Read more
Một hạt mầm làm cả trái đất xanh - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 1. An bình tâm trí, lạ chưa!
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Một hôm khi Lâm
Tế đi tới Ho Fu, quan tri phủ mời sư ngồi lên toà cao.
Ma Cốc tiến lên
và hỏi Lâm Tế, "Đức đại bi nghìn tay nghìn mắt. Thử hỏi mắt nào là mắt thực?"
Lâm Tế đáp,
"Đức đại bi nghìn tay nghìn mắt. Mắt nào là mắt thực? Nói mau, nói
mau!"
Ma Cốc kéo thầy
ra khỏi toà, tự ngồi lên toà.
Tiến tới ông ấy,
Lâm Tế nói, "Ông làm thế nào?"
Ma Cốc do dự.
Đến lượt Lâm Tế
kéo Ma Cốc xuống toà và tự mình ngồi trở lại.
Ma Cốc bèn đi,
và Lâm Tế bước xuống.
Các bạn, hôm
nọ, vở kịch diễu hành buồn cười chống lại tôi đã đạt tới chính đỉnh. Tôi đã
nghe nói rằng ba trăm con khỉ bao quanh một bồ tát đi tới đồn cảnh sát yêu cầu
tôi phải bị bắt, vì tôi đang phá huỷ văn hoá của thành phố tự xưng nơi đang mơ
là có văn hoá.
Một bồ tát
mang hình nộm của tôi. Một bồ tát có vẻ giống lừa và ba trăm lừa có vẻ giống
người. Ngay cả lừa cũng cười, vì nó là người đích thực duy nhất trong đám đông
đó: "Cái gì đã xảy ra cho thành phố có văn hoá này và cái gọi là những người
có văn hoá này?"
Lừa bởi
chính bản tính của chúng là những kẻ rất im lặng, rất triết lí, rất có văn hoá.
Và con lừa này đã tự hỏi, "Trừ mình ra... tất cả ba trăm con lừa đang ẩn đằng
sau mặt nạ người này, đang làm việc của mình, `cheepon, cheepon.'" (tiếng
Hindu cho tiếng lừa kêu.)
Cái gọi là
con người này, những người tự xưng, có văn hoá, đã nghĩ rằng họ đang sỉ nhục
tôi. Không ai trên thế giới có thể sỉ nhục tôi, vì điều đó là ở trong tay tôi:
nếu tôi chấp nhận việc sỉ nhục, điều đó là được; nếu tôi không chấp nhận điều
đó, bạn phải mang nó về nhà bạn. Không ai có thể làm nhục tôi. Làm nhục cần sự
chấp nhận của tôi.
Ngược lại,
những người này đã chứng minh mọi thứ đúng điều tôi đã từng nói cho các bạn. Họ
đã nghĩ rằng họ đang phá huỷ các luận cứ của tôi bằng việc diễu hành như vậy.
Không diễu hành nào có thể là luận cứ. Không diễu hành nào chứng minh sự thông
minh, nó chỉ chứng minh sự chậm phát triển. Và mang hình nộm của tôi trên con lừa
đáng thương đơn giản phô bầy mặt thực của họ: họ là những người tôn thờ lừa.
Mọi con người
không phải là con người đâu. Có nhiều phân loại thế: vài người vẫn còn là vượn,
vài người vẫn còn là khỉ đột, vài người vẫn là khỉ, vài người vẫn là lừa, vài
người vẫn là yankees.
Nhưng trong
cái gọi là thành phố có văn hoá tự xưng này, không một người nào đã phản đối những
người này, rằng "Các quí vị đang phơi bày bản thân các quí vị, sự thô tục
của các quí vị, tính phi văn hoá của các quí vị."
Và tại sao bạn
làm phiền nhiễu vị bồ tát? Tôi gọi con lừa đó là bồ tát.
Và không chỉ
tôi, mà từ hai mươi nhăm thế kỉ trước khi Phật Gautam đưa cho Ma ha ca diếp đoá
sen, và nói với toàn thể hội chúng mười nghìn sannyasins, "Điều ta có thể
nói cho các ông ta đã nói rồi. Điều không thể được mang vào trong ngôn ngữ, ta
đang truyền cho Ma ha ca diếp. Đoá sen này chỉ là biểu tượng của việc truyền
cái gì đó mà không tới trong lời."
Và tại sao với
Ma ha ca diếp? - vì ông ấy đã là người duy nhất vẫn còn im lặng hoàn toàn trong
nhiều năm. Hôm nay, khi Phật tới cho bài nói buổi sáng, mọi người đã bị phân
vân. Ông ấy đã không bao giờ mang bất kì cái gì trong tay, và hôm nay lần đầu
tiên ông ấy đã mang một đoá hoa sen đẹp. Tất cả họ đang chờ đợi với sự háo hức
về điều ông ấy sẽ nói, nhưng ông ấy đã không nói bất kì cái gì. Ngược lại, ông ấy
đơn giản cứ nhìn chăm chăm vào đoá sen trong suốt một giờ rưỡi.
Mọi người
phân vân, thất vọng: "Cái gì đang diễn ra?" Và khoảnh khắc đó, Ma ha
ca diếp, sau hai mươi năm im lặng, đã cười to thế.
Với tiếng cười
của ông ấy, Phật đã gọi ông ấy tới gần mình và đưa cho ông ấy đoá sen, và nói với
tâm xã, "Mọi điều ta có thể đem vào trong lời ta đã trao cho các ông. Cái
mà vẫn còn ở bên ngoài lời, ta trao cho Ma ha ca diếp." Đó là sự bắt đầu của
Thiền. Ma ha ca diếp đã là tổ thứ nhất của Thiền.
Kể từ ngày
hôm đó, tất cả hai mươi nhăm thế kỉ này, hàng trăm người chứng ngộ, chư phật thức
tỉnh trong dòng suối Thiền rất mảnh đã được hỏi đi hỏi lại mãi câu hỏi: Chó có
là phật không? Nó có thể được đổi thành: Lừa có thể là phật không?
Và mọi thầy
trong hai mươi nhăm thế kỉ này đã nói, "Có," mà không có bất kì do dự
nào. Mọi sinh linh đều có hạt mầm của phật. Việc có hạt mầm phật được diễn đạt
bằng từ `bồ tát-bodhisattva'. Về nền tảng, phật có thể đã đi xa, có thể đã trở
thành lừa, có thể đã trở thành chó. Điều đó không thành vấn đề. Tại chính trung
tâm của con người mình ông ấy đang mang hạt mầm này. Một ngày nào đó, lúc nào
đó, ở đâu đó, xuân sẽ tới và hạt mầm sẽ bắt đầu mọc thành cây với tán lá, và hạt
mầm sẽ trở thành hoa sen.
Cho nên tôi
nói rằng, trong số ba trăm linh một con lừa, những người đã làm đám diễu hành
chống tôi tới ông cảnh sát trưởng, ba trăm người chỉ là người rởm; chỉ một người
là bồ tát - con lừa.
Đó không phải
là việc sỉ nhục được mang đi bởi một bồ tát. Tôi nhận điều đó với sự kính trọng
lớn.
Nhưng những
người này đang cố chứng minh tôi sai, và họ không thấy rằng không có kết nối:
mang hình nộm của tôi... bạn có thể đốt nó, nhưng tại sao hành hạ bồ tát đáng
thương, con lừa? Ngay cả điều đó sẽ không bác bẻ tôi.
Tôi sẽ nhận
vấn đề về nghèo nàn.
Mọi tôn giáo
chịu trách nhiện cho nghèo nàn của con người.
Jesus nói,
"Được phúc lành là người nghèo, vì họ sẽ kết thừa vương quốc của Thượng đế."
Đọc những phát biểu như vậy, Karl Marx đã nói rằng mọi tôn giáo này không là gì
ngoài thuốc phiện cho mọi người.
Jesus đã an ủi
người nghèo: Đừng lo nghĩ về cái nghèo của ông, nó là phép thử thôi. Không phàn
nàn, kiên nhẫn, chỉ đợi chút xíu, và ông sẽ là người kế thừa vương quốc của Thượng
đế. Đó là việc mặc cả hời.
Và Jesus cũng
nói - chỉ để an ủi người nghèo để cho họ không nổi dậy chống lại người giầu, chống
lại những quyền lợi được đầu tư, chống lại những kẻ bóc lột và áp bức - ông ấy
cũng nói, "Lạc đà có thể đi qua trôn kim, nhưng người giầu không thể đi
qua cổng thiên đường."
Mà không chỉ
Jesus, cùng câu chuyện này được lặp lại ở những dạng khác nhau, theo những cách
khác nhau, để giữ cho người nghèo vẫn nghèo.
Ở Ấn Độ nó lấy
một khuôn khổ khác, nhưng kết luận là cùng một điều. Tất cả ba tôn giáo này được
sinh ra ở Ấn Độ không đồng ý về bất kì cái gì ngoại trừ một điểm này. Bạn có thể
hiểu tại sao. Họ có triết lí, huyền thoại của họ hoàn toàn đối kháng lẫn nhau -
Hindu giáo, Phật giáo, Jaina giáo - nhưng tất cả họ đồng ý ở một điểm: rằng người
nghèo khổ vì hành động ác của người đó trong kiếp quá khứ, và người giầu hân
hoan vì hành động tốt của người đó trong kiếp quá khứ. Họ chuyển toàn thể vấn đề
và dẫn đường sai mọi người.
