ám ảnh với vô dạng, bằng không tại sao ông ấy phải bận tâm rạch trán của Ramakrishna? Tôi sẽ không làm điều đó đâu. Để làm gì? Tôi không quan tâm theo bất kì cách nào tới việc thay đổi bạn từ quan điểm này sang quan điểm khác, từ triết lí này sang triết lí khác. Chúng tất cả đều là các cách nhìn. Nỗ lực của tôi là để làm cho bạn tự do khỏi mọi cách nhìn - cả Ramakrishna lẫn Totapuri.

Và cái gì xảy ra? bạn có biết không? Và đó là điều tôi e ngại, Prem này, nó có thể xảy ra cho bạn đấy. Ramakrishna nói sau sáu ngày đó, "Rào chắn cuối cùng đã sụp đổ," và thế rồi ông ấy đã sống ít nhất mười năm nữa - và liên tục tôn thờ Kali. Và ngày ông ấy chết, ông ấy chết với cái tên của Kali trên môi: "Jai Kali, Jai Kali!" Cái ngày, cái khoảnh khắc ông ấy chết, nó không phải là cái vô dạng, nó lại là hình dạng. Cái gì đã xảy ra? Trong vài ngày ông ấy vẫn còn trong kích động đó của cái vô dạng, thế rồi ông ấy trở nên mệt mỏi và lại chuyển đi.

Không thái quá. Không cực đoan. Ở giữa. Đích xác ở giữa là cánh cửa. Nếu bạn nghĩ về thời gian, thế thì trong quá khứ không có cửa, trong tương lai không có cửa - nhưng trong hiện tại có, vì đó là đích xác ở giữa. Nếu bạn nghĩ về hình dạng và vô dạng, không có cửa, nhưng đích xác ở giữa hai điều này. Không cái này không cái nọ - neti, neti - đích xác ở giữa cả hai. Không linh hồn không thân thể. Không trở thành người duy linh hay người duy vật. Không nghĩ về thực tại bên ngoài hay bên trong. Chỉ đích xác ở giữa!

Bao giờ cũng liên tục nghĩ tới chỗ giữa, và dần dần, dần dần thảnh thơi ở chỗ giữa và để cho các cực đoan tan biến. Và bạn đã về tới nhà.

Câu hỏi 4

Osho kính yêu, xin nói cho tôi - chúng ta đã gặp gỡ trong kiếp quá khứ rồi chứ?

Chidvilas, chúng ta thậm chí đã không gặp gỡ trong kiếp này. Bạn đang nói cái gì thế - kiếp quá khứ sao? Bạn đã từng ở đây, tôi đã từng ở đây, nhưng gặp gỡ chưa xảy ra mà. Tôi liên tục cố gắng gặp bạn, và bạn liên tục trốn mất. Bạn rất nghệ thuật, khéo léo, láu lỉnh. Và bạn biết điều đó! Và để né tránh việc đương đầu này, bạn quan tâm tới việc nghĩ về các kiếp quá khứ.

Hỏi tôi tại sao chúng ta đã không gặp gỡ trong kiếp sống này đi. Làm sao việc chúng ta gặp gỡ trong quá khứ hay không sẽ có ích gì? Bây giờ chúng ta không thể quay ngược lại nó được; chúng ta không thể làm được gì từ nó. Nó đã kết thúc rồi. Nhưng đây là cách tâm trí vận hành. Nó trốn khỏi hiện tại. Nó tìm cách hoặc vào trong quá khứ hoặc vào trong tương lai. Đấy là những thủ đoạn, chiến lược của tâm trí để cứu bản thân nó. Tại sao bạn phải quan tâm tới 'kiếp sống quá khứ'? Nó đã bị kết thúc rồi, nó qua rồi, nó không còn nữa! Nó không có sự tồn tại ở bất kì đâu, không còn hợp thức. Cho dù chúng ta đã gặp nhau, điều đó chẳng thành vấn đề gì cả.

Điều duy nhất thành vấn đề là: tôi ở đây và bạn ở đây, nhưng việc gặp gỡ không xảy ra. Nếu gặp gỡ xảy ra, bạn sẽ trở nên được chứng ngộ. Và để duy nhất điều đó là có tính quyết định. Ngày bạn trở nên được chứng ngộ, gặp gỡ đã xảy ra. Bằng không, phỏng có ích gì?

Và tôi biết rằng bạn biết điều đó, vì bạn cũng đã hỏi câu hỏi khác mà sẽ làm cho nó thành rõ ràng. Chidvilas hỏi:

Tôi cảm thấy mạnh mẽ việc trải qua buổi lễ khai tâm đẹp đó lần nữa! Tôi đang bỏ lỡ cái gì mà tôi có được khi thầy cho phép tôi đi vào trong vương quốc của thầy? Xin thầy chiếu ánh sáng nào đó lên cảm giác này, và lên việc bỏ lỡ.

Bạn biết điều đó! Bạn đang bỏ lỡ. Buổi lễ khai tâm sẽ không ích gì đâu - không buổi lễ nào có ích cả. Vấn đề không phải là về bất kì buổi lễ nào. Đó là vấn đề mạo hiểm. Bạn phải đủ dũng cảm để đương đầu với tôi, đối diện với tôi, đối diện với thực tại mà tôi đang làm thành sẵn có cho bạn. Và bạn liên tục chạy lắt léo né tránh. Theo cách này cách nọ bạn liên tục chạy.

