Read more
Chính thân này là phật - Osho
Bài nói về Bài ca Thiền của Bạch Ẩn
Chương 7. Hấp tấp tới chính tận cùng
Powered by RedCircle
Câu
hỏi thứ nhất:
Có
bao giờ đi tới một khoảnh khắc khi người ta biết tại sao mọi sự là theo cách
này và không theo cách kia không?
Không, khoảnh khắc đó không bao giờ tới.
Khoảnh khắc đó không thể tới được, tri thức là không thể được. Sự sống là điều
huyền bí - bạn càng biết nhiều về nó, nó càng trở nên huyền bí hơn. Bạn không
thể thu nó thành công thức, bạn không thể thu nó thành lí thuyết. Nó không bao
giờ trở thành học thuyết. Bạn càng đi sâu hơn, bạn càng cảm thấy dốt nát hơn.
Nhưng dốt nát đó là phúc lạc. Việc không biết đó, là hoàn toàn đẹp, nó là phúc
lành, vì trong việc không biết đó, bản ngã của bạn chết. Việc không biết đó, trở
thành nấm mồ cho bản ngã của bạn. Và điều ngạc nhiên nảy sinh: Ồ! Và niềm vui lớn
lao.
Tri thức là thứ giết chết niềm vui. Người
am tường không phải là người vui vẻ, người am tường trở thành nghiêm chỉnh. Họ
bị nặng gánh, tim của họ không còn nhảy múa, chỉ đầu của họ liên tục tăng trưởng
theo mọi tỉ lệ. Nó trở thành giống tăng trưởng ung thư - toàn thân họ biến mất,
mọi chi của họ co lại, và chỉ có mỗi cái đầu. Họ trở thành nặng đầu.
Khi tri thức biến mất, bạn hoàn toàn an
bình với sự sống và sự tồn tại. Tri thức phân chia. Để tôi nhắc lại điều đó:
Tri thức cắt rời bạn khỏi sự tồn tại. Vì người biết không thể là cái được biết,
người biết là tách rời khỏi cái được biết. Và vì phân tách đó mà có phiền não, lo
âu liên tục; cái gì đó liên tục thiếu. Chỉ người không biết mới có thể trở thành một
với sự sống. Cho nên việc không biết là thống nhất, còn tri thức thì phân chia.
Trong trạng thái không biết, bạn bắt đầu
tan chảy cùng cây và núi và sao. Bạn không biết bạn kết thúc ở đâu và chúng bắt
đầu ở đâu, bạn không biết bất kì cái gì. Bạn lại là đứa trẻ nhặt vỏ sò trên bãi
biển. Lại là đứa trẻ đi lấy hoa, hoa dại. Lại là đứa trẻ, mắt bạn đầy sự ngạc
hiên. Qua ngạc nhiên đó, bạn bắt đầu cảm thấy sự tồn tại là gì - không biết
nhưng cảm. Bạn bắt đầu yêu cái đang đó - không biết nhưng yêu. Và qua việc cảm
và yêu, lần đầu tiên bạn bắt đầu việc sống. Ai quan tâm, ai bận tâm, về tri thức?
Bạn hỏi, 'Khoảnh khắc đó có bao giờ tới
khi người ta biết tại sao mọi sự là theo cách chúng là vậy, và không theo bất
kì cách khác không?'
Không, mọi sự là cách chúng là vậy, không
có cách khác. Đây là cách duy nhất. Và không có tại sao cho nó, bằng không bạn
có thể đã đi tới biết. Không có nguyên nhân cho nó, bằng không bạn chắc đã giải
mã được nó. Không có lí do cho sự tồn tại. Điều đó hoàn toàn ngớ ngẩn, điều đó
phải không tồn tại, không có lí do cho nó. Tại sao phải có cây và sao và đàn
ông và đàn bà - tại sao? Không có lí do tại sao phải có yêu, tại sao phải có
tâm thức, tại sao chút nào?
Cái 'tại sao' bắt đầu tuột đi khỏi bạn. Bạn
càng trở nên im lặng, bạn càng đạt tới trạng thái không biết, cái 'tại sao' bắt đầu
tuột đi. Một ngày nào đó, đột nhiên bạn không còn tìm nguyên nhân và lí do và tại
sao. Bạn đơn giản bắt đầu nhảy múa. Bạn không thể trả lời tại sao bạn múa,
không có câu trả lời cho nó. Và mọi câu trả lời đã được cho đều là giả.
Tại sao bạn yêu? Tại sao âm nhạc làm bạn
xúc động? Tại sao, khi nhìn hoa buổi sáng, bạn đột nhiên bị hút bởi nó như nam
châm? Tại sao trong đêm bạn bị hấp dẫn thế tới trăng? Tại sao? Đứa bé cười khúc
khích, và bạn dừng lại một khoảnh khắc để xem đứa bé này và bạn cảm thấy hạnh
phúc. Tại sao có hạnh phúc? Tại sao có mở hội? Tại sao có sự sống? Tại sao sự tồn
tại này tồn tại? Không có lí do. Và nếu bạn tìm bất kì lí do nào, câu hỏi sẽ lại
liên quan để hỏi - tại sao?
Nếu bạn nói Thượng đế đã tạo ra thế giới, thế thì câu hỏi tới liền, tại sao Ngài đã tạo ra thế giới? Nó chẳng giải quyết
được bất kì cái gì, nó đơn giản đẩy câu hỏi sâu hơn chút ít - tại sao Thượng đế
đã tạo ra thế giới?
Mới hôm nọ tôi đã đọc một cuốn sách của
nhà thượng đế học và ông ấy nói, 'Thượng đế đã làm gì khi Ngài đã không tạo ra
thế giới?' Bây giờ một câu hỏi đã không được giải quyết bởi câu trả lời, và câu
hỏi rất kì lạ nảy sinh: Thượng đế đã làm gì? - vì Ngài phải tồn tại cho vĩnh hằng
trước khi Ngài tạo ra thế giới. Và người Ki tô giáo tin rằng Ngài đã tạo ra thế
giới chỉ vài nghìn năm trước - bốn nghìn linh bốn năm trước Jesus Christ. Cho
nên Ngài đã làm gì trước điều đó? Ngài ắt đã cảm thấy hoàn toàn chán. Ngài ắt đã phát điên hay có thể đã tự tử. Ngài đã làm gì? Hay ngài chỉ ngủ, ngủ mơ. Và
Ngài đã làm gì kể từ đó? Từ khi Ngài tạo ra thế giới, Ngài đã biến mất ở đâu?
