Chương 5. Chuyến bay tới mặt trời

Chương 5. Chuyến bay tới mặt trời

Price:

Read more

Chính thân này là phật - Osho

Bài nói về Bài ca Thiền của Bạch Ẩn

Chương 5. Chuyến bay tới mặt trời



Powered by RedCircle


Câu hỏi thứ nhất:

Thôi thúc sáng tạo là gì?

Thôi thúc sáng tạo là khuấy động đầu tiên của điều thiêng liêng bên trong bạn. Thôi thúc sáng tạo là sự hiện diện của Thượng đế. Bạn có thông điệp đầu tiên, gợn sóng đầu tiên đã lan tới bạn. Nó là bắt đầu và việc sinh của lời cầu nguyện. Hãy đi theo nó đi. Có tính sáng tạo là có tính tôn giáo. Điều bạn sáng tạo không thành vấn đề - bạn sáng tạo mới là vấn đề. Trong chính tính sáng tạo đó, cái gì đó bắt đầu xảy ra mà không thuộc thế giới này.

Khi bạn sáng tạo, bạn bị mất hút trong sáng tạo của bạn. Chẳng hạn, nếu bạn đang vẽ hay hát hay chơi nhạc cụ hay nhảy múa, bạn bắt đầu biến mất. Điệu vũ là thực khi người múa không còn nữa. Nếu người múa vẫn có đó, thế thì nó không phải là hành động sáng tạo, thế thì nó nhiều nhất là kĩ năng. Kĩ thuật viên có đó nhưng không có người múa - người biết cách múa có đó nhưng không có người múa. Vì người múa không biết cái gì; người múa vẫn còn trong trạng thái không biết. Người đó quên mọi kĩ năng của mình, người đó quên mọi kĩ thuật mà người đó đã học, người đó quên bản thân mình, người đó hoàn toàn bị mất đi. Người đó ở trong tay của Thượng đế. Người đó thậm chí không thể nói 'Tôi đang múa' - người đó chỉ có thể nói 'Thượng đế đã lấy quyền sở hữu từ tôi, tôi bị sở hữu. Thượng đế đang múa trong tôi. Tôi là cánh đồng, nơi Thượng đế đang múa, tôi là trúc hổng và Thượng đế đang hát. Ngài đã làm ra chiếc sáo từ tôi.'

Người sáng tạo biết Thượng đế. Chỉ người sáng tạo mới biết Thượng đế. Và mọi lời cầu nguyện khác mà bạn liên tục làm trong đền chùa và nhà thờ là bất lực, vô nghĩa, chừng nào cuộc sống của bạn chưa học cách sáng tạo. Thế thì không lời cầu nguyện nào khác được cần. Thế thì chính hiện tượng về tính sáng tạo đủ là tôn giáo cho bạn. Nhiều hơn điều đó là không cần thiết - bạn không cần đi tới bất kì nhà thờ nào, bất kì đền chùa nào, bất kì thánh đường Do Thái nào, bất kì thánh đường hồi giáo nào. Bạn phải đi vào trong tính sáng tạo.

Câu hỏi này được hỏi bởi Gyan Bhakti. Cô ấy là người sáng tạo. Do đó câu hỏi này đã nảy sinh trong cô ấy - 'Thôi thúc sáng tạo này là gì?' Cô ấy bị sở hữu bởi ham muốn đó. Tôi đã thấy điều đó trong cô ấy, ngọn lửa. Cô ấy muốn bùng nổ theo nhiều nhiều cách, cô ấy muốn sáng tạo. Thượng đế đã gõ cửa cô ấy. Nhưng khi cái gõ tới, điều tự nhiên là không hiểu nó, vì chúng ta không bao giờ nghe thấy nó trước đây. Nó mới thế, nó không thể được thu về tâm trí cũ của chúng ta. Nó đang tới từ cái không biết - không có cách nào để hình dung ra nó, nó là gì. Do đó có câu hỏi này.

Hãy đi cùng cái không biết đi, đi cùng cái mới đi. Bao giờ cũng nhớ: Nếu có chọn lựa giữa cái cũ và cái mới, hãy chọn cái mới. Dù nó nguy hiểm thế nào, dù nó bất an ninh thế nào, hãy chọn cái mới. Và bạn bao giờ cũng sẽ đi ngày càng gần hơn tới Thượng đế. Chọn cái cũ, và bạn sẽ đi xa khỏi Thượng đế. Chọn tâm trí cũ, và sớm hay muộn bạn sẽ trở thành có tính phá huỷ. Và đây là hai cách duy nhất để sống: hoặc có tính sáng tạo hoặc có tính phá huỷ. Không có khả năng khác, không có khả năng thứ ba. Nếu năng lượng của bạn không chuyển vào trong sáng tạo, chúng sẽ vẫn chuyển, nhưng thế thì chúng sẽ trở thành có tính phá huỷ. Phá huỷ là tính sáng tạo đứng lộn đầu; cái gì đó đã đi sai, cái gì đó đã lấy lối rẽ sai.

Mọi người có tính phá huỷ có thể đã là người sáng tạo lớn. Nhưng nếu năng lượng này không được phép, bạn trở nên sợ và kinh hãi với cái mới. Và khi tính sáng tạo sở hữu bạn, điều đó là sợ hãi. Nó có vẻ khủng khiếp, nó là mội loại kinh sợ. Nó đem bạn đi xa khỏi cái biết của bạn và cái quen thuộc. Nó đem bạn tới biển chưa thăm dò, không có bất kì bản đồ nào. Nó là nguy hiểm. Người ta co lại khỏi nó.

Nhưng một khi bạn bắt đầu co lại khỏi nó, bạn sẽ làm gì với năng lượng của bạn mà Thượng đế liên tục rót vào trong bạn? Cái gì đó phải được làm. Năng lượng này không thể chờ đợi, năng lượng này cần việc diễn đạt. Cho nên nếu bạn né tránh tính sáng tạo, bạn sẽ trở nên có tính phá huỷ.

Bất kì khi nào tính sáng tạo gọi bạn, hãy đi cùng nó đi. Nó là Thượng đế đang gọi bạn.

Câu hỏi thứ hai:

Tại sao có nhiều hiểu lầm thế trên thế giới?

Vì mọi người là vô ý thức. Vì mọi người ngủ say. Vì mọi người là robot. Trao đổi là không thể được; bạn nói cái gì đó, cái gì đó khác sẽ được hiểu. Không có cách nào để trao đổi. Cách duy nhất để trao đổi là trong yêu, qua im lặng. Nhưng không ai biết ở trong yêu và không ai biết cách ở trong im lặng.

Chỉ trong yêu và im lặng, trao đổi là có thể. Nhưng chúng ta không trong yêu và chúng ta không im lặng. Chúng ta đầy tri thức thế, đó là lí do tại sao trao đổi là không thể được. Ngôn ngữ là một trong những lí do tại sao có nhiều hiểu lầm thế trên thế giới. Không có hiểu lầm trong con vật và trong cây và trong chim, vì ngôn ngữ không tồn tại. Chúng là may mắn - chúng không biết bất kì cái gì về ngôn ngữ, cho nên chúng trao đổi trong yêu, trong im lặng. Việc câm của chúng là phúc lành lớn cho chúng. Con người là con vật duy nhất không câm, có thể nói. Và chính hiện tượng này là vấn đề.

Có một nguyên lí có tính tồn tại: Sự tồn tại đi trước điều bản chất. Một phát biểu đơn giản rằng bạn được sinh ra trước, rằng bạn được sinh ra mà không có bất kì bản tính bên trong nào, rằng bạn được sinh ra là tabula rasa - phiến đá sạch. Không cái gì được viết lên bạn, việc viết tới về sau. Bạn được sinh ra như sự tồn tại thuần khiết không bản chất nào, không chương trình dựng sẵn nào, không định mệnh nào. Bạn tới trong thế giới mà không biết bạn là ai. Bạn là không ai cả, khi bạn tới trong thế giới này, trống rỗng thuần khiết. Và thế rồi bằng hành động của bạn, bằng việc làm của bạn, bạn bắt đầu xác định ra bản thân bạn. Bản chất tới sau bởi nỗ lực riêng của bạn. Một phát biểu đơn giản và phát biểu hay.