Bạn bị bóc lột
ngay bây giờ, và họ nói về các kiếp quá khứ. Không phải ngẫu nhiên mà mọi người
sáng lập của ba tôn giáo này đã có sự bảo trợ của các vua và người siêu giầu.
Phật Gautam đã được bao quanh bởi các nhà vua và hoàng tử và người siêu giầu.
Ai có đó để
đem cho lương thực và quần áo và chỗ ở cho mười nghìn đệ tử của ông ấy? Ông ấy
đã di chuyển cùng mười nghìn đệ tử từ làng nọ sang làng kia. Những người này
cũng nghèo, họ không thể đảm đương được thức ăn cho bản thân họ; làm sao họ có
thể xoay xở được cho mười nghìn người?
Nhưng các
vua, người siêu giầu, đã đi theo đoàn lữ hành của Phật Gautam, và đã cung cấp
cho họ chỗ ở, cung cấp cho họ thức ăn, cung cấp cho họ quần áo và mọi thứ cần thiết
mà đã được cần. Tại sao họ quan tâm nhiều thế tới Phật Gautam? - vì ông ấy cũng
nói rằng người nghèo khổ từ hành động ác của họ trong kiếp quá khứ.
Điều đó rất
kì lạ. Cùng điều này là logic của người Jainas, và cùng điều này là logic của
người Hindu: chuyển cái nghèo cho hành động ác trong quá khứ. Không ai biết về
quá khứ; mọi điều chúng ta biết là hành động ác của người siêu giầu ngay bây giờ!
Họ đang bóc lột theo nhiều cách có thể.
Bạn sẽ không
tin vào điều đó, nhưng ngay cả ngày nay ở Ấn Độ có năm triệu người làm việc gần
như nô lệ. Họ được gọi là lao động nợ. Người giầu đưa tiền trước cho họ, và thế
rồi người giầu giao cho họ việc làm, việc làm nguy hiểm trong mỏ than, trong mỏ
đá cẩm thạch, và họ được trả một số tiền nhỏ mỗi ngày mà họ không có khả năng
trả lại số tiền trao trước - và chừng nào họ chưa trả lại số tiền trao trước họ
vẫn là lao động nợ. Đây là hiện tượng rất thủ đoạn. Không ai thấy nó như sự nô
lệ.
Họ đã đưa một
nghìn ru pi cho một người nghèo để cho anh ta có thể làm lều, để cho anh ta có
thể cho con gái lấy chồng, và thế rồi anh ta phải làm việc trong mỏ than. Sáu
ru pi một ngày! - và anh ta phải chăm nom cả gia đình bằng sáu ru pi. Anh ta sẽ
không bao giờ có khả năng trả lại số một nghìn ru pi đưa trước đó, và chừng nào
anh ta chưa trả số tiền đó anh ta vẫn phải ở trong mỏ than.
Mọi người đã
khổ cả đời họ trong sự nô lệ thủ đoạn, kì lạ. Bây giờ, không ai có thể gọi thẳng
họ là nô lệ, nhưng sự kiện là họ là lao động nợ; họ sẽ chết, họ sẽ không bao giờ
có được tiền để trả cho món vay trước. Tiền vay trước được trao là cùng cách
như trong quá khứ con người đã bị đấu giá.
Bạn sẽ không
tin rằng cả Phật lẫn Mahavira lẫn Krishna lẫn Rama... không ai đã nói một lời
chống lại sự nô lệ. Mọi người, đặc biệt đàn bà, đã đơn giản bị đấu giá trong
bãi chợ, và mọi người lãnh đạo tôn giáo lớn này đã chẳng nói gì về điều đó. Có
lẽ họ khổ vì hành động ác của họ trong kiếp quá khứ.
Và sự kiện
đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ không chỉ họ đã không đối lập với điều đó...
Tôi nhớ tới
một người thấy Hindu Upanishad - tất nhiên, tự phong và cái gọi là người thấy -
người đã được biết tới là Gadiwan Raikva, vì ông ta thường du hành trong xe bò
kéo. Raikva là tên ông ta, gadiwan nghĩa là người sở hữu xe bò kéo.
Ông ta cũng ở
bãi chợ đấu thầu người đàn bà đẹp, nhưng nhà vua tới - và tất nhiên chống lại
nhà vua ông ta không thể thắng được. Ông ta tiến lên trước nhiều nhất có thể được,
vì người thấy Hindu không phải là người nghèo; họ có nhiều vợ, họ có nhiều đất,
và đệ tử của họ làm việc trên đất để trả cho quyền làm đệ tử. Họ tích cóp nhiều
tiền, và tiền đó được dùng để mua đàn bà.
Gadiwan
Raikva là một trong những cái gọi là thánh nhân tự phong. Loại thánh nhân nào sẵn
sàng mua con người như hàng hoá vậy?
Nhưng bởi vì
ông ta đã bị thất bại và nhà vua đã trả nhiều tiền hơn vì người đàn bà này, ông
ta rất giận - và tất cả những người này đã từng nói, "Không giận, không
tham." Ông ta đã đợi cơ hội của mình để trả thù - và những người này đã từng
nói về, "Bỏ mọi trả thù, là tử tế, là từ bi, yêu kẻ thù của ông."
Sau nhiều
năm nhà vua, người đã mua người đàn bà này, trở nên chán ngán với vương quốc và
giầu có và toàn thể đám đàn bà, và ông ta muốn có an bình tâm trí.
Quên mất sự
vụ đã xảy ra hai mươi năm trước, ông ấy đi tới Gadiwan Raikva để tìm cách nào
đó an bình tâm trí, đem theo nhiều tiền, kim cương, đá quí, ngọc ruby, để cúng
tiến cho thánh nhân này. Ông ấy đã đem theo cùng mình ông tể tướng.
Ông ấy chạm
chân Gadiwan Raikva và cúng tiến toàn thể số tiền bạc. Nhưng Gadiwan Raikva vẫn
còn sôi lên với điên dại. Hai mươi năm đã không tạo ra bất kì khác biệt nào, ngọn
lửa vẫn sống động. Ông ta đẩy nhà vua sang bên và nói, "Cút đi, và đem
theo hết tiền bạc của ông!"
Nhà vua
không thể tin nổi điều đó. Ông ấy hỏi tể tướng, "Chuyện gì thế nhỉ? Tại
sao người này cư xử giận dữ thế? Ta vẫn nghĩ ông ta là thánh nhân lớn."
Tể tướng
nói, "Ông ta là thánh nhân lớn đấy, nhưng bệ hạ không nhớ... Hai mươi năm
trước bệ hạ đã cùng thầu một người đàn bà trẻ, và bệ hạ đã đánh bại ông ta. Đem
người đàn bà đó tới, cúng tiến người đàn bà đó cho thánh nhân này, và ông ta sẽ
cho bệ hạ an bình tâm trí." An bình tâm trí, lạ chưa!
Và ông ấy đã
mang người đàn bà này tới, và Gadiwan Raikva đã chấp nhận người đàn bà này, và
ông ấy đã đồng ý khai tâm cho nhà vua vào an bình tâm trí.
Một người đã
từng đốt cháy hai mươi năm bằng trả thù, người đó có năng lực đem tới an bình
tâm trí cho bất kì ai không? Người đó không biết bất kì cái gì về tâm trí hay an
bình!
Đây là những
người sáng lập của các tôn giáo. Ông ta vẫn được người Hindu kính trọng.
Tất cả ba
tôn giáo nào đều an ủi người nghèo; đó là lí do tại sao ở Ấn Độ không bao giờ
có cách mạng bởi người nghèo chống lại kẻ áp bức, kẻ bóc lột. Họ coi điều đương
nhiên là nghèo của họ là vì tội của họ trong quá khứ, nó chẳng liên quan gì tới
bất kì người nào khác; không có vấn đề về bất kì cuộc cách mạng nào.
Mohammed đã
nói cho đệ tử của ông ấy - và họ vẫn đi theo ý tưởng của ông ấy và là nghèo -
ông ấy đã bảo các đệ tử của mình một trong những ý tưởng ngớ ngẩn nhất:
"Ông không nên lấy lợi nhuận trên tiền, và ông không nên cho lợi nhuận
trên tiền."
Bây giờ toàn
thể thế giới kinh tế phụ thuộc vào lợi nhuận. Tiền càng luân chuyển, bạn càng
có nhiều tiền. Đó là lí do tại sao cái tên khác cho tiền là currency-lưu hành:
nó phải là dòng chảy, liên tục chuyển động. Nhưng tại sao nó phải chuyển động nếu
tôi không thu được lợi nhuận nào trên nó? Tại sao tôi phải trao nó cho bất kì
người nào và nhận rủi ro? Người đó có thể không trả lại nó.
Cho nên người
Mô ha mét giáo không cho lợi nhuận trên tiền, họ không nhận lợi nhuận trên tiền.
Toàn thể nền kinh tế của họ về căn bản là giả, đi ngược với toàn thể khoa học
kinh tế. Trò chơi tiền tuỳ thuộc vào lợi nhuận. Người Mô ha mét giáo vẫn còn
nghèo, hoàn toàn nghèo, và họ vẫn đi theo ý tưởng lạc hậu, tưởng nó là cái gì
đó tâm linh.