Và Ngài sẽ làm gì, Ngài đã phá huỷ thế giới này? Lần nữa Ngài sẽ chán với bản
thân Ngài. Ngài ắt hẳn thực sự cô độc.
Bây giờ những câu hỏi không cần thiết
này, chỉ vì bạn đã trả lời một câu hỏi. Mm? Bạn đã cảm thấy không thoải mái với thế
giới, cho nên bạn đã nói Thượng đế đã tạo ra thế giới. Bạn muốn sự thuận tiện
nào đó, thoải mái nào đó - rằng nó không chỉ là ngẫu nhiên, rằng có Thượng đế-cha
người trông nom nó, rằng bạn không một mình. Bạn muốn một loại an ninh nào đó.
Và bây giờ một câu hỏi đã không được trả lời, và cả nghìn lẻ một câu hỏi đã nảy
sinh ra từ nó. Tại sao Ngài đã tạo ra ngay chỗ đầu tiên? Ngài có cần nó không?
Nếu Ngài cần nó, thế thì Ngài cũng cần như con người - thế thì Ngài không hoàn hảo,
cái gì đó bị thiếu.
Ngài có tham không? Ngài có là người bành
trướng không? Tại sao? Và tại sao có thế giới này? Với nhiều khổ thế và nhiều
đau khổ và nhiều ốm và bệnh và chết thế - tại sao có thế giới này? Nếu Ngài đã
tạo ra nó Ngài có thể đã tạo ra thế giới tốt hơn. Ngài dường như không phải là đấng
sáng tạo lớn.
Tôi đã nghe: Một người đi tới thợ may, thợ
may nổi tiếng, và anh ta nói rằng bộ com lê của mình phải có sẵn sớm nhất có thể
được, anh ta sắp đi chuyến du lịch thế giới. Và thợ may nói, 'Nhìn đây, sẽ mất
ít nhất sáu tuần - không trước điều đó, tôi quá bận. Và tôi là người cầu toàn,
khi tôi làm một việc tôi làm nó một cách hoàn hảo. Ông sẽ phải đợi ít nhất sáu
tuần, trước điều đó là không thể được.'
Người này nói, 'Sáu tuần à? Ông không nhớ
Thượng đế đã tạo ra toàn thể thế giới trong sáu ngày sao?' Và ông thợ may nói,
'Tôi biết chứ. Và nhìn vào thế giới mà xem, Ngài đã làm lộn xộn nó thế nào. Đó
là điều xảy ra nếu ông làm mọi thứ trong sáu ngày. Tôi không thể làm điều đó được,
nó sẽ mất sáu tuần.'
Tại sao Thượng đế đã tạo ra thế giới khốn
khổ xấu xí này? Tại sao Ngài đã tạo ra địa ngục này? Dường như chẳng phải là đấng
sáng tạo lớn chút nào, dường như là một nghệ sĩ rất kém. Và có cả nghìn lẻ một lỗi
trong nó.
Bạn không giải quyết bằng việc trả lời tại
sao. Phật là đúng hơn, ông ấy nói rằng không ai đã bao giờ tạo ra nó. Theo cách đó, ông ấy vứt bỏ câu hỏi của bạn. Ông ấy nói, nó bao giờ cũng có đó và bao giờ cũng
sẽ có đó - chẳng vì lí do chút nào, không nguyên nhân chút nào. Nó tồn tại mà
không nguyên nhân. Điều đó là khó cho tâm trí hợp lí, vì chúng ta bao giờ cũng
tìm nguyên nhân. Một khi nguyên nhân được cho, chúng ta cảm thấy thoải mái. Đó
là khao khát về lí do; một khi người ta biết việc giải thích và nguyên nhân và
lí do, chúng ta cảm thấy thoải mái rằng chúng ta biết. Nhưng bạn biết cái gì?
Mọi thượng đế học suốt nhiều thời đại đã
không cung cấp nỗi một câu trả lời. Toàn thể triết học năm nghìn năm đã chứng tỏ
tuyệt đối vô tích sự.
Nếu bạn hiểu tôi, thế thì tôi muốn nói rằng
không bao giờ đi tới một khoảnh khắc của tri thức mà bạn đã biết tại sao thế giới
là cách nó là vậy và tại sao nó không theo bất kì cách nào khác. Bạn càng đi sâu
hơn vào trong con người bạn, càng ít câu hỏi nảy sinh. Một ngày nào đó mọi câu
hỏi biến mất. Tôi không nói rằng bạn nhận được bất kì câu trả lời nào, mà chỉ câu
hỏi biến mất. Người mà chúng ta gọi là chứng ngộ, không phải là người biết câu hỏi,
nhưng là người có các câu hỏi đã biến mất. Người đó không còn bất kì câu hỏi
nào. Trong trạng thái đó của việc không có câu hỏi, có im lặng lớn, im lặng
hoàn toàn, im lặng tuyệt đối. Và có việc không biết tuyệt đẹp.
Việc không biết đó tới, việc không biết
đó là chứng ngộ. Phật đã không biết một thứ gì. Mọi điều ông ấy đã đi tới là,
những câu hỏi của ông ấy đã biến mất. Bây giờ không còn thêm bất kì câu hỏi nào
tranh nói trong tâm trí ông ấy; mọi tiếng ồn đó đã mất đi. Ông ấy được bỏ lại một
mình trong im lặng. Ông ấy không còn là người biết, ông ấy không có tuyên bố
nào rằng ông ấy biết cái này hay cái nọ. Ông ấy chỉ biết hư không. Đó là điều
Phật gọi là 'niết bàn' - biết hư không, hay biết duy nhất hư không.
Ở trong trạng thái không biết là samadhi.
Câu
hỏi thứ hai:
Tôi
đọc bài ca thiền của Bạch Ẩn nhiều năm trước nhưng tôi không nhớ nhận được
nghĩa mà thầy đã trao cho nó.