Nhưng tôi đã bắt gặp nhiều cách diễn giải về câu đơn giản này mà chỉ gồm ba từ: Sự tồn tại đi trước bản chất. Diễn giải thứ nhất tôi đã bắt gặp là, với một số người ý tưởng này trở nên được dịch thành: Không cái gì là có thể cho con người, vì con người là trống rỗng. Và con người không có bản tính bản chất, cho nên không có định mệnh để được hoàn thành. Rằng con người là ngẫu nhiên, rằng sự sống không có nghĩa, rằng sự sống là vô vọng hoàn toàn.

Hạt mầm có nghĩa vì nó có chương trình dựng sẵn rằng nó phải trở thành cây - rằng nó phải đạt tới loại quả và hoa nào đó, rằng nó phải vươn lên trời, rằng nó phải là cái này và cái nọ. Hạt mầm có chương trình dựng sẵn - đó là lí do tại sao có hi vọng và có nghĩa, và hạt mầm có thể tin cậy rằng cái gì đó sẽ xảy ra. Và hạt mầm không phải là ngẫu nhiên, vì có định mệnh.

Đây là một diễn giải - rằng con người là ngẫu nhiên, không có bản tính, là thứ vô hi vọng. Sartre nói con người là niềm đam mê vô dụng. Không có khả năng nào cho bất kì ý nghĩa nào trong cuộc sống của con người. Với một số người khác, nó mang hi vọng, vì ý tưởng này được dịch thành: Mọi thứ là có thể cho con người vì không có bản tính, do đó không có biên giới. Và họ tìm thấy trong nó hi vọng và tự do lớn.

Bây giờ diễn giải khác đi ngược lại với diễn giải thứ nhất. Diễn giải khác nói: Vì không có bản tính bản chất, con người không là nô lệ. Hạt mầm là nô lệ. Hạt mầm xoài sẽ trở thành cây xoài, không có tự do. Con người có thể trở thành bất kì cái gì, con người có thể là bất kì cái gì, dù con người chọn là bất kì cái gì. Có khả năng chọn lựa. Cây xoài không thể chọn được, nó là nô lệ; không có hi vọng nào, nó chỉ là máy móc. Nó phải hoàn thành định mệnh nào đó; mọi thứ là được tiền định. Cho nên làm sao có thể có tự do và làm sao có thể có niềm vui? Và làm sao có thể có bất kì hi vọng nào trong nó? Nó là việc lặp lại máy móc. Từ hạt mầm xoài, cây xoài sẽ tới và từ cây xoài, hạt mầm xoài sẽ lại tới - và cứ như vậy mãi, đến vĩnh hằng, nó sẽ tiếp tục mãi. Và sẽ không có bất kì cái gì khác. Đây là tình huống vô vọng. Tính lặp lại này là hoàn toàn chán.

Bây giờ cùng câu này lấy nghĩa mới, ngược lại với nghĩa thứ nhất. Nghĩa là ở chỗ con người là tự do. Rằng con người có thể là bất kì cái gì người đó chọn là vậy. Rằng con người là một loại Thượng đế. Rằng không ai quyết định cho con người, con người phải quyết định cho bản thân mình. Rằng quyết định của con người phải tới từ hồn riêng của người đó. Điều người đó định viết trên tabula rasa là việc viết riêng của người đó, sẽ có chữ kí riêng của người đó. Con người có tính cá nhân. Không cây xoài nào có bất kì tính cá nhân nào. Không con công nào có bất kì tính cá nhân nào - mọi con công là như nhau, và mọi cây xoài là như nhau. Nhưng con người có tính duy nhất, tính cá nhân. Có hi vọng lớn. Bây giờ thấy chưa? Nghĩa này đã biến thành chính cực đối lập.

Tôi cũng đã bắt gặp cách diễn giải thứ ba nữa. Với người khác nó ngụ ý: Mọi thứ là chấp nhận được với con người. Và với điều đó, họ bỏ mọi ngăn trở, họ trở thành phóng túng. Họ nói, 'Khi không có tự nhiên, khi không có cái gì như chương trình được cho sẵn cho con người, thế thì không cần bất kì đạo đức nào, không cần bất kì kỉ luật nào, không cần bất kì cái gì. Con người là hỗn độn và phải vẫn còn hỗn độn.' Thế thì không cái gì là tốt và không cái gì là xấu. Nếu có chương trình dựng sẵn, thế thì bạn có thể quyết định cái gì là tốt và cái gì là xấu.

Chẳng hạn, với cây xoài. Bạn có thể quyết định phân nào là tốt và phân nào là xấu, vì cây xoài có chương trình dựng sẵn, nó phải trở thành cây xoài. Bạn có thể quyết định phân nào sẽ giúp ích và phân nào sẽ không có ích, bao nhiêu nước được cần, bao nhiêu ánh mặt trời được cần, bao nhiêu không gian được cần. Bạn có thể tìm ra hình mẫu, kỉ luật cho cây. Hình mẫu và kỉ luật sẽ được quyết định bởi bản tính bản chất của cây.

Nhưng con người không có bản tính bản chất, cho nên bất kì cái gì cũng đều diễn ra. Con người là tự do - điều đó được diễn giải là: Con người không cần kỉ luật, con người được phép làm bất kì cái gì con người muốn làm. Adolf Hitler cũng tốt như Phật Gautam. Giết người cũng tốt như từ bi, yêu cũng tốt như ghét. Vì làm sao quyết định được cái gì là tốt và cái gì là xấu? Không có tiêu chí. Con người là một tabula rasa, con người là trống rỗng, không có cách nào để quyết định. Mọi thứ là tốt - giết người là tốt, tự tử là tốt, phá huỷ là tốt.

Bây giờ đây là một cách diễn giải khác toàn bộ. Và câu này là cùng một: Sự tồn tại đi trước bản chất. Và với điều này, họ bỏ đi mọi kiềm chế. Họ trở thành phóng túng, mê đắm. Và mê đắm này nhất định phá huỷ nhân loại, nhưng diễn giải này là có thể.

Và vẫn còn những cách diễn giải khác, có nghĩa thứ tư: Mọi thứ là được cho phép chống lại con người. Con người không có bản tính, cho nên bạn có thể uốn con người theo cách này hay cách nọ. Bạn có thể làm cho con người thành người lính hay thánh nhân hay tội nhân. Con người là trống rỗng, cho nên bạn có thể viết bất kì cái gì lên con người. Mọi thứ là được cho phép chống lại con người. Cho nên điều Adolf Hitler đã làm với hàng triệu người, đã chuyển họ thành robot - những người lính nazi đó đã là robot, họ được huấn luyện để là máy chứ không là người - điều đó là được cho phép. Và Phật đã biến hàng nghìn người thành sannyasins, đã mang họ ra khỏi tính máy móc của họ vào trong tâm thức. Mọi thứ là tốt - Phật đang làm việc của mình và Adolf Hitler đang làm điều của ông ấy và không có tiêu chí phán xét.

Ngôn ngữ dường như là phương tiện của trao đổi nhưng nó không phải vậy. Bạn nói cái gì đó và ngay lập tức bạn sẽ bị diễn giải sai. Bạn nói cái gì đó và bạn sẽ ngạc nhiên rằng mọi người đã nhận những nghĩa xa xôi thế; bạn thậm chí đã không mơ về chúng, bạn thậm chí đã không nghĩ về chúng. Một khi bạn nói cái gì đó, bạn không còn là người chủ của nó. Thế thì bất kì ai bắt được nó, sẽ có nghĩa riêng của người đó, sẽ nặn ép nghĩa riêng của người đó từ nó. Và bạn bất lực, bạn không thể làm được bất kì cái gì.