Và tâm trí bạn đầy tri thức. Cho nên bạn bao giờ cũng có thể tìm ra cớ, cách giải thích, cách hợp lí hoá. Đó là lí do tại sao việc gặp gỡ không xảy ra. Bây giờ đây là nỗ lực khác từ tri thức của bạn: bạn muốn biết liệu chúng ta có gặp gỡ ở đâu đó trong kiếp quá khứ không.

Nếu tôi nói có, bản ngã của bạn sẽ được làm mạnh thêm. Bạn sẽ bắt đầu nghĩ bản thân bạn rất đặc biệt. Đó là ham muốn trong nó. Cho nên cho dù chúng ta đã gặp nhau, tôi sẽ không nói điều đó đâu. Mọi điều tôi sẽ nói là: Gặp tôi bây giờ đi! vì có thể không có kiếp khác cho tôi lần nữa. Bạn có thể không gặp tôi nữa đâu. Không có khả năng nào. Đừng bỏ lỡ cơ hội này.

Và nhớ lấy: buổi lễ khai tâm sẽ không ích gì đâu. Nó phải không chỉ là buổi lễ - nó phải có tính tồn tại. Bạn được khai tâm là một sannyasin, nhưng điều đó đã không giúp ích. Chỉ bằng việc trở thành một sannyasin bạn không trở thành một. Nó chỉ là điều sơ bộ. Nó giúp ích. Nó đem bạn tới gần hơn chút ít. Nó làm cho bạn mở hơn chút ít, tin cậy hơn chút ít. Nhưng nó không phải là chỗ cuối!

Khai tâm thực sẽ xảy ra một ngày nào đó khi bạn bỏ mọi tâm trí của bạn và bạn chỉ nhìn vào tôi mà không có ý tưởng nào, không có tri thức nào, chỉ với hồn nhiên.

Nhớ tới Zusya và những đứa trẻ kia đang nhìn vào mắt ông ấy. Cái ngày bạn nhìn vào trong mắt tôi dường như bạn là đứa trẻ, hồn nhiên, không quá khứ, không tương lai, thế thì việc gặp gỡ sẽ xảy ra.

Và việc gặp gỡ đó sẽ biến đổi bạn. Tôi chờ đợi điều đó. Tôi làm việc vì điều đó. Tôi bao quanh bạn từ mọi nơi. Nhưng mãi cho tới giờ nó đã không xảy ra - vì bạn thôi. Bạn liên tục chạy trốn.

Dừng chạy trốn lại đi.

Câu hỏi 5

Tại sao các nhà trị liệu tâm lí được gọi là bác sĩ tâm thần làm co lại?

Vì họ là vậy. Từ này (srink) mô tả đích xác điều các nhà trị liệu tâm lí đang làm - họ co mọi người lại. Họ co mọi người từ con người thành bệnh nhân. Đó là công việc của họ. Họ thu lại.

Khi bạn đi tới nhà trị liệu tâm lí, bạn đi như một con người, có chân giá trị. Họ thu bạn ngay lập tức thành các cái nhãn: bạn là người phân liệt, tê liệt, thần kinh. Lập tức bạn bị thu lại! Bạn không còn là cùng con người có chân giá trị nữa. Một cái nhãn đã được đặt lên bạn. Bạn là kẻ bị bệnh! Bạn phải được điều trị.

Bằng việc thu bạn thành bệnh nhân, nhà trị liệu tâm lí đã trở thành lớn hơn nhiều. Ông ấy càng thu bạn thành nhỏ, ông ấy càng cảm thấy lớn hơn.

Đây là trò cũ, chỉ cái tên đã thay đổi. Trong quá khứ đó là tu sĩ, bây giờ đó là nhà trị liệu tâm lí. Trong quá khứ, tu sĩ làm co bạn lại - cố tạo ra cảm giác mặc cảm, cố tạo ra cảm giác rằng bạn sai bằng cách nào đó, rằng bạn cần được thay đổi, rằng bạn là không chấp nhận được như bạn vậy, rằng bạn đang sẵn sàng xuống địa ngục.

Toàn thể nỗ lực của tu sĩ là để thu bạn thành tội nhân, kẻ có tội. Tu sĩ đang tạo ra một loại cảm giác mặc cảm trong bạn. Bây giờ công việc này đã được tiếp quản bởi nhà trị liệu tâm lí. Nhà trị liệu tâm lí là tu sĩ cho thời đại mới. Ông ấy thu bạn lại, ông ấy không nâng cao bạn. Ông ấy không cho bạn sự huy hoàng, không kính trọng bản thể bạn. Ngược lại, ông ấy làm cho bạn cảm thấy vô giá trị.

Và đó là lí do tại sao chúng ta đang cố tạo ra một loại trị liệu mới ở đây - trong đó bạn không bị thu lại thành người mang bệnh, mà được tôn cao, được mở rộng. Nhà trị liệu tâm lí không có đó để dán nhãn bạn là người ốm, nhưng có đó chỉ để giúp bạn biết rằng bạn không ốm, rằng ai nói rằng bạn ốm? rằng bạn đang mang những khái niệm sai về bản thân bạn. Ai đã bảo bạn rằng bạn là vô giá trị? Bạn có giá trị mênh mông.

Đó là toàn thể nỗ lực của tôi ở đây: để giúp bạn mở rộng ra.