Điều đó là tự nhiên. Nghĩa của tôi là
nghĩa của tôi, nghĩa của bạn sẽ là nghĩa của bạn. Làm sao chúng có thể là một
được? Chúng không thể là một. Diễn giải của bạn sẽ bắt nguồn từ bạn, nó sẽ phát
triển ra từ bạn. Nó chẳng liên quan gì tới bài ca của Bạch Ẩn. Khi bạn đọc Kinh
Thánh, bạn không đọc Jesus, bạn đọc bản thân bạn ở đó. Khi bạn đọc Gita, bạn
không đọc Krishna, bạn đọc bản thân bạn ở đó. Diễn giải của bạn không ở đó
trong sách, diễn giải của bạn được phóng chiếu lên sách, cuốn sách chỉ là cái cớ.
Điều đó là tự nhiên.
Ở đây, bạn đã tụ tập quanh tôi. Nếu có một
nghìn sannyasins ở đây, có một nghìn nghĩa mà họ cho với từng phát biểu của
tôi. Và rất hiếm khi bạn nhận được nghĩa mà tôi muốn bạn nhận được từ nó. Khoảnh
khắc bạn nhận được nghĩa đó, bạn bắt đầu tham gia vào sự hiện hữu của tôi.
Trong khoảnh khắc đó, bạn biến mất, tâm trí bạn biến mất.
Trong khoảnh khắc đó, bạn tan chảy vào
trong tôi và bạn cho phép tôi tan chảy vào trong bạn.
Bài ca của Bạch Ẩn bạn có thể đã đọc,
nhưng nó đã là bài ca riêng của bạn mà bạn ắt đã nhận được từ nó. Chừng nào bạn
chưa đi tới điểm không biết, bạn sẽ không biết nghĩa của Bạch Ẩn như Bạch Ẩn muốn
nó là vậy. Nếu bạn muốn hiểu điều tôi đang nói với bạn, bạn sẽ phải đi tới nhận
biết này, tới việc không biết này, tới vô trí này, mà tôi đang vậy. Chỉ thế
thôi. Để biết Phật người ta phải trở thành Phật, để biết Christ người ta phải
trở thành Christ. Không có cách khác để biết; bạn không thể vẫn còn là bản thân
bạn và biết chúng. Biết chúng là mạo hiểm. Bạn sẽ phải mạo hiểm mọi thứ bạn đã
có, bạn sẽ phải mạo hiểm mọi tri thức của bạn.
Đó là lí do tại sao nhiều người thậm chí
không thử - dường như đó là đòi hỏi quá nhiều từ họ. Vâng, họ sẵn sàng đi chút
ít con đường cùng Phật, Christ, cùng tôi - chút ít con đường. Và họ đi chỉ tới
điểm đó nơi họ cảm thấy tôi đồng ý với họ. Khoảnh khắc họ thấy rằng tôi đang đi
sang hướng khác mà họ không đồng ý, họ dừng lại ngay lập tức. Và chừng nào bạn
chưa đi cùng tôi một cách liều lĩnh tới chính tận cùng, bạn sẽ không biết thông
điệp này là gì.
Nhớ điều đó: Khi bạn đang nghe tôi, gạt toàn thể tâm trí bạn sang bên. Chỉ lắng nghe vì niềm vui vô cùng của việc nghe. Như bạn lắng nghe chim hót, như bạn lắng nghe gió thoảng qua cây, lắng nghe theo cách đó. Không có nhu cầu lo nghĩ nghĩa của nó là gì. Và thế thì bạn sẽ đi tới gần với nghĩa thực.
Một người di cư Italy bị kiểm tra sự
thích hợp của anh ta với việc nhập tịch.
'Ông chủ của thành phố là ai?' là câu hỏi
thứ nhất.
'Dạ, thị trưởng,' anh ta đáp. 'Đúng. Và
ông chủ của bang là?' 'Dạ, Thống đốc.'
'Đúng. Và của toàn quốc?' 'Dạ, Tổng thống
Mĩ.'
'Đúng. Liệu có thể ông là tổng thống
không?'
'È... xin lỗi, thưa ông thẩm phán, nhưng
tôi rất bận làm việc trong dạ cửa hàng.'
Nghĩa của bạn là nghĩa của bạn.
Chồng cô ấy bị buộc tội độc ác tinh thần,
không chung thuỷ và bất lực, trong khi luật sư của cô ấy đang buộc tội rằng anh
ta đã bỏ cô ấy - hay nói theo ngôn ngữ pháp luật: 'bỏ nơi ăn ngủ của cô ấy.'
Quan toà nhìn xuống người thanh niên, rồi
quay ánh mắt ca ngợi qua cô gái tóc vàng người cân đối. 'Anh thanh niên,' ông
ta hỏi, 'có đúng là anh bỏ nơi ăn ngủ của quí bà trẻ này không?'
'Có, thưa quí toà.'
'Đó là giả dối đáng nguyền rủa!' cô gái
tóc vàng gợi tình kêu lên. Không đàn ông nào đã bao giờ bị chán mà bỏ giường
tôi!'
Khi lời đạt tới bạn, chúng bắt đầu lấy
hình tướng, hình dạng, mầu sắc, mà đã không có đó trong chúng nguyên bản. Chúng
thay đổi. Khoảnh khắc chúng đi vào bạn, khoảnh khắc chúng đi vào bầu khí hậu của
bạn, chúng trở nên bị thấm đẫm với nó. Bài ca của Bạch Ẩn không phải là bài ca,
không phải là phát biểu bình thường - một trong những phát biểu phi thường nhất
đã từng có. Bài ca nhỏ thế, chỉ vài dòng, nhưng xuyên thấu tới mức mọi kinh
sách của thế giới đều bị thiêu cháy và chỉ bài ca của Bạch Ẩn được cứu, không
cái gì sẽ bị cháy. Điều đó sẽ có tác dụng. Một phát biểu rất cô đọng về Phật
tính.