Ngôn ngữ không phải là phương tiện đúng cho trao đổi. Nhưng mọi người không biết im lặng, cho nên không có cách khác. Ngay cả Phật cũng phải nói, hay Lão Tử - ông ấy phải dùng lời mà là không thích hợp, nguy hiểm. Ngày Phật chết, các đệ tử của ông ấy chia ra thành ba mươi sáu tông phái. Ngay ngày ông ấy chết - dường như họ chỉ đợi. Ba mươi sáu nghĩa cho từng khẳng định của Phật. Về Bhagavad Gita của Krishna có một nghìn bình chú - một nghìn nghĩa cho từng phát biểu của Krishna. Nếu Krishna quay lại và đọc những bình chú này ông ấy sẽ phát điên. Ông ấy sẽ không có khả năng quan niệm được cái gì đã xảy ra. Ông ấy đã nói cho đệ tử của ông ấy và bạn của ông ấy, Arjuna. Nó đã là đối thoại đáng yêu. Và một nghìn nghĩa sao? Và mười nghìn nữa cũng là có thể.

Tôi đã đọc tự truyện của Michael Adam. Ông ấy viết: 'Khi là đứa trẻ, tôi đã được cho hai mươi sáu viên gạch bằng gỗ, mỗi viên được vẽ sáng rõ bằng một chữ cái trong bảng chữ cái. Một thầy giáo kiên nhẫn đã dạy tôi làm ra từ, cố gắng hơn để làm cho tôi thấy, như người lớn vẫn làm, rằng bốn chữ cái C-H-I-M làm ra con chim, rằng từ này là vật này, con chim thực, con chim có ngực đỏ, ca sĩ bạo dạn trong tuyết. Điều đó đã chỉ giả tạo. Thậm chí tôi biết rằng điều đó chỉ là giả tạo. Gạch có thể bị vung vãi đi. Mầu của chúng là giả. Không có bay và không bài ca...'

Nhưng từ trở thành vật, sớm hay muộn thôi. Từ 'Thượng đế' đã trở thành Thượng đế và bạn đã quên Thượng đế thực. Từ 'yêu' đã trở thành yêu và bạn đã quên yêu thực. Từ trở thành ngày càng quan trọng hơn, mọi người trở nên bị thôi miên bởi lời. Vâng, khó mà lừa được đứa trẻ, vì nó có thể thấy sự giả tạo. Nhưng nó sẽ có thể thấy được sự giả tạo này bao lâu? Đứa trẻ là tươi tắn - nó nhìn vào những viên gạch kia, viên gạch mầu sắc, và bạn đã làm ra từ, từ chúng. Và cô giáo đang nói, 'Bây giờ trông đây: ch-i-m, chim. Đây là chim, chim ngực đỏ.' Mm? Để giải thích cho đứa trẻ, nó phải nói những thứ này. 'Chim ngực đỏ, ca sĩ bạo dạn trong tuyết.' Và đứa trẻ mỉm cười - nó biết rằng đây chỉ là thủ đoạn. Không có chim thực ở đó và những mầu này là giả. Và con chim thực này không thể hót và không thể bay và những viên gạch này có thể bị vung vãi đi. Không có người nào đằng sau nó, đó chỉ là trò chơi trống rỗng. Nhưng sớm hay muộn, nó cũng sẽ trở nên bị thôi miên bởi lời.

Ngôn ngữ là vấn đề cơ bản. Đó là lí do tại sao có nhiều hiểu lầm thế.

Nếu bạn muốn có hiểu biết, bạn sẽ phải bỏ ngôn ngữ. Bạn sẽ phải học cách giải thôi miên khỏi ngôn từ. Bạn sẽ phải gạt sang bên từ 'hoa hồng' và bạn sẽ phải nhìn hoa đỏ - có đó trên bụi cây, trong gió, trong mưa, trong ánh mặt trời. Và trong khi nhìn hoa hồng, đừng liên tục lặp lại 'Đây là hoa hồng' - bằng không bạn sẽ mang bức màn trên tai bạn, trên mắt bạn, trên con người bạn. Bạn sẽ không có khả năng nghe và thấy và cảm. Và đừng liên tục nói rằng đây là hoa hồng đẹp - 'đẹp' đó lại là từ. Hãy bỏ điều đó đi. hãy thấy cái đẹp là gì. Đừng liên tục dùng từ 'đẹp'; chỉ nhìn, xuyên thấu, đương đầu bản thân cái đẹp. Hoa hồng có đó - phỏng có ích gì mà dùng lời? Gạt lời sang bên. Dọn sạch lối chuyển giữa bạn và hoa hồng đang có đó. Và không so sánh nó với các hoa hồng khác mà bạn đã thấy trước đó. Bằng không bạn nói 'Vâng, đây là hoa hồng đẹp. Tôi đã thấy những hoa hồng đẹp như thế trước đây.' Hay 'Cái này còn đẹp hơn hoa hồng năm ngoái.' Hay 'Cái này đẹp hơn, hay ít đẹp hơn hoa hồng của hàng xóm.' Nhưng lần nữa, bạn bị lạc trong từ ngữ.

Hoa hồng này. Con chim này, con chim ngực đỏ này. Bạn chỉ nhìn, và quên mọi ngôn ngữ. Và trong việc quên ngôn ngữ đó, hiểu biết nảy sinh. Người ta phải không dùng lời để cho hiểu biết nảy sinh. Và thế rồi thỉnh thoảng bắt đầu trao đổi qua im lặng. Cầm tay người bạn, ngồi im lặng. Chỉ nhìn vào trăng, cảm trăng, và cả hai cùng cảm nó một cách im lặng. Và nhìn, có xảy ra trao đổi - không chỉ trao đổi mà giao cảm. Rằng tim các bạn bắt đầu đập theo cùng nhịp. Rằng bạn bắt đầu cảm thấy cùng không gian, rằng bạn bắt đầu cảm thấy cùng niềm vui, rằng bạn bắt đầu chờm lấp lên con người của nhau. Rằng có giao cảm. Rằng bạn đã nói mà không nói bất kì cái gì, và sẽ không có hiểu lầm.

Tôi phải dùng lời. Tôi bất lực. Ngày bạn có khả năng hiểu im lặng, sẽ không có nhu cầu cho tôi nói với bạn mọi ngày. Chúng ta có thể ngồi trong im lặng. Và điều đó sẽ là ngày đẹp - tôi đang chuẩn bị bạn cho điều đó. Cho dù tôi dùng lời, tôi dùng chúng chống lại lời - tôi dùng chúng theo cách mà chúng có thể tự tử trong bạn. Đó là lí do tại sao tôi phải mâu thuẫn. Đó là lí do tại sao tôi nói điều này khoảnh khắc này và mâu thuẫn với nó ngay lập tức - để cho không lời nào bắt rễ trong bạn. Để cho dần dần bạn bắt đầu hiểu rằng lời là vô nghĩa, nghĩa của chúng là giả tạo. Thế thì sẽ không có hiểu lầm.

Sau nhiều năm cố gắng, một người được Cổ tức hạng nhất về vốn đóng góp đá bóng. Tiền giải thưởng của anh ta lên tới hàng triệu pounds và một cách tự nhiên, anh ta hơi chút điên trong tuần thứ nhất hay hai, mua một căn hộ và một ngôi nhà miền quê, hai xe hơi và chiếc du thuyền. Thế rồi một hôm anh ta chạy xô vào trong hiệu da thú đắt nhất ở phố Bond và đặt bộ áo choàng và khăn choàng lông thú trị giá vài nghìn pound.

'Đây là đơn hàng rất lớn, thưa ngài,' nhân viên bán hàng nói.

'Vâng,' ông ta đáp. 'Tôi được Cổ tức hạng nhất trên vốn chung và tôi định làm ngạt vợ tôi trong lông thú!'

'Chẳng phải rẻ hơn nếu ông dùng gối sao?' nhân viên bán hàng nói.