Mọi tôn giáo
đều chống lại tiền.
Mọi tôn giáo
đều ca ngợi người nghèo.
Khi bạn ca
ngợi người nghèo, bạn đang phá huỷ mọi khả năng của người đó trở thành giầu.
Khi bạn nói chống lại tiền, bạn tạo ra xã hội phi sản suất. Bạn có thể thấy điều
đó ở Ấn Độ: năm trăm triệu người đang sống trong chết đói tại chính khoảnh khắc
này. Và những người hiểu cách tăng dân số sẽ tạo ra nhiều nghèo nàn hơn, tất cả
họ đều dự báo một cách nhất trí rằng đến cuối thế kỉ này một nửa đất nước sẽ chết
vì nạn đói: một người trong hai người. Bạn sẽ bị bao quanh bởi các xác chết
trong nước này; bạn sẽ không có đủ gỗ để cho dàn thiêu của họ, bạn sẽ không có
đủ người để mang họ ra nghĩa địa. Họ sẽ mục rữa, họ sẽ bốc mùi. Những kẻ sẽ hạnh
phúc sẽ là con vật, chim chóc, các con vật ăn thịt người.
Trong số năm
trăm triệu xác chết, bạn có nghĩ bạn sẽ có khả năng sống không? Tôi không nghĩ
có người thông minh nào sẽ dung thứ điều đó. Người đó sẽ thà tự tử còn hơn,
khung cảnh sẽ kinh khiếp thế, khổ sở thế; nó sẽ tạo ra đau khổ vô cùng thế.
Nhưng dầu vậy
những người lãnh đạo tôn giáo đang chống lại các phương pháp kiểm soát sinh đẻ.
Giáo hoàng tới
Ấn Độ và nói cho người nghèo, "Dùng bất kì phương pháp kiểm soát sinh đẻ
nào là chống lại Thượng đế." Và các shankaracharyas, người đứng đầu Hindu
giáo, nói theo cùng cách. Và các acharyas của người Jaina, người đứng đầu giáo
phái Jaina, tất cả đều chống lại các phương pháp kiểm soát sinh đẻ. Không một
người lãnh đạo tôn giáo nào thiên về các phương pháp kiểm soát sinh đẻ. Những
người lãnh đạo tôn giáo này sẽ chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người!
Nhưng tại
sao họ chống lại các phương pháp kiểm soát sinh đẻ?
Họ nói,
"Chính Thượng đế đang cho các ông đứa con. Từ chối điều đó là chống lại
Thượng đế." Nhưng cho phép điều đó để chết đói sao...? Thượng đế dường như
là con quỉ. Ngài hân hoan trong những đứa trẻ đang chết trên phố. Ngài hân hoan
trong người nghèo, người không thể đảm đương được một bữa ăn.
Tôi đã bắt gặp
những người nghèo chẳng ăn gì ngoài nước. Tôi không thể nói họ đang uống nước,
họ ăn nước, và đặt lên dạ dầy họ một viên gạch để cảm thấy rằng bụng họ đầy.
Thượng đế
yêu những người này... Thượng đế dường như là con quỉ lớn hơn bất kì quỉ nào
khác - và tất cả những người thuyết giảng này, nhưng người lãnh đạo tôn giáo, đại
diện cho Thượng đế đấy. Và tất cả họ chống lại nhân loại sống trong tiện nghi,
sống cuộc sống có giáo dục, có văn hoá, tận hưởng những bức hoạ và văn chương
và thơ ca và âm nhạc và điệu vũ lớn.
Người đó
không thể tận hưởng được Beethoven.
Người đói
không thể tận hưởng được Michelangelo hay Leonardo da Vinci.
Tôi nhớ tới
một nhà thơ lớn, Heinrich Heine. Ông ấy bị lạc trong rừng sâu ở Đức; chỗ ông ấy
đã đi săn. Nhưng ông ấy không thể tìm được đường ra khỏi rừng rậm trong ba
ngày... và thế rồi đêm tới. Ba ngày đói... và ông ấy đã sợ các con vật hoang mọi
lúc, cho nên ban đêm ông ấy đã ngồi trên cây.
Và thế rồi một
đêm trăng tròn tới. Ông ấy đã viết những bài thơ hay thế về trăng tròn. Không
nhà thơ nào có thể đảm đương được việc không viết ra về trăng tròn; nó có quyền
năng thôi miên thế. Nó là thơ ca thuần khiết nhất.
Heinrich
Heine đã viết nhiều bài thơ hay về trăng, nhưng đêm đó, sau ba ngày đói và mệt
và sợ chết bất kì khoảnh khắc nào, ngồi trên cây ông ấy thấy bầu trời không
trăng, mà là một lát bánh mì. Ông ấy không thể tin được vào mắt mình. Ông ấy cọ
tay vào mắt, ông ấy nhìn lại: nó đã là một lát bánh mì nổi trên trời.
Khi ông ấy
được một nhóm tìm kiếm tìn thấy và đưa về, ông ấy đã viết trong nhật kí của
mình, "Bây giờ tôi biết người nghèo có thể tận hưởng trăng tròn thế nào,
người đói có thể tận hưởng hoa sen hay hoa hồng thế nào."
Người nghèo
không có thời gian gian hay tâm trí để nghĩ về những điều huyền bí lớn hơn của
sự sống; người đó chỉ nghĩ về bánh mì và bơ. Và Thượng đế yêu thích vở kịch
này... và các đại diện của thượng đế tất cả đều thiên về nghèo nàn.
Thế giới chắc
đã bị kết thúc với nghèo từ lâu trước đây. Nó vẫn có thể kết thúc điều đó! -
nhưng những người lãnh đạo tôn giáo có quyền lực trên người nghèo, không trên
người giầu.
Ai sẽ cho Mẹ
Teresa giải thưởng Nobel nếu không có con côi được tìm thấy trên phố ở
Calcutta? Chỉ một đứa trẻ một ngày tuổi, và người mẹ hay người bố đã bỏ nó bên
đường vì họ không thể xoay xở nuôi dưỡng nó lớn lên được. Và Mẹ Teresa và bẩy
trăm sơ của bà ấy chạy quanh Calcutta, tìm các trẻ em đã bị mẹ hay bố chúng bỏ
lại, và thu thập chúng với niềm vui lớn lao. Mọi người đang đếm họ đã kiếm được
bao nhiêu trẻ. Niềm vui là để cải tâm chúng theo thành người Thiên chúa giáo.
Tất nhiên
giáo hoàng chống lại kiểm soát sinh đẻ. Nếu như có kiểm soát sinh đẻ, chắc sẽ
không có Mẹ Teresa, và chắc sẽ không có sáu trăm triệu người Thiên chúa giáo.
Đây toàn là những người nghèo nhất của người nghèo.
Ở Ấn Độ tôi
đã từng tìm kiếm trong ba mươi năm về một người giầu đã được cải tâm bởi những
nhà truyền giáo Thiên chúa giáo. Tôi vẫn chưa tìm thấy một người nào - nhưng
tôi đã thấy rằng những người họ đã cải tâm là những người nghèo nhất trong người
nghèo. Họ không hiểu một từ về tôn giáo. Họ không hiểu - họ không trong tình huốn
để hiểu. Tâm trí cần chất nuôi dưỡng nào đó; họ không có chất nuôi dưỡng đó. Và
nếu ai đó cung cấp thức ăn và quần áo và chỗ ở, họ rất sẵn lòng được gọi là bất
kì cái gì bạn muốn gọi: người Thiên chúa giáo, người Tin lành, người Ki tô giáo
- bất kì cái gì bạn muốn.
Các thổ dân,
người nguyên thuỷ, người sống trong rừng gần như trần trụi - họ không có quần
áo, họ ăn rễ cây, họ không có thức ăn, và các nhà truyền giáo Ki tô giáo rất
hài lòng đi vào những phần đó và cải tâm họ sang Ki tô giáo.
Tôi đã ở
bang Bastar, nơi những bộ lạc cư ngụ, những người rất nguyên thuỷ nhưng rất đơn
giản và hồn nhiên.
Vua của
Bastar đã là bạn tôi. Chỉ bởi vì ông ấy là bạn tôi, ông ấy đã bị các chính
khách giết chết - vì ông ấy đã ủng hộ tôi ở Bastar để giúp người nghèo trong
bang của ông ấy hiểu cái gì đó về thiền. Ông ấy đã rơi vào yêu tôi, vì ông ấy
đã học thiền, và ông ấy muốn người nghèo của ông ấy học thiền. Cho nên tôi thường
tới Bastar... và để ngăn cản tôi khỏi đi tới Bastar, vua của Bastar đã bị bắn
chết bởi các chính khách.
Tôi đã ở
trong một làng nhỏ nơi một nhà truyền giáo đã xoay xở biểu diễn cho người bộ lạc
ai là mạnh hơn, Krishna hay Jesus. Tôi đã ngồi đằng sau đám đông, cho nên ông
ta chắc đã không nhận ra bất kì người nào từ thế giới đương đại - và lúc đó là
đêm tối. Ông ta có đêm đốt lửa, và ông ta đặt một xô nước và nói với mọi người,
những người rất háo hức biết ai là mạnh hơn...
