Chương 8. Cỏ tự nó mọc lên

Chương 8. Cỏ tự nó mọc lên

Price:

Read more

Thầy Hoàn Hảo (Tập 1) - Osho

Bài nói về câu chuyện Sufi

Chương 8. Cỏ tự nó mọc lên


Câu hỏi 1

Thầy ngụ ý đích xác 'dốt nát có ý thức' là gì? Nó có phải là việc nhận ra rằng người ta là kẻ dốt nát tối thượng, về nền tảng hay có nhiều hơn về nó?

Ashoka, dốt nát có ý thức không phải là dốt nát chút nào. Nó là trạng thái tối thượng của tâm thức - làm sao nó có thể là dốt nát được? Nó là việc biết thuần khiết. Tất nhiên, không có tri thứcc, do đó nó được gọi là dốt nát. Nhưng có việc biết, việc biết hoàn toàn, rõ ràng, trong suốt. Không tri thức nào được thu thập, nhưng tất cả đều được biết.

Dốt nát có ý thức nghĩa là hồn nhiên và có ý thức. Nếu hồn nhiên là vô ý thức, sớm hay muộn nó sẽ bị làm biến chất bởi tri thức. Tâm trí vô ý thức bao giờ cũng sẵn sàng để bị làm biến chất, ô nhiễm, sao lãng.

Có ý thức nghĩa là định tâm, nhận biết - bạn không thể bị làm sao lãng. Bạn vẫn còn trong việc biết của bạn, nhưng bạn không tích luỹ tri thức. Tri thức bao giờ cũng là của quá khứ: việc biết là trong hiện tại, là của hiện tại. Giống như gương: gương phản xạ nếu cái gì đó tới trước nó, nhưng khi cái đó qua đi thì gương lại trống rỗng. Đây là dốt nát có ý thức - không phải là gương không phản xạ: nó phản xạ, nhưng nó không thu thập. Nó không giống như tấm kẽm chụp ảnh.

Tấm kém chụp ảnh trở thành thông thái. Khoảnh khắc cái gì đó được phản xạ trong nó, nó bắt giữ lấy điều đó. Nó trở nên bị gắn bó với điều đó. Gương vẫn còn không bị gắn bó - sẵn có, cởi mở, mong manh, không được bảo vệ, không phòng thủ, vậy mà bao giờ cũng trinh nguyên. Đây là tính trinh nguyên: khi không cái gì làm biến chất bạn. Mọi thứ tới và qua đi.

Bạn hỏi tôi: Thầy ngụ ý đích xác 'dốt nát có ý thức' là gì?

Nó là ý thức, ý thức biết. Tôi gọi nó là dốt nát vì nó không thể tuyên bố bất kì tri thức nào - đó là lí do tại sao. Nó không thể nói "tôi biết."

Khi hoàng đế Vũ hỏi Bồ đề đạt ma, "Ông là ai?" ông ấy đơn giản nói, "Tôi không biết."

Đây là dốt nát có ý thức. Chúng ta đã hiểu lầm ông ấy. Nhà vua nghĩ, "Thế thì phỏng có ích gì? Nếu ông thậm chí không biết ông là ai, thế thì khác biệt gì giữa ta và ông? Ta cũng không biết ta là ai."

Chúng ta đơn giản dốt nát. Bồ đề đạt ma là người dốt nát có ý thức. Và từ 'ý thức' đó tạo ra mọi khác biệt - mọi khác biệt có đó trên thế gian. Nó biến đổi toàn thể phẩm chất của dốt nát. Dốt nát trở thành chói sáng. Nó đầy ánh sáng - không đầy thông thái mà đầy ánh sáng.

Bạn hỏi: Nó có phải là việc nhận ra rằng người ta là kẻ dốt nát tối thượng, về nền tảng hay có nhiều hơn về nó?

Không. Người ta không có, cho nên làm sao người ta có thể là kẻ dốt nát tối thượng về nền tảng được? Nghĩ rằng người ta có là bạn đã thu thập tri thức rồi, bạn đã tuyên bố rồi. Bạn đã tuyên bố với thế giới rằng "Tôi đây!"

Những người biết, họ biết cái gì đó khác toàn bộ. Họ biết rằng "Tôi không có đây - Thượng đế có đây." Họ biết rằng "Sự tồn tại của tôi là tuỳ tiện. Sự tồn tại của tôi là việc tạo niềm tin. 'Tôi' như một thực thể tách biệt chưa bao giờ tồn tại cả. Tôi chỉ là một con sóng trong đại dương."

Nhưng khi con sóng dâng lên và đạt tới mây, nó có thể tin rằng "Tôi đây." Và trong khi đó đại dương cười và gầm thét, và biết rằng con sóng này đã phát rồ. Chẳng mấy chốc con sóng sẽ biến mất lại trong đại dương. Ngay cả khi nó có đó, nó không tách rời khỏi đại dương. Bạn không thể tách sóng ra khỏi đại dương được! Bạn có thể tồn tại cho dù một khoảnh khắc mà không có vũ trụ bao quanh bạn không? Không một khoảnh khắc nào.

Vậy bạn là ai? bạn là gì?

Nó có phải là việc nhận ra rằng người ta là kẻ dốt nát tối thượng, nền tảng?

Không. Dốt nát có ý thức biết rằng người ta không có. Có im lặng hoàn toàn bên trong. Không ai đã bao giờ ở đó. Bạn đã mơ về nó; nó là mơ của bạn. Bạn không là gì ngoài một kết cấu của tâm trí mơ của bạn.

Và, điều thứ hai, dốt nát không có nghĩa là người ta là người dốt nát. Nó đơn giản nghĩa là cuộc sống là điều huyền bí tối thượng. Nhấn mạnh không phải vào dốt nát của bạn, nhớ điều đó, vì bản ngã rất tinh ranh. Nó có thể tồn tại ngay cả trên ý tưởng về dốt nát. Nó có thể nói, "Tôi là người dốt nát - tôi là người dốt nát tối thượng. Nhưng tôi có đây."

Đầu tiên nó tuyên bố sự tồn tại của nó qua tri thức: "Tri thức của tôi là có giá trị. Tri thức của mọi người khác là không giá trị." Bây giờ nó tuyên bố, "Không tri thức mới là có giá trị - tôi là người dốt nát. Nhưng tôi có đây." Bây giờ, đằng sau dốt nát, cái tôi lại đang ẩn nấp. Nó đã lấy bộ mặt khác, mặt nạ mới, nhân vật mới, nhưng đó là trò chơi cũ được chơi với các qui tắc mới. Hình dạng đã thay đổi nhưng nội dung vẫn như cũ - cùng mơ đó, cùng mơ ngu xuẩn đó. Cùng bản ngã tuỳ tiện đó tuyên bố tính tuyệt đối về bản thân nó.

Không. Khi tôi nói dốt nát, nhấn mạnh của tôi không bao giờ vào cái tôi. Nhấn mạnh của tôi là vào tính huyền bí tối thượng của sự tồn tại. Dốt nát là tối thượng vì sự tồn tại không thể bị qui giản thành tri thức. Nó là không thể qui giản được. Nó là điều huyền bí, và vẫn còn là điều huyền bí. Bạn không thể giải tính huyền bí cho nó.

Thực ra, bạn càng cố giải huyền bí nó, nó càng trở nên huyền bí hơn. Nó thu lấy chiều hướng huyền bí mới.

Quan sát mà xem: năm nghìn năm tiến hoá của tâm trí con người - điều đó đã giúp theo cách nào để giải huyền bí sự tồn tại không? Sự tồn tại đã trở nên huyền bí hơn nhiều so với nó đã từng huyền bí trước đây. Quay trở lại năm nghìn năm: đã có một số giới hạn các vì sao, vì bằng mắt trần bạn không thể đếm được nhiều hơn ba nghìn ngôi sao trong đêm. Khi đêm tối và đầy sao và không có mây, nhiều nhất bạn có thể đếm được ba nghìn ngôi sao, không hơn số đó, bằng mắt trần. Có bao nhiêu sao? Bây giờ họ nói, "Chúng tôi đã đếm được ba nghìn tỉ ngôi sao. Chúng tôi đã thấy chỉ ba nghìn ngôi sao, bây giờ có ba nghìn tỉ ngôi sao. Và số này không phải là tận cùng: đây chỉ là bắt đầu của việc đếm."

Sự tồn tại tiếp diễn mãi mãi. Dường như không có khả năng rằng nó sẽ chấm dứt ở đâu đó.

Khi các nhà huyền môn thời Veda nhìn lên trời, nó đã là huyền bí. Khi bạn nhìn lên trời nó còn huyền bí hơn nhiều. Các nhà huyền môn thời Veda sẽ cảm thấy ghen tị với bạn - nhưng bạn không nhìn lên trời.

Trong hàng nghìn năm con người đã tin rằng cuộc sống, sự tồn tại, bao gồm vật chất. Bây giờ các nhà vật lí nói không có vật chất - tất cả là năng lượng. Họ đã không có khả năng giải quyết được điều huyền bí của vật chất. Điều huyền bí này phải rất sâu. Bây giờ không có vật chất - nó toàn là năng lượng.