Ba cô gái, một người Mĩ, một người Anh và một người Pháp, nộp đơn xin việc chiêu đãi viên hàng không, và được cho phép thử khởi đầu. Một trong những phép thử này bao gồm năng lực làm quyết định nhanh chóng, và ba cô gái được hỏi tiếp theo bởi người sát hạch: 'Giả sử,' anh ta nói, 'rằng cô đang bay qua quần đảo Polynesian và máy bay của cô phải hạ cánh xuống biển. Cô thấy bản thân mình một mình trong chiếc thuyền cứu sinh cao su hướng tới đảo. Khi cô lại gần hơn, cô thấy một đám đông thuỷ thủ Mĩ trên bờ đang quan sát việc cô đi vào. Cô sẽ làm gì?'

Cô gái Mĩ nói, 'Tôi sẽ quay đầu và chèo sang đảo khác.'

Cô gái Anh nói, 'Tôi sẽ tiến hành chèo thuyền, và khi tôi tới đảo, tôi sẽ hỏi xin gặp sĩ quan chỉ huy và báo cáo cho ông ấy.'

Và cô gái Pháp chẳng nói gì, nhưng có vẻ phân vân. 'Cô có hiểu câu hỏi này không?' người sát hạch hỏi.

'Ồ, có chứ,' cô ấy đáp. 'Nhưng vấn đề là gì?' Điều đó tuỳ bạn.

Một quí ông già nhưng nhân từ đang tiếp đãi một nhóm người, một số trong họ ông ấy đã không gặp trong thời gian lâu. Khi tất cả họ đang đứng quanh uống cocktails trước khi vào bữa tối, ông chủ đi từ người này sang người khác, làm các cuộc nói chuyện lịch sự. Trong quá trình làm như vậy, ông ấy tới một thanh niên mà ông ấy đã không nghe tin tức gì trong một số thời gian.

'Tôi thật vui sướng gặp anh,' ông ấy tươi cười. 'Và ông bạn cũ thân của tôi thế nào, bố anh?'

'Cháu rất tiếc phải nói với bác, thưa bác,' anh thanh niên nói, 'bố cháu mất sáu tháng trước rồi.'

Ông chủ diễn đạt sự thương tiếc sâu sắc và vào khoảnh khắc đó người quản gia công bố rằng bữa tối đã được phục vụ.

Sau bữa tối, ông chủ lại nhìn thấy anh thanh niên, đã quên hoàn toàn cuộc nói chuyện trước, lại hỏi một lần nữa về ông bạn già thân của mình, bố anh thanh niên này.

'Cháu rất tiếc thưa bác,' là câu trả lời, 'nhưng bố cháu vẫn chết.'

Ngôn ngữ tạo ra gần chín mươi chín phần trăm vấn đề. Triết học, thượng đế học, học thuyết, kinh sách, ý thức hệ chính trị - tất cả chúng đã tạo ra cả nghìn vấn đề. Và con người đang trong lẫn lộn, trong lẫn lộn lớn. Tất cả những ý thức hệ tranh đấu đó, là ở bên trong bạn. Mọi quá khứ, toàn thể quá khứ, quá khứ điên khùng, đang cố sở hữu bạn. Nó không phải là thuần nhất. Ki tô giáo ở trong bạn, Phật giáo ở trong bạn, chủ nghĩa cộng sản ở trong bạn, chủ nghĩa phát xít ở trong bạn - và tất cả chúng đang kéo bạn tách rời ra. Chính phép màu là làm sao con người liên tục giữ bản thân mình gắn lại cùng nhau.

Và trong trạng thái lẫn lộn này, khi bạn nghe cái gì đó, thứ nhất bạn không nghe đúng điều được nói. Thứ hai, bạn diễn giải nó tương ứng với quá khứ riêng của bạn. Và mọi thứ đi sai. Nếu bạn muốn tránh hiểu lầm, bạn sẽ phải học im lặng. Nếu bạn học im lặng, điều đầu tiên sẽ là ở chỗ bạn sẽ không bao giờ hiểu lầm bất kì người nào khác. Và đó là niềm vui lớn, không hiểu lầm bất kì người nào. Bạn sẽ trở thành người nghe tốt, bạn sẽ biết kiểu nghe đúng. Và mọi thứ sẽ trong như pha lê cho bạn. Sáng tỏ đó sẽ không tới từ logic, từ trí tuệ, từ phân tích; sáng tỏ đó sẽ tới qua im lặng. Nếu trong im lặng của bạn, lời của ai đó buột thốt ra, bạn không thể diễn giải nó, vì không có người nào để can nhiễu. Hoặc bạn hiểu hoặc bạn không hiểu, nhưng không có cách nào hiểu lầm. Hoặc bạn nói 'Vâng, tôi hiểu' hoặc bạn nói 'Tôi không hiểu.' Nhưng không có cách nào để hiểu lầm.

Hiểu lầm là gì? Hiểu lầm không là hiểu, không là không hiểu. Nó là việc trộn lẫn, nó là hẩu lốn. Và nó tạo ra nhiều lẫn lộn hơn trong bạn - người càng am tường, càng nhiều lẫn lộn. Người càng am tường, càng ít có khả năng hiểu bất kì cái gì.

Hãy học im lặng đi. Và ít nhất với bạn bè của bạn, với người yêu của bạn, với gia đình của bạn... Và đây là gia đình của bạn, gia đình mầu cam. Ở đây, thỉnh thoảng ngồi trong im lặng. Đừng liên tục buôn chuyện, đừng liên tục nói. Hãy dừng nói, và không chỉ ở bên ngoài - hãy dừng nói cả bên trong. Hãy ở trong khoảng hở. Chỉ ngồi đó, không làm gì, chỉ hiện diện lẫn nhau. Và bạn sẽ sớm bắt đầu tìm ra cách trao đổi mới. Và đó là cách thức đúng.

Người ta nói về Mahavira - một câu chuyện kì lạ nhưng hay và có nghĩa - rằng khi ông ấy trở nên chứng ngộ, ông ấy vẫn còn im lặng. Điều đó tạo ra nhiều vấn đề, vì ông ấy đã đạt tới và chính bổn phận của ông ấy là chia sẻ nó. Khi bạn đã đạt tới, bạn phải chia sẻ nó. Điều bản chất của đạt tới là chia sẻ. Đó là lí do tại sao Phật đã nói, và cả Christ và Lão Tử. Mahavira đã giữ im lặng, ông ấy đã tìm thấy cách khác. Có thể đó là lí do tại sao tôn giáo của ông ấy không bao giờ trở thành tôn giáo thế giới. Những người đi theo ông ấy còn lại rất ít - ngay cả bây giờ chỉ có ba mươi nghìn người Jaina. Điều đó không là gì cả - sau hai nghìn năm trăm năm, chỉ ba mươi nghìn người. Điều đó ngụ ý nếu Mahavira đã chuyển đạo chỉ cho ba mươi đôi, điều đó chắc đã được làm xong - rằng nhiều người chắc đã là người Jaina. Ông ấy đã không thể chuyển đạo được cho nhiều người. Và lí do là gì? Ông ấy đã muốn giao cảm qua im lặng, ông ấy vẫn còn yên tĩnh. Và cách thức ông ấy đã tìm ra là kì lạ nhưng hay. Nó không thể chứng minh hiệu quả lắm, vì rất khó nói qua im lặng trong thế giới điên này. Ông ấy đã thất bại, nhưng thực nghiệm này đáng được thử.