Ông ta đã
làm hai bức tượng, một của Krishna, được làm bằng gỗ... Không, tượng Jesus được
làm bằng gỗ, và tượng của Krishna được làm bằng thép! - nhưng được sơn vẽ, họ
có vẻ đích xác như nhau. Ông ta lấy cả hai bức tượng và đặt chúng vào xô nước.
Tất nhiên, Jesus vẫn còn bơi trên nước, Krishna chìm. Mọi người nói, "Chắc
chắn Jesus dường như là mạnh hơn Krishna."
Ông ta nói,
"Tôi đã bảo với các vị lặp đi lặp lại rằng Jesus sẽ cứu các vị, và Krishna
sẽ làm chìm các vị, nhớ lấy! Được cải tâm sang Thiên chúa giáo đi."
Tại điểm đó,
tôi không thể cưỡng lại được. Tôi đứng dậy, và tôi nói với đám đông, "Đó
đã là một thực nghiệm rất hay, nhưng tôi muốn hỏi các ông, các ông đã bao giờ
nghe nói tới bất kì kiểu thử nào như thử nước chưa?"
Họ nói,
"Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói về nó, nhưng chúng tôi đã nghe nói về thử
lửa."
Thế là tôi
nói, "Bây giờ chúng ta sẽ kiểm tra cả hai anh chàng này trong lửa."
Và tôi bảo mọi người, "Bắt giữ nhà truyền giáo này để cho ông ta không thể
trốn thoát," và tôi cho cả hai bức tượng vào đống lửa, và Jesus cháy thành
tro còn Krishna bước ra.
Họ nói,
"Trời! Người này đã lừa chúng ta."
Nhưng đây là
cách họ đã từng cải tâm những người nghèo, hoàn toàn nguyên thuỷ. Và họ muốn những
người này là nghèo, bằng không họ sẽ không có khả năng cải tâm những người này.
Người Hindu
có khó khăn: đó là tôn giáo không cải tâm như người Do Tháu. Đây là hai tôn
giáo cổ đại nhất của thế giới, và cả hai đều là không cải tâm. Bạn được sinh ra
là người Do Thái, không bao giờ được cải tâm là người Do Thái; bạn được sinh ra
là người Hindu, không bao giờ được cải tâm là người Hindu. Vì đây là những tôn
giáo cổ đại nhất, không có nhu cầu cải tâm bất kì người nào. Mọi người đã là
người Hindu.
Và đặc thù
hơn, người Hindu có hệ thống đẳng cấp: người brahmins ở đầu, thế rồi tới chiến
binh, số hai, thế rồi tới người kinh doanh, số ba, và thế rồi tới tiện dân -
người nghèo nhất của người nghèo, người bị áp bức của người bị áp bức.
Nếu bạn cải
tâm ai đó, bạn sẽ đặt họ vào đâu, vào tầng lớp nào? Người brahmins sẽ không cho
phép bất kì người nào... Brahmins được sinh ra; chính các kiếp quá khứ của họ
cùng với sự khổ hạnh và làm thuần khiết và kỉ luật và đức hạnh đã làm cho họ được
sinh ra là người brahmins. Bạn không thể cải tâm cho bất kì người nào vào đẳng
cấp Brahmin. Chiến binh, kshatriyas, cũng không chấp nhận bất kì người nào - họ
là đẳng cấp cao - những người kinh doanh cũng không được, họ là những người giầu
nhất. Họ không muốn bất kì người nào được cải tâm, chia sẻ một cách không cần
thiết tiền của họ.
Đằng cấp duy
nhất còn lại là tiện dân. Nhưng không ai muốn được cải tâm là tiện dân, vì họ
có công việc xác định để làm: dọn nhà vệ sinh Ấn Độ, mà là nhà vệ sinh tồi tệ
nhất thế giới, nguyên thuỷ và xấu thế. Và những tiện dân này đang mang đủ mọi
loại cứt trên đầu họ! Nó rơi lên mặt họ!
Xã hội Hindu
là bất động; không ai có thể chuyển từ đẳng cấp của mình sang đẳng cấp khác. Vấn
đề về cải tâm cho ai đó từ tôn giáo khác không nảy sinh. Cho nên cải tâm cho tiện
dân vào Ki tô giáo đã là chỗ tốt.
Tôi có một
người bạn đã là hiệu trưởrng của trường đại học lớn nhất về thượng đế học Ki tô
giáo trong toàn châu Á. Một hay hai lần tôi đã tới thăm ông ấy. Tôi đã hỏi ông ấy,
"Ông có phải là người Ki tô giáo bẩm sinh không?"
Ông ấy nói,
"Không, tôi là tiện dân bẩm sinh," và ông ấy đưa tôi vào phòng khách
của ông ấy, và ông ấy mang ra cuốn album để chỉ cho tôi xem bức ảnh bố ông ấy,
đã là người ăn xin. Ông ấy và con ông ấy đã được cải tâm sang Ki tô giáo. Ông
hiệu trưởng có giáo dục, không chỉ ở Ấn Độ, mà ở các nước phương Tây. Ông ấy
cho tôi xem bức hình ông ấy trước khi cải tâm và sau khi cải tâm, và thế rồi
ông ấy gọi con gái của mình ra.
Tôi đã bắt gặp
hàng triệu đàn bà, nhưng cô ấy là người đẹp hãn hữu, không thể tin được. Người
ông, một người ăn xin chết đói, xấu xí, và cô ấy được giáo dục ở Mĩ, có bằng tiến
sĩ, và đã lấy một nhà tâm thần Mĩ. Cả hai người thường tới Ấn Độ sáu tháng một
năm để cải tâm cho người nghèo vào Ki tô giáo, và sáu tháng họ thường đi sang
Mĩ để dạy trong đại học.
Ông già, ông
hiệu trưởng, đã hỏi tôi, "Ông nghĩ gì?"
Tôi nói,
"Điều đó là bóc lột vô cùng sự nghèo nàn. Ông không được cải tâm trên nền
tảng tôn giáo; ông được cải tâm trên nền tảng tài chính, và nền tảng tài chính
không thể làm cho con người thành tôn giáo. Ông là người đứng đầu, hiệu trưởng
của trường cao đẳng thượng đế học lớn nhất châu Á, và công việc của ông là gì?
- chuẩn bị cho những người truyền giáo đi khắp châu Á để cải tâm nhiều người
hơn. Không người nào trong những người này..."
Ông ấy có
năm nghìn học viên trong cao đẳng của ông ấy. Ông ấy đưa tôi đi xem một vòng.
Tôi nói, "Không người nào trong những người này được thuyết phục về chân
lí của tôn giáo của ông. Bản thân ông cũng không được thuyết phục."
Ông ấy nói,
"Tôi không biết bất kì cái gì về tôn giáo. Mọi điều tôi biết là về kinh
sách, điều tôi đã được dạy." Và ông ấy đưa tới tới một lớp, mà buồn cười
thế. Đây là lớp dạy sau đại học cuối cùng cho những nhà truyền giáo, nơi họ được
dạy cách nói, cách là người diễn thuyết lớn.
Tôi quan sát
trong vài phút; tôi không thể nín cười. Tôi nói, "Điều này là ngu xuẩn thế."
Họ được bảo khi nào nói to và khi nào chỉ thì thào, khi nào giơ tay lên, và khi
nào đập bàn. Tôi hỏi ông ấy, "Đại học này dành cho diễn viên sao? Tôi tưởng
ông đã nói cho tôi nó là chuẩn bị cho các nhà truyền giáo. Đây là những nhà
truyền giáo sao?"
Khi người ta
có cái gì đó để nói, thế thì chính chân lí đó tìm cách của nó, cách diễn đạt của
nó, cử chỉ của nó. Điều đó phải không được dạy.
Nhưng khi bạn
không có bất kì cái gì để nói, hiển nhiên bạn phải học mọi cử chỉ, mọi lời. Những
diễn viên này đang giả vờ là nhà truyền giáo; họ sẽ cải tâm mọi người sang Ki
tô giáo - và điều này họ nghĩ là một trong những hành động đức hạnh nhất. Nhưng
với điều đó họ cần người nghèo.
Ở phương
Tây, ở phương Đông, khuôn khổ có thể khác, nhưng kết quả là như nhau. Không cho
phép người nghèo vươn lên, giữ họ bị đè nén, vì họ là những người làm việc và
lao động và làm đủ mọi thứ.
Tôi đã
nghe... Một chiếc Rolls Royce dừng lại trước một khách sạn ở bãi biển Miami. Một
người đàn bà bước ra và kêu lên, "Tôi cần bốn người mang con trai tôi vào
bên trong khách sạn."
Cậu con trai
không quá tám tuổi, nhưng thực sự béo.
Bốn người phục
vụ tới, và họ nói, "Cậu bé có vẻ hay thế, cậu không thể bước đi được
sao?"
Người đàn bà
nói, "Tôi có thể đảm đương cho nó được mọi người khênh đi. Nó không cần bước
đi! Nó không bị què, nó giầu."
Một mặt,
hàng triệu và hàng triệu người đang chết đói, và mặt khác, vài người đã thu thập
mọi tiền bạn. Ngay cả con cái họ cũng phải được khênh đi, vì họ có thể đảm
đương được việc đó. Một mặt mọi người đang chết trên phố...