Nhà trị liệu tâm lí và tu sĩ và cái gọi là các guru, họ tất cả đã từng làm cùng điều với mọi người: họ đã từng co mọi người lại. Họ đã thu nhân loại lại thành sâu bọ, bò lổn nhổn trên đất, xấu xí, sợ nhìn vào khuôn mặt riêng của mình trong gương. Sợ nhìn vào bản thể riêng của mình, vì chẳng có gì ngoài mọi thứ là sai. Vết thương và mủ.

Ở đây nỗ lực là để tạo ra một loại trị liệu khác toàn bộ, đúng với nghĩa của từ này. Nghĩa của từ 'trị liệu' là ở chỗ nó chữa lành. Và cái gì chữa lành? Yêu chữa lành. Yêu là trị liệu. Không cái gì khác là trị liệu. Không phân tâm nào, không tâm lí phân tích nào. Chỉ yêu chữa lành. Chữa lành là chức năng của yêu. Nhưng yêu mở rộng tâm thức của bạn. Nó cho phép bạn đi tới ngày càng cao hơn và chạm tới các vì sao. Nó làm cho bạn cảm thấy được kính trọng. Nó làm cho bạn cảm thấy rằng bạn được cần trong sự tồn tại, rằng không có bạn cái gì đó sẽ bị thiếu trong sự tồn tại, sẽ có lỗ hổng nếu không có bạn, không thể hoàn thành được. Bạn là điều phải có. Sự tồn tại này không thể như cũ nếu không có bạn. Bạn không phải là ngẫu nhiên. Bạn được cần tới về bản chất.

Để tôi nhắc cho bạn về Zusya lần nữa: Zusya là một trong những thầy hay nhất - bạn có thể gọi ông ấy là thầy hoàn hảo. Một hôm ông ấy bị bắt khi đang cầu nguyện trong giáo đường. Sao lại bị bắt? vì mọi người cảm thấy rất bị xúc phạm. Ông ấy đang nói với Thượng đế, "Nghe đây, tôi cần ngài cho nên ngài cần tôi. Không có tôi ngài sẽ là cái không. Và tôi nói với ngài: không có tôi ngài sẽ là cái không. Tôi là tôi bởi vì ngài; ngài là ngài bởi vì tôi."

Mọi người bực tức. Họ nói, "Ông nói gì thế Zusya? Ông có phát điên không đấy?"

Ông ấy không phát điên. Đây là cách người ta nên có đối thoại với Thượng đế. Đây không phải là bản ngã! Không chút nào. Đây là sự kiện đơn giản. Ngay cả một nhành cỏ nhỏ nhất cũng có giá trị như bất kì ngôi sao nào. Không có cấp bậc trong sự tồn tại, không ai là thấp hơn và không ai là cao hơn. Chúng ta tất cả đều được nối vào trong một sự thống nhất hữu cơ.

Đây là trị liệu thực. Trị liệu khi nó là thực sẽ không là gì ngoài yêu. Trị liệu khi nó là thực sẽ giúp bạn thu lại tin tưởng của bạn, sẽ giúp bạn nở hoa.

Từ 'Buddha - Phật' bắt nguồn từ gốc 'bodha'. Vào thời cổ đại, từ 'bodha' đã được dùng để chỉ việc mở ra của nụ. Nó bắt nguồn từ thế giới hoa; thế rồi nó được tiếp quản. 'Bodha' nguyên gốc nghĩa là mở nụ ra và trở thành hoa. Thế rồi nó được lấy theo nghĩa biểu dụ: khi một người mở ra, nở hoa, toả ra hương thơm và mầu sắc và điệu vũ trên trời, người đó trở thành vị Phật - người đó đã mở ra.

Trị liệu thực không làm co bạn lại: nó mở bạn ra. Nó làm cho mọi thứ của bạn thành sẵn có cho bạn. Nó cho bạn kho báu bị thất lạc của bạn. Nhưng khi có liên quan tới trị liệu tâm lí hiện đại, mọi người là đúng khi gọi các nhà trị liệu tâm lí là bác sĩ tâm thần làm co lại - họ là vậy.

Và một điều kì lạ là thế này: rằng họ ốm như những người họ đang chữa cho. Đôi khi thậm chí còn ốm hơn thế. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một nhà trị liệu tâm lí nào mà về tinh thần không trong rối loạn nào đó. Có thể chỉ để tránh rối loạn tinh thần của riêng mình mà ông ấy đã trở nên quan tâm tới rối loạn tinh thần của người khác, và ông ấy đóng vai cao siêu. Và ông ấy càng ngày càng ốm hơn mọi ngày.

Tôi đã nghe:

Một diễn viên phim ảnh nói với nhà tâm thần, "Tôi bị hấp dẫn tới đàn ông thay vì đàn bà."

Bác sĩ tâm thần đáp, "Anh tới đúng chỗ rồi, anh bạn đẹp trai!"

Họ đang chịu cùng một vấn đề, giả vờ giúp người khác. Trị liệu tâm lí là một trong những thứ hư huyễn nhất đã từng xảy ra cho thời đại này. Nhưng một loại định hướng khác toàn bộ là được cần tới.

Mọi người lâm vào rắc rối - không phải là mọi người sai nhưng vì mọi người được nuôi lớn trong những tình huống sai. Mọi người được sinh ra đều mạnh khoẻ hoàn hảo và bình thường, nhưng được sinh trong một xã hội thần kinh, nơi bố mẹ thần kinh, thầy giáo thần kinh, tu sĩ thần kinh, chính khách thần kinh. Và tất cả họ đều nhảy lên đứa trẻ nhỏ này, và họ bắt đầu thao túng nó. Họ làm cho nó phát rồ.