Ông ấy đã làm gì? Ông ấy đã chuẩn bị vài người cho im lặng, để hiểu ông ấy trong im lặng. Ông ấy sẽ ngồi im lặng, và chỉ vài người đó, người đã học cách lắng nghe im lặng của ông ấy, sẽ hiểu điều ông ấy ngụ ý. Và họ sẽ nói điều đó cho mọi người. Nhưng thế thì vấn đề lại nảy sinh. Ông ấy sẽ không nói - ông ấy là người kì lạ, ông ấy nghĩ nói là một loại phản bội. Vì bất kì cái gì bạn nói đều sẽ là hiểu lầm - thế thì bạn trở thành nguyên nhân của hiểu lầm. Bất kì cái gì bạn nói sẽ chỉ là đúng một nửa, vì chân lí toàn thể không thể được thu lại thành lời. Cho nên bạn sẽ phá huỷ chân lí. Và ông ấy không phải là người làm điều đó, ông ấy giữ yên tĩnh. Chỉ vài đệ tử, những người đã học cách giao cảm với ông ấy trong im lặng,ẽ ngồi im lặng ở đó, lắng nghe im lặng của ông ấy - sẽ cảm thấy điều ông ấy muốn, điều ông ấy cảm, điều ông ấy biết, và sẽ đi tới mọi người và nói cho họ.

Nhưng điều đó vô ích. Bây giờ những người này, người nói cho người khác, đã bị hiểu lầm. Cho nên vấn đề là gì? Đích thân ông ấy có thể đã nói nó - chắc đã ít bị hiểu lầm hơn, vì sức mạnh của Mahavira chắc đã có đó. Bây giờ, Mahavira trao cho người khác và những người đó không hề chứng ngộ, không ý thức thế. Họ đi tới mọi người và họ chuyển tiếp và phổ biến thông điệp của Mahavira. Nhiều hiểu lầm nữa sẽ có đó. Và tất nhiên, họ không thể chuyển đạo cho nhiều người, họ có những giới hạn của họ. Nhưng ông ấy đã thử - một thực nghiệm lớn.

Tôi cũng muốn thử nó - nhưng không chỉ cho vài người. Tôi muốn tạo ra đại chúng lớn những người vì im lặng. Và chính điều đó mà tôi đang làm việc chậm rãi. Một khi bạn sẵn sàng, hàng nghìn người sẵn sàng cho im lặng, thế thì tôi có thể thực sự nói điều mà không thể được nói qua lời.

Phật đã trao cho Mahakashyapa đoá hoa và nói, 'Ta trao cho ông cái mà ta không thể trao được cho người khác. Ta trao cho ông cái mà chỉ có thể được trao trong im lặng.' Ta muốn có hàng nghìn Mahakashyapas để nhận đoá hoa đó. Một người là không đủ.

Cho nên ngày càng im lặng hơn và bạn sẽ hiểu tại sao có nhiều hiểu lầm thế trên thế gian. Và bạn sẽ hiểu rằng bây giờ bạn không hiểu lầm; hoặc bạn hiểu hoặc bạn không hiểu. Cả hai là tốt, mọi thứ là rõ ràng. Nếu bạn không hiểu, bạn có thể hỏi lại. Nếu bạn hiểu, thế thì công việc kết thúc, không có nhu cầu hỏi lại. Nhưng nếu bạn hiểu hầm, bạn liên tục nghĩ bạn đã hiểu, cho nên bạn không hỏi lại. Và bạn đã không hiểu. Và hiểu lầm đó sẽ làm cho cuộc sống của bạn là hiện tượng bị biến chất. Nó sẽ là què quặt, nó sẽ làm tê liệt bạn.

Câu hỏi thứ ba:

Câu hỏi thứ nhất của tôi là: Thầy có thể nói cho tôi cái gì đó về luật nghiệp được không? - Nó ngụ ý gì trong quan hệ với nhận tính chất sannyas. Điều khác mà tôi quan tâm là, thầy nghĩ gì về câu Thiền 'Khi ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy'? và lần nữa, làm sao nó có quan hệ với nhận tính chất sannyas?

Câu hỏi này là từ Wolfgang. Anh ấy đã ở đó trong buổi darshan đêm qua. Anh ấy khao khát nhận tính chất sannyas nhưng có điều kiện trong tâm trí anh ấy, là am hiểu. Anh ấy đã biết cách mọi sự phải thế nào. Và nếu chúng không giống điều đó, làm sao anh ta có thể nhận tính chất sannyas? Anh ấy có thể nhận tính chất sannyas chỉ nếu nó khớp với anh ấy, nếu nó đáp ứng tri thức tiên thiên của anh ấy. Điều đó là không thể được. Bạn sẽ phải khớp với tính chất sannyas, tính chất sannyas sẽ không khớp với bạn. Anh ấy sợ nhà thờ đang tăng lên quanh tôi. Tôi đáng phải sợ nó chứ, bạn không phải sợ. Tôi đang tận hưởng nó, nó là đẹp. Trong khi tôi ở đây, nó sẽ không gây bất kì hại nào. Và khi tôi mất rồi, tôi mất. Thế thì ai quan tâm? Tôi sẽ không bận tâm với nó cho vĩnh hằng - trong khi tôi ở đây, nó là hoàn toàn tốt, tôi sẽ chăm nom rằng nó sẽ không là thứ hại cho bất kì người nào. Nhưng khi tôi mất rồi, tôi mất. Không có cách nào lập kế hoạch cho tương lai. Thế thì bất kì cái gì xảy ra, xảy ra.

Và chỉ bởi vì nhà thờ quanh tôi, điều là sự cần thiết... Nếu nhà thờ đã mọc lên quanh Jesus, ông ấy chắc đã không bị đóng đinh. Ông ấy chắc đã phục vụ cho nhân loại trong nhiều năm nữa; ông ấy chắc đã không dễ bị phá huỷ thế. Khi ông ấy đã bị đóng đinh, thế thì nhà thờ tới - đó đã không phải là thời gian đúng cho nhà thờ tới. Khi Christ chết, đó là thời gian cho nhà thờ cũng chết cùng ông ấy. Nhưng khi Christ có đó, nếu nhà thờ là có thể, nếu nhà thờ được tạo ra, nhiều công việc hơn có thể được làm.

Nhà thờ đang tăng trưởng quanh tôi là tăng trưởng với hỗ trợ của tôi, với phúc lành của tôi. Nó không tăng trưởng chống lại tôi, nó không tăng trưởng mà không có tôi. Nó là một phần của phương cách của tôi để cho tôi có thể làm việc dễ dàng, hiệu quả hơn, với bạn. Cho nên đừng sợ nó.

Bây giờ những câu hỏi này cũng là câu hỏi am hiểu. Thứ nhất anh ấy hỏi, Câu hỏi đầu tiên của tôi: Thầy có thể nói cho tôi cái gì đó về luật nghiệp không?

Điều đó tồn tại chỉ dành cho người vô ý thức. Luật nghiệp tồn tại chỉ cho người vô ý thức; với người có ý thức không tồn tại luật nghiệp. Thực sự chính vô ý thức làm cho bạn khổ. Nếu bạn làm cái gì đó vô ý thức, thế thì bạn sẽ khổ, thế thì nghiệp sẽ được tạo ra. 'Nghiệp' ngụ ý hành động vô ý thức. Nếu bạn làm cái gì đó một cách có ý thức, đầy tỉnh táo, không nghiệp nào được tạo ra. Nếu hành động của bạn là toàn bộ, tự phát, nó được kết thúc trong khoảnh khắc đó. Nó là nguyên tử, nó không là sự liên tục. Nó không để lại dấu vết đằng sau.

Đó là lí do tại sao người chứng ngộ là không thể dự đoán được. Chỉ người không chứng ngộ là dự đoán được vì người đó di chuyển một cách vô ý thức, theo cách thường lệ, máy móc. Không có ngạc nhiên trong cuộc sống của người đó. Ai đó yêu bạn, và bạn yêu người đó. Ai đó ghét bạn, và bạn ghét người đó. Ai đó tới và ca ngợi bạn và bạn cảm thấy nở phồng như quả bóng. Đó là lí do tại sao mọi người dùng lời nịnh hót nhiều thế - việc tâng bốc người khác có ích lợi.