Trong mùa
đông lạnh lẽo, ba triệu người Mĩ đang sống trên phố; không ai sẽ chăm nom gì
cho họ. Và có hàng triệu người không làm gì; họ đơn giản ngồi trước máy thu
hình. Thời gian trung bình dành cho ti vi ở Mĩ là bẩy giờ rưỡi một ngày. Họ thậm
chí không thể di chuyển; họ bị thôi miên bởi ti vi tới mức bây giờ sẵn có dịch
vụ từ các khách sạn: họ chỉ phải gọi điện cho khách sạn mang tới bất kì cái gì
họ muốn. Những người này liên tục trở nên ngày càng béo hơn... kem và
Coca-Cola.
Bây giờ họ
đã làm ra xã hội - xã hội của những củ khoai tây nằm. Họ đã trở thành khoai
tây, họ không còn là người.
Bạn sẽ không
tin tôi, nhưng có những người không thể rời khỏi ti vi vì bất kì lí do gì -
ngay cả để làm tình. Cho nên họ làm tình kiểu chó, để cho cả hai có thể xem ti
vi!
Toàn thể đống
lộn xộn này được tạo ra bởi tôn giáo của bạn!
Tôi trách mọi
người.
Moses đã phá
huỷ người Do Thái bằng việc nói cho họ lời dối trá - rằng Thượng đế đã chọn họ
làm người của ngài. Vì lời dối trá này, người Do Thái đã bị hành hạ trong bốn
nghìn năm trên khắp thế giới, ở mọi nơi. Không ai có thể dung thứ họ, vì tất cả
họ đều nghĩ họ là người được chọn.
Người
brahmins nghĩ họ là người được chọn; đích thân Thượng đế đã viết kinh sách của
họ. Người Mô ha mét giáo nghĩ họ là người được chọn; Thượng đế đã phái sứ giả
cuối cùng riêng của ngài với thông điệp của ngài trong Koran. Và, tất nhiên,
người Ki tô giáo nghĩ Thượng đế không bao giờ phái tới bất kì giống nòi nào
khác trên thế giới đứa con trai duy nhất của ngài, Jesus Christ.
Mọi người
nghĩ... Và Moses đã là người đầu tiên mang tới lời dối trá, không biết tới những
hậu quả. Nếu bạn cố áp đặt bản thân bạn là vài người được chọn của Thượng đế, bạn
sẽ bị phá huỷ, bạn sẽ không được dung thứ.
Ông ấy đã
lên núi Sinai và sau nhiều ngày đã mang về mười lời răn. Mười lời răn đó có thể
được viết trên tấm bưu thiếp nhỏ. Ông ấy đã làm gì lâu thế?
Và nếu Thượng
đế đã chuẩn bị mười lời răn trên đá lát, chẳng lẽ ngài không thể, ngài đã tạo
ra thế giới trong sáu ngày mà, tạo ra mười viên đá lát trong sáu ngày? Moses
nói dối; ông ấy đã chuẩn bị những viên đá lát này, chúng chẳng liên quan gì tới
Thượng đế. Ông ấy đã lừa người của ông ấy, cũng như mọi người sáng lập tôn giáo
đang lừa người của họ.
Ngay chỗ đầu
tiên, Thượng đế là điều dối trá, điều dối trá nền tảng nhất. Từ dối trá nền tảng
này nảy sinh nhiều dối trá. Dối trá cũng không tin vào kiểm soát sinh đẻ; chúng
là rất tôn giáo, chúng liên tục sinh sản. Một dối trá sinh ra nghìn dối trá.
Khi Thượng đế
được chấp nhận, làm sao bạn có thể phủ nhận đứa con trai duy nhất của ngài?
Làm sao bạn
có thể phủ nhận việc hiện thân của ngài trong Rama và Krishna?
Làm sao bạn
có thể phủ nhận sứ giả của ngài, Mohammed?
Một khi bạn
đã chấp nhận điều dối trá nền tảng, thế thì bạn phải chấp nhận mọi người này,
những người dường như là hơi chút điên khùng. Và những người này đã viết ra
kinh sách của bạn nhân danh Thượng đế - vì Koran linh thiêng là sai sót thế về
ngôn ngữ điều chỉ ra người đã viết ra nó.
Và nếu chỉ
có một Thượng đế, cần gì nhiều tôn giáo thế, và nhiều kinh sách thế, và nhiều
nhà tiên tri thế? Phải chăng vì Thượng đế thích đổ máu, người Mô ha mét giáo giết
người Hindu, người Hindu giết người Mô ha mét giáo? Ngay sau khi Ấn Độ trở nên
độc lập, một triệu người đã bị người Hindu và người Mô ha mét giáo cùng nhau giết,
nhân danh Thượng đế.
Một ông già
Do Thái sắp chết. Ông ấy chưa bao giờ đi tới giáo đường Do Thái. Giáo sĩ tới bảo
ông ấy, "Bây giờ ít nhất làm hoà bình với Thượng đế đi."
Ông già nói,
"Tôi chưa bao giờ cãi nhau với ngài ngay chỗ đầu tiên. Tôi chưa bao giờ đi
tới giáo đường Do Thái, ông biết điều đó rõ mà!"
Giáo sĩ nói,
"Ông bao giờ cũng là kì lạ. Tại khoảnh khắc chết này, cầu nguyện Thượng đế
đi!"
Ông già nói,
"Tôi đang cầu nguyện đây. Tôi cầu nguyện rằng `Thế là đủ rồi! Chúng ta đã
từng hành hạ đủ rồi vì ngài đã chọn chúng tôi! Giờ chọn ai đó khác đi!'"
Tôn giáo
không có bất kì lí do nào để tồn tại trong thế giới này. Vâng, tính tôn giáo là
chuyện khác toàn bộ. Người ta có thể có tính tôn giáo mà không thuộc vào tôn
giáo. Thực ra, những người thuộc vào bất kì tôn giáo nào không thể có tính tôn
giáo được. Họ có thể là người Ki tô giáo, họ có thể là người Do Thái, họ có thể
là người Hindu, họ có thể là Phật tử, nhưng không có tính tôn giáo.
Nếu bạn muốn
có tính tôn giáo, bạn phải đứng trên đôi chân riêng của bạn và nhìn vào bên
trong. Thượng đế không có ở đâu bên ngoài. Không có người nào như Thượng đế
trong sự tồn tại. Bên trong bạn sẽ thấy sự vĩnh hằng của tâm thức. Đó là tính
thiêng liêng duy nhất, đó là tính thượng đế duy nhất - nhưng không có Thượng đế.
Trải nghiệm
tính thượng đế trong con người bạn sẽ mang tới biến đổi lớn, sự biến thái. Bạn
sẽ trở thành con người mới, với từ bi, với tình yêu, với hiểu biết, với thông
minh, không sợ bất kì chết nào, vì bạn biết cái vĩnh hằng của bạn, vì bạn biết
chính trung tâm của bạn.
Hôm nay bắt
đầu loạt bài mới: Một hạt mầm làm cả trái đất xanh.
Maneesha đã
hỏi:
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Một hôm khi
Lâm Tế đi tới Ho Fu, quan tri phủ mời thầy ngồi lên toà cao.
Đã từng có
những người của thông minh ngay cả trong vị trí kì lạ là quan tri phủ. Quan tri
phủ mời Lâm Tế ngồi toà cao, cao hơn quan tri phủ. Ông ấy biết.
Lâm Tế là một
trong những thầy hay nhất. Ông ấy có nhiều đệ tử chứng ngộ hơn bất kì thầy nào
khác. Chính không khí của ông ấy là không khí của chứng ngộ. Mắt ông ấy đã là mắt
của bất kì phật chứng ngộ nào. Những người có mắt để thấy và có tai để nghe, những
người đủ nhạy cảm để cảm thấy hương thơm của người này, lập tức hiểu ngay. Ông ấy
trong đám đông nhưng không của đám đông. Ông ấy có vể giống như con người,
nhưng ông ấy đã đi ra xa bên ngoài. Ông ấy toả ra cõi bên kia của ông ấy.
Quan tri phủ
này phải đã là con người của thông minh, hiểu biết lớn. Ông ấy phải đã nếm trải
cái gì đó của thiền, bằng không thì với quan tri phủ ông ấy không thể mời ai đó
lấy chỗ ngồi cao hơn.
Ma Cốc tiến
lên và hỏi Lâm Tế, "Đức đại bi nghìn tay nghìn mắt…"
Đây chỉ là
biểu dụ cho bất kì người thức tỉnh nào. Nó đơn giản ngụ ý ông ấy có thể dùng
hai mắt của mình gần như ông ấy có nghìn mắt.
Bạn biết mắt
tôi: tôi có mười nghìn mắt, và tôi nhìn vào mọi mắt của các bạn. Bạn có thể
không biết, bạn có thể không tìm thấy nó, nhưng tôi đang quan sát liên tục vào
cốt lõi sâu nhất của con người bạn.
Nó là biểu dụ:
người đã thức tỉnh có một nghìn tay. Bạn có thể thấy trong hai tay tôi, mười
nghìn tay không?
Biểu dụ này
đơn giản ngụ ý rằng thầy, chỉ với hai bàn tay, quản lí làm việc gần như ông ấy
có cả nghìn tay. Ông ấy làm việc trên hàng nghìn đệ tử. Ông ấy là thầy giáo vĩ
đại nhất trên thế giới. Ông ấy không vẽ, ông ấy không chơi ghi ta, ông ấy không
hát. Nhưng cái ông ấy tạo ra... ông ấy bóc mọi đệ tử, làm lộ ra kho báu ẩn kín
tại chính trung tâm của mọi sinh linh. Hai bàn tay của ông ấy không chỉ là hai
bàn tay, bởi vì ông ấy đang làm việc trên hàng nghìn người - do đó có biểu dụ
này.