Chúng ta còn chưa có khả năng phát triển ra một loại dạy dỗ đúng. Khoa học vẫn còn rất thô sơ, nguyên thuỷ. Chúng ta đã đi từ xe bò kéo sang máy bay phản lực, nhưng khi có liên quan tới việc nuôi dạy trẻ, chúng ta vẫn nguyên thuỷ như bao giờ. Chúng ta chưa tiến hoá trong điều đó. Các bố mẹ liên tục đổ bệnh vào con cái. Và con cái là những nạn nhân bất lực. Và đến lượt chúng, chúng sẽ chẳng có gì để cho con cái chúng - chúng sẽ phải cho ốm bệnh của chúng thôi. Đó là mọi điều họ đã làm.

Mọi người không thần kinh: đấy là bầu không khí thần kinh.

Và, chỉ bằng phân tích tính thần kinh của mọi người bạn sẽ không làm biến đổi họ đâu. Chỉ bằng việc phân tích, nhiều nhất bạn có thể giúp cho họ trở nên được điều chỉnh chút ít. Bạn có thể làm cho họ cảm thấy rằng đó là cách cuộc sống vậy. Freud nói: Không có khả năng nào để thích thú trong cuộc sống - người ta chỉ có thể cam chịu nó.

Nếu bạn trải qua phân tâm, sớm hay muộn bạn sẽ thấy đây là điều cuộc sống là gì: mọi thứ vô nghĩa này, mọi rác rưởi này, mọi ham muốn thần kinh này - đây là điều cuộc sống là gì! Người ta bắt đầu lắng đọng với nó. Người ta mất đi hi vọng, trở nên được lắng đọng. Phỏng có ích gì mà nổi giận chống lại nó? Nó chẳng theo chủ định gì. Không thích thú nào là có thể.

Phân tâm rất bi quan. Điều đó rất kì lạ! Mọi người nói Phật bi quan, ngay cả Freud và mọi người như thế cũng đều nói rằng Phật bi quan. Điều này thực sự là kì lạ. Phật không bi quan, Shankara cũng không, Rumi cũng không. Những người này không bi quan, mặc dầu họ nói rằng cuộc sống đầy khổ. Nhưng họ nói điều đó chỉ để làm cho bạn nhận biết rằng nó không nên là vậy, rằng nó không cần là vậy.

Sống là khổ, họ nói đi nói lại, vì sống có thể là phúc lạc. Họ đơn giản khiêu khích bạn để bạn nắm cuộc sống của bạn trong tay bạn. Nó có thể được biến đổi thành phúc lạc. Nhưng họ không phải là người bi quan.

Freud là người bi quan. Các nhà trị liệu tâm lí là người bi quan. Họ đã chấp nhận đây là tất cả mọi điều mà cuộc sống được cho là vậy; người ta phải sống với nó, người ta phải cam chịu nó bằng cách nào đó. Họ làm cho mọi người có khả năng đối phó với nó, nhưng điều này chẳng là mấy. Chỉ đối phó với nó - và thế rồi cái chết tới sao...?

Không, sống có thể là điệu vũ chứ. Sống có thể là bài ca. Trị liệu thực sẽ không chỉ giúp bạn đối phó với kêu la: nó sẽ giúp bạn trở nên sống động hơn. Nó sẽ giúp bạn thu lấy việc sống thừa thãi. Nó sẽ giúp bạn đi tới satchitananda - nó sẽ giúp bạn đạt tới phúc lạc vĩnh hằng. Chỉ thế thì nó mới là trị liệu. Nhưng thế thì nó không còn là một loại co lại nữa - thế thì nó mở rộng ra.

Thực ra, từ gốc Do Thái cho cõi trời nghĩa là mở rộng. Khi Jesus nói: vương quốc của cõi trời ở bên trong ông, ông ấy đang nói một cách biểu dụ rằng nếu bạn mở rộng, nếu bạn mở rộng tới chính các giới hạn tối thượng của sự tồn tại, đây là điều vương quốc của cõi trời là gì.

Trị liệu thực sẽ có mầu sắc, hình dáng, hương vị khác toàn bộ. Đây là lí do tại sao tôi quan tâm nhiều thế tới trị liệu. Bạn sẽ không tìm ra được người nào khác trong toàn Ấn Độ quan tâm nhiều thế tới trị liệu. Việc có các trị liệu trong đạo tràng là điều chưa được nghe tới, nhưng mối quan tâm của tôi là sâu trong nó, vì tôi biết trị liệu đang làm nhiều điều sai cho mọi người. Nó đã đi vào chiều hướng rất rất bi quan.

Và trị liệu là tôn giáo của con người hiện đại. Cứ liên tục nói về Kinh Thánh và Koran và Vedas gần như là lạc hậu rồi, điều đó là vô nghĩa. Nó không còn liên quan. Người ta phải nói liên quan tới tình huống và tới vấn đề thực mà mọi người đang đối diện trong cuộc sống của họ.

Trị liệu là một trong những điều phải được thay đổi, biến đổi, để cho nó có thể trở thành lực chữa lành, để cho nó có thể đem bạn hướng tới tính toàn thể và tính linh thiêng nhiều hơn.

Câu hỏi 6

Vấn đề thực có tồn tại không? Mọi vấn đề có phải chỉ là trò chơi tâm trí không? Nhận biết có làm cho vấn đề biến mất không? Hay có khả năng rằng nhận biết mang tới kìm nén? Nếu tôi có điều đó bất kì khi nào tôi cảm thấy chút ít định tâm hơn và nhận biết hơn thông thường, tôi không cảm thấy vấn đề gì, nhưng khi tôi không tập trung chút nào thì mọi vấn đề cũ lại quay trở lại và chúng thậm chí còn có vẻ lớn hơn. Đây có phải là kìm nén không?