Triết gia Pháp, Cioran, nói rằng ham muốn sâu nhất trong con người là ham muốn được ca ngợi - người ta có thể nói ra, người ta có thể không nói ra. Ai đó ca ngợi bạn và bạn mê tít người đó. Và ai đó xúc phạm bạn và bạn trở thành kẻ thù mãi mãi. Đây không phải là hành động, đây là phản ứng. Người khác đang dùng bạn như cái máy, người đó nhấn nút của bạn. Bạn không hành động, bạn phản ứng. Người khác đang thao túng bạn, người đó biết phải làm gì.

Người có ý thức không thể bị bất kì người nào thao túng. Hành động của người đó không phải là phản ứng, hành động của người đó là hành động.

Phật đã bị xúc phạm, mọi người đã lăng mạ ông ấy trong một làng. Ông ấy đứng đó, và khi họ đã kết thúc ông ấy nói, 'Nếu các ông kết thúc, ta có thể đi bây giờ chứ? Ta phải sang làng khác, mọi người đang đợi ta ở đó. Nếu các ông còn chưa kết thúc, sớm thôi, sau hai tuần ta sẽ quay lại - thế thì các ông có thể làm việc còn lại.' Những người đó hơi chút hoang mang. Phật có vẻ hoàn toàn xa cách, dường như điều họ làm đã không đạt tới ông ấy. Ông ấy vẫn còn không bị trầy da. Họ nói, 'Nhưng chúng tôi đã lăng mạ ông, thưa ông, chúng tôi đã xúc phạm ông. Ông không định trả lời sao?'

Phật cười. Ông ấy nói, 'Nếu các ông muốn câu trả lời, các ông phải tới ít nhất là mười năm trước. Thế thì ta đã vô ý thức, thế thì các ông có thể đã nhấn nút của ta và ta chắc sẽ phản ứng. Nhưng giờ ta đã trở nên có ý thức, ta đã trở thành Phật. Giờ ta có thể thấy điều các ông muốn làm với ta, và ta không định bị bất kì ai thao túng. Giờ ta sống theo cách riêng của ta, giờ ta làm điều ta cảm thấy cần làm. Và ta không cảm thấy bất kì giận nào, ta đơn giản cảm thấy từ bi với các ông. Ta cảm thấy tiếc cho các ông - còn tiếc hơn thế vì ở làng khác, trước khi ta tới làng của các ông, nhiều người đã tụ tập và họ đã mang quả và đồ ngọt để tặng ta. Và ta nói, "Tiếc thật, ta không thể nhận được chúng vì ta đã ăn sáng và nó sẽ là gánh nặng không cần thiết cho ta để mang những thứ này. Xin các ông bà mang chúng về nhà." Ta hỏi các ông, họ sẽ phải đã làm cái gì với đồ ngọt và quả đó?'

Ai đó từ đám đông nói, 'Họ phải chia chúng trong làng, bản thân họ phải đã ăn chúng.' Phật nói, 'Đó là lí do tại sao ta cảm thấy tiếc nhiều hơn cho các ông. Giờ các ông đã mang những xúc phạm này và những lăng mạ này và ta sẽ không nhận chúng, các ông sẽ làm gì? Giờ ta thực sự cảm thấy tiếc cho các ông. Các ông có thể xúc phạm, đó là tự do của các ông - nhưng chấp nhận nó hay không là tự do của ta.'

Khi ý thức đã bừng lên, lần đầu tiên bạn hành động, bạn không phản ứng. Hành động ở bên ngoài luật nghiệp. Luật nghiệp chỉ áp dụng cho người vô ý thức. Con người của nhận biết có tự do tuyệt đối. Không luật nào trói buộc người đó, không luật nào xác định người đó. Người đó là bao la như bầu trời, người đó là vô hạn như bầu trời. Tự do của người đó là tuyệt đối.

Bạn hỏi, Câu hỏi thứ nhất của tôi là: Thầy có thể nói cho tôi cái gì đó về luật nghiệp được không? - Nó ngụ ý gì trong quan hệ với nhận tính chất sannyas.

Tính chất sannyas là bắt đầu của việc thoát ra khỏi luật nghiệp. Vì tính chất sannyas là bắt đầu của thức tỉnh. Tính chất sannyas là nỗ lực của bạn để thoát ra khỏi lối mòn, trong đó bạn đã sống trong nhiều kiếp. Tính chất sannyas là cái nhìn sâu rằng 'Thế là đủ rồi, và mình phải thoát ra khỏi sự sống lệ thường, mình phải thoát ra khỏi tính máy móc của nó. Mình phải thoát ra để vào chỗ sáng tỏ, vào chỗ sáng sủa. Mình đã lang thang đủ trong rừng rậm vô ý thức, trong bóng tối của hồn. Mình phải tìm tới bình minh, tới buổi sáng.'

Nó là việc tìm mặt trời, nó là ánh sáng hướng tới mặt trời. Đó là lí do tại sao ở phương Đông, chúng ta đã chọn mầu nâu vàng nhạt cho tính chất sannyas - nó là mầu của mặt trời, tia sáng mặt trời, buổi sáng. Việc tìm ánh sáng, việc tìm nhận biết, việc tìm chứng ngộ. Một khi bạn bắt đầu trở nên ngày càng nhận biết hơn, bạn sẽ càng ít là một phần của luật nghiệp. Và một khi bạn đã tận hưởng và nếm trải chút ít tự do, thế thì không ai có thể ép buộc bạn trở lại trong nhà tù. Bạn sẽ giang đôi cánh và bạn sẽ bay hướng tới mặt trời.

Câu hỏi khác là: thầy nghĩ gì về câu Thiền 'Khi ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy'?

Đó chính là điều đúng để làm. Khi bạn gặp Phật, giết ông ấy đi. Nhưng để gặp Phật, đầu tiên bạn phải trở thành sannyasin - bằng không bạn sẽ không bao giờ gặp đâu. Điều này chỉ được nói cho những đệ tử mà giờ có năng lực gặp phật trong thiền bên trong của họ. Điều này không được nói cho mọi người, điều này được nói cho chính những đệ tử rất gần gũi nhất. 'Khi ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy.' Điều này được nói cho những người đang đạt tới điều tối thượng trong thiền của họ.

Điều tối thượng trong thiền là gì? Mọi cái khác biến mất ngoại trừ thầy của bạn. Thế giới biến mất, chợ biến mất, người yêu biến mất, tiền, quyền, danh, tất cả biến mất. Ý nghĩ, tình cảm, tất cả biến mất. Chỉ một điều còn lại ở cuối: thầy. Khi điều này xảy ra, thiền đã đi tới điều tối thượng của nó. Chỉ thầy có đó. Thế thì Phật nói: Khi ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy. Bây giờ bạn phải bỏ cả thầy nữa.

Tại khoảnh khắc cuối cùng, thầy cũng phải bị bỏ, vì điều đó sẽ là việc bám víu cuối cùng của bạn. Và khi thầy cũng đã biến mất, bản thân bạn đã trở thành Phật.

Điều đó giống như bạn muốn đi qua sông. Bạn làm chiếc bè - bạn lấy gỗ, dây thừng, bạn làm ra chiếc bè, và thế rồi bạn đi sang bờ bên kia trên chiếc bè. Phật nói: Ông sẽ làm gì trên bờ bên kia? Khi ông đã sang tới bờ bên kia, ông sẽ làm gì với chiếc bè? Ông có mang nó trên đầu ông mãi mãi không, vì nó đã giúp ông đi sang bờ bên kia? Thế thì điều đó sẽ là xuẩn ngốc. Nó sẽ là gánh nặng không cần thiết và ông sẽ có vẻ nực cười. Khi ông đã sang tới bờ bên kia, ông sẽ làm gì với chiếc bè? Phật hỏi các đệ tử.

Và một đệ tử nói, 'Chúng tôi sẽ nói lời tạm biệt chiếc bè. Chúng tôi sẽ cám ơn chiếc bè, chúng tôi sẽ cảm thấy biết ơn chiếc bè vì chính qua chiếc bè mà chúng tôi đã tới bờ bên kia, không có bè, điều đó là không thể được. Và thế rồi chúng tôi sẽ đi, bỏ chiếc bè trên bờ - với lòng biết ơn lớn, nhưng chúng tôi sẽ bỏ nó, chúng tôi sẽ không mang nó.'