Nhưng có những
kẻ ngốc sẽ không hiểu biểu dụ, người sẽ cố tìm ra, "Nó có là thực không?"
Họ muốn sự kiện. Khi có liên quan tới sự kiện, Phật chỉ có hai mắt và hai tay,
nhưng khi có liên quan tới chân lí, ông ấy có mười nghìn mắt và mười nghìn tay.
Để thấy cây
chứa cái gì người ta phải nhìn vào quả của cây; quả mang tính quyết định. Nếu một
thầy thức tỉnh tạo ra bầu không khí vô cùng trong đó những hồn chưa thắp sáng
trở nên bắt lửa, với hai tay mình ông ấy đang làm phép màu. Với hai mắt mình
ông ấy đang nhìn vào trong hàng nghìn hồn để đánh thức họ. Nhưng điều đó là
chân lí, nó không là tính sự kiện. Bạn không thể chụp ảnh được nó.
Ma Cốc hỏi
Lâm Tế,
"Đức đại
bi nghìn tay nghìn mắt. Thử hỏi mắt nào là mắt thực?"
"Trong
một nghìn mắt," ông ấy đang hỏi, "mắt nào là mắt thực?" Ông ấy
đang cư xử giống như người trung bình, mù, ngủ, vô ý thức, vì cả nghìn mắt đó
không là gì ngoài sự phản xạ của một mắt mà ở ngay giữa hai lông mày của bạn.
Chúng ta đã gọi nó là con mắt thứ ba. Hai mắt này nhìn ra ngoài, con mắt thứ ba
kia nhìn vào trong; đó là mắt thực. Nhưng mắt thực đó có thể vận hành trên cả nghìn
người, trên mười nghìn người, trên mười triệu người.
Thầy không
bao giờ cho bạn bất kì bản sao giấy than nào; tất cả đều là đích thực như
nguyên bản. Thầy bao giờ cũng chia sẻ với bạn bản gốc, bản đích thực. Sáng tỏ của
thầy, cái nhìn của thầy, là bao la tới mức hàng triệu người có thể chia sẻ nó.
Đó là nghĩa của biểu dụ.
Nhưng người
ngu bao giờ cũng hỏi những câu hỏi về các biểu dụ. Họ không hiểu rằng có những
điều không thể được nói mà không có biểu dụ - và những biểu dụ đó là những điều
lớn lao và những kinh nghiệm lớn lao trong sự sống, điều không thể được diễn đạt
nếu không có biểu dụ, không có thơ ca, không có biểu tượng.
Lâm Tế đáp,
"Đức đại bi nghìn tay nghìn mắt. Mắt nào là mắt thực? Nói mau, nói
mau!"
Có lẽ ông biết;
đó là lí do tại sao ông hỏi.
Chính một
trong những ảo tưởng lớn nhất với những người đã tích luỹ tri thức nào đó - mọi
thứ được vay mượn từ kinh sách, từ thầy giáo, từ các nhà truyền giáo - mọi rác
rưởi, vì chừng nào nó chưa là kinh nghiệm của bạn, nó không là thực.
Lâm Tế phải đã
nhìn vào trong người này, Ma Cốc. Ông ấy dường như là một học sĩ đã từng đọc
kinh sách; do đó mới có câu hỏi này. Ông ấy đã biết câu trả lời - câu trả lời từ
kinh sách, không phải câu trả lời từ kinh nghiệm riêng của ông ấy. Đó là lí do
tại sao ông ấy đã nói,
"Đức đại
bi nghìn tay nghìn mắt. Mắt nào là mắt thực? Nói mau, nói mau!"
Ông ấy muốn
phơi bày Ma Cốc ra: "Tri thức của ông không phải là việc biết của ông. Tri
thức của ông toàn được vay mượn."
Đừng phụ thuộc
vào tri thức vay mượn. Điều đó đơn giản làm nặng gánh bạn, làm bạn thành nặng nề,
trói buộc bạn vào trong xiềng xích, giam bạn vào trong lời, và bạn quên hoàn
toàn đôi cánh của bạn và toàn thể bầu trời mà là của bạn. Nhưng bị xiềng xích bởi
tôn giáo và nhà thờ và kinh sách, bạn không thể bay qua mặt trời vào trong bầu
trời xanh thẳm xa xăm; bạn không thể trở thành một với càn khôn.
Ma Cốc kéo
thầy ra khỏi toà cao và tự ngồi lên toà.
Đó là một
giai thoại rất hay. Vì Lâm Tế đã không trả lời, và ngược lại đã bắt đầu hỏi ông
ấy,
"Mắt
nào là mắt thực? Nói mau, nói mau!"
Ông ta đã
nghĩ, "Ông này thậm chí không biết tới kinh sách. Ông này không là học
sĩ." Để chỉ ra điều này, ông ta kéo thầy xuống khỏi toà cao và tự mình ngồi
vào nó. Đó là điều các học sĩ bao giờ cũng đã từng làm.
Học sĩ là kẻ
thù tinh quái của những người đã trải nghiệm chân lí. Chính kinh nghiệm đó về
chân lí làm cho học sĩ cảm thấy kém cỏi tới mức họ trở thành gần như phát rồ. Họ
đánh mất mọi tính hợp lí và tính nhạy cảm. Họ trở thành mất trí.
Ma Cốc kéo
thầy ra khỏi toà, tự ngồi lên toà.
Tiến tới ông
ta, Lâm Tế nói, "Ông làm thế nào?"
Đó là cái
hay của người biết cách đối xử với kẻ ngốc:
"Ông
làm thế nào?"
Ma Cốc do dự.
Ông ta không
thể hiểu điều phải nói.
"Ông
làm thế nào?"
... và bởi
vì sự do dự của ông ta, ông ta tự phơi bày mình ra.
Thầy đích thực
không bao giờ do dự. Do dự tới từ nghi ngờ. Do dự tới vì bạn không thực sự biết,
bạn chỉ giả vờ. Và chỉ một câu hỏi nhỏ - không phải là câu hỏi siêu hình hay
triết lí gì - chỉ một câu hỏi đơn giản,
"Ông
làm thế nào?", và Ma Cốc do dự.
Điều đó là đủ.
Đến lượt Lâm
Tế kéo Ma Cốc xuống toà cao và tự mình ngồi trở lại.
Ma Cốc bèn
đi, và Lâm Tế bước xuống.
Ông ấy không
quan tâm tới việc ngồi trên toà cao. Ông ấy quan tâm tới việc làm cho Ma Cốc hiểu
rằng ông ta không biết, nhưng dầu vậy ông ta đang giả vờ dường như ông ta biết.
Mọi học giả,
mọi người thuyết giảng của bạn, mọi cái gọi là giám mục và hồng y giáo chủ và
imams và shankaracharyas là ở cùng một phân loại: họ biết nhiều mà chẳng biết
gì. Họ là những con vẹt được huấn luyện rất tốt.
Ông giám mục
rất yêu mến con vẹt của mình, nhưng con vẹt chết. Cái hay của con vẹt này là ở
chỗ nó thường nói toàn thể lời cầu nguyện Thiên chúa giáo có thẩm quyền với Thượng
đế đúng phát âm, chính xác tới mức điều đó gây ngạc nhiên cho mọi người tới
thăm ông giám mục. Nhưng con vẹt đã chết.
Làm sao tìm
ra con vẹt khác như vậy là điều thất vọng lớn, nhưng ông ấy đã đi tới hiệu thú
cưng và ông ấy kể lại câu chuyện buồn về con vẹt chết của mình. Người chủ tiệm
nói, "Sẽ tốn nhiều đấy, nhưng tôi có con vẹt đúng cho ông - còn tinh tế
hơn con đã chết kia."
Ông giám mục
nói, "Tiền không thành vấn đề. Ông cứ cho tôi xem con vẹt đi."
Ông chủ tiệm
đưa ông giám mục vào trong cửa hiệu, nơi ông ta đã để con vẹt trong lồng vàng -
một loại rất đẹp. Ông giám mục hỏi, "Vĩ đại gì về con vẹt này?"
Ông chủ tiệm
nói, "Ông nhìn kĩ đi. Có hai sợi dây treo từ hai chân nó. Nếu ông kéo sợi
bên phải, nó sẽ lập tức cho Bài giảng trên núi."
Ông giám mục
nói, "Trời! Thế còn dây bên trái?"
"Nếu ông
kéo dây bên trái, nó sẽ trích dẫn điều con vẹt của ông thường làm. Nó sẽ trích
dẫn lời cầu nguyện Thiên chúa giáo có thẩm quyền với Thượng đế."
Ông giám mục
sững sờ, và ông ấy nói, "Nếu tôi kéo cả hai sợi dây cùng lúc thì
sao?"
Con vẹt nói,
"Ông ngu vừa vừa chứ! Tôi sẽ ngã ngồi lên đít!"
Ngay cả vẹt
là thông minh hơn cái gọi là người thông thái của bạn.
Kikaku đã viết:
Trăng tròn toả
sáng!
Trên thảm sàn
tôi
Bóng thông đổ xuống.
Bao giờ cũng
quán tưởng những bài haiku này.
Trăng tròn
toả sáng! - và vì trăng tròn toả sáng, trên thảm sàn tôi bóng thông đổ xuống...
và im lặng sâu sắc, và phúc lạc vô cùng.
Những điều
này không được nói ra. Chúng phải được hiểu bằng quán tưởng.
Lần sau có
trăng tròn, cứ quan sát bóng cây đổ xuống sàn nhà bạn. Chúng không quấy rối
ngay một hạt bụi nhỏ. Chúng có đó, nhưng gần như vắng mặt - cũng như người đã
thức tỉnh. Người đó ở đây, nhưng bạn cũng có thể nói người đó ở mọi nơi.
Bạn có thể
nói về người thức tỉnh rằng sự có mặt của người đó và sự vắng mặt của người đó
là trong những phần tương đương - toán học cao cấp hơn cho những người đang đi
tìm cực đỉnh cao nhất, cách diễn đạt cao nhất về tính tiềm năng của họ.
Trăng không
muốn tạo ra bóng theo bất kì cách nào, thông cũng không quan tâm tạo ra bóng,
chiếu trên sàn nhà bạn cũng không quan tâm tới việc giữ những cái bóng đó.
Chúng tới, chúng đi, chúng di chuyển cùng trăng. Không cái gì quan tâm... nhưng
mọi thứ đang xảy ra im lặng thế và đẹp thế.
Với người đi
tới chính con người mình, sự sống trở thành giống như điều đó: mọi thứ xảy ra
im lặng thế, an bình thế. Thậm chí không có một rối loạn nhỏ trong bụi.
Câu hỏi thứ nhất
Maneesha đã hỏi
một câu hỏi:
Thưa thầy kính
yêu của chúng tôi,
Tôi đã hiểu rằng
nhân chứng là tâm thức thuần khiết, không bị ảnh hưởng bởi thân thể và tâm trí
mà nó cư ngụ tạm thời trong đó. Cho nên, điều thứ nhất: Làm sao các nét nhân
cách và các ước định còn dai dẳng từ kiếp này sang kiếp khác?
Và điều thứ hai:
Chẳng phải điều làm chúng tôi thành những cá nhân duy nhất là có sự liên tục
sao?
Maneesha, đầu
tiên bạn phải hiểu rằng bạn không chỉ có thân thể gồm thịt xương và máu này,
không chỉ bộ não này là một phần của thân thể. Đằng say não bạn có tâm trí -
tâm trí đó là trừu trượng - và đằng sau thân thể bạn có thể tinh tú. Từ `astral-tinh
tú' bắt nguồn từ các ngôi sao; nó ngụ ý ánh sáng... Thay vì thịt hay xương, chỉ
một thể được làm bằng ánh sáng. Thể ánh sáng này, thể tinh tú, có tâm trí trong
nó.
Khi bạn chết,
thể vật lí của bạn và tâm trí vật lí của bạn bị bỏ lại sau. Nhưng thể tinh tú
du hành cùng bạn, với tâm trí, với mọi việc ghi nhớ về kiếp quá khứ và thân thể,
việc nhớ mọi vết sẹo và vết thương mà đã xảy ra cho thể vật lí. Hiện tượng trừu
tượng này du hành cùng bạn; ẩn bên trong nó là trung tâm tồn tại, tối thượng của
bạn.
Chừng nào bạn
chưa biết tới trung tâm này, bạn sẽ phải du hành liên tục từ thân thể này sang
thân thể khác. Bạn đã từng du hành trong hàng nghìn kiếp, thu thập ngày càng
nhiều kí ức trong thể tinh tú của bạn. Mặc dầu trung tâm của bạn không bị ảnh
hưởng, nó bị bao quanh bởi thể tinh tú, và thể tinh tú liên tục chuyển từ bụng
mẹ sang bụng mẹ, từ nấm mồ sang nấm mồ. Đó là tính cá nhân của bạn; nó có sự
liên tục. Nhưng sự liên tục này đi tới chấm dứt khi bạn trở thành Phật.
Khi bạn
xuyên thấu sâu vào trung tâm, bạn cũng xuyên qua phần thể tinh tú, làm ra con
đường đi qua tâm trí, ra ngoài tâm trí, đi qua thể tinh tú và ra ngoài thể tinh
tú, tới trung tâm của con người bạn. Một khi bạn đã đạt tới trung tâm của con
người bạn, sự liên tục của tính cá nhân của bạn dừng lại. Bây giờ bắt đầu là sự
tồn tại vũ trụ. Bạn sẽ không đi vào bụng mẹ khác lần nữa, và bạn sẽ không bị
thiêu trên dàn hoả thiêu khác lần nữa. Bây giờ bạn sẽ là một với cái toàn thể.
Tất nhiên, mọi
thứ đều có giá. Bạn sẽ phải bỏ tình yêu mến lâu dài với tính cá nhân. Bạn đã
yêu tính cá nhân của bạn trong hàng triệu năm, nhưng tính cá nhân của bạn tại
giai đoạn cuối cùng là cản trở.
Bây giờ lấy
cú nhảy ra khỏi sự liên tục và trở thành một với cái toàn thể đi. Bạn sẽ biến mất
hệt như giọt sương trong đại dương. Nhưng trở thành tính đại dương, trở thành
càn khôn là phúc lạc tối thượng, là cực lạc sâu sắc nhất. Bạn sẽ không bao giờ
hối hận rằng bạn đã đánh mất tính cá nhân của bạn.
Tính cá nhân
của bạn đã là gì?
Bạn đã bao
giờ nghĩ chưa?
Tính cá nhân
của bạn đã là nhà tù ánh sáng, cái đã mang bạn từ bụng mẹ này, đi qua nấm mồ, tới
bụng mẹ khác, và lặp đi lặp lại cùng điều. Đó là lí do tại sao ở phương Đông họ
gọi nó là vòng sinh tử. Nhảy ra khỏi vòng này là toàn thể mục đích của thiền -
đi ra khỏi sự liên tục này, cái đã chỉ là nỗi khổ, lo âu và đau khổ sâu, và biến
mất vào trong trời xanh.
Biến mất này
không phải là cái chết của bạn. Biến mất này làm cho bạn thành một với cái toàn
thể. Và là một với cái toàn thể là niềm vui lớn lao nhất, phúc lạc lớn lao nhất.
Không cái gì là ý nghĩa hơn, đầy huy hoàng hơn, oai nghiêm hơn. Ở đây mọi chư
phật đã biến mất trong vĩnh hằng tối thượng của sự tồn tại. Nó là tự do khỏi
tính cá nhân, tự do khỏi bản thân bạn.
Bạn đã biết
tự do khỏi người khác, nhưng bạn không nhận ra rằng bạn vẫn là nô lệ của tính
cá nhân riêng của bạn. Nó là chiếc lồng... nó có thể là bằng vàng.
Mở lồng ra
và bay ngang qua mặt trời vào trong bầu trời xanh và biến mất, không để lại bất
kì dấu chân nào, bất kì dấu vết nào đằng sau.
Điều này Phật
Gautam thường gọi là anatta, không cái ngã, không tâm trí, không bạn, không
tôi. Điều này thực ra có thể được nói theo cách khác...
Tôi đã kể
cho bạn về Kabir, một trong những nhà huyền bí vĩ đại của Ấn Độ. Khi ông ấy còn
trẻ ông ấy đã trở nên chứng ngộ, và ông ấy đã viết một bài thơ nhỏ, trong đó
dòng đầu viết là: Giọt nước đã biến mất trong đại dương.
Khi ông ấy sắp
chết, ông ấy gọi con trai mình Kamaal tới và bảo anh ta đổi dòng đó. Kamaal
nói, "Nó hay thế - giọt sương đã biến mất trong đại dương. Sao bố đổi nó?
Và cái gì là cái thay thế?"
Kabir nói,
"Đây là hơi thở cuối cùng của bố; đừng cãi, đơn giản làm điều bố nói. Thay
vì vậy con viết: Đại dương đã biến mất trong giọt sương. Điều đó đã là ấn tượng
đầu tiên của bố, đây mới là ấn tượng cuối cùng." Và ông ấy nhắm mắt lại.
Nhưng cả hai
ấn tượng này đều hay. Lúc ban đầu, tất nhiên, bạn sẽ thấy giọt sương đang biến
mất vào trong đại dương. Nhưng chung cuộc bạn sẽ nhận ra đại dương đã biến mất
trong giọt sương.
Bây giờ là
lúc dành cho Sardar Gurudayal Singh.
Cô Goodbody
nói với lớp vào một buổi chiều, "Được, các con, người cho cô câu trả lời
đúng cho câu hỏi sau có thể về nhà ngay."
Lập tức, Bé
Albert ném cặp ra khỏi cửa sổ.
"Ai làm
điều đó?" Cô Goodbody nạt nộ, bực mình.
"Con
làm ạ!" Albert nói. "Gặp cô mai nhé!"
Paddy quyết
định rằng giờ là lúc đi kiếm việc toàn thời. Một xưởng làm salami mới đã mở
trong thị trấn, cho nên anh ta tới xin việc. Anh ta lấy đơn xin, và anh ta gặp
Mussolini McVey, người quản lí.
"Bây giờ,
ông Murphy," Mussolini nói, "chúng tôi đã nhận nhiều đơn xin làm những
việc này, cho nên chúng tôi đã đưa vào hai câu hỏi kiểm tra trí thông minh. Mai
anh tới với đơn xin và câu trả lời cho các câu hỏi này."
Ở nhà, Paddy
nhìn vào đơn.
Câu hỏi 1 viết:
Có bao nhiêu second (giây-thứ hai) trong một năm? Câu hỏi 2 đọc: Bao nhiêu ngày
của tuần bắt đầu bằng chữ "T"?
Sáng hôm
sau, Paddy đi tới cuộc phỏng vấn của mình tại thời gian đã hẹn.
"Xin
chào, ông Murphy," Mussolini McVey nói. "Và câu trả lời của ông là gì
cho câu hỏi thứ nhất - Có bao nhiêu giây trong một năm?"
"Không
vấn đề gì, thưa ngài," Paddy nói. "Câu trả lời là mười hai."
"Mười
hai à?" Mussolini hỏi. "Ông có được số đó thế nào?"
"Dễ,"
Paddy đáp. "Thứ hai của tháng giêng... thứ hai của tháng hai...!"
"Được,
được ông Murphy," McVey nói. "Về câu hỏi hai thì sao: Bao nhiêu ngày
của tuần bắt đầu bằng `T'?"
"Không
vấn đề gì, thưa ngài," Paddy nói. "Câu trả lời là hai."
"Rất tốt,"
McVey nói. "và nhân tiện, chúng là gì?"
"Dễ,"
Paddy đáp. "Today and tomorrow (hôm nay và ngày mai)."
Anh nông dân
Scrumpy đã ở trong thành phố suốt vài ngày, và khi anh ta quay về, người làm được
thuê của anh ta ra đón anh ta tại ga xe lửa trong nông trại cổ Ford.
"Mọi sự
thế nào, Homer?" Scrumpy hỏi.
"À,
cũng làng nhàng," Homer đáp.
"Có cái
gì nhiều xảy ra khi tôi đi không?" Scrumpy hỏi, vừa trèo lên xe.
"Chẳng
có gì mấy mà nói," Homer đáp, vừa lái xe đi. "Con chó đi khập khiễng
một chút."
"Thực
à?" Scrumpy hỏi.
"Vâng,"
Homer nói.
"Chuyện
đó xảy ra thế nào?" Scrumpy hỏi.
"Thế
này," Homer giải thích, "Tôi đoán con ngựa già đã làm một kiểu điên rồ,
chạy ra khỏi chuồng, chạy nửa tốc lực, vào giữa đêm, và đá nó."
"Con ngựa
sao?" Scrumpy kêu lên. "Chạy nửa tốc độ sao?"
"Vâng,"
Homer giải thích. "Khi chuồng bị cháy và mọi rơm bốc khói, con ngựa lấy tốc
độ tối đa."
"Thực
thế à?" Scrumpy kêu lên. "Chuồng bị cháy à?"
"Vâng,"
Homer đáp. "Tôi đoán vài tia lửa phải đã nhảy từ nhà để làm cháy nó. Tôi
thoát ra khỏi nhà vừa đúng lúc."
"Thực
thế à?" Scrumpy kêu lên. "Nhà bị cháy sao? Anh đã thoát ra thế
nào?"
"Thế
này," Homer giải thích, "vợ ông đá tôi ra khỏi giường và đánh thức
tôi dậy!"
"Thực
thế à?" Scrumpy quát lên. "Anh đã ở trong giường với vợ tôi
sao?"
"Vâng!
Chúng tôi đã uống uytski nhà làm của ông."
"Thực
thế à?" Scrumpy quát lên. "Anh đã uống uytski của tôi và ở trong giường
của tôi cùng với vợ tôi à? Cô ấy giờ đâu rồi?"
"Thế
này," Homer giải thích, "cô ấy bị rán giòn trong lửa, nhưng đừng lo!
Tôi đã cứu được uytski!"
"Ơn trời!"
Scrumpy kêu lên. "Còn cái gì khác nữa xảy ra không?"
"Không,"
Homer giải thích, "nó đã là ngày cuối tuần khá yên tĩnh!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng...
Nhắm mắt lại...
Cảm thấy
thân thể bạn hoàn toàn bị đông cứng.
Đây là khoảnh
khắc đúng để nhìn vào trong, với toàn bộ tâm thức của bạn, với toàn bộ sinh lực
của bạn, và với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của bạn
trên thế gian.
Đi ngày càng
sâu hơn, xuyên thấu mọi tầng.
Khi bạn đi
sâu hơn, bạn sẽ thấy im lặng sâu giáng xuống bạn.
Sâu hơn...
an bình lớn đi qua hiểu biết.
Tĩnh lặng
hơn, sâu hơn... và hoa bắt đầu trút xuống bạn với hương thơm bạn chưa bao giờ
biết.
Tại chính
trung tâm của con người bạn, bạn sẽ thấy bản thân bạn - không là cách bạn đã biết
cho tới giờ, mà theo cách mới toàn bộ. Bạn sẽ thấy bản thân bạn là một trong
các chư phật, tỉnh táo, thức tỉnh.
Và vị phật
chỉ có một phẩm chất: chứng kiến.
Bây giờ chứng
kiến: thân thể không là bạn, tâm trí không là bạn - ngay cả thể tinh tú cũng
không là bạn. Không
im lặng,
không an bình, không hương thơm nào là bạn. Chúng tất cả ở quanh bạn, nhưng bạn
chỉ là nhân chứng.
Phẩm chất
duy nhất của bạn mà là vĩnh hằng là việc chứng kiến.
Để làm cho
nó rõ ràng, Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh
thơi...
Buông bỏ,
nhưng vẫn còn là nhân chứng, vẫn còn là vị phật.
Khoảnh khắc
này, bạn là người được phúc lành nhất trên trái đất. Mười nghìn chư phật đang
tan ra, tan biến, và Thính phòng Phật đã trở thành đại dương tâm thức.
Uống thật
nhiều như bạn có thể từ nước cam lồ thiêng liêng này, và thuyết phục vị phật tới
cùng bạn. Ông ấy đã từng ẩn bên trong bạn trong hàng nghìn kiếp. Bảo ông ấy đi
ra ngoại vi, tới chu vi của cuộc sống của bạn. Lấy nước từ giếng, chẻ củi, phật
phải hiện diện mọi khoảnh khắc - thức hay ngủ.
Ngày chu vi
và trung tâm của bạn trở thành một sẽ là ngày vĩ đại nhất của cuộc đời bạn. Sự
liên tục của sinh và tử của bạn sẽ biến mất. Bạn sẽ được chứng ngộ.
Và khi bạn sẽ
bỏ thân thể này, tâm trí này... với thân thể này và tâm trí này bạn cũng sẽ bỏ
thể tinh tú của bạn, tâm trí bên trong của bạn. Bạn sẽ trở thành chỉ là giọt
sương - hoặc biến mất trong đại dương, hoặc đại dương biến mất trong giọt
sương. Đây là đỉnh tối thượng của tiến hoá con người. Toàn thể sự tồn tại đang
chờ đợi nó.
Bất kì khi nào
một người trở thành một với cái toàn thể, toàn thể sự tồn tại nhảy múa, ca hát,
trút hoa xuống, mở hội.
Thu lấy thật
nhiều như bạn có thể trước khi Nivedano gọi bạn quay lại. Thuyết phục vị Phật...
Nó là cốt lõi bên trong nhất của bạn, nó không là độc quyền của bất kì ai khác.
Cầm tay ông ấy, chỉ cho ông ấy con đường, con đường vàng mà bạn đã đi tới trung
tâm.
Bây giờ đừng
tới một mình. Tới cùng với vị Phật đi theo bạn. Ông ấy phải trở thành cuộc sống
mọi ngày của bạn, việc thở của bạn, nhịp tim đập của bạn. Ông ấy phải hát cùng
bạn, ông ấy phải múa cùng bạn.
Việc hiện hữu
của ông ấy cùng bạn khắp mọi lúc sẽ làm cho cuộc sống của bạn là lễ hội liên tục.
Nivedano...
(tiếng trống)
Tới đi...
nhưng không tới một mình.
Tới như vị
Phật: một cách an bình, im lặng, với duyên dáng lớn.
Ngồi trong
vài phút chỉ để nhớ nơi bạn đã ở, chỉ để nhắc bạn về sự huy hoàng bên trong của
bạn, im lặng lớn lao bạn đã đương đầu, và vị Phật đã tới như cái bóng đằng sau
bạn. Từng ngày ông ấy đang tới ngày càng gần bạn hơn.
Ngày bạn và
vị Phật tan biến vào lẫn nhau, bạn được thức tỉnh, bạn được chứng ngộ.
Đây là tôn
giáo thực.
Đây là tâm
linh đích thực.
Nó không phụ
thuộc vào bất kì tổ chức hay nhà thờ nào. Nó tuyệt đối là cuộc hành trình bên
trong của bạn hướng tới nhà bạn. Nó đang nhớ lại ngôn ngữ đã bị quên.
Và nếu một
người có thể trở thành Phật, đó là bằng chứng rằng mọi người có thể trở thành
Phật.
Một hạt mầm
làm cả trái đất xanh.
Được chứ,
Maneesha?
Vâng, thưa Osho kính yêu.
Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục lục
..............................
0 Đánh giá