Read more
Hoa trôi trên sóng nước
Chương 1
Tôi sinh ra đời vào năm Minh Trị thứ
hai mươi tám (1896) trong một gia đình nông dân tại Hokkaido. Cha tôi là một
nhà nông trầm lặng, ít nói, suốt ngày chỉ biết cày sâu cuốc bẫm. Nếu cha tôi đã
ít nói thỉ mẹ tôi còn ít nói hơn, bà là cái bóng của cha tôi, một người vợ
chung thủy, một người mẹ hiền, và một nhà nông cần mẫn. Tuy xuất thân là nhà
nông nhưng tôi không phải là một đứa bé ngoan ngoãn, có tính thần trách nhiệm
như những đứa trẻ nhà nông khác. Trái lại, tôi là một đứa bé lạnh lùng, ích kỷ,
có tâm hồn nổi loạn. Hiển nhiên một phần tính nết này bắt nguồn từ những chủng
tử được huân tập trong nhiều đời nhiều kiếp, nhưng cũng một phần vì đường lối
giáo dục nghiêm khắc và hoàn cảnh khi đó nữa.
Vào lúc đó, chương trình giáo dục bao
gồm đức dục, trí dục và thể dục; nhưng đức dục được coi là quan trọng nhất. Các
bài giảng về luân lý, đạo đức được chú trọng nhiều hơn những môn học khác. Những
đứa trẻ như tôi được dạy bảo rất kỹ rằng “không được nói dối “, “phải lễ phép với
mọi người “, “phải tuyệt đối kính trọng và vâng lời những người lớn tuổi “,v.v.
Không như những đứa bé khác, chấp nhận và tuân theo những qui luật này, tôi thường
đặt câu hỏi tại sao lại phải như thế, vì tôi thấy giữa lý thuyết và thực hành vẫn
có điều gì không ổn. Tôi nhận thấy đa số người lớn tuổi chẳng mấy khi áp dụng
các qui luật này nếu không muốn nói là đã hành động khác hẳn. Họ thường hay nói
dối, cãi nhau, và có những hành động không đáng kính trọng chút nào.
Thí dụ khi người chủ ruộng đến nhà đòi
nợ thì mẹ tôi sai tôi ra nói rằng cha tôi đi vắng, mặc dù tôi thừa biết rằng
ông đang trốn ở vựa lúa sau nhà. Vào dịp lễ lạc, dân làng tụ họp ăn uống, ai
cũng cười nói vui vẻ. Họ trầm trồ khen ngợi những bộ áo kimono may thật đẹp, vừa
vặn ôm sát người. Họ xuýt xoa khen những món ăn nấu thật vừa miệng không đầu bếp
nào có thể sánh kịp. Thế nhưng khi tiệc tan, ai về nhà nấy, thì những lời chê
bai, mạt sát bắt đầu được khui ra. Nào là mụ kia vừa già vừa xấu lại cứ tưởng
mình đẹp lắm, ăn mặc diêm dúa như con gái còn xuân. Nào là ông nọ nghèo kiết
xác, nợ như chúa chổm thế mà lúc nào cũng khoe khoang tiền bạc đầy nhà. Đại
khái những điều mâu thuẫn như thế xảy ra rất thường, không riêng gì trong gia
đình tôi mà cả trong những gia đình mà tôi quen biết.
Ngay như vị thầy giáo “khả kính “ hàng
ngày thường khuyên học trò phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, tránh sa ngã vào các
thói hư tật xấu như cờ bạc, rượu chè nhưng cuối tuần nào ông cũng có mặt ở nhà
chứa bạc cuối xóm. Nhiều lúc tôi thấy ông mặt mày đỏ gay, quần áo xốc xếch, đi
đứng lảo đảo vì say rượu. Mỗi khi thua bạc, ông còn chửi rủa om xòm không chừa
một ai trong làng. Có lẽ vì thế nên một đứa bé vừa lên sáu lên bảy như tôi đã
có thành kiến về các qui luật được gọi là luân lý, đạo đức này. Theo tôi, đó chỉ
là những lý thuyết hay nhưng không thể áp dụng, nếu có thì cũng chỉ áp dụng cho
những đứa bé ngây thơ không biết nhận xét mà thôi. Vì đã có thành kiến như thế
nên tính tình tôi ngày càng trở nên lạnh nhạt, khô khan và hay khinh thường các
giá trị đương thời.
Tuy là một nhà nông nghèo nhưng cha mẹ
tôi đã đặt nhiều hy vọng vào đứa con duy nhất là tôi. Ông bà dành dụm tiền để gửi
tôi vào trường trung học trên tỉnh, cách làng khoảng 6 cây số. Lúc đó (1904) đường
sá giao thông tại Hokkaido còn thô sơ lắm, từ làng lên tỉnh khoảng vài cây số
đã là cả một chân trời cách biệt rồi. Tôi thường phải rời nhà từ khi trời còn mờ
sương trên những chuyến xe chở rau lên tỉnh. Khi tan học thì trời đã xế chiều,
tôi phải đi bộ băng qua mấy thửa ruộng mới về đến nhà. Cha mẹ tôi đặt việc học
lên trên hết. Ông bà khuyến khích tôi phải học thật nhiều nhưng vì bận việc đồng
áng, ít khi có cơ hội nói chuyện hay tìm hiểu nhiều về tôi nên càng ngày tôi
càng lạnh lùng, độc lập, khác hẳn những đứa bé cùng tuổi trong làng.
Thời đại Minh Trị (Meiji) là một giai
đoạn chuyển tiếp hết sức quan trọng của Nhật Bản. Giai đoạn canh tân năm 1868
chấm dứt chế độ Sứ Quân, bãi bỏ chinh sách bế quan tỏa cảng và đưa Thiên Hoàng
lên địa vi tối cao. Từ khi mở cửa biên giới, Nhật Bản thấy rõ mình đang ở trong
tình trạng suy kém về mọi phương diện trước sự tiến bộ quá nhanh của các cường
quốc Tây phương. Bài học Trung Hoa bị liệt cường xâu xé khiến các nhà lãnh đạo
Nhật Bản phải ban hành gấp rút ngay một chính sách cải cách hầu đưa quốc gia ra
khỏi tình trạng suy thoái nguy hiểm này. Chính sách được áp dụng lúc đó là việc
thay đổi toàn diện hệ thống giáo dục, thương mãi, hành chánh, canh nông, để xây
dựng một căn bản kinh tế vững mạnh.
Song song với chính sách này là việc đề
cao tinh thần quốc gia, kỷ luật hóa đường lối làm việc, và thiết lập một căn bản
quân sự phòng khi quốc biến. Trường tôi theo học là một trường nữ trung học. Mục
đích của các trường nữ trung học khi đó không chú trọng nhiều về việc phát triển
kiến thức mà chỉ nhằm đào tạo nữ sinh trở nên những người “vợ đảm và mẹ hiền.”
Mỗi sáng, bà hiệu trưởng tập họp tất cả nữ sinh vào giảng đường để nghe bà thuyết
giảng về bổn phận của người vợ và người mẹ. Bà nhắc đi nhắc lại rằng đó là “thiên
chức “ của phụ nữ, một phụ nữ đúng nghĩa phải biết khiêm tốn trước người chồng,
khi đi phải đi sau người chồng hai bước, khi ăn phải chờ chồng ăn trước rồi mới
được ăn, phải làm mọi việc nặng nhọc vì người vợ được sinh ra để chiều chuộng
và hầu hạ người chồng.
Bà hiệu trưởng luôn luôn nhấn mạnh
danh từ “người chồng “ chứ không phải “người đàn ông “ vì theo bà, đàn ông là một
con thứ chuyên rình rập, hãm hại các thiếu nữ ngây thơ khờ dại. Một khi đã thất
tiết thì chỉ có nước chết, không còn danh dự, không còn một chút giá trị gì
trên cõi đời này nữa. Hiển nhiên giải pháp tốt nhất là lập gia đình, trở thành
một người “vợ đảm, mẹ hiền “, và như thế mới có thể thoát được cạm bẫy của những
“con thú đội lốt người “ này. Là một thiếu nữ bướng bỉnh, có tinh thần độc lập,
tôi đã tự hỏi giữa người chồng và người đàn ông thì khác nhau chỗ nào? Tại sao
trước khi kết hôn, người đàn ông là con thú mà sau khi thành hôn họ lại được trọng
vọng như một ông hoàng? Phải chăng hôn nhân chỉ là một cạm bẫy do đàn ông đặt
ra? Trong suốt thời gian ở trung học, chúng tôi được dạy rất kỹ rằng không được
nhìn một người khác phái nào, đi đâu cũng phải đi chung với nhau thành nhóm ba
người để tránh bị chòng ghẹo, và cũng để báo cáo những hành vi lơ đễnh, bất cẩn
của một người nào đó. Đối với các nữ sinh đó là những khuôn vàng thước ngọc,
nhưng với tôi nó chỉ là một lý thuyết làm giảm giá trị của phụ nữ mà thôi.
Sau khi tốt nghiệp trung học, cha mẹ
tôi khuyến khích tôi nên tiếp tục học nữa. Tôi thi đậu vào phân khoa văn chương
Đại học Tokyo và nuôi mộng trở nên một văn sĩ. Tôi từ giã Hokkaido lên đường đến
Tokyo. Dù đây là lần đầu tiên sống xa nhà nhưng điều này không gây trở ngại bao
nhiêu vì tôi đã quen sống độc lập từ nhỏ, Đây cũng là lần lầu tôi có cơ hội tiếp
xúc với những người khác phái vì sau buổi học, nam nữ được tự do giao thiệp. Đa
số sinh viên văn khoa lúc đó đều say mê chủ nghĩa lãng mạn. Họ nói chuyện một
cách văn hoa, lịch sự, đôi khi thêm vào vài câu văn trích dẫn trong tiểu thuyết
hay các bài thơ của các văn thi sĩ đương thời. Hiển nhiên những thói thời thượng
này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho tình cảm nẩy nở giữa các nam nữ sinh
viên.
Ngay trong khóa học đầu, đã có một
thanh niêm chú ý và theo đuổi tôi rất kỹ, nhưng tim tôi không hề rung động. Tôi
quan sát từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói của hắn để chuẩn bị đối phó. Tôi càng tỏ
ra lạnh nhạt bao nhiêu thì hắn lại càng say mê tôi bấy nhiêu. Hắn theo sát tôi
như bóng với hình, đón tôi trước cửa lớp học, tặng tôi những bài thơ, mời tôi
đi xem kịch nhưng lòng tôi vẫn không hề rung động. Tôi thản nhiên trước sự săn
đón nồng nàn của hắn và tỏ ra thích thú mỗi khi thấy hắn tỏ ra đau khổ vì không
được tôi đáp lại. Thỉnh thoảng tôi cũng ban cho hắn một vài ân huệ nhỏ nhặt như
cho phép hắn mời tôi đi xem hát hay đi dạo trong các khu phố quanh trường.
Dần dần tôi trở nên thích thú với trò
đùa này, nhất là mỗi khi thấy khuôn mặt đầy vẻ thất vọng của hắn khi bị tôi từ
chối một việc gì. Tôi nghĩ mình là người có kỷ luật cảnh giác cao độ, hơn nữa
tôi đâu hề có cảm tình gì với hắn. Đối với tôi, hắn chỉ là một con chuột nhỏ
trước nanh vuốt của một con mèo già, đầy kinh nghiệm là tôi. Nhưng tôi đã lầm
và lầm rất lớn. Trong một buổi hẹn hò, tôi đã yếu lòng, mất tự chủ và thất thân
với hắn. Điều bất ngờ hơn nữa là chỉ ít lâu sau tôi thấy mình có thai. Mặc dù
tôi biết hắn yêu tôi tha thiết, nhưng tôi không hề có chút cảm tình gì với hắn.
Hôn nhân không phải là mục đích của tôi nên tôi nhất định không cho hắn biết gì
về hậu quả tai hại này. Tương lai xán lạn của tôi bỗng trở nên đen tối như đêm
ba mươi. Tôi vẫn muốn tiếp tục việc học nhưng trước cái bụng càng ngày càng lớn,
tôi biết mình không thể ở đây được nữa.
Sau cùng, với tâm trạng khủng hoảng
cùng cực, tôi đành trở về nhà. Cha mẹ tôi hết sức ngạc nhiên vì sự trở về bất
ngờ này, nhưng là một nhà nông chất phác, ông bà không biết phải hỏi tôi như thế
nào. Hiển nhiên mẹ tôi để ý ngay đến thân thể đẫy đà của tôi, nhưng vốn là người
ít nói, bà giữ thái độ im lặng, chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt thương xót. Đáng lẽ
ra, tôi phải trình bày mọi chuyện với cha mẹ tôi và xin tha thứ về lỗi lầm đáng
tiếc này; nhưng không hiểu sao tôi lại lựa chọn thái độ im lặng. Mỗi sáng chúng
tôi thức dậy trong một bầu không khí ảm đạm nặng nề, không ai nói với ai câu
nào. Chúng tôi ăn vội vài bát cơm rồi hối hả ra đồng làm việc. Tôi thường lựa một
chỗ riêng, xa hẳn nơi cha mẹ tôi làm việc và cắm cúi làm để không phải nghĩ đến
những điều tủi nhục, xấu hổ mà tôi biết trước sau gì cũng sẽ bùng nổ. Tôi muốn
cha mẹ tôi mắng chửi tôi một trận thật nặng, đuổi tôi ra khỏi nhà, hoặc yêu cầu
tôi tự tử cho đỡ nhục, nhưng ông bà vẫn không hề hé răng nói một lời nào. Sự im
lặng này khiến cho lòng tự ái của tôi bị tổn thương, đầu óc tôi rối loạn cùng cực.
Tôi không biết phải làm gì hơn là tiếp tục chịu đựng nỗi cay đắng, nhục nhã gậm
nhấm vào từng lớp da, thớ thịt.
Một hôm tôi đang làm việc ngoài đồng
thì nghe tiếng cha tôi gọi lớn. Tôi vội vã bước đến thì thấy ông đang ngồi xổm
trước bờ ruộng đăm đăm nhìn một cái gì đó trước mặt. Tôi ngồi xuống bên cạnh và
thấy ông đang chăm chú nhìn một cọng cỏ dại mọc bên bờ ruộng. Một lúc sau ông
nhỏ nhẹ lên tiếng:
- Ta đã quan sát nó từ lâu rồi, thật
là lạ lùng… Nhìn kìa, một con kiến cánh đang leo lên cọng cỏ. Nó tiếp tục bò
lên và bò lên… A ha, nó ngã xuống rồi… nhưng khoan đã… hãy quan sát cho kỹ, nó
lại tiếp tục bò lên nữa. Nó đã làm vậy biết bao lần rồi…
Trong lúc cha tôi nói, con kiến cánh tiếp
tục bò lên cọng cỏ rồi lại ngã xuống, nhưng nó ngo ngoe đôi râu, tiếp tục bò
lên nữa. Cha tôi vẫn nói bằng một giọng đều đều:
- Đó, thấy không! Nó vẫn tiếp tục leo
lên ngọn cỏ… Có lẽ nó mệt lắm. Mỗi khi mệt, nó duỗi mấy chiếc chân nhỏ xíu ra
cho đỡ mỏi, xòe đôi cánh ra để lấy sức, và rồi tiếp tục leo lên ngọn cỏ như trước…
Cha tôi nói, giọng trầm trầm, mắt vẫn
không rời con vật bé nhỏ đang run rẩy bò lên cọng cỏ kia. Tôi ngạc nhiên theo
dõi con vật đang cố gắng leo lên ngọn cỏ trước mặt, nó ngã xuống và rồi tiếp tục
leo lên. Bất ngờ thay, như bị một tia sét lớn đánh trúng đầu óc hoang mang của
tôi, tôi chợt hiểu điều cha tôi muốn nói. Tôi đứng phắt dậy, lảo đảo đi về phía
vựa lúa sau nhà, đến một góc khuất tôi ngã gục xuống đất, ngực tôi đau nhói,
hai mắt tôi cay xè. Lần đầu tiên trong đời tôi ý thức rõ rệt mình đang khóc. “Cha
ơi, con hiểu rồi. Con thật sự hiểu điều cha muốn nói. Cha thương con biết chừng
nào. Con thật là một đứa bất hiếu. Cha vẫn nuôi hy vọng ở con trong khi con đã
âm thầm bỏ cuộc. Thật là đáng tiếc khi con đã không hiểu được lòng cha rộng rãi
và bao la biết chừng nào. Từ nay con quyết sẽ giữ trọn lòng hiếu thảo với cha,
con sẽ phải bù đắp những hy sinh cao quí của cha… “
Tôi không biết mình đã khóc trong bao
lâu nhưng gánh nặng mà tôi chất chứa trong lòng bỗng nhiên nhẹ hẳn đi. Trong
giây phút đó mọi việc như sáng tỏ hơn bao giờ hết. Tôi ngước mắt nhìn những
cánh đồng lúa xanh trước mắt, nhãn quan của tôi mở rộng đến những cây cổ thụ mọc
ở đầu làng, những ngọn đồi thấp, những con lạch nhỏ uốn quanh đó, những căn nhà
tranh với những tia khói bếp màu xám… Tôi còn nhìn thấy những chim muông bay lượn
trên không… Tất cả đều vươn lên một sức sống kỳ diệu, không thể diễn tả. Tôi
hít một hơi thật dài và thấy sảng khoái hơn bao giờ hết. Tất cả mọi vật dường
như hòa nhập vào trong tôi và chỉ trong giây lát, mọi sự đau khổ bỗng tan biến
như mây khói.
Tai tôi chợt nghe văng vẳng những điều
mà tôi đã được dạy bảo từ khi còn ở tiểu học, những lời khuyên bảo về đạo đức
mà tôi vẫn cho rằng không thể áp dụng, bỗng tự nhiên trở nên có ý nghĩa hơn bao
giờ hết. Tôi lẩm bẩm “Lòng hy sinh, chịu đựng và chân thật là điều có thể thực
hiện được. Nó không phải là lý thuyết suông.” Trong giây phút đó, tôi như con tằm
vừa lột xác ra khỏi kén. Tất cả sự kiêu căng, lạnh lùng từ trước bỗng dưng tan
biến hết. Tấm lòng hy sinh chịu đựng vô bờ bến của cha tôi đã cảm đến tôi. Tôi
hiểu được tình thương mà cha mẹ tôi vẫn dành cho tôi từ bao lâu nay. Cho đến
lúc đó tôi mới ý thức rằng từ trước đến nay tôi là một đứa bé lạnh lùng, ích kỷ,
ưa châm biếm, nghi ngờ. Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến ai khác và cũng chẳng hề
nghĩ rằng mình có thể cần ai.
Lòng kiêu hãnh đã biến tôi thành một
khối nước đá, lạnh lùng dửng dưng trước những sự kiện xảy ra quanh mình. Thật
may mắn khi tôi có thể hiểu được những điều mà từ trước đến nay tôi vẫn cho là
trừu tượng này. Tôi biết rõ mọi sự xảy ra chỉ là phản ứng của tư tưởng và hành
động của mình. Dĩ nhiên tôi phải gặt những gì mà tôi đã gieo, và tôi xứng đáng
nhận lãnh hậu quả đó. Tuy nhiên tôi còn ý thức rằng, những điều mà tôi gọi là đạo
đức, luân lý chỉ là những giá trị được xây dựng trên một căn bản nào đó và chính
cái căn bản này mới là động năng mầu nhiệm thúc đẩy con người hành động một
cách cao thượng. Làm sao người ta có thể ý thức được cái giá trị căn bản này?
Hiển nhiên tôi không thể trả lời nó trong lúc này, nhưng tôi biết muốn thực sự
hiểu được giá trị đó, người ta cần phải tìm một người nào không những đã kinh
qua được nó mà còn phải hiểu và biết sống với nó nữa. Phải chăng đó là bước đầu
của người tìm đạo? Phải chăng cái người ta cần tìm là một vị thầy?
Tôi không có nhiều thời giờ suy gẫm
thêm về những điều đó nữa vì chỉ ít lâu sau, vào đầu mùa đông tôi đã hạ sinh đứa
con gái đầu lòng. Hai tháng trước đó, cha của đứa bé đã tìm đến nhà tôi sau khi
phong thanh rằng tôi đã có con với hắn. Là con của một công chức tòa hành
chánh, hắn vẫn hy vọng sẽ nối nghiệp cha nhưng khi được tin tôi có con, hắn bỏ
học về sống với gia đình tôi tại Hokkaido. Cha mẹ tôi lập tức công bố điều này
với mọi người trong làng và một đám cưới đã được tổ chức cấp tốc sau đó. Chồng
tôi là một thanh niên đẹp trai nhưng mảnh khảnh, tiêu biểu cho lớp thư sinh
trói gà không chặt, nhưng hắn đã cố gắng làm mọi việc trong nhà, từ giã gạo, bổ
củi đến việc cho gia súc ăn.
Qua năm sau, tôi sinh hạ thêm một bé
gái nữa nhưng dù đã có hai con với nhau, tình vợ chồng giữa hai chúng tôi không
hề tiến triển thêm được chút gì. Không hiểu sao chúng tôi thường khắc khẩu, hay
cãi cọ về những chuyện không đâu. Về sau tôi biết, hễ lên tiếng thế nào cũng tạo
ra những sự cãi cọ vô ích nên tôi quyết định giữ thái độ im lặng. Có lúc tôi đã
nghĩ đến việc ly dị nhưng lại không dám vì nghĩ đến hai đứa con. Điều bất ngờ
hơn cả là tôi càng chịu đựng bao nhiên thì một người vốn ít nói như cha tôi lại
càng không chịu đựng được chồng tôi bấy nhiêu. Không khí trong nhà dần dần trở
nên ngột ngạt, căng thẳng và sau cùng, sau một cuộc cãi vã kịch liệt giữa cha
tôi và chồng tôi, nửa đêm hôm đó chồng tôi hầm hầm thu dọn hành lý bỏ về Tokyo.
0 Đánh giá