Thầy là chiếc bè. Bạn đi sang bờ bên kia. Khi bạn đã sang tới bờ bên kia, nói lời tạm biệt thầy. Điều đó sẽ là khó khăn - đó là lí do tại sao Phật dùng từ nghiêm khắc thế. Ông ấy nói: Khi các ông gặp Phật trên đường, hãy giết ông ấy. Điều đó sẽ là khắc nghiệt, vì ở trong quan hệ với thầy là biết yêu theo nghĩa sâu sắc nhất của nó. Rất khó bỏ Phật. Và bạn đã từng du hành cùng Phật và bạn đã từng biết những không gian mới lạ, không gian đẹp, qua ông ấy. Và bạn đã biết nhiều thế, và bạn được làm giầu có thế, và chính bởi vì ông ấy và qua ông ấy. Và ông ấy đã từng đưa bạn ra khỏi đêm tối của bạn, và buổi sáng đang tới và bây giờ ông ấy nói: Giết ta đi. Để ta biến mất khỏi hiện hữu của ông, hoàn toàn, dường như ta chưa bao giờ tồn tại, để cho ông có thể lấy cú nhảy cuối cùng từ thiền vào samadhi. Ngay trên đường biên này, Phật, thầy, phải bị bỏ lại.

Chư phật có thể đưa bạn tới đường biên của thiền và samadhi. Đó là khác biệt duy nhất giữa thiền và samadhi. Nếu tâm trí bạn đã trở nên hoàn toàn yên tĩnh và im lặng, nhưng chỉ thầy có đó, thế thì nó là thiền. Nếu tâm trí bạn đã trở thành yên tĩnh tới mức ngay cả thầy đã biến mất, nó là samadhi. Rào chắn cuối cùng sẽ là thầy. Thầy sẽ đưa bạn ra khỏi thế giới, nhưng một ngày nào đó bạn sẽ phải bỏ thầy nữa. Và thầy thực bao giờ cũng sẽ giữ bạn tỉnh táo rằng bạn phải bỏ thầy một ngày nào đó, tại giai đoạn cuối cùng.

Nhưng bạn có thể bỏ chỉ nếu bạn đã chấp nhận. Bạn có thể bỏ bè trên bờ bên kia, chỉ nếu bạn đã làm bè trên bờ bên này. Cho nên câu hỏi từ Wolfgang chưa là hợp lí. Hãy trở thành sannyasin đi, Wolfgang, hãy làm bè đi. Và thế thì khi bạn gặp Osho trên đường, hãy giết ông ấy - nhưng chỉ khi đó thôi. Ngay bây giờ, xin mời...

Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi, thầy có biết rằng ông Cecil Lewis đã trốn đi không?

Ông già đáng thương. Ông ấy là người tốt. Nhưng tôi sợ rằng điều sắp xảy ra là ông ấy sẽ trốn đi. Ông ấy đã đọc sách của tôi - đọc sách là một chuyện. Và ông ấy đã viết những bức thư hay cho tôi, và ông ấy rất muốn tới đây. Tại tuổi già này, khó cho ông ấy tới. Dành dụm nhiều tiền cũng là khó nhưng bằng cách nào đó ông ấy đã xoay xở. Nhưng đọc sách của tôi là một chuyện và tới diện đối diện với tôi là chuyện khác. Với sách, bạn có thể có diễn giải riêng của bạn, bất kì cái gì bạn muốn. Với sách, bạn có thể mơ tưởng; bạn có thể áp đặt ý tưởng của bạn, mơ tưởng của bạn.

Nhưng khi bạn tới tôi, thế thì thực tại của tôi phải được hấp thu. Và điều đó là khó cho ông ấy để tiêu hoá tôi. Trong ba mươi năm ông ấy đã từng đọc Gurdjieff. Ông ấy đã viết cho tôi rằng ông ấy đã đi, cũng để cũng gặp Gurdjieff, nhưng bị lỡ. Vì khi ông ấy tới, Gurdjieff đã chết - ông ấy tới chỉ vài ngày sau đó. Cho nên ông ấy rất tiếc rằng ông ấy đã lỡ Gurdjieff. Và đó là lí do tại sao ông ấy đã viết cho tôi rằng 'Tôi muốn tới và tôi không muốn lỡ thầy. Tôi đã lỡ Gurdjieff, tôi đã cảm thấy đau cả đời tôi - rằng nếu như tôi đã đi sớm chỉ vài ngày trước, tôi chắc đã gặp thầy. Nhưng tôi đã không được may mắn. Lần này, tôi không muốn lỡ. Tôi đang tới, đằng nào tôi cũng tới, tôi sẽ xoay xở tiền và tôi sẽ tới.'

Và ông ấy đã tới. Và ông ấy lại lỡ. Và bây giờ tôi có thể nói: nếu như ông ấy đã gặp Gurdjieff, ông ấy chắc đã trốn sớm hơn là ông ấy trốn khỏi đây. Ở đây, ông ấy đã ở lại ít nhất trong hai tuần. Với Gurdjieff, ông ấy chắc không có khả năng ở lại quá hai giờ. Vì Gurdjieff thường đánh rất mạnh. Tôi cũng đánh, nhưng nó chưa bao giờ mạnh lắm. Và đó là lí do tại sao tôi đã cho ông ấy cú đánh nhẹ hều - chỉ như vị đầu lưỡi của Gurdjieff - nhưng ông ấy đã không thể tiêu hoá được nó. Ông ấy lập tức trốn đi. Tôi có thể nói rằng ông ấy đã không hiểu Gurdjieff chút nào. Bằng không ông ấy chắc đã có khả năng thấy điều tôi đang làm - rằng tôi gây choáng cho ông ấy, rằng tôi đang cố phá huỷ cái hấp thu choáng của ông ấy. Ông ấy chắc đã cảm thấy biết ơn, ông ấy đã ở lại.

Nhưng ông ấy đã từng đọc sách của Gurdjieff - đó là một chuyện.

Có lần chuyện xảy ra, một thanh niên thường tới tôi và anh ta cuồng nhiệt trong yêu Thiền và các Thiền sư. Và anh ta tới tôi và bao giờ cũng nói về các Thiền sư người đã đánh đệ tử và ném đệ tử. Và tôi phát mệt về những câu chuyện của anh ta, cho nên một hôm tôi đánh anh ta. Và từ đó trở đi, tôi đã không gặp anh ta nữa. Đó là điều đã xảy ra với ông già Lewis. Và tôi đã không đánh mạnh ông ấy, vì ông ấy già thế. Mm? Tôi đã rất lễ độ. Nhưng tôi sợ rằng ông ấy sẽ trốn mất.

Đọc Gurdjieff qua sách là một chuyện; đọc các Thiền sư qua sách là một chuyện. Nhưng khi bạn bắt gặp một Thiền sư hay bắt gặp một Gurdjieff đó là kinh nghiệm khác toàn bộ. Thực tại không phải là mơ tưởng của bạn, và thực tại không có nghĩa vụ khớp với mơ tưởng của bạn.

Trong hai tuần, ông ấy ở đây mỉm cười hạnh phúc - tôi đã cho ông ấy thời gian. Và một cú choáng nhỏ, và ông ấy đã phản ứng. Đó là điều tâm trí vô ý thức liên tục làm. Ông ấy đã phản ứng ngay lập tức, ông ấy thậm chí không thể để thời gian để suy ngẫm về nó. Ông ấy không bao giờ quay lại đạo tràng, ông ấy đơn giản trốn mất.