Và năng lượng là gì? Bây giờ, ngay cả định nghĩa nó cũng trở thành khó - vì điều có thể là định nghĩa nó trong tương phản với vật chất. Bây giờ không có vật chất. Làm sao định nghĩa được nó? Định nghĩa bị mất. Nó có đó trong điều huyền bí vô cùng của nó. Và nỗ lực đã từng được thực hiện để định nghĩa nó đã làm cho nó có vẻ thậm chí còn huyền bí hơn.

Nếu bạn đi vào trong vật lí hiện đại, bạn sẽ ngạc nhiên. Các nhà huyền môn có vẻ không huyền bí thế bây giờ - với mọi Thượng đế và cõi trời và các thiên thần và các linh hồn, ngay cả họ cũng không có vẻ huyền bí thế. Thế giới vật lí hiện đại còn huyền bí hơn nhiều, huyền bí tới mức không thể nào hiểu thấu đáo được. Và không gian vô hạn...

Và Albert Einstein nói nó liên tục mở rộng... vào cái gì? Và ông ấy nói, "Chúng tôi vẫn chưa biết vào cái gì. Nhưng một điều là chắc chắn: nó liên tục mở rộng."

Sự tồn tại đang mở rộng, vào cái gì? Một cách tự nhiên, câu hỏi này nảy sinh. Phải có không gian nào đó bên ngoài nó chứ, nhưng điều đó không thể nào được nói ra. Bởi chính định nghĩa về sự tồn tại bị cấm rồi, vì khi chúng ta nói 'sự tồn tại' chúng ta ngụ ý mọi cái có đó, kể cả không gian. Mọi cái đang hiện hữu. Thế thì làm sao nó mở rộng được? vào trong cái gì? Không có gì bị bỏ lại ở bên ngoài nó!

Điều gần như là huyền bí khi một ngày nào đó bạn đi ra chợ và bạn để bản thân bạn trong túi riêng của bạn. Có thể giữ bản thân bạn trong túi riêng của bạn được không? Điều đó chắc phải vậy - nếu sự tồn tại có thể mở rộng mà không có cái gì để mở rộng vào. Mọi không gian đều ở trong, trong túi của nó, và nó liên tục mở rộng vào trong túi riêng của nó! Có vẻ ngớ ngẩn. Công án thiền không là gì khi so với điều đó.

Albert Einstein nói thế giới này là hữu hạn. Điều đó nữa cũng là huyền bí. Nếu thế giới là hữu hạn, thế thì phải có cái gì đó để xác định nó. Phải có biên giới! Nếu bạn có thể gọi nó là hữu hạn, thế thì phải có biên giới cho nó chứ. Nhưng để làm ra biên giới bạn sẽ phải chấp nhận cái gì đó bên ngoài biên giới, bằng không thì biên giới không thể được vẽ ra. Biên giới có thể được vẽ ra chỉ giữa hai vật!

Bạn có thể có hàng rào quanh nhà bạn vì hàng xóm. Nếu không có hàng xóm, không cái gì tồn tại bên ngoài hàng rào của bạn, làm sao bạn sẽ đặt hàng rào và đặt ở đâu? Và làm sao bạn sẽ quyết định rằng "Đây là chỗ chúng tôi phải đặt hàng rào," rằng "Phần này thuộc về tôi và không có gì bên ngoài nó"?

Nhưng Albert Einstein nói đây là cách nó vậy: "Chúng ta không thể giải thích được nó, nhưng đây là cách nó vậy. Thế giới là hữu hạn và vậy mà không có biên giới cho nó. Tính hữu hạn vô biên!" Ngớ ngẩn! Phi logic!

Và không chỉ điều đó đâu: Tính hữu hạn vô biên là tròn theo hình dạng - vì mọi thứ đều tròn. Làm sao một thứ vô biên có thể tròn được? Ai sẽ cho nó hình dạng tròn?

Điều huyền bí này cứ nhiều mãi lên mọi ngày. Và Albert Einstein ở ngay trên ngưỡng của sự tồn tại. Điều đó làm bực mình.

Cho nên khi tôi nói 'dốt nát có ý thức', tôi không ngụ ý bạn là người dốt nát: tôi ngụ ý rằng cuộc sống là bao la và sự tồn tại là vô hạn tới mức không có cách nào để thăm dò nó. Bạn không thể đo được nó; nó là không thể đo được.

Thầy ngụ ý đích xác 'dốt nát có ý thức' là gì? Nó có phải là việc nhận ra rằng người ta là kẻ dốt nát tối thượng, về nền tảng hay có nhiều hơn về nó?

Nếu không có nhiều hơn cho nó, thế thì điều huyền bí được giải rồi. Bao giờ cũng có nhiều hơn cho nó! và bao giờ cũng sẽ có nhiều hơn cho nó. Bất kì cái gì có thể được nói ra sẽ không bao giờ là việc thoả mãn - bao giờ cũng sẽ vẫn còn nhiều hơn cho nó.

Và tôi không nói rằng điều không được nói và điều bạn hiểu bên trong là đủ - ngay cả điều đó cũng không đủ. Không cái gì là đủ. Đó là nghĩa khi tôi nói sự tồn tại là huyền bí. Nó đơn giản không thể được hiểu.

Thấy ra điểm này làm cho người ta cảm thấy khiêm tốn. Thấy ra điểm này để cho nó chìm vào trong tim bạn, người ta cảm thấy muốn cúi mình. Cúi mình trước điều huyền bí này cái không thể nào thăm dò được - không chỉ là không biết mà là không thể biết - là lời cầu nguyện.

Câu hỏi 2

Tôi nhớ.

Tôi buông bỏ.

Tôi quên.

Tôi buông bỏ.

Chuyện tình của tôi với cuộc sống

Cứ sâu sắc thêm mãi.

Dầu vậy, tôi không hiện hữu mà không hoài nghi.

Nhưng nhảy lên trước!

Điệu vũ không dự đoán được.

Và tôi cho phép mọi điều xung quanh...

Tan biến vào qua âm thanh...

A, Osho ơi - cám ơn thầy.

Một câu hỏi về các cực:

Đàn ông-đàn bà, Thiền-Sufi...

Người nào có thể chứa đựng tất cả nó?

Vâng, Kavita, tôi chứa đựng tất cả nó đấy - bạn cũng có thể thế được. Vì bản thể là bao la. Bản thể không nam không nữ. Thân thể có nam có nữ. Tâm lí có nam có nữ. Nhưng bản thể không vậy. Bản thể đơn giản là bản thể.

Tại chính cốt lõi của sự tồn tại của bạn, không có đàn ông, không có đàn bà. Tâm thức ở bên ngoài tính cực. Khi bạn chứng kiến thân thể bạn, nếu bạn là đàn ông bạn sẽ thấy thân thể đàn ông có đó như một đối thể; nếu bạn là đàn bà, bạn sẽ thấy thân thể đàn bà như một đối thể. Nhưng nhân chứng là nhân chứng, đàn ông hay đàn bà. Nhân chứng không là cả hai. Nhân chứng đơn giản có đó - nhân chứng, vậy thôi. Tâm thức, nhận biết.

Nhận biết đó bao hàm tất cả. Khi bạn trở thành nhân chứng, khi bạn trở thành vị Phật, mọi thứ đều được bao hàm. Thế thì không có vấn đề các cực.

Thế gian không chỉ là phân cực. Đó là nghĩa của ý tưởng Ki tô giáo về Ba ngôi và quan niệm Hindu về Trimurti. Thế gian không bị phân chia thành hai - thế gian bị phân chia thành ba. Ba là chính nền tảng. Hai chỉ trên bề mặt và ba là ở trung tâm. Đàn ông-đàn bà, trên bề mặt. Thiền-Sufi, trên bề mặt. Nhưng khi bạn chuyển vào sâu hơn, khi bạn chìm sâu vào trong bản thể bạn, và bạn đạt tới trung tâm, mọi thứ biến mất. Cái một đơn giản hiện hữu. Một loại thuần khiết, sự tồn tại thuần khiết.

Kavita, điều đó là có thể - không chỉ có thể, nó phải được làm thành có thể. Đó là công việc của tôi ở đây. Trên đường, là người Sufi hay Thiền nhân. Khi bạn đạt tới trung tâm, quên tất cả về nó đi. Khi mục đích được đạt tới, con đường phải được quên đi. Đây là những phân chia về con đường.

Người ta có thể trèo lên núi từ nhiều phía, có thể chọn những con đường khác nhau. Và khi bạn di chuyển trên những con đường khác nhau, bạn nhìn dường như bạn đang đi trên những hướng khác nhau, đôi khi đối lập nhau nữa. Đường này đi lên bắc, đường khác đi xuống nam, nhưng chung cuộc, khi bạn đạt tới đỉnh, bạn sẽ tới cùng chỗ.

Tại đỉnh, Phật là Christ, Christ là Krishna, Krishna là Mohammed, Mohammed là Zarathustra, Zarathustra là Lão Tử. Tại đỉnh mọi phân biệt tan biến.

Cho nên, Kavita này, ngay bây giờ là Thiền nhân, là người Sufi đi, và khi bạn đã đạt tới đỉnh thì là Thiền/Sufi - thế rồi quên tất cả về nó đi! Nhưng trên đường... người ta phải đi trên con đường nào đó chứ. Và mọi con đường đều tốt, vì chúng tất cả đều dẫn tới cùng một đích. Mọi cánh cửa đều tốt, vì chúng dẫn tới cùng một điện thờ.

Bạn nói:

Tôi nhớ.

Tôi buông bỏ.

Tôi quên.

Tôi buông bỏ.

Chuyện tình của tôi với cuộc sống

Cứ sâu sắc thêm mãi.

Dầu vậy, tôi không hiện hữu mà không hoài nghi.

Đừng lo nghĩ về điều đó! Hoài nghi là hoàn toàn tự nhiên trên con đường. Nếu bạn hiện hữu mà không hoài nghi, điều đó nghĩa là bạn đã đạt tới đỉnh. Chúng biến mất chỉ ở đỉnh. Chúng có chủ định nào đó - chúng kích thích bạn, chúng giữ cho bạn đi.

Hoài nghi không phải là cản trở cần thiết. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn, vào cách bạn dùng hoài nghi của bạn. Chúng có thể trở thành cản trở. Nếu bởi vì hoài nghi bạn đơn giản dừng chuyển động, bạn nói, "Chừng nào hoài nghi của tôi còn chưa tan biến tôi sẽ không di chuyển," thế thì hoài nghi đã trở thành tảng đá. Nhưng nếu bạn nói, "Hoài nghi có đó, nhưng mặc cho hoài nghi tôi vẫn di chuyển, vì đó là cách duy nhất để giải nó... Chừng nào tôi chưa đạt tới cao hơn tôi không thể giải được hoài nghi này" - một cái nhìn tốt hơn, từ trên cao, sẽ giúp ích.

Hoài nghi không được giải quyết nếu bạn vẫn còn bám lấy cùng chỗ bạn đang ở, vì những hoài nghi đó được tạo ra bởi trạng thái đó của tâm trí. Nếu bạn vẫn còn bám lấy trạng thái đó, hoài nghi sẽ còn dai dẳng; chúng sẽ trở nên mạnh hơn mọi ngày.

Hoài nghi không được giải quyết bởi ai đó khác trả lời cho bạn. Đây không phải là hoài nghi triết học - đây là hoài nghi có tính tồn tại. Chúng được giải quyết chỉ bằng việc kinh nghiệm. Khi bạn di chuyển lên cao hơn chút ít, chúng biến mất. Bạn đã đạt tới trạng thái khác của tâm trí. Trong trạng thái đó của tâm trí chúng không thể tồn tại được. Đột nhiên chúng biến mất, dường như chúng chưa bao giờ có đó.

Mặc cho hoài nghi, người ta phải tiếp tục di chuyển. Thực ra, người ta phải dùng hoài nghi như việc kích thích di chuyển. Lắng nghe hoài nghi và nói với hoài nghi, "Được, tôi sẽ nhớ bạn, nhưng cách duy nhất để giải quyết bạn là ở chỗ tôi phải đi lên cao hơn chút ít trong tâm thức của tôi. Tôi phải trở nên tỉnh táo hơn chút ít. Chính việc không tỉnh táo của tôi tạo ra bạn. Chính vô ý thức của tôi tạo ra bạn, điều đó nuôi bạn, dưỡng bạn. Chính trạng thái máy móc của tôi là nguyên nhân cho nó."

Nếu bạn cố giải quyết hoài nghi của bạn về bạn ở đâu, bạn có thể thu được nhiều nhiều câu trả lời từ nhiều nhiều nguồn. Chúng sẽ làm cho bạn thành thông thái, nhưng không thực sự - chúng sẽ rót đầy bạn với thông tin. Nhưng hoài nghi sẽ vẫn còn ở đâu đó. Trên bề mặt, bạn có thể bắt đầu giả vờ rằng bạn biết, nhưng bạn sẽ biết rằng bạn không biết. Và nó sẽ gặm nhấm trái tim bạn.

Bạn có thể học câu trả lời, bạn có thể bắt đầu nói những câu trả lời đó cho người khác, nhưng chính sự tồn tại của bạn, chính phong cách sống của bạn, sẽ chỉ ra rằng bạn không biết.

Đó là khác biệt giữa triết học phương Tây và phương Đông. Chúng không nên được gọi bằng cùng một cái tên, vì cách tiếp cận của chúng về căn bản là khác nhau, khác nhau nền tảng thế, đối lập đối xứng thế.

Triết gia phương Tây suy nghĩ, nhưng không bao giờ thay đổi trạng thái nhận biết của mình. Ông ấy nghĩ ông ấy đang ở đâu. Ông ấy nghĩ chi li, ông ấy nghĩ rất logic. Ông ấy cố theo đủ mọi cách để giải quyết vấn đề, và ông ấy tìm ra nhiều giải pháp. Nhưng những giải pháp đó không giúp cho cuộc sống của ông ấy. Nếu chúng thậm chí không giúp cho cuộc sống của ông ấy, làm sao chúng có thể giúp cho cuộc sống của ai đó khác được?

Chẳng hạn: nhà tư tưởng và triết gia Anh, David Hume, đã đi tới cùng kết luận như Phật Gautam, đích xác cùng một điều. Nếu mà ông ấy ở phương Đông ông ấy chắc đã trở thành vị Phật, nhưng không may ông ấy lại ở phương Tây, trong chính khí quyển rất dầy của phương Tây.

Ông ấy đã đi tới cùng kết luận, không phải bởi việc thay đổi tâm thức của mình, mà chỉ bằng biện luận logic. Phật đã trở nên chứng ngộ, Hume vẫn còn không chứng ngộ. Phật đã tới trạng thái phúc lạc; Hume vẫn còn bò trên đất theo cùng cách như người cũ. Phật đã tạo ra một truyền thống mới mà vẫn còn sống động thậm chí tới ngày nay; hai mươi nhăm thế kỉ đã qua rồi. Nhiều người đã nở hoa vì Phật.

Hume đã tạo ra cái gì? Hume cũng tạo ra biện luận lớn, và thậm chí ngày nay nhiều sách được viết ra về Hume, và biện luận vẫn tiếp tục. Nhưng nó chỉ là biện luận; không một người nào đã được biến đổi bởi nó.

Và điều trớ trêu là ở chỗ kết luận đích xác như nhau. Phật đã đi tới thấy rằng không có cái ta; đó là việc nhận ra của ông ấy. Ông ấy đã thiền. Ông ấy đã đi ngày càng sâu hơn vào trong bản thể của ông ấy. Ông ấy đã tìm bên trong, từng góc một, và ông ấy đã không tìm ra bất kì ai ở đó. Đó là giải thoát của ông ấy. Bản ngã biến mất, và cùng với bản ngã mọi khổ và địa ngục của nó biến mất.

Bản ngã không được tìm thấy, cho nên mọi vấn đề do bản ngã tạo ra đều bay hơi. Khi cội nguồn bay hơi, mọi sản phẩm phụ bay hơi theo cách riêng của chúng. Khi bản ngã không được tìm thấy, có im lặng - và im lặng đó là đẹp, và im lặng đó là phúc lành.

Khi bản ngã không được tìm thấy, có mọi ánh sáng, rạng ngời. Toàn thể sự tồn tại tuôn chảy. Phật trở thành năng lực trống rỗng chứa toàn thể sự tồn tại. Bản thân ông ấy trở nên được biến đổi. Và hàng nghìn người khác đã trở nên được biến đổi từ cái nhìn vào trong của ông ấy. Nhớ lấy, đó là cái nhìn vào.

Điều gì đã xảy ra cho David Hume? Ông ấy cũng đi tới cùng một điểm, nhưng nó không phải là nhìn vào - nó là cái nhìn ra. Nhớ lấy hai từ này. Về mặt từ nguyên chúng là có nghĩa: nhìn vào, nhìn ra. Ông ấy đã đi tới cùng kết luận, như cái nhìn ra. Ông ấy đã thảo luận, tranh biện, đăm chiêu, suy nghĩ, suy tư, tập trung - đã làm mọi thứ về vấn đề này, nhưng không bao giờ đi vào trong.

Và ông ấy đã đi tới điểm, đích xác cùng điểm, ít nhất là hình tướng là như nhau, rằng không có cái ta. Cái ta không thể tồn tại được. Nhưng nó đã không tạo ra cách mạng lớn trong đời ông ấy; nó chỉ là kết luận hay trong chuyên luận của ông ấy. Nhưng ông ấy vẫn còn là con người cũ! Trước kết luận và sau kết luận không một chút khác biệt nào trong con người này. Ông ấy liên tục hành xử theo cùng cách.