Để biết bài ca của Bạch Ẩn, của thiền, bạn sẽ
phải đi vào trong thiền. Bạn càng biết thiền là gì - không phải về mặt trí tuệ mà về
mặt tồn tại - bạn càng cảm thấy thiền là gì, bạn sẽ càng đi vào trong bài ca của
Bạch Ẩn tốt hơn. Thế thì một ngày nào đó, nó sẽ bùng nổ trong con người bạn -
nghĩa của nó. Nghĩa không được cho trong từ điển, nghĩa không phải là nghĩa của
các từ. Đó là một trong những khó khăn cơ bản nhất trong việc hiểu những người
như Bạch Ẩn. Điều họ nói, tới từ cõi bên kia. Điều họ đưa vào ngôn ngữ, không thuộc
vào ngôn ngữ, điều họ đang cố đưa vào, là gần như không thể được. Họ đang mang
toàn thể bầu trời vào cái hộp nhỏ, hay toàn thể đại dương vào trong chiếc cốc
nhỏ. Cho dù điều đó là có thể, nhưng mang tính thiền của bạn vào trong lời càng không thể được. Họ đang làm phép màu.
Nhưng bạn sẽ bắt giữ lời và bạn sẽ đi lạc
lối. hãy lắng nghe im lặng trong các lời đi. Lời là không quan trọng, nhưng im lặng,
cái chúng chứa đựng, mới quan trọng. Lắng nghe kẽ hở giữa các lời và đọc giữa
các dòng đi. Nhưng để đọc giữa các dòng, bạn sẽ phải trở nên vô ý nghĩ, bạn sẽ
phải trở thành trống rỗng. Chỉ trái tim trống rỗng mới có thể đọc giữa các dòng, vì
bằng không thì chẳng có gì cả, chỉ có trống rỗng. Chỉ trống rỗng mới có thể có quan
hệ với trống rỗng.
Bạch Ẩn là một người trống rỗng. Người có
bản ngã không tồn tại nữa, người không có cái ngã, người chỉ là im lặng. Để có
bất kì giao cảm nào với Bạch Ẩn, bạn sẽ phải trở thành im lặng đó. Chỉ thế thì,
nghĩa sẽ bắt đầu nảy sinh. Và nó sẽ không nảy sinh chỉ như nghĩa - nó sẽ nổ
tung. Dường như xuân đã tới với bạn và mọi nơi có mầu xanh và hoa nở và hương thơm
và chim. Nó sẽ là mùa xuân. Bạn sẽ có cảm giác khác toàn bộ về con người bạn. Bạn
sẽ được biến đổi qua nó.
Câu
hỏi thứ ba:
Có
phải chủ định duy nhất trong sự sống là nhận ra cái ngã?
Không thưa ngài, thậm chí không phải điều
đó. Ngay cả nhận ra cái ngã không phải là chủ định. Bằng cách nào đó, bạn không
thể sống mà không có chủ định. Bạn có ám ảnh với chủ định, chủ định nào đó phải
có đó. Bây giờ nếu không có chủ định khác, để nó là nhận ra cái ngã. Và bạn sẽ
cảm thấy thoải mái, bạn sẽ cảm thấy rất tốt - ít nhất có chủ định nào đó: nhận
ra cái ngã. Lần nữa bạn đã lắng đọng, lần nữa bạn đã bắt đầu nghĩ dưới dạng
phương tiện và mục đích. Lần nữa ham muốn sẽ nở hoa, bạn phải đạt tới việc nhận
ra cái ngã. Lần nữa tương lai bước vào, lần nữa bạn có thể mơ.
Trước điều đó, nó có thể đã là tiền, quyền,
danh. Nó có thể đã là Thượng đế, moksha, niết bàn, vương quốc của Thượng đế.
Bây giờ nó là việc nhận ra cái ngã. Nhưng bạn phải giữ mục đích nào đó ở đó. Và
Bạch Ẩn nói, tất cả là ở đây. Bạn muốn có cái gì đó của bờ bên kia. Và Bạch Ẩn
nói đây là bờ duy nhất. Bờ bên kia bị ẩn trong bờ bên này. Bạn không đi bất kì
đâu, bạn không tìm và kiếm, nó đã là hoàn cảnh rồi. Bạn chỉ phải ở đây, cho một
khoảnh khắc ở đây, và... chính thân này là Phật.
Bây giờ bạn đang tạo ra cái khác... Bạn
không thể sống mà không có vấn đề được sao? Bạn không thể bỏ cách tiếp cận hướng
đích được sao? Bạn không thể ở trong hiện tại được sao? Bạn chỉ có thể ở trong
tương lai sao? Và ở trong tương lai là giả dối, vì tương lại chưa tới.
Mọi người chỉ biết hai cách hiện hữu: hoặc họ ở trong quá khứ hoặc trong tương
lai. Căn cước của họ tới, hoặc từ quá khứ hoặc từ tương lai. Trong hiện tại, họ cảm
thấy rất run rẩy, vì trong hiện tại căn cước biến mất, cái ngã biến mất. Trong
hiện tại, không có gì như bản ngã.
Chỉ nhìn vào trong nó, chính khoảnh khắc
này. Bạn hoàn toàn ở đây, không một ý nghĩ khuấy động, im lặng khắp xung quanh:
bạn ở đâu? Trong im lặng này, làm sao bạn có thể tồn tại? Nó xoá bạn, bạn trở
thành phiến đá sạch tabula rasa, bạn lại trở thành đứa trẻ lần nữa.
Để giữ căn cước, hoặc bạn phải nhìn vào
quá khứ... nó cung cấp căn cước. Bạn có bằng tiến sĩ từ đại học, bạn là bác sĩ
hay kĩ sư, nhà khoa học, nhà thơ, bạn đã viết nhiều sách thế. Hay bạn thuộc vào
gia đình hoàng gia, hay thế này thế nọ. Bạn đã làm những điều này và những điều
nọ - mọi hành động được tích luỹ đó, chúng trở thành tổng cộng con người bạn.
Và bạn không phải là tổng cộng các hành động của
bạn. Có người khác ẩn đằng sau hành động của bạn - người thực, người bản chất.
Người bản chất không bao giờ làm một thứ gì. Nó đơn giản có đó, nó không phải là người
làm.