Đây là cái gì đó để bạn suy ngẫm, suy tư. Tôi không ở đây để điều chỉnh theo bạn. Nếu tôi điều chỉnh theo bạn, thế thì tôi không có bất kì cái gì để cho bạn so sánh. Nếu tôi điều chỉnh theo bạn, thế thì làm sao tôi sẽ giúp bạn được? Tôi có thể giúp bạn chỉ nếu tôi phá huỷ bạn - nếu tôi phá huỷ quá khứ của bạn, tri thức của bạn, ý tưởng của bạn, các ước định của bạn, nhân cách của bạn. Chỉ bằng việc phá huỷ bạn, tôi có thể cho bạn việc sinh mới, tôi có thể cho bạn sự bắt đầu mới, cuộc sống tươi tắn.

Tôi cảm thấy tiếc cho ông già này. Tôi muốn giúp ông ấy theo mọi cách. Nhưng tôi không thể giúp được bạn nếu bạn sợ thế, nếu bạn non nớt và ấu trĩ thế, nếu bạn không kiên nhẫn thế trong phản ứng của bạn. Cho nên mọi điều tôi có thể nói là thế này: Tạm biệt ông Lewis. Gặp ông trong kiếp khác nào đó vậy.

Câu hỏi thứ sáu:

Người chứng ngộ có phải bao giờ cũng vẫn còn chứng ngộ hay người đó cũng có thể trở thành không chứng ngộ?

Câu hỏi này là từ Deva Swarup Yogiraj.

Ngay cả người không chứng ngộ vẫn còn được chứng ngộ. Khác biệt duy nhất là ở chỗ người đó không biết điều đó. Người chứng ngộ biết nó, và không có cách nào bỏ điều mà bạn đã biết. Chứng ngộ là bản tính của bạn, nó không phải là cái gì đó mà bạn có thể bật lên hay tắt đi. Nó không phải là cái gì đó như quần áo, cái bạn có thể thay đổi. Nó là chính cốt lõi của bạn, nó là con người của bạn. Chứng ngộ là con người của bạn. Nếu bạn không biết nó, bạn có thể liên tục cư xử theo cách không chứng ngộ. Ngày bạn biết nó, thế thì không có cách nào cư xử theo cách không chứng ngộ. Một khi bạn đã biết, bạn đã biết.

Nhưng người chứng ngộ có thể giả vờ. Ông ấy có thể giả vờ rằng ông ấy không chứng ngộ - tự do đó là sẵn có. Gurdjieff thường làm điều đó nhiều lần - giả vờ rằng ông ấy không chứng ngộ - theo những cách rất kì quặc. Một trong các đệ tử đã thuật lại rằng anh ta phải du hành cùng ông ấy trong tầu hoả, và cả đêm ông ấy đã quấy nhiễu mọi hành khách, và cả người soát vé và trưởng ga và người khuân vác. Và ông ấy đã liên tục uống và hét và đi từ chỗ này sang chỗ nọ, và đệ tử này chỉ lo nghĩ phải làm gì và xin lỗi người này người khác. Và cả đêm ông ấy đã làm điều đó - một cách có chủ ý.

Và đến sáng, ông ấy rất vui với đệ tử này, vì không một khoảnh khắc nào đệ tử này đã mất tình cảm với thầy. Không một khoảnh khắc nào Gurdjieff có thể làm cho đệ tử này quên mất rằng anh ra đang ở cùng người chứng ngộ. Ông ấy vui sướng mênh mông. Ông ấy nói, 'Ông đã thắng. Ông đã qua được kì sát hạch lớn.' Có mọi khả năng quên đi trong một khoảnh khắc: Đây là kiểu người gì vậy? Ông ấy có chứng ngộ không? Và ông ấy đang làm gì? Ngay cả người không chứng ngộ cũng sẽ không làm chừng nấy chuyện. Nếu bạn muốn uống rượu, bạn uống và đi ngủ. Nhưng ông ấy liên tục uống. Rồi ông ấy la hét và đi góc này sang góc khác của tầu hoả, vừa la hét và đánh thức mọi người và xỉ vả mọi người. Và đệ tử này đã sợ ai đó có thể bắt đầu đánh ông ấy. Và cảnh sát tới ở một ga, và người trưởng toa tới: 'Chúng tôi muốn đưa người này đi. Và anh ta phải xin lỗi.' Anh ta nói, 'Chúng tôi phải tới chỗ khác, và tôi phải chăm nom cho ông ấy. Và ông ấy là người vĩ đại - các ông chỉ không hiểu cách thức của ông ấy thôi.'

Ông ấy sẽ uống quá nhiều và thế rồi ông ấy sẽ lái xe; thế rồi ông ấy sẽ nhất định đòi lái. Và các đệ tử sẽ ngồi. Và ông ấy sẽ lái mỗi lúc một nhanh hơn và mọi người ở ngay bên bờ miệng của 'bất kì khoảnh khắc nào chết sẽ xảy ra'. Nhưng dầu vậy họ phải nhớ rằng ông ấy đã chứng ngộ. Và ông ấy sẽ xỉ vả mọi người theo cách rất thô tục, và đệ tử phải liên tục nhớ. Đó là loại tình huống ông ấy sẽ tạo ra cho việc nhớ của họ.

Vì khi tôi lịch thiệp với bạn và rất dịu hiền với bạn và bạn cảm thấy 'Thầy của chúng ta thật tuyệt', điều đó không là gì cả. Nhưng khi tôi không lịch thiệp với bạn, không dịu hiền - thô thiển - thế thì nhớ rằng thầy của bạn là hay, là khó tính, rất khó tính. Người ta mất lối mòn, Và thầy sẽ làm những điều mâu thuẫn thế, những điều phi logic. Thầy sẽ bảo bạn đào một cái hố trong đất, và trong mười hai giờ không nghỉ, bạn sẽ đào hố - mệt mỏi, vã mồ hôi, đói, khát. Và ông ấy sẽ không cho phép bạn đi bất kì đâu, bạn phải đào hố này. Và sau mười hai giờ, thầy tới và nói, 'Giờ lấp nó lại đi.'

Bây giờ điều rất tự nhiên là nổi giận rằng điều này là ngu xuẩn: Thế thì tại sao? Nhưng đó là toàn thể vấn đề. Thầy phải không được hỏi tại sao. Nếu bạn hỏi thầy tại sao, bạn đã không chấp nhận ông ấy là thầy. Thế thì mối quan hệ của bạn vẫn còn là của lí trí. Và lí trí không thể có quan hệ với thầy. Nó là tin cậy sâu sắc, mối quan hệ là của yêu và tin cậy. Nếu thầy nói điều đó, thế thì nó phải là vậy, thế thì phải có cái gì đó trong nó. Và đã có cái gì đó trong nó. Thầy đã nhấn nút của bạn theo mọi cách - và nếu bạn trở nên giận, bạn bỏ lỡ vấn đề.

Và đó là điều đã xảy ra với ông Lewis, ông ấy đã bỏ lỡ vấn đề. Ông ấy không biết rằng ông ấy không thể yêu Gurdjieff nhiều hơn tôi yêu Gurdjieff. Nhưng tôi phải đánh - và cách duy nhất để đánh ông ấy là nói về Gurdjieff dường như tôi chống lại Gurdjieff. Đó là cách duy nhất để đánh ông ấy. Nếu tôi nói cái gì đó chống lại bạn, điều đó rất dễ dàng, bạn có thể dung thứ được điều đó. Nhưng nếu tôi nói cái gì đó chống lại thầy của bạn, điều đó trở thành khó. Nó trở thành không thể dung thứ được. Thầy của bạn là bản ngã tinh tế hơn của bạn. Nếu tôi đã nói 'Ông Lewis ơi, ông sai rồi' ông ấy chắc đã chấp nhận điều đó. Nhưng nếu tôi nói 'Ông Lewis ơi, Gurdjieff sai đấy' điều đó là không thể được. Gurdjieff mà sai sao? Và ba mươi năm phí hoài à? Ông ấy lập tức trốn ngay.

Người chứng ngộ có thể giả vờ. Nhưng người chứng ngộ không thể trở lại thành người không chứng ngộ.

Câu hỏi cuối cùng:

Thầy nghĩ gì về dục?

 Tôi nghĩ rằng nó là ở đây để ở lại.

Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post