Ratna, mọi vấn đề đều là từ vô nhận biết. Vô nhận biết tạo ra vấn đề, thực sự nó là vấn đề duy nhất. Cho nên khi bạn trở nên tỉnh táo, nhận biết, mọi vấn đề biến mất - chúng không bị kìm nén! Và nếu bạn kìm nén chúng bạn sẽ không bao giờ trở nên nhận biết, nhớ điều đó; vì một người khi kìm nén vấn đề của mình sẽ sợ trở nên nhận biết. Khoảnh khắc người kìm nén các vấn đề trở nên nhận biết, những vấn đề đó sẽ trồi ra. Nhận biết sẽ đem chúng ra ánh sáng.

Dường như là bạn đang che giấu rác rưởi trong nhà bạn: bạn sẽ sợ đem ánh sáng vào, vì thế thì bạn sẽ phải nhìn mọi thứ bạn đã từng che giấu ở đó. Bạn không thể đem ánh sáng vào được.

Có thời tôi đã thường sống trong một làng, vài ngày. Có một con sông, bẩn thế không biết - chỉ là một con sông nhỏ mà bạn thậm chí không thể nào gọi nó là sông được. Và không có đường khác, không có cấp nước. Một khách tới ở cùng tôi. Bây giờ, tôi có chút phân vân: làm sao đem anh ta ra dòng sông bẩn thỉu kia được? Thế là tôi đưa anh ta ra sớm, bốn giờ sáng, và chúng tôi tận hưởng và nói chuyện về cái đẹp của trăng có đó và dòng sông trông thực sự đẹp. Và anh ta thích thú và anh ta nói, "Tôi chưa bao giờ thấy chỗ đẹp thế."

Tôi nói, "Điều đó thì hoàn toàn được, những đừng bao giờ tới vào ban ngày."

Anh ta nói, "Sao vậy?"

Tôi nói, "Cứ đừng tới."

Một cách tự nhiên, anh ta chạy xô tới, vào buổi sáng anh ta quay lại. Và anh ta tới từ đó nói, "Khiếp chỗ bẩn thế không biết!"

Nhưng nó trông có vẻ đẹp.

Nếu bạn kìm nén, bạn sẽ sợ trở nên nhận biết. Đó là lí do tại sao hàng triệu người sợ trở nên nhận biết. Nhận biết sẽ đem ánh sáng vào trong bạn, và thế thì bạn sẽ thấy mọi bọ cạp và rắn và sâu... và điều đó gây kinh hoàng. Người ta giữ bản thân mình trong bóng tối. Ít nhất người ta có thể liên tục giả vờ rằng không có vấn đề gì.

Nhận biết sẽ làm lộ ra mọi thứ bị kìm nén. Nhận biết chưa bao giờ kìm nén - ngược lại, nó làm lộ ra các kìm nén.

Nhưng kinh nghiệm của Ratna là đúng. Nếu bạn trở nên nhận biết, vấn đề biến mất. Một cách tự nhiên, câu hỏi nảy sinh: Nhận biết chẳng kìm nén những vấn đề đó sao? - vì làm sao chúng có thể đột nhiên biến mất được? Và khi nhận biết bị mất, định tâm bị mất, và bạn không còn ý thức thế, lần nữa vấn đề trồi lên - và chúng còn lớn hơn bao giờ! Cho nên kết luận tự nhiên là: nhận biết kìm nén chúng. Nó không phải vậy đâu.

Khi bạn vô nhận biết, bạn tạo ra vấn đề. Vô nhận biết có ngôn ngữ riêng của nó - đó là ngôn ngữ của vấn đề. Nó cũng giống như khi bạn dò dẫm trong bóng tối. Thứ này rơi, bạn loạng choạng vớ thứ khác. Đây là các vấn đề vì bóng tối. Nếu ánh sáng tới, bạn sẽ không loạng choạng vớ phải cái bàn, và không cái gì rơi. Bạn có thể di chuyển dễ dàng bây giờ. Bạn sẽ có khả năng nhìn thấy. Nhưng khi trời tối, cố di chuyển vào trong nhà riêng của bạn và nhiều tai nạn sẽ xảy ra. Bạn có thể không có khả năng tìm ra cửa trong đêm. Bạn có thể không có khả năng tìm ra mọi thứ ở chỗ nào.

Trong bóng tối, cách bạn sống tạo ra vấn đề. Bóng tối hay vô ý thức chỉ hiểu được ngôn ngữ của vấn đề; nó không có giải pháp. Cho dù một giải pháp được trao cho bạn, trong vô thức của mình, bạn sẽ làm ra vấn đề từ nó. Đó là điều liên tục xảy ra: nếu tôi nói cái gì đó với bạn, bạn hiểu cái gì đó khác toàn bộ. Bạn hiểu từ quan điểm của bạn.

Một cô giáo làng không chồng trong kì nghỉ hè tới thăm vùng đất dành riêng cho người da đỏ ở Yosemite. Cô ấy nhận ra một chiến sĩ da đỏ cao lớn đang đứng nổi bật trên một cây và trở nên rất tò mò về cuộc sống dục của anh ta.

"Làm sao mà một người to lớn như anh lại thoả mãn ở đây nơi không có đàn bà trẻ nào?" cô ấy hỏi.

Người da đỏ nhìn chằm chằm vào cô ấy một cách không tin tưởng và rồi nói, "Cô có thấy bò cái không?"

"Có, tôi thấy bò cái... anh không ngụ ý chứ?"

"Vâng," người da đỏ nói, "tôi làm tình với bò cái. Rồi cô có thấy ngựa không?"

"Có," bà cô nói, khiếp hãi. "Tôi thấy ngựa."

"Tôi làm tình với ngựa."

"Ôi, yêu ơi!" bà cô già quẫn trí kêu lên.

"Không," người da đỏ buồn bã lầm bầm. "Không làm tình với yêu tinh. Chạy quá nhanh."

Vô ý thức hiểu theo cách riêng của nó. Đó là lí do tại sao chư Phật bao giờ cũng bị hiểu lầm. Đó là số mệnh tự nhiên. Điều đó không thể tránh được. Rất khó hiểu vị Phật. Rất dễ và tự nhiên hiểu lầm ông ấy. Việc hiểu ông ấy sẽ yêu cầu nhận biết lớn lao về phần bạn - vì ông ấy sống trong thế giới mà không có vấn đề gì! nơi có mọi giải pháp và giải pháp và không có vấn đề, có mọi câu trả lời và không có câu hỏi. Và bạn sống trong một thế giới mà chỉ có những câu hỏi và câu hỏi và không có câu trả lời. Bạn sống xa xôi thế... dường như bạn đang sống ở hành tinh khác.

Ông ấy liên tục kêu to từ đó, nhưng bất kì cái gì đạt tới bạn đều khác toàn bộ. Và bạn bao giờ cũng có thể tìm ra những cách hợp lí hoá cho bất kì cái gì bạn hiểu. Bạn có thể trở nên rất giỏi biện luận, phòng thủ nữa.

William được đặt ngồi trong chỗ nhân chứng. Anh ta đã bình thản trả lời mọi câu hỏi của luật sư tố tụng. Bây giờ đến lượt quan toà.

"Bị đơn có thực sự mong đợi toà án luật pháp này chấp nhận lời nói của anh ta rằng máy chưng cất rượu được lắp ghép hoàn toàn là tài sản riêng của anh ta đã không được dùng với chủ định tạo ra rượu uytski lậu không?"

"Điều đó là đúng rồi, thưa quí toà!" Gilliam nói. "Tôi đã mua cái đó như một mặt hàng mới, một phần cuộc nói chuyện. Bây giờ tôi không biết, mà tôi cũng chưa từng biết vận hành nó như máy chưng cất để làm ra rượu uytski."

"Hogwash!" quan toà kêu lên. "Khi có liên quan tới toà án này, việc sở hữu trang thiết bị này là đủ bằng chứng về phạm tội của anh!"

"Vậy thì, thưa quí toà, tôi đoán là tốt hơn cả ngài nên buộc tội tôi cưỡng hiếp con gái ngài!"

"Cái gì!" quan toà la lên. "Anh đã cưỡng hiếp cả con gái tôi sao?"

"Không, thưa ngài," Gilliam nói. "Nhưng cô ấy ở chỗ tôi đêm qua - và tôi chắc có được trang thiết bị cho điều đó!"

Tâm trí rất tinh ranh và láu lỉnh. Nó có thể biện luận theo những cách láu lỉnh. Nó thậm chí có thể tìm ra những cách hợp lí hoá và chứng minh; nó có thể cho bạn cảm giác rằng bạn đã hiểu đúng.

Nhưng câu hỏi của Ratna có tầm quan trọng mênh mông. Nó quan trọng cho mọi người đang ở đây. Vì đây là chỗ mà bạn phải trở nên ngày một nhận biết hơn. Nhận biết phải trở thành bầu khí hậu.

Vấn đề thực có tồn tại không?

Chúng chỉ tồn tại khi bạn vô ý thức - thế thì chúng là thực. Nếu vô ý thức có đó, chúng là thực. Cũng như mơ tồn tại khi bạn ngủ - chúng có là thực không? Có, khi bạn ngủ chúng là thực tuyệt đối. Nhưng khi bạn thức, bạn biết chúng là không thực, chúng đã là không thực. Chúng là một phần của tâm thức ngủ. Đích xác giống điều đó - vấn đề tồn tại nếu bạn không được định tâm, không tỉnh táo.

Nếu bạn trở nên được định tâm, tỉnh táo, quan sát, nhân chứng, vấn đề đơn giản tan biến, bay hơi.

Mọi vấn đề có phải chỉ là trò chơi tâm trí không?

Vâng. Chúng toàn là trò chơi tâm trí cả. Và 'tâm trí' không là gì ngoài cái tên khác của vô ý thức.

Nhận biết có làm cho vấn đề biến mất không? Hay có khả năng rằng nhận biết mang tới kìm nén?

Điều đó tuỳ vào bạn. Có chút ít nguy hiểm về nó. Nếu bạn ép buộc nhận biết lên bản thân bạn, nó sẽ có tính kìm nén. Nếu bạn cho phép nhận biết nắm quyền sở hữu bạn, nó sẽ là không kìm nén. Nếu bạn thực hành nhận biết, một cách ương ngạnh, nếu nó là một loại ý chí, thế thì bạn sẽ kìm nén. Ý chí bao giờ cũng kìm nén. Ý chí là cội nguồn của kìm nén. Bất kì khi nào có ý chí, sẽ có kìm nén.

Cho nên ý thức của bạn phải không bắt nguồn ý sức mạnh ý chí. Nó phải bắt nguồn từ hiểu biết. Nó phải được thảnh thơi. Nó phải là một loại buông bỏ. Không ép buộc. Đó là một trong những điều bản chất nhất cần hiểu. Nếu bạn cố trở nên nhận biết, bạn sẽ kìm nén.

Chẳng hạn, giận đã nảy sinh, và bạn cố trở nên nhận biết về giận - một cách ương ngạnh, ép buộc, bạo hành, hùng hổ, hoạt động, với ý chí. Với nỗ lực đó, giận sẽ nhường bước. Nó sẽ rơi vào trong kho chứa của vô ý thức của bạn. Nó sẽ đi vào trong tầng ngầm của bản thể bạn, và ý chí sẽ đợi ở đó. Khi nỗ lực của bạn mất rồi... và nỗ lực không thể liên tục được, vì nỗ lực làm mệt mỏi. Bạn có thể làm nỗ lực, ý chí trong một khoảnh khắc nào đó, trong vài khoảnh khắc, trong vài giờ, hay vài ngày, nhưng sớm hay muộn bạn sẽ cần ngày nghỉ. Bạn sẽ mệt mỏi về toàn thể nỗ lực. Và khoảnh khắc bạn ở vào ngày nghỉ, giận sẽ quay lại, và với lực lớn hơn - vì trong khi nó bị kìm nén nó trở nên bị ép lại. Và bất kì khi nào bất kì năng lượng nào bị ép lại, nó thu lấy năng lượng, nó trở nên cô đặc hơn. Cho nên bất kì khi nào cái nắp làm bằng nỗ lực và ý chí và trọng lượng của bạn bị bỏ đi, nó sẽ bùng nổ thành cơn phẫn nộ bạo hành.

Đó là điều xảy ra cho mọi người, những người trau dồi mọi thứ. Họ có thể kìm nén giận của họ nhưng họ sẽ tạo ra chỉ phẫn nộ. Giận là nhất thời. Phẫn nộ là kinh niên. Giận không là gì để bị lo nghĩ tới - nó tới rồi nó đi. Nó cũng giống như làn gió thoảng. Nhưng phẫn nộ là nguy hiểm. Nó trở thành một phần của bạn. Nó trở thành nền tảng của bạn. Nó bao giờ cũng đấy, ở đó. Bạn không biết những người bao giờ cũng giận sao? Và họ có thể không biểu lộ cơn giận của họ chút nào, và họ bao giờ cũng giận. Bất kì cái gì họ làm, họ làm trong giận. Giận chảy thường xuyên bên dưới họ như dòng nước ngầm. Nó đã trở thành chạy ngầm. Nhưng nó ảnh hưởng tới yêu của họ, nó ảnh hưởng tới tình bạn của họ, nó ảnh hưởng tới chính cái hay của họ. Họ trở nên kinh tởm, họ trở thành xấu. Và họ có thể không giận chút nào, không biểu lộ giận dữ.

Bình thường điều xảy ra là ở chỗ những người trở nên giận vì các lí do nhỏ bé là người tốt, họ không bao giờ trong phẫn nộ. Bạn có thể tin cậy vào họ: họ không thể sát hại hay tự tử. Họ sẽ không bao giờ thu thập chừng ấy chất độc. Chất độc nhỏ được tạo ra, được ném đi. Họ bao giờ cũng tươi tắn, mạnh khoẻ. Tình huống tạo ra giận, nhưng họ không thu thập nó, họ không tích luỹ nó - họ không tích trữ nó.

Cái gọi là người tốt, người đáng kính, thánh nhân, vân vân, họ mới thực là người nguy hiểm - họ liên tục tích luỹ. Một ngày nào đó nó sẽ bùng nổ. Và nếu nó không bùng nổ, nó phải trở thành chính phong cách sống của họ. Nó sẽ có tính kinh niên.

Đừng bao giờ đem nhận biết vào qua sức mạnh ý chí. Bất kì cái gì được sức mạnh ý chí đem tới đều sẽ sai - để điều đó là tiêu chí. Thế thì làm sao đem tới nhận biết? Hiểu biết. Khi giận tới, cố hiểu tại sao nó đã tới; cố hiểu mà không có kết án nào, không có biện minh nào, không có đánh giá nào. Chỉ quan sát nó. Bạn nên trung lập.

Cũng như bạn quan sát đám mây bay trong bầu trời: trong bầu trời bên trong mây giận chuyển động - quan sát nó. Xem nó là gì. Nhìn sâu vào trong nó. Cố hiểu nó. Và bạn sẽ thấy có một dây chuyền: mây giận biến mất, nhưng vì bạn nhìn sâu vào trong nó, cái gì đó khác đã được tìm ra - có thể bản ngã bị tổn thương, đó là lí do tại sao bạn trở nên giận. Bây giờ quan sát mây bản ngã này, cái là tinh vi hơn. Tiếp tục quan sát nó. Đi sâu vào trong nó.

Không ai đã bao giờ có khả năng tìm ra cái gì trong bản ngã. Cho nên nếu bạn đi sâu vào trong nó, bạn sẽ không tìm thấy nó; và khi bạn đã không tìm thấy nó, nó không còn nữa. Thế thì đột nhiên có ánh sáng lớn - từ hiểu biết, từ việc nhìn xuyên thấu, từ việc chứng kiến, không nỗ lực nào, không ý chí nào, không kết luận nào rằng nó phải như thế này hay nó phải như thế nọ. Việc chứng kiến trung lập. Và nhận biết nảy sinh. Và nhận biết này có cái đẹp và phúc lành. Nhận biết này sẽ chữa lành bạn.

Và nếu nhận biết này tới, bạn sẽ không bao giờ bị mệt mỏi về nó, vì nó đã không bị ép buộc ngay chỗ đầu tiên. Cho nên không cần ngày nghỉ nào!

Nghĩ mà xem: Thượng đế của người Ki tô giáo, của người Do Thái, sau sáu ngày đã bị mệt và phải nghỉ vào ngày thứ bẩy. Ở phương Đông chúng ta không có quan niệm nào về việc nghỉ ngơi của Thượng đế. Tại sao? Điều đó có vẻ hơi khó khăn cho ngài. Thượng đế phương Đông liên tục làm việc, liên tục làm việc - không ngày nghỉ. Sao lại không có ngày nghỉ ở phương Đông cho Thượng đế? Thực ra, ngày nghỉ xảy ra ở đây, ở phương Đông, trong văn phòng, trong trường học và đại học, đã được mang từ phương Tây tới. Bằng không, không có vấn đề về ngày nghỉ chút nào, vì cuộc sống được nhìn từ một cách nhìn khác toàn bộ. Nó là trò chơi, không phải làm việc.

Thượng đế của người Do Thái phải đã phát mệt. Sáu ngày làm việc, công việc dài thế, và thất bại thế! Phải đã phát mệt rồi. Và chung cuộc, đến cuối, ngài đã tạo ra con người, và kể từ đó ngài đã không sáng tạo ra cái gì. Điều đó chỉ ra cái gì đã xảy ra cho ngài: ngài trở nên chán ngán với sáng tạo riêng của mình tới mức ngày đã dừng nó lại. Ngài nói, "Thế là đủ rồi!"

Nhưng Thượng đế phương Đông là sự liên tục sáng tạo. Nó là việc chơi đùa - leela. Thế thì nó là có thể. Để cho nhận biết của bạn là việc chơi đùa đi. Vô nỗ lực, được thảnh thơi, và thế thì nó có thể trở thành sự liên tục, nó sẽ có đó, nó sẽ không bị mất đi.

Cảm giác của tôi là ở chỗ Ratna phải làm nỗ lực này quá nhiều. Đó là lí do tại sao cô ấy nói:

Tôi thấy rằng bất kì khi nào tôi cảm thấy chút ít định tâm hơn và nhận biết hơn thông thường, tôi không cảm thấy vấn đề gì, nhưng khi tôi không tập trung chút nào thì mọi vấn đề cũ lại quay trở lại và chúng thậm chí còn có vẻ lớn hơn. Đây có phải là kìm nén không?

Phải có chút ít của điều đó, bằng không những vấn đề đó sẽ không bao giờ quay lại. Một khi bạn đã nhìn vào trong bất kì vấn đề nào một cách sâu sắc, một cách thảnh thơi, nó được chấm dứt mãi mãi. Vì mọi giận đều là một. Nếu bạn đã nhìn vào trong một tình huống giận một cách sâu sắc, bạn đã hiểu nó mãi mãi. Nó được kết thúc, bạn được tự do khỏi nó. Và mọi năng lượng đã tham gia vào trong giận sẽ là của bạn. Và mọi năng lượng đó mà đã tham gia vào tham sẽ là của bạn. Đột nhiên người ta cảm thấy bản thân mình là cái bình chứa năng lượng lớn. Thế thì người ta có thể nhảy múa, tuôn trào, với niềm vui. Thế thì cuộc sống không còn là việc cam chịu mà trở thành tận hưởng. Thế thì cuộc sống là lễ hội.

Chừng nào nhận biết của bạn còn chưa có bạn sẽ kìm nén. Và kìm nén có thể rất tinh vi. Thế thì bao giờ cũng vậy, khi nhận biết mất đi, thứ bị kìm nén sẽ kéo tới, và dưới dạng lớn hơn, dưới dạng trả thù. Nó sẽ báo thù.

Ratna, đừng áp đặt nhận biết lên bản thân bạn theo bất kì cách nào. Để cho nó phát triển lên. Trở nên thảnh thơi hơn, bình thản, yên tĩnh, chấp nhận. Người ta phải chấp nhận tất cả - cái tốt và cái xấu, thành công và thất bại, yêu và ghét, người ta phải chấp nhận tất cả. Trong việc chấp nhận đó, thảnh thơi xảy ra. Và nhận biết không là gì ngoài hương thơm của thảnh thơi. Nó là việc nở hoa của buông bỏ.

Thế thì vấn đề biến mất và biến mất mãi mãi...

Câu hỏi cuối cùng:

Câu hỏi 7

Osho ơi, nó tất cả là gì vậy?

Brenda, tôi không biết đâu, và tôi nghĩ chả ai biết cả, hay chả ai đã bao giờ biết. Phật, Christ, Krishna, không ai cả. Và điều hay là không ai biết, vì một khi nó được biết tới thì mọi niềm vui sẽ mất đi. Nó là điều bí ẩn. Nó là bí ẩn vô hạn. Không có cách nào để giải bí ẩn của nó. Không có cách nào để biết nó là gì. Mọi tri thức đều thất bại. Hồn nhiên mới thành công, vì hồn nhiên có thể nói "Tôi không biết."

Xem tiếp Chương 7 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post