Nhưng bạn sẽ bám lấy căn cước. Bạn đã được
ca ngơi, bạn sẽ bám vào nó. Cho dù bạn đã bị kết án, bạn sẽ bám lấy nó. Thánh
nhân bám lấy quá khứ của họ, và tội nhân cũng bám vậy. Người tốt bám lấy quá khứ, người xấu cũng bám vậy, vì họ cả hai đều cần căn cước. Và mọi người ưa thích có
căn cước xấu hơn là không có căn cước. Ít nhất người ta biết người ta là ai:
'Tôi là tù nhân, tôi đã bị tống vào tù trong hai mươi năm, tôi là kẻ cắp hay kẻ
giết người. Ít nhất tôi biết cái gì đó về bản thân tôi.' Thế rồi ai đó khác là
thánh nhân và người đó đã từ bỏ thế giới và người đó nhịn ăn mọi tháng và người
đó chỉ ăn một lần một ngày. Người đó chỉ ngủ ba giờ, hàng nghìn người tôn thờ
người đó, thiên đường của người đó là chắc chắn, người đó có nhiều đức hạnh.
Nhưng cả hai đang bám vào căn cước. Và cả hai là trong cùng con thuyền, tội
nhân và thánh nhân.
Hay bạn bắt đầu thu thập căn cước từ
tương lai. Bạn sẽ làm cái này, bạn sẽ là cái này - bạn sẽ trở thành tổng thống
một nước, hay bạn sẽ trở nên rất nổi tiếng, hay bạn sẽ sớm viết sách và bạn sẽ
được giải thưởng Nobel. Bạn liên tục nghĩ về tương lai, và điều đó cho bạn cảm
giác bạn là ai.
Nhưng cả hai là giả. Cái thực chỉ là hiện
tại. Thời gian không biết quá khứ, không biết tương lai; quá khứ và tương lai
là thứ tâm trí. Thời gian chỉ biết một thời, và đó là thời hiện tại. Nhưng ở
trong hiện tại có nghĩa là phá huỷ mọi mục đích, không có sự tham gia của tương
lai. Bằng không năng lượng của bạn sẽ tuôn chảy theo hướng đó.
Bây giờ bạn nói: Có phải chủ định duy nhất
trong sự sống là nhận ra cái ngã?
Tôi liên tục lặp lại mọi ngày rằng không
có chủ định trong sự sống, sự sống là vô chủ định. Do đó, nó là đẹp. Chủ định
làm cho mọi thứ thành tựa như kinh doanh. Sự sống là thơ ca, nó không là kinh
doanh. Bây giờ bạn đã tìm ra một từ - bạn ắt đã nghĩ tôi thích từ này, 'nhận
ra cái ngã'. Toàn vô nghĩa; không có cái ngã để nhận ra. Không cái gì phải được
nhận ra. Cái thực là thực - bạn sẽ nhận ra cái gì! Cái thực đã là thực rồi và
cái không thực là không thực. 'Nhận ra' ngụ ý cái gì đó chưa là thực và bạn
đang định làm cho nó thành thực. Làm sao bạn có thể làm cái gì đó không thực trở
thành thực đâu đó trong tương lai? Làm sao bạn có thể biến đổi giả dối thành
chân lí? Giả dối sẽ vẫn còn là giả dối, và chân lí bao giờ cũng là chân lí.
Không cái gì phải được nhận ra.
Thế thì cái gì phải được làm? Câu hỏi này
nảy sinh đi nảy sinh lại trong tâm trí bạn. Thực ra không cái gì phải được làm,
bạn chỉ phải thấy cái vô tích sự của việc làm. Trong việc thấy đó, hành động dừng
lại, tâm trí dừng lại. Và cái đã từng ở cùng bạn mãi mãi, bạn đi tới cảm thấy
nó, biết nó. Không phải là bạn nhận ra nó, bạn đơn giản nhận ra nó. Thứ bị quên
được nhớ lại, có vậy thôi.
Câu
hỏi thứ tư:
Làm
sao người ta hạnh phúc?
Nếu bạn muốn hạnh phúc, bạn sẽ trở
thành bất hạnh: chính việc muốn sẽ tạo ra bất hạnh. Đó là lí do tại sao mọi người
bất hạnh. Mọi người muốn hạnh phúc và mọi người trở nên bất hạnh. Bạn không thể
thấy được điều này sao? Bạn đã bao giờ gặp một người không muốn hạnh phúc chưa?
Nếu bạn đã gặp người như vậy, bạn sẽ thấy người đó hạnh phúc. Nếu bạn gặp một
người mà nói 'Tôi không muốn hạnh phúc, tôi không quan tâm chút nào' thế thì bạn
sẽ đột nhiên thấy, đây là người hoàn toàn hạnh phúc.
Những người muốn hạnh phúc, bạn sẽ thấy khổ sở, theo cùng tỉ lệ. Nếu họ muốn hạnh phúc quá nhiều họ cũng sẽ bất hạnh quá nhiều - tỉ lệ của bất hạnh sẽ là cùng như ham muốn của họ về hạnh phúc. Cái gì đi sai? Mọi người tới tôi và họ hỏi: 'Mọi người trên thế giới muốn được hạnh phúc - nhưng thế thì tại sao nhiều người thế, gần như mọi người, bất hạnh?' Đó là lí do tại sao: vì họ muốn được hạnh phúc.
Hạnh phúc không thể được ham muốn. Bạn ham
muốn, và đi tới khổ sở; ham muốn đem tới khổ sở. Hạnh phúc là trạng thái của vô
ham muốn. Hạnh phúc là trạng thái của hiểu biết lớn rằng ham muốn đem tới khổ sở.
Có hai cách để hạnh phúc - chộp lấy sự
sống hay để nó là vậy. Một cách là chộp lấy sự sống, cách thứ hai là để nó là vậy.
Cách thứ nhất đòi hỏi hạnh phúc, từ chối mọi cái khác, và do vậy sống giữa hi vọng
và sợ, mơ và bác bỏ. Cách thứ hai nhận hạnh phúc khi nó xảy ra nhưng không đòi
hỏi nó và chấp nhận mọi cái khác nữa. Chính trong chấp nhận tất cả những cái
khác mà hạnh phúc tới. Người ta không còn bị trói buộc bởi ước muốn sợ hãi để
có, mà cũng không bị trói buộc bởi ý định điên cuồng nắm giữ, không bị trói buộc
bởi cơn sốt nắm chặt cọng rơm để chắc chắn. Thay vì thế, có sự thoải mái của việc
bơi cùng dòng sông tới nơi sông chảy.