Nếu bạn xúc phạm ông ấy, ông ấy sẽ nổi giận, nhưng Phật không thế. Đó là khác biệt. Ông ấy sẽ nổi giận, mặc dầu ông ấy nói không có cái ta. Ông ấy chắc đã quên mất toàn bộ triết lí của mình. Triết lí đó không phải là cái nhìn vào trong của ông ấy. Ông ấy chắc đã nói, "Đó là triết lí thôi - cái đó ở một bên. Nhưng khi ông xúc phạm tôi, tôi bị xúc phạm. Và tôi sẽ trả thù. Ông phải bị đáp trả!"

Khi Phật bị xúc phạm, ông ấy mỉm cười. Ông ấy nói, "Ông tới hơi chậm mất rồi. Ông đáng phải tới từ mười năm trước, thế thì ta có đó, nhiều lắm. Giá mà ông xúc phạm ta mười năm trước, ta chắc đã phản ứng điên cuồng. Ông tới hơi chậm rồi. Ta cảm thấy tiếc cho ông, vì bây giờ không có ai để phản ứng. Ta nghe điều ông nói, nhưng nó đơn giản đi qua ta. Nó vào tai này và ra tai kia. Không có ai bên trong để bắt giữ nó. Ta lấy làm tiếc. Ta cảm thấy từ bi với ông."

Đây là khác biệt giữa cách tiếp cận phương Đông và phương Tây. Triết học phương Tây được gọi đúng là triết học - yêu tri thức, yêu minh triết. Với triết học phương Đông, Hesse đã phát minh ra một từ mà tôi thích. Ông ấy đã phát minh ra từ mới; ông ấy gọi nó là philosia kiến học - nó có nghĩa là yêu việc thấy. Sia nghĩa là thấy. Đó đích xác là việc dịch của thuật ngữ phương Đông cho triết học, darshan - thấy, kiến. Nó là philosia kiến học - nó là cái nhìn vào trong, nó là việc nhìn vào trong.

Triết học phương Tây là tìm kiếm về tri thức, còn triết học phương Đông hay philosia là tìm kiếm về việc biết. Tri thức nhìn ra ngoài; việc biết nhìn vào trong. Tri thức thu thập thông tin; việc biết không thu thập cái gì - nó đơn giản đi vào trong để xem ai có đó. "Tôi là ai?" Việc truy hỏi của nó không có tính đối thể, việc truy hỏi của nó có tính chủ thể.

Kavita, hoài nghi sẽ còn dai dẳng. Chúng bỏ bạn chỉ ở bậc thang cuối cùng, không bao giờ trước đó. Dùng chúng một cách sáng tạo đi. Từng hoài nghi đều phải được biến đổi thành kích thích. Hoài nghi đơn giản nói bạn phải đi xa thêm chút ít, tiến lên trước chút ít, lên cao hơn chút ít. Hoài nghi nói, "Mình cảm thấy không được thoả mãn - bất kì cái gì mình có bây giờ đều không là thoả mãn. Mình phải đi sâu hơn chút ít."

Đừng bị dừng lại bởi hoài nghi; đó không phải là chức năng của hoài nghi. Và đừng bắt đầu biện minh, và đừng bắt đầu nghĩ ngợi, vì bằng nghĩ bạn sẽ trở thành một David Hume, bạn sẽ vẫn còn là con người cũ.

Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo ra chư Phật. Và chừng nào bạn chưa trở thành vị Phật, hoài nghi sẽ tiếp tục. Bạn có thể giải hoài nghi này, nó sẽ tự khẳng định nó từ góc khác. Đó là cùng hoài nghi trong hình mới, dạng mới.

Bạn kìm nén nó ở đây, nó bật ra ở kia. Bạn sẽ phát điên. Không cần đâu. Chú ý tới hoài nghi đó, cám ơn hoài nghi, và nói, "Được rồi, vậy tôi sẽ đi xa thêm chút ít để cho bạn có thể được giải nhé."

Điều đó giống thế này:

Một người ngồi trên cây. Bạn anh ta ngồi dưới gốc cây. Người trên cây hái quả, và người dưới gốc cây đợi quả và nhặt bất kì cái gì rơi xuống. Người trên cây nói, "Tôi thấy một xe bò kéo đang tới." Anh ta ở cao trên ngọn cây; anh ta có thể nhìn thấy từ xa.

Và người dưới gốc cây nhìn về phía mà người trên cây trỏ và anh ta nói, "Tôi hoài nghi - Tôi không thấy. Chả có xe bò kéo nào cả. Anh đang nói cái gì vậy? Anh không lừa được tôi đâu? Tôi có mắt, tôi không mù. Chả có xe bò kéo nào tới cả!"

Và người trên ngọn cây nói, "Có đấy, nó đang tới!"

Và họ bắt đầu tranh cãi. Biện luận có ích không? Người trên cây có thể thuyết phục được người không trên cây rằng xe bò kéo đang tới không? Dù anh ta khéo léo thế nào trong biện luận của mình, làm sao anh ta có thể chứng minh cho người kia, người không thể thấy được xe bò kéo?

Người đó đã làm gì? Đầu tiên người đó biện minh, cố theo đủ mọi cách, nói, "Nó đang tới đấy. Nó sơn mầu đỏ. Một xe mầu đen và một xe mầu trắng, thế này thế nọ," và anh ta mô tả mọi thứ. "Và người đánh xe có râu," và mọi thứ. Nhưng điều đó là vô ích.

Thế rồi anh ta nhận ra chân lí: "Làm sao anh ấy có thể thấy được? Tầm nhìn của anh ấy bị giới hạn." Thế là anh ta gọi anh kia; anh ta nói, "Anh leo lên đây. Anh trèo lên cây này, và tôi sẽ chỉ cho anh xe bò kéo."

Bây giờ, nếu người dưới gốc cây nói, "Tôi sẽ lên chỉ nếu anh thuyết phục được tôi rằng xe bò kéo có đó," thế thì chả có cách nào cả. Nhưng anh ta đã trèo lên cây, và anh ta thấy xe bò kéo, và hoài nghi được giải quyết. Và không còn biện minh nữa. Anh ta xin lỗi. Anh ta nói, "Tôi cảm thấy tiếc. Tôi đã tranh cãi không cần thiết với anh. Vấn đề không phải là biện minh. Anh có tầm nhìn tốt hơn nhiều từ đây."

Đây là điều chư Phật đã từng làm suốt nhiều thời đại. Họ nói, "Chúng tôi có tầm nhìn tốt hơn nhiều từ đây. Từ lợi điểm này anh sẽ có khả năng thấy cái gì có đó. Lại gần chúng tôi hơn đi. Đừng cứ liên tục tranh cãi."

Không phải là chư Phật không thể tranh cãi được - chắc chắn họ có thể biện minh và họ có thể biện minh giỏi hơn bạn. Nhưng điều đó vô dụng! Họ có thể làm bạn im lặng qua biện minh của họ, nhưng họ không thuyết phục được bạn. Họ có thể phá huỷ mọi biện minh của bạn, nhưng ngay cả điều đó sẽ không giúp gì - bạn sẽ không có khả năng thấy xe bò kéo. Và toàn thể vấn đề là làm sao thấy nó, vì chỉ việc thấy là tin ngay.

Kavita, cứ trèo lên cây đi. Tôi đang gọi bạn đấy. Tôi có thể thấy. Bạn chưa thể thấy được. Hoài nghi sẽ còn dai dẳng. Để những hoài nghi đó giúp bạn trèo lên nhanh hơn, sớm hơn. Để nó trở thành sự khẩn thiết, những hoài nghi đó, làm cho nó thành khẩn thiết đi. Hoài nghi trong bản thân chúng là không sai - tất cả tuỳ thuộc vào cách bạn dùng chúng. Chúng có thể trở thành ân huệ.

Câu hỏi 3

Lo âu có liên quan thế nào tới ham muốn? Dường như dễ thấy rằng người ta đang ham muốn hơn là thấy rằng người ta đang 'lo âu' - Thực ra, không có dạng động từ cho lo âu, ít nhất là không có trong tiếng Anh. Tôi đang ham muốn lo âu của tôi hay tôi đang lo âu ham muốn của tôi?

Ham muốn không là gì ngoài việc trốn chạy khỏi trạng thái của lo âu. Ham muốn không tạo ra lo âu, như bình thường vẫn được tin. Lo âu tạo ra ham muốn.

Con người thường lo âu.

Mới hôm nọ tôi đã nói cho bạn: con vật không có lo âu, vì chúng không phải trở thành - chúng là vậy. Con chó là con chó, và con hổ là con hổ, và không có vấn đề gì! Hổ không cố trở thành hổ. Nó là vậy! Nó đã là vậy rồi! Không có việc trở thành tham gia vào.

Trong thế giới của con vật không có lo âu. Trong thế giới của chư Phật lại không có lo âu, họ đã đạt tới, họ đã trở thành. Họ là siddhas - họ là sự hiện hữu. Bây giờ không mục đích nào còn lại, không chuyển động. Cuộc hành trình hoàn thành. Họ đã về tới nhà.

Do đó mới có sự tương tự trong mắt con vật và mắt chư Phật. Cùng im lặng! Cùng hồn nhiên. Cùng chiều sâu. Cùng thuần khiết. Vậy mà khác biệt cũng lớn: con vật vô ý thức, chư Phật có ý thức. Do đó mắt con vật là hồn nhiên, nhưng không chói sáng. Không có lo âu, nhưng cũng không có mở hội. Không có thất vọng, nhưng không cũng có cực lạc. Trong mắt của chư Phật bạn sẽ không thấy lo âu, bạn sẽ không thấy phiền não; bạn sẽ không thấy thôi thúc thường xuyên để là cái này, để là cái nọ. Bạn sẽ không tìm thấy cơn sốt của trở thành. Nhưng sẽ có cực lạc tuôn chảy thường xuyên - an bình, phúc lạc, khoẻ mạnh.

Giữa hai loại này là con người: nửa con vật, nửa Phật. Và đó là chỗ lo âu nảy sinh. Lo âu là căng thẳng này. Một phần của bạn muốn đi trở lại con vật. Nó liên tục kéo bạn lại sau. Nó nói, "Đi lùi lại đi! Điều đó hay thế - mình đang đi đâu?"

Phần kia liên tục hi vọng về tương lai. Theo cách gián tiếp nào đó bạn biết hoàn toàn rõ rằng là vị Phật là số mệnh của bạn. Hạt mầm có đó! Và hạt mầm liên tục nói với bạn, "Tìm mảnh đất đi, mảnh đất đúng, và mình sẽ trở thành vị Phật. Không đi lùi lại. Tiến lên trước đi..."

Trò kéo co này là lo âu. Lo âu là một trong những từ quan trọng nhất cần được hiểu, vì nó không chỉ là một từ: nó là chính tình huống con người thấy bản thân mình ở trong. Đây là thế tiến thoái lưỡng nan của con người. Thế tiến thoái lưỡng nan nền tảng nhất là lo âu: Hiện hữu hay không hiện hữu? Là cái này hay cái kia? Đi đâu đây? Con người bị mắc kẹt ở ngã tư đường, mọi khả năng đều mở. Nhưng nếu bạn chọn một cái, bạn phải chọn chống lại các khả năng khác - do đó có sợ hãi. Bạn có thể chọn sai. Nếu bạn đi sang phải - ai biết được? - đường đi sang trái có thể đã là con đường đúng.

Và có những người, chủ cửa hàng, người liên tục gọi, những người bán hàng rong, người liên tục gọi, "Sang phải đi! Đây là đường đúng." "Sang trái đi - đây mới là đường đúng!" "Tới đường chúng tôi đi, đây là đường duy nhất đấy!" "Đi theo Ki tô giáo đi, hay Hindu giáo, hay Phật giáo... những người khác sai hết. Anh sẽ rơi vào địa ngục đấy."

Con người bị tê liệt! Đứng trên ngã tư đường, lắng nghe tất cả những người này, con người bị tê liệt. Đi đâu đây? Nghe ai đây? Tin ai đây? Làm sao chắc được rằng mình đang đi trên đường đúng? Nghi ngờ lớn, hoài nghi lớn, lo âu lớn.

Và sâu bên trong bạn, cái gì đó đang kéo bạn lại: "Tốt hơn cả là trở thành con vật lần nữa đi. Rơi vào trong say xỉn. Dùng ma tuý, hay trở nên điên về dục. Hay trở nên bạo hành - giết mọi người!" Tại sao có nhiều bạo hành thế trên thế giới? Phần con vật cứ kéo bạn lại. Tính con người của bạn chỉ sâu như làn da. Bất kì khoảnh khắc nào bạn cũng có thể trở thành sói, bạn có thể trở thành hổ; bạn có thể xé người khác thành nhiều mảnh. Bất kì khoảnh khắc nào! Bất kì khoảnh khắc nào bạn cũng có thể giết hại.

Và bạn không chỉ có thể giết người khác: bạn có thể giết bản thân bạn nữa. Tự tử và sát hại, thường xuyên lôi kéo bạn. Huỷ diệt kêu gọi bạn, quyến rũ bạn.

Và thế rồi có chư Phật... thỉnh thoảng bạn thấy một người và bạn bị thu hút. Người đó có không gian thu hút trong người đó. Người đó có phép thần mà qua đó tương lai của bạn đột nhiên trở thành hiện tại của bạn. Ít nhất trong sự hiện diện của người đó, ít nhất khi bạn rung động cùng người đó, bạn quên đi mọi phần con vật của bạn. Bạn bắt đầu bay như thiên thần trên trời. Những người đó cũng có đó.

Đây là lo âu: Đi đâu? Làm gì? Và bất kì cái gì bạn làm, lo âu sẽ còn lại. Nếu bạn trở thành con vật, phần vị Phật sẽ cứ nổi dậy chống lại nó. Đi và làm cái gì đó mà phần con vật của bạn cảm thấy thích làm, nhưng phần vị Phật của bạn tạo ra mặc cảm trong bạn. Ngay cả kẻ giết người lớn nhất, trước khi người đó giết bất kì ai, đều cảm thấy day dứt; nỗi đau lớn nảy sinh trong người đó. Phần vị Phật của người đó cố dừng người đó lại, "Mình làm gì thế này?" Người đó có thể nghe, người đó có thể không nghe - nhưng người đó sẽ hối hận! Trong nhiều năm người đó sẽ hối hận về điều người đó đã làm. Người đó đáng phải không làm điều đó.

Kẻ trộm, trước khi người đó đi vào nhà của ai đó, cứ được cảnh báo đi cảnh báo lại bởi phần vị Phật, "Đừng làm điều đó. Vẫn còn thời gian - trốn đi!" Nếu bạn làm điều đó, bạn cảm thấy mặc cảm. Nếu bạn không làm điều đó, bạn sẽ cảm thấy mặc cảm. Vì nếu bạn không làm điều đó, và bạn bỏ đi và bạn về nhà, thế thì bạn không thể ngủ được, vì phần con vật cứ nói, "Mình là đồ ngu! Nhiều tiền thế, và nó sẵn có dễ dàng thế, và chẳng có ai trong nhà, và toàn thể hàng xóm đều ngủ say, và không có cơ hội nào cho mình bị bắt - mình chỉ là đồ ngốc thượng thặng! Sao mình đã quay về? Vẫn còn thời gian - làm lại đi!"

Nếu bạn theo phần này, phần kia làm cho bạn cảm thấy mặc cảm. Và ngược lại. Đây là lo âu. Và lo âu này rất có tính tồn tại. Không phải là ai đó khổ vì nó và ai đó không khổ đâu - không. Nó có tính tồn tại: mọi người được sinh ra trong nó. Nhân loại được sinh ra trong nó. Con người được sinh ra trong lo âu. Đó là thách thức của họ. Đó là vấn đề họ phải giải quyết - đó là vấn đề họ phải siêu việt lên.

Bây giờ, có hai cách để vượt lên lên trên nó. Một cách là cách của thế gian - bạn có thể gọi nó là ham muốn. Ham muốn là cách để che giấu lo âu này. Bạn chạy xô vào kiếm tiền, một cách điên khùng. Bạn trở nên bị cuốn hút vào việc kiếm tiền tới mức bạn quên mất mọi lo âu có tính tồn tại này. Thế thì không có điều gì, không còn thời gian để nghĩ về các vấn đề thực. Thế thì bạn gạt mọi thứ sang bên và bạn chỉ đi vào trong việc tìm tiền, nhiều tiền hơn. Và khi bạn có được tiền, ngày càng nhiều ham muốn nảy sinh. Việc ham muốn này về tiền hay quyền lực chính trị không là gì ngoài cái che đậy cho lo âu của bạn.

Đó là lí do tại sao mọi người rất sợ hãi khi họ bị bỏ lại một mình và không có gì ở đó để được làm. Đó là lí do tại sao người về hưu trở nên rất rất không dễ chịu, không thoải mái. Họ chết nhanh. Người ta nói - bây giờ nghiên cứu tâm lí đã chứng minh điều đó - rằng người về hưu sẽ chết sớm mười năm hơn là người đó sẽ chết nếu người đó vẫn còn được làm việc. Sớm hơn mười năm sao? Tại sao? Vì lo âu mà người đó đã kìm nén qua việc làm của mình tự khẳng định nó. Người đó đã chạy theo tiền, săn đuổi quyền lực chính trị; không có thời gian để dành cho lo âu.

Bây giờ có mọi thời gian và chẳng có gì để làm. Ngồi trong ghế bành người đó chỉ làm mỗi một điều - lo âu. Chẳng cái gì khác để làm! Bây giờ mọi lo âu bị kìm nén của cả đời người đó - phần có tính tồn tại mà bị phủ nhận đó trả thù. Nó giết. Người đó trở nên ốm, đau tim tới, người đó trở nên tê liệt. Nhưng có nhiều khả năng là tất cả những điều này đang xảy ra vì tâm lí, không phải vì thân thể.

Khi một người đang thành công và ham muốn của người đó đang đem người đó đi ngày càng xa hơn, người đó vẫn còn mạnh khoẻ. Các chính khách gần như bao giờ cũng mạnh khoẻ khi họ đang trong quyền lực; khi họ mất quyền lực, họ đột nhiên trở nên già. Khi một người đang kiếm được, người đó vẫn còn mạnh khoẻ. Khi người đó trở nên bị thất bại, khi người đó phá sản, thế thì đột nhiên, vâng, trong một đêm tất cả tóc của người đó biến thành trắng xoá - đúng theo nghĩa đen.

Ham muốn là cách né tránh lo âu, nhưng chỉ để né tránh thôi. Bạn không thể diệt được nó bằng việc ham muốn. Và ham muốn cho bạn lo âu nhỏ, nhớ lấy, lo âu rất nhỏ, điều không có tính tồn tại. Tất nhiên, khi bạn đang kiếm tiền bạn sẽ có vài lo âu: thị trường và thị phần, và những thứ như thế, và giá cả. Và bạn đã đổ nhiều tiền thế - bạn sẽ kiếm được từ điều đó hay bạn sẽ mất? Những lo âu nhỏ này. Những điều này không là gì khi so với lo âu thực - đây là thủ đoạn để né tránh cái thực.

Tất nhiên, khi bạn tham vọng về quyền lực chính trị, bạn sẽ có lo âu, cả nghìn lẻ một lo âu. Nhưng chúng không là gì cả! chúng là đồ chơi khi so với lo âu nền tảng.

Bạn hỏi tôi: Lo âu có liên quan thế nào tới ham muốn?

Ham muốn là cái vỏ che đậy cho lo âu. Nó là thủ đoạn, là chiến lược. Và thiền là để làm lộ nó ra.

Đó là lí do tại sao mọi người không thể ngồi im lặng cho dù trong vài phút. Bởi vì khi họ ngồi im lặng, các lo âu bắt đầu dâng lên đầu họ. Họ trở nên rất sợ. Đó là lí do tại sao mọi người hỏi, ngay cả trong thiền, "Chúng tôi phải làm gì? Chúng tôi có thể tụng mật chú không?" Thế thì điều đó là được; thế thì mật chú trở thành cái che đậy của bạn. Thế thì bạn có thể lẩm nhẩm, "Ram, Ram, Ram," và bạn có thể liên tục lẩm nhẩm. Việc lặp lại này giữ cho lo âu của bạn bị kìm nén.

Thiền thực là Zen, vipassana. Thiền thực không là gì ngoài việc ngồi im lặng, không làm gì cả. Chỉ không làm gì, ngồi im lặng, đó là thiền thực. Không có kĩ thuật khác, không kĩ thuật chút nào trong nó. Không mật chú nào phải được lặp lại. Không lời cầu nguyện nào phải được thực hiện, không tên nào của Thượng đế cần được phát âm ra. Bạn đơn giản ngồi... nhưng đó là điều khó làm nhất trên thế giới. Trông có vẻ đơn giản thế!

Khi tôi nói đi nói lại:

Ngồi im lặng,

Không làm gì,

Và xuân tới

Và cỏ tự nó mọc lên...

Bạn nghĩ điều đó là rất dễ dàng: "Chúng tôi có thể ngồi và xuân sẽ tới và cỏ sẽ tự nó mọc lên." Đây là điều gay go nhất và khó nhất và gian nan nhất trên thế giới: ngồi im lặng, không làm gì. Và đây là thiền lớn lao nhất.

Thiền là gì? Chỉ cho phép sự tồn tại của bạn như nó vậy mà không che đậy nó theo bất kì cách nào. Cho nênThiền Siêu việt của Maharishi Mahesh Yogi không phải là thiền chút nào. Nó không là thiền cũng chẳng siêu việt gì. Nó chỉ là chiến lược để lừa mọi người.

Và Mĩ cần những người như thế để lừa họ. Mĩ cần cái gì đó để che đậy lo âu của nó. Vì tiền bây giờ có đó, cho nên tiền, và việc tìm tiền, không thể trở thành cái vỏ che đậy được lâu bây giờ. Xã hội sung túc. Mọi người có mọi thứ bạn có thể ham muốn. Bây giờ thì cái gì? Bây giờ lo âu đang gõ cửa, và lo âu đang nói, "Được rồi, bây giờ anh có ga ra cho hai xe rồi - bây giờ thì cái gì? Để tôi bước vào! Bây giờ anh có một ngôi nhà trên đồi, ngôi nhà khác ở bãi biển, du thuyền đẹp, cái gì khác nữa?... bây giờ để tôi bước vào! Anh đã nói với tôi, 'Đợi đấy! Đầu tiên để tôi có nhà trên đồi, nhà nữa ở bãi biển. Đầu tiên để tôi mua du thuyền đẹp đã.' Bây giờ anh có tất cả những cái đó rồi - bây giờ để tôi bước vào. Tôi không thể đợi thêm nữa được!"

Lo âu đang gõ cửa nhà người Mĩ. Nó bao giờ cũng gõ cửa khi xã hội giầu có. Khi xã hội nghèo, Thiền Siêu việt không được cần tới. Đó là lí do tại sao không ai bận tâm tới Maharishi Mahesh Yogi. Ai bận tâm? Mọi người có nhiều cách thế để che đậy lo âu của họ dễ dàng thế.

Nhưng khi mọi ham muốn đi tới việc hoàn thành, làm gì đây? Cái gì đó mới được cần. Thế thì theo nhiều hướng những cánh cửa mới phải được mở ra: Lên mặt trăng! Một công ti đang bán vé lên mặt trăng. Tất nhiên, nó phải là công ti Nhật Bản rồi - '85, vào tháng giêng. Mọi người đang mua. Nó đã được đặt rồi. Vé được bán ở chợ đen.

"Làm gì đây? Để chúng tôi lên mặt trăng! Ít nhất chúng tôi có thể che đậy bằng điều đó. Chúng tôi phải đi lên mặt trăng. Chúng tôi có thể nói với lo âu, 'Đợi đấy! Trước hết để tôi lên mặt trăng đã, thế rồi tôi sẽ nhìn vào bạn. Đợi thêm chút ít đi.'" Hay làm Thiền Siêu việt đi. Bất kì từ ngu xuẩn nào, lặp lại nó, gọi nó là mật chú. Cứ lẩm nhẩm nó. Điều đó trở thành cái chăn che đậy.

Thiền thực không phải là kĩ thuật. Thiền thực chỉ là thảnh thơi, ngồi im lặng, để cho nó xảy ra, dù nó là bất kì cái gì. Cho phép toàn thể lo âu trồi lên, ra bề mặt. Và quan sát nó, quan sát nó. Và không làm gì để thay đổi nó. Chứng kiến nó là thiền thực.

Trong việc chứng kiến đó Phật tính của bạn sẽ trở nên ngày một mạnh hơn. Việc chứng kiến là chất nuôi dưỡng cho Phật tính của bạn. Và Phật tính của bạn càng mạnh, lo âu càng ít có đó. Ngày Phật tính của bạn là đầy đủ, mọi lo âu mất đi.

Lo âu có liên quan thế nào tới ham muốn? Dường như dễ thấy rằng người ta đang ham muốn hơn là thấy rằng người ta đang 'lo âu'

Vâng, dễ thấy rằng người ta đang ham muốn hơn vì đây là điều bạn đang làm. Lo âu không phải là cái gì đó bạn làm: bạn được sinh ra trong nó. Nó không liên quan gì tới việc làm của bạn. Bạn là lo âu bẩm sinh! Đó là lí do tại sao khó thấy - một lí do.

Và lí do thứ hai: bạn không muốn nhìn vào nó. Nó gây hoảng sợ. Người ta cảm thấy rằng người ta sẽ phát điên. Tốt hơn cả là tránh nó ra, giữ nó ở sau lưng, không bao giờ đương đầu với nó.

Điều đó xảy ra mọi ngày.

Một người đàn ông rất đẹp đã nhận tính chất sannyas vài tháng trước. Anh ta đã là một người lừa đảo. Khoảnh khắc tôi nhìn vào trong mắt anh ta, anh ta trở nên sợ tôi. Tôi nói, "Bạn là loại người lừa đảo nào? Bây giờ tôi sẽ lừa bạn đây." Tôi cho anh vào vài nhóm - anh ta trốn không vào những nhóm đó. Anh ta trở nên hoảng sợ thế! Trong nhiều tháng chẳng nghe nói gì về anh ta cả.

Thế rồi anh ta phái luật sư của anh ta tới quan sát ở đây - người lừa đảo là người lừa đảo - để tìm ra "Cái gì thực sự đang xảy ra ở đây? Tham gia vào những điều đó có được không?" Luật sư tới đây. Anh ta quan sát. Anh ta phải đã báo cáo rằng "Không có gì để sợ cả, ông có thể tới." Anh ta thu lấy can đảm và quay lại.

Và tôi bảo anh ta, "Anh là kẻ hèn. Anh đã là người lừa đảo gì vậy? Và lần này đừng cố trốn." Và tôi lại cho anh ta vài nhóm - và anh ta biến mất!

Bây giờ tôi đã nhận được một bức thư từ Singapore. Anh ta nói, "Osho ơi, tôi đang đọc sách của thầy ở đây và nghe băng của thầy, nhưng tôi trở nên sợ nhiều thế vì thầy đã cho tôi lại các nhóm này - và tôi sẽ phải phơi ra mọi thứ rác rưởi tôi đã mang bên trong bản thân tôi. Tôi sẽ phải phơi ra toàn thể con người tôi. Tôi sẽ phải trần trụi và thực và đích thực, và điều đó làm tôi hoảng sợ. Nhưng tôi sẽ tới... Tôi đang đọc, tôi đang nghe, tôi đang thu lấy dũng cảm lần nữa, và tôi sẽ tới."

Điều đó xảy ra cho nhiều người: tôi cho họ các nhóm; ngày một, ngày hai và họ trốn khỏi nhóm. Điều đó trở thành quá nhiều. Sợ nào nảy sinh? Sợ bị phơi ra. Không phải là họ sẽ bị phơi ra cho người khác đâu: nỗi sợ về căn bản là ở chỗ "Tôi sẽ bị phơi ra cho bản thân tôi," ở chỗ "Tôi sẽ phải thấy điều tôi đã từng che giấu mọi thứ." Và một khi bạn đã biết nó, sẽ không thể nào che giấu nó lần nữa được.

Đó là lí do tại sao trước khi tôi bảo bạn thiền, tôi phái bạn vào Trị liệu nguyên thuỷ, và Đương đầu - tôi phái bạn vào các nhóm khác nhau. Để cho, điều đầu tiên: vỏ che đậy của bạn được gỡ ra; bạn được bỏ lại trần trụi, trần trụi về tâm linh. Thế rồi thiền trở nên dễ dàng hơn, vì thiền không là gì ngoài việc ở cùng với bản thân bạn trong tính toàn bộ của bạn.

Vâng, tôi hiểu, thấy ham muốn là dễ dàng:

Dường như dễ thấy rằng người ta đang ham muốn hơn là thấy rằng người ta đang 'lo âu'.

Thấy rằng người ta đang lo âu cần can đảm. Điều đó thực sự chỉ dành cho những người có dũng cảm.

Thực ra, không có dạng động từ cho lo âu, ít nhất là không có trong tiếng Anh.

Ngôn ngữ của chúng ta là giả như chúng ta vậy. Ngôn ngữ của chúng ta do chúng ta tạo ra. Chúng phản ánh chúng ta. Thực ra, ngôn ngữ thực sẽ không có danh từ nào, sẽ chỉ có động từ. Nếu nó phải là đúng với cuộc sống, nó chỉ có thể có động từ, không danh từ.

Khi bạn nói, "Đây là cái cây," bạn đang làm sai lạc, vì không có cây tĩnh tại ở bất kì đâu. Cây là việc đang trở thành cây. Nó đang phát triển, nó thường xuyên chuyển động! Lá mới trồi ra, và lá cũ rụng xuống. Chồi mới mở ra. Khi bạn nói, "Đây là cái cây," nó không còn là cùng cái cây đó. Phát biểu của bạn đã lạc hậu rồi. Đây là cây khác!

Khi bạn nói, "Đây là dòng sông," bạn ngụ ý gì? Sông là việc chảy; nó thường xuyên chảy. Và đàn ông cũng thế và đàn bà cũng thế. Tất cả đều là các quá trình, động. Mọi thứ trong sự tồn tại đều là động từ. Nhưng ngôn ngữ của chúng ta là giả như chúng ta vậy. Chúng phải vậy - chúng là ngôn ngữ của chúng ta.

Không có gì ngạc nhiên rằng chư Phật bao giờ cũng cảm thấy khó nói chân lí cho bạn - vì họ phải dùng ngôn ngữ của bạn, và ngôn ngữ của bạn chống lại chân lí thế. Tại sao chúng ta dùng nhiều danh từ khi không danh từ nào là thực? Sống không phải sống mà là đang sống, và yêu không phải là yêu mà là đang yêu, và chết không phải là chết mà là đang chết. Tại sao chúng ta dùng danh từ? Nó cho chúng ta cảm giác về kiểm soát. Danh từ có thể được kiểm soát; động từ không thể bị kiểm soát. Động từ ở bên ngoài bạn. Danh từ là tĩnh tại, chết, bạn có thể thao túng chúng. Động từ là sống động. Chúng sẽ tuột khỏi ngón tay bạn; bạn không thể giữ được chúng trong tay bạn.

Việc yêu phải được biến đổi trong tình yêu - thế thì dễ dàng giải quyết. Nếu người đàn ông nói với người đàn bà, "Anh đang trong tâm trạng yêu hướng tới em," xem điều đó tạo ra khác biệt bao nhiêu. Và thế rồi anh ta nói, "Anh yêu em." Khi anh ta nói, "Anh yêu em," anh ta đang nói cái gì đó tĩnh tại. Được ngụ ý trong nó là điều, "Ngày mai anh cũng sẽ yêu." Nó là hiện tượng tĩnh tại: "Anh yêu em." Nó xác định, nó là tuyệt đối. Sẽ không có thay đổi gì trong nó.

Nhưng nếu người đàn ông nói, "Anh đang trong tâm trạng yêu," bạn sẽ sợ, vì 'tâm trạng yêu' sao? - nó là quá trình. Sáng nó có thể có đó, tối nó có thể mất rồi. Thế thì cái gì?

Và khi ai đó nói, "Anh yêu em," danh từ được đề cập tới bạn. Khi ai đó nói, "Anh đang trong tâm trạng yêu," nó không đề cập tới bạn. Anh ta có thể yêu ai đó khác nữa! Điều đó là nguy hiểm. Bạn không thể sở hữu được điều đó.

Danh từ có thể được sở hữu, tích trữ. Bạn có thể trở thành người chủ. Nhưng động từ không thể bị sở hữu. Chúng tiếp diễn mãi... chúng đi ra ngoài bạn; chúng đi ra ngoài mọi việc hiểu thấu của bạn. Chúng vẫn còn là không thể dự đoán được. Danh từ là dự đoán được. Động từ là không dự đoán được. Chúng giống như đám mây thay đổi hình dạng của nó mọi khoảnh khắc.

Bạn không thể phụ thuộc vào hình dạng của mây được. Có thể có voi trong mây - nó có vẻ trông giống voi.

Đến lúc bạn gọi con bạn, "Ra đây đi! Ra đây! Có voi trên trời đấy!" và đến lúc con bạn tới, nó không còn là voi nữa. Voi đã tan biến. Mây không phải là hiện tượng cố định. Bây giờ nói gì với đứa trẻ? Nó sẽ nói, "Bố nói dối. Voi đâu?"

Thực ra, đã có voi - mây chuyển động giống hình voi. Đôi khi nó là hình ngựa... nó là không thể dự đoán được. Và chúng ta rất sợ điều không thể dự đoán được. Và cuộc sống là không thể dự đoán được, cho nên chúng ta liên tục giữ bản thân mình được bao quanh bởi danh từ. Nó cho cảm giác an toàn.

Ngôn ngữ của chúng ta phản ánh tâm trí chúng ta, dốt nát của chúng ta, vô ý thức của chúng ta, ngu xuẩn của chúng ta, ghen tị của chúng ta, sợ hãi của chúng ta, ám ảnh của chúng ta, chứng thần kinh của chúng ta. Ngôn ngữ của chúng ta kìm nén mọi điều chúng ta đang vậy. Nó là phản xạ của tâm trí chúng ta - nó là sản phẩm của tân trí.

Đó là lí do tại sao không có cái gì giống như 'việc lo âu'. 'Lo âu' - thế thì điều đó bị cố định. Thế thì bạn có thể dán nhãn cho nó: Đây là lo âu. Bạn có thể dán nhãn: Đây là yêu. Nhưng nếu bạn quan sát yêu thực, đôi khi nó thay đổi thành ghét - yêu thực đổi thành ghét. Bây giờ điều đó sẽ làm bạn hoang mang, cho nên bạn dán nhãn khác đi: Đây là ghét - đây là yêu. Và bạn bỏ qua móc nối. Bạn không bao giờ nhìn vào móc nối này. Yêu trở thành ghét: ghét trở thành yêu. Bạn biến thành thù: thù biến thành bạn. Mọi thứ đang chuyển động vào mọi thứ khác! Nó tất cả là một! Mọi thứ không bị phân chia bởi các ngăn không thấm nước.

Đất trở thành cây... cây trở thành không khí... nó liên tục tan vào lẫn nhau... không khí được bạn thở... nó trở thành máu của bạn... mọi thứ đang chuyển vào trong mọi thứ khác. Không cái gì là không có quan hệ. Nó tất cả là một quá trình.

Khi bạn dừng thao túng cuộc sống, khi bạn ngồi im lặng và đơn giản quan sát, bạn sẽ thấy tất cả cái đẹp mênh mông này, quá trình cuộc sống không thể tả được mênh mông này, tính năng động này.

Và đây là Thượng đế! Tính toàn thể này. Sự liên thuộc này. Sự tồn tại được móc nối lẫn nhau này, nơi mọi thứ đều đang đổi thành mọi thứ khác. Năng lượng lưu động này là Thượng đế....

Câu hỏi cuối cùng:

Câu hỏi 4

Osho ơi, thầy có bao giờ phát chán không? Sao không bỏ đạo tràng và sống trong rừng?

Veetgyan, bạn đang nói gì vậy? Đạo tràng nào? Tôi đang sống trong rừng mà! Những người này là cây của tôi - cây mầu cam, bắt lửa với hoa. Bạn không thể thấy rừng rậm hoang dã nào hơn điều này sao?

Và làm sao tôi có thể chán được với nhiều người đẹp thế quanh tôi? với sự tồn tại mở hội thế? Nếu bạn cảm thấy chán, điều đó đơn giản chỉ ra bạn phải không nhạy cảm, bạn phải óc bã đậu. Sọ bạn phải bị vỡ rồi.

Bằng không, bạn có thể tìm đâu được sự tồn tại tốt hơn điều này? Đây là sự tồn tại duy nhất có đó, và là sự tồn tại hoàn hảo. Mọi thứ là như nó phải vậy. Cây xanh, và hoa đỏ. Mọi thứ là như nó phải vậy! Làm sao bạn có thể phát chán được?

Chán bắt nguồn từ không nhạy cảm. Vì bạn không nhạy cảm bạn không thể thấy được thay đổi tinh tế đang liên tục xảy ra quanh bạn. Do đó nó có vẻ lặp lại: "Mặt trời mọc mọi sáng, cùng mặt trời đó - làm sao người ta có thể vẫn còn không bị chán được?" Nhưng nó không là cùng mặt trời đâu! Nó thường xuyên thay đổi. Nó là lửa - làm sao lửa có thể vẫn còn như cũ được? Quan sát lửa mà xem... nó liên tục thay đổi. Lửa đang thay đổi. Nó là một luồng thường hằng. Mặt trời là lửa linh động. Nó không bao giờ như cũ.

Nhưng, tưởng rằng nó là như cũ, bạn không nhìn vào buổi sáng, và mây là mới mọi ngày. Hình dạng của chúng là mới. Chúng lấy mầu sắc mới. Mọi ngày chúng mở hội việc tới của mặt trời. Và chim và cây và toàn thể sự tồn tại mọi khoảnh khắc đều mới, và tươi tắn - tươi như giọt sương sớm. Và mọi người cũng thế!

Nhưng bạn đờ đẫn, bạn không nhạy cảm. Bạn nghĩ đó là cùng người đàn bà bạn đã sống cùng trong hai mươi năm. Bạn đã thôi nhìn vào cô ấy. Bạn đã không nhìn vào cô ấy trong nhiều năm rồi, không nhìn vào mắt cô ấy. Bạn đã không chạm vào cô ấy. Bạn đã quên mất mùi thân thể cô ấy. Thế thì đó là chán; thế thì đó là cùng người đàn bà đó lặp đi lặp lại mãi.

Nó không thực sự là chán đâu - đó chỉ là việc mắt bạn đã tụ nhiều bụi quá. Cuộc sống trở nên chán khi bạn thu nhiều bụi vào trong mắt bạn. Cuộc sống trở thành chỉ hình thức, nghi lễ, trống rỗng. Bạn liên tục làm mọi thứ.

Dần dần, dần dần mọi hành động của bạn trở thành máy móc, như robot. Thế thì cuộc sống là chán.

Nhưng tôi chưa bao giờ thấy hai khoảnh khắc nào giống nhau. Từng khoảnh khắc đều có cái đẹp riêng của nó. Từng khoảnh khắc đều là duy nhất cho một lúc. Nếu bạn bỏ lỡ nó, bạn bỏ lỡ nó mãi mãi; nó sẽ không được lặp lại nữa. Thượng đế không có tính lặp lại. Thượng đế rất nguyên bản - ngài không bao giờ hát cùng bài ca lần nữa.

Nếu bạn nghe cùng bài ca lần nữa, thế thì cái gì đó phải sai với bạn.

Chuyện xảy ra:

Một người đàn bà ca hát, hôm đó là ngày sinh của bà ấy. Bà ấy hát muộn trong đêm. Giọng bà ấy thì thật khủng khiếp, nhưng các hàng xóm bằng cách nào đó dung thứ cho điều đó vì chỉ là một lần trong năm mới tới ngày sinh của bà ấy. Cho nên họ đã trở nên dung thứ về điều đó. Nhưng đêm đó bà ấy còn tiếp tục và tiếp tục hát... lúc đó đã thực sự muộn rồi, hai giờ sáng. Và người đàn ông ở ngay trước nhà bà ấy không thể nào ngủ được; đã thử đủ mọi cách - thử đủ loại mẹo. Lật mình, xoay người và làm thiền siêu việt... v.v., những chẳng cái gì ăn thua. Bà ấy làm cho ông ta phát rồ, thế là ông ta mở cửa sổ ra và hét lên với bà ấy, "Lạy bà, bây giờ đến lúc rồi. Xin bà dừng lại cho! Bằng không tôi sẽ phát điên mất."

Người đàn bà mở cửa ra và nói, "Ông nói gì vậy? Tôi đã dừng tới cả một giờ rồi!"

Nhưng điều gì đã xảy ra cho người đàn ông này? Ông ta đã điên rồi. Một giờ trước bà ấy đã dừng rồi, nhưng ông ta vẫn còn nghe, nghe, nghe... đó là cái gì đó trong tâm trí ông ta. Nó là cái máy hát bên trong của ông ta.

Quan sát mà xem: khi bạn thấy hoa hồng, máy hát bên trong của bạn nói, "Mình đã thấy nó trước đây rồi. Nó là cùng hoa hồng, chẳng có gì đặc biệt về nó cả. Mình đã thấy hoa đẹp hơn." Bạn nhìn vào trăng và máy hát bên trong của bạn nói, "Vậy thì sao nào?! Đây là cùng trăng đó, và chúng ta đã thấy nó nhiều lần rồi."

Có hàng triệu người chẳng bao giờ nhìn lên trời. Nếu đột nhiên một đêm tất cả sao biến mất, họ sẽ không trở nên nhận biết về điều đó. Phải mất vài ngày cho họ; khi tin tức tới trên báo chí rằng "Mọi ngôi sao trên trời đã đơn giản biến mất khỏi thế giới," thế thì họ sẽ nhìn lên trời. Và thế thì họ sẽ bỏ lỡ chúng, và họ sẽ làm ồn ào nhiều và họ sẽ nói, "Không may làm sao! Và chúng tôi đã không thấy sao trong nhiều năm rồi và chúng đã ở đây."

Bạn chán vì máy hát bên trong của bạn. Tôi chẳng có cái nào bên trong tôi. Từng người đều tươi tắn, từng khoảnh khắc đều tươi tắn. Họ là không lặp lại - họ tất cả là duy nhất. Và tôi vẫn còn xúc động, tôi vẫn còn cực lạc.

Cuộc sống của bạn, Veetgyan này, chắc phải đã trở thành nghi lễ trống rỗng. Bạn phải di chuyển qua các thứ, kéo lê. Thậm chí không hiểu nghĩa, tại sao bạn đang làm những thứ này. Bạn về nhà và bạn hôn vợ bạn - bạn phải hôn, nhưng không có nụ hôn, không có việc hôn, không có cực lạc trong nó. Chỉ là hiện tượng đờ đẫn. Và nếu bạn cảm thấy mệt và chán, tôi có thể hiểu được.

Cuộc sống, dần dần, dần dần trở thành máy móc tới mức nó mất mọi nghĩa. Mọi nghĩa tiêu tan dần khỏi nó. Thế thì nó chỉ là nghi lễ chán ngắt. Sống theo cách này là sống một cách phi tôn giáo. Đó là định nghĩa của tôi về tôn giáo: sống vui vẻ, cực lạc, được xúc động bởi từng khoảnh khắc gõ lên cửa nhà bạn, là sống có tính tôn giáo.

Tôn giáo không là gì ngoài quá trình giả kim thuật trong đó mọi sự không nhạy cảm của bạn tan biến, và bạn trở nên hoàn toàn nhạy cảm, tinh tế, mong manh. Thế thì từng khoảnh khắc đều là samadhi, là Thượng đế, là chứng ngộ.

Xem tiếp Chương 9 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post