Bạn hỏi: Làm sao người ta hạnh phúc?
Điều đó nghĩa là bạn muốn vồ lấy sự sống,
bạn muốn là hung hăng với sự sống. Bạn không thể hạnh phúc theo cách đó. Sự sống
chỉ tới với những người không hung hăng, sự sống chỉ tới với những người đang
trong cảm nhận thụ động sâu sắc. Bạn không thể bạo hành với sự sống. Vì bạn bạo
hành, bạn bất hạnh và khổ. Bạn liên tục bỏ lỡ sự sống; sự sống lẩn tránh bạn,
nó liên tục trốn khỏi bàn tay bạn. Bạn là kẻ cưỡng hiếp, bạn muốn cưỡng hiếp sự
sống. Đó là lí do tại sao bạn khổ.
Sự sống tới trong nhảy múa. Nhưng chỉ khi
bạn không bạo hành, hung hăng. Khi bạn không tham vọng, khi bạn thậm chí không
tìm hạnh phúc, khi bạn đơn giản hiện hữu ở đây, đột nhiên bạn thấy hạnh phúc
đang trút xuống - có gặp gỡ giữa bạn và hạnh phúc.
Và một người thực sự biết nghệ thuật của hạnh phúc - điều đó nghĩa là vô ham muốn - cũng biết rằng bất kì cái gì xảy
ra, đều phải được chấp nhận sâu sắc, không có việc bác bỏ. Thế thì mọi thứ dần dần
được biến đổi thành hạnh phúc. Những thứ nhỏ bé mà không tạo ra mấy nghĩa, khi
bạn chấp nhận chúng trở thành rất có ý nghĩa. Những thứ mà bạn liên tục bác bỏ
tạo ra khổ. Khi bạn bỏ bác bỏ của bạn và bạn chấp nhận toàn tâm, bạn ôm choàng
chúng, đột nhiên bạn cảm thấy ân huệ nảy sinh trong bạn. Dần dần, dần dần, khi
hiểu biết tăng trưởng và khi vô ham muốn tăng trưởng, người ta trở nên tràn ngập
hạnh phúc. Không chỉ rằng người ta trở nên hạnh phúc, người ta bắt đầu tuôn
tràn ra. Người ta bắt đầu với xa tới người khác, người ta bắt đầu chia sẻ hạnh
phúc của mình với người khác.
Cho nên đây là gợi ý của tôi: Đừng hung
hăng. Hãy thảnh thơi - đó là cách hạnh phúc tới. Chờ đợi một cách có tính cầu nguyện,
một cách biết ơn - đó là cách hạnh phúc tới. Có tính cảm nhận, là nữ tính, và hạnh
phúc tới. Đừng là nam tính, hung hăng.
Bạn có thể thấy điều đó khắp trên thế giới
- các nước quá theo đuổi hạnh phúc là những nước bất hạnh nhất. Chẳng hạn, Mĩ -
quá nhiều theo đuổi hạnh phúc. Chính việc khao khát quá nhiều đó, nỗ lực thường
xuyên đó để hạnh phúc, đang làm cho người Mĩ thành loạn thần kinh. Gần ba
trong số bốn người bị loạn thần kinh. Và về người thứ tư tôi không thể nói rằng
người đó không bị loạn thần kinh - người đó chỉ mập mờ, mơ hồ, mông lung. Điều
này chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử con người - nhiều người thế trong đủ loại
loạn thần kinh, dường như loạn thần kinh đã trở thành trạng thái bình thường của
nhân loại. Vì chưa bao giờ trước đây mọi người đã theo đuổi hạnh phúc nhiều thế,
đó là lí do tại sao.
Đi tới bộ lạc nguyên thuỷ mà xem - mọi
người vẫn đang sống mà không có văn minh, mọi người đang bị gọi là 'lạc hậu' bởi
người Mĩ - cứ đi và bạn sẽ thấy họ hạnh phúc mênh mông. Và họ là lạc hậu, và sớm
hay muộn văn minh sẽ tới và làm cho họ tiến lên. Và sẽ giáo dục họ và sẽ mở trường
học và bệnh viện và sẽ làm phục vụ lớn cho họ, và tất cả họ sẽ sớm bất hạnh và
họ sẽ cần các nhà tâm thần và nhà phân tâm. Thế thì các nhà truyền giáo hạnh
phúc, họ đã làm việc của họ. Mm? Họ đã phục vụ mọi người nhiều làm sao. Và họ
làm công việc lớn lao và họ thực sự cống hiến cho mọi người, nhưng họ không biết
đích xác họ đang làm gì.
Nước Mĩ cần trở nên lạc hậu một chút. Và
những người đó, người lạc hậu, xin hãy để cho họ một mình, họ là niềm hi vọng
duy nhất. Nhưng chúng ta không thể dung thứ được những người hạnh phúc đó. Có
thể có ghen tị nào đó - chúng ta không thể dung thứ được họ.
Có lần một người đã tới tôi. Trong ba
mươi năm người đó đã giáo dục trẻ em trong rừng rậm ở Bastar; người đó đã dâng
hiến cả đời mình. Người đó ba mươi tuổi, thế rồi người đó tới Gandhi và từ đó
trở đi người đó đã làm việc. Người đó đã cống hiến cả đời mình. Người đó đã tới
tôi xin giúp đỡ nào đó - người đó muốn một số trong các sannyasin của tôi đi và
dạy cho thổ dân. Tôi nói, 'Bạn đã tới người cuối cùng rồi. Tôi không thể làm hại
như thế cho mọi người.'
Tôi biết những người Bastar đó, tôi đã từng
ở cùng họ. Họ là một số trong những người đẹp nhất trên thế giới, họ nên được bảo
vệ. Họ là những người hạnh phúc duy nhất - họ vẫn biết cách nhảy múa và cách ca
hát và cách yêu và cách tận hưởng cuộc sống. Họ không triết lí hoá, họ không biết
số học và họ không biết lịch sử và họ không biết địa lí và họ không thể viết.
Nhưng họ vẫn có sự hiện hữu, họ vẫn có duyên dáng. Khi họ bước đi, bạn có thể thấy,
họ vẫn có sự cường tráng. Mắt họ hồn nhiên thế...
Trong nhiều thế kỉ, không ai đã tự tử, họ
không biết tới bất kì người nào đã bao giờ tự tử trong bộ lạc của họ. Và nếu
đôi khi việc giết người xảy ra, thế thì người này tự mình đi tới toà án và tường
trình cho toà: 'Tôi đã giết người. Cho nên dù hình phạt là bất kì cái gì, trao
nó cho tôi.' Người đó đi tới đồn cảnh sát. Có thể người đó phải đi bộ hai trăm
dặm, vì đồn cảnh sát ở rất xa khỏi những rừng rậm đó - và điều tốt là nó ở xa
xôi. Người đã giết người này sẽ đi bộ hai trăm dặm và sẽ đi tới đồn cảnh sát và
đầu hàng. Và không ai hỏi anh ta và không ai đi theo anh ta. Những người đẹp đẽ.
Và họ yêu mênh mông. Và bạn sẽ ngạc
nhiên, và họ được gọi là 'lạc hậu' - họ có một phòng nhỏ cho con cái họ ở trung
tâm khu dân cư, làng của họ. Họ có một phòng nhỏ cho con họ - một khi lũ trẻ
quan tâm tới dục, trẻ em của cả cộng đồng ngủ trong phòng đó. Chúng được phép
làm tình, nhưng không ai được phép đi với bất kì cô gái nào hơn ba ngày. Cho
nên mọi con trai và mọi con gái trở nên quen thuộc với mọi con trai khác và con
gái khác của toàn thể bộ lạc. Và chúng học vô sở hữu. Và yêu chỉ là chơi đùa.
Và chúng được cho mọi tự do - không có điều cấm kị, không có đè nén. Không có
khả năng nào - khoảnh khắc đứa trẻ trở nên có năng lực dục hay quan tâm tới dục,
nó lập tức đi ngủ trong phòng chung và nó tìm ra bạn tình.
Thủ dâm không được biết tới, không có nhu
cầu. Chỉ những nước rất tiến bộ mới biết nó, nó là một phần của một nước tiên
tiến. Đồng dục không được biết tới - điều đó nữa là một phần của xã hội rất giầu
có. Những người đó là người nghèo, họ không biết gì về đồng dục, không có nhu cầu.
Và chúng trở nên quen thuộc - mọi con trai trở nên quen thuộc với mọi con gái,
mọi con gái trở nên quen thuộc với mọi con trai. Và chỉ thế chúng chọn lựa.
Và một khi chúng lấy nhau, hôn nhân của
chúng có cái đẹp mênh mông. Nó thân thiết thế, vì nó phụ thuộc vào loại hoà hợp.
Con trai đã từng đi với mọi con gái, thế rồi anh ta đã chọn cô gái đi sâu nhất
vào trong tim mình và với cô ấy anh ta đi sâu nhất vào quên lãng. Anh ta biết với
người nào anh ta có thể có cực thích lớn nhất; bây giờ điều đó không phải là việc
đoán chừng. Và anh ta không quyết định bởi kích cỡ mũi và mầu tóc, những điều
đó chỉ là những thứ ngu xuẩn, và anh ta không quyết định bởi chiều cao và cân nặng.
Và anh ta không quyết định bởi quần áo, vì họ là những người trần trụi. Anh ta
đơn giản quyết định bởi kinh nghiệm bên trong nhất về cực thích - với người nào
anh ta có kinh nghiệm lớn nhất, cực lạc lớn nhất. Quyết định này bắt nguồn từ cực
lạc đó. Và đây là những người 'lạc hậu'. Đây là những người được giải phóng nhất.
Và thế thì một cách tự nhiên không có li
dị - không có nhu cầu. Vì anh ta đã tìm thấy người đàn bà và người đàn bà đã
tìm thấy người đàn ông của mình; họ đã tìm thấy đúng bạn tình, dường như họ đã
được làm ra cho nhau. Và điều đó không phải là thơ ca, điều đó không phải là mơ
tưởng mông lung. Nó không phải thứ của cái đầu, nó là kinh nghiệm lớn. Và một
khi kinh nghiệm đó đã lắng đọng, và không có vội vàng - xã hội bỏ họ đó chừng
nào họ chưa quyết định, chừng nào họ chưa tìm ra bạn tình mà với người đó họ thực
sự đi vào trong thế giới khác, vào trong chiều hướng khác, với người đó dục
không còn là dục mà trở thành lời cầu nguyện. Một khi họ đã tìm ra bạn tình đó,
chỉ thế thôi. Và cho dù thế, xã hội bảo họ đợi ít nhất một hay hai năm - đi
cùng với bạn tình, đợi hai năm sau quyết định này trước khi bạn kết hôn. Vì một
khi bạn kết hôn thế thì bạn đã lắng đọng; thế thì sẽ không có nhu cầu. Cho nên
thời gian hai năm. Nếu tuần trăng mật tiếp tục và tiếp tục và tiếp tục và sau
hai năm cậu con trai vẫn đi cùng cô gái này và cô gái này vẫn đi cùng với cậu
con trai này và họ cả hai vẫn nghĩ tới hôn nhân, chỉ thế thì xã hội ban phúc
lành cho họ.
Họ không biết bất kì li dị nào. Bây giờ
các nhà truyền giáo rất bối rối bởi những người xấu này - họ là xấu vì họ cho
phép tự do dục. Và những nhà truyền giáo bị đè nén và bị ám ảnh dục này, họ
nghĩ đây là những người vô đạo đức. Họ không phải vô đạo đức. Họ là phi đạo đức,
chắc chắn, nhưng không vô đạo đức. Họ không biết bất kì đạo đức nào. Và họ là
khoa học hơn và cách tiếp cận của họ là thực tế và thực chứng hơn.
Làm sao bạn quyết định được? Làm sao bạn
quyết định được rằng bạn sẽ ở cùng với người đàn bà này cho cả đời bạn? Xã hội
không cho phép bạn thực nghiệm. Và bạn đã không biết các đàn bà khác, cho nên bạn
rơi vào yêu với một người đàn bà và lập tức các bạn lấy nhau. Và một ngày khác
bạn thấy người đàn bà khác đi qua trên đường và bạn quan tâm và bạn trở nên mê
say. Bây giờ thì làm gì? Ghen tuông nảy sinh. Không một chuyện tình bất hợp
pháp nào được biết tới trong cộng đồng nhỏ đó của thổ dân Bastar. Một khi một
người đã lắng đọng với người đàn bà, họ đã lắng đọng. Không có ghen tuông,
không có theo dõi lẫn nhau, họ không trở nên ghen lẫn nhau. Họ đã lắng đọng từ
kinh nghiệm trái tim riêng của họ; họ đã tìm thấy người đàn bà của họ, người
đàn ông của họ. Họ không biết cách đọc - nhưng cái gì có đó để đọc? Họ biết
cách đọc tự nhiên, họ biết cách nói chuyện với cây, họ biết cách có đối thoại với
bầu trời. Họ biết đọc thực, vì họ đọc cuốn sách của sự sống và tự nhiên.
Vâng, họ sẽ không tích luỹ nhiều tiền. Họ
sẽ không trở thành Fords và Andrew Carnegies và Morgans, họ sẽ không trở nên giầu
thế. Không có nhu cầu cho bất kì người nào trở nên giầu thế - vì nếu một người
trở nên giầu thế, thì hàng triệu người trở thành nghèo. Không ai là giầu và
không ai là nghèo. Và họ có truyền thống hay rằng mỗi năm dù bạn đã tích luỹ bất
kì cái gì, bạn phải phân phối. Ngày đầu tiên của năm, họ phân phối mọi thứ. Cho
nên không người nào tích luỹ nhiều. Làm sao bạn có thể tích luỹ khi từng năm bạn
phải cho đi mọi thứ? Mọi điều bạn có, bạn phải phân phối. Cho nên không người
nào trở nên gắn bó quá nhiều với đồ vật; họ là những người rất không sở hữu.
Và họ có đủ để tận hưởng! Họ làm việc
chăm chỉ, họ là người mạnh khoẻ, và tự nhiên cung cấp cho họ nhiều hơn là được
cần. Nếu bạn không muốn trở thành giầu, tự nhiên có đủ để thoả mãn bạn. Nếu bạn
muốn trở thành giầu, thế thì không có cách nào cho bạn ngay cả để có mãn nguyện,
ngay cả để có hạnh phúc.
Ai đó đã hỏi một câu hỏi: 'Osho ơi, thầy
nói rằng trẻ em nên nghe chim và không nhìn lên bảng đen. Thế thì cái gì sẽ xảy
ra?'
Thế thì những điều đẹp sẽ xảy ra, thế thì
những điều lớn lao sẽ xảy ra. Nếu trong một trăm năm mọi đại học đóng cửa, và mọi
cao đẳng và mọi trường phổ thông đóng cửa, con người sẽ lại trở thành sống động.
Vâng, tôi biết sẽ không có nhiều tiền thế để mà vồ, tiền sẽ biến mất. Nhưng sẽ
có nhiều sự sống hơn - và đó là điều được cần. Và bạn không thể mua được sự sống
bằng tiền, bạn không thể mua được yêu bằng tiền. Tiền bạn có. Và người đã hỏi
cũng đã hỏi làm sao họ sẽ kiếm sống. Bạn nghĩ rằng năm nghìn năm trước đây khi
mọi người đã không được giáo dục họ đã không có khả năng kiếm bánh mì và bơ
sao? Họ kiếm chứ. Việc sống không bao giờ là vấn đề. Và họ đã có một thứ nữa -
sự sống. Bây giờ bạn chỉ có việc sống, nhưng không có sự sống. Bạn chỉ nghĩ về
chuẩn sống tốt hơn, bạn không nghĩ về loại sự sống tốt hơn. Bạn có số lượng
nhưng chất lượng đã biến mất.
Tự nhiên là dư thừa, nó là đủ để đáp ứng
cho chúng ta. Nhưng nếu ham muốn của bạn làm loạn thần kinh, thế thì một cách tự
nhiên, tự nhiên không thể đáp ứng được cho những ham muốn đó. Và khi chúng ta
theo đuổi những ham muốn thần kinh - tiền, quyền, danh - thế thì một cách tự
nhiên có nghèo nàn, chết đói, chiến tranh. Chiến tranh và chết đói và nghèo nàn
tồn tại vì các các trường học của bạn. Các trường học dạy tham vọng. Trường của
bạn dạy mọi người ghen ghét lẫn nhau, cạnh tranh lẫn nhau.
Chúng ta dạy gì trong các trường học? Chẳng
hạn, thầy giáo hỏi một câu hỏi và trẻ nhỏ không thể trả lời được câu hỏi. Nó có
thể đã không làm bài tập về nhà, có thể nó rơi vào buồn ngủ buổi tối, có thể có
phim hay chiếu trên ti vi, hay cả nghìn lẻ một thứ có đó để làm sao lãng. Và những
đồ vật đẹp, đồ tốt. Hay đã có khách tới nhà và nó thích thú với toán người đó.
Nó không thể trả lời được. Bây giờ nó đang đứng đó như thủ phạm, tội phạm, bị kết
án. Nó không thể trả lời câu hỏi.
Và cậu bé khác đang vẫy tay và nhảy và muốn
trả lời câu hỏi đó. Và tất nhiên thầy giáo hài lòng, và đứa trẻ khác trả lời
câu hỏi đó. Bây giờ, đứa trẻ khác đã làm cái gì? Nó đã khai thác nỗi khổ của đứa
trẻ thứ nhất. Nó đã chứng minh bản thân nó là giỏi hơn đứa kia, nó đã khai thác
tình huống này.
Bây giờ, điều này sẽ không là vậy trong
làng thổ dân nguyên thuỷ, họ không khai thác các tình huống lẫn nhau. Các nhà
nhân chủng học đã bắt gặp các bộ lạc - họ không thể hiểu được điều này - những
người sẽ không tha thứ cho cậu bé thứ hai. Vì cậu bé thứ hai là ác, bạo hành.
Khi cậu bé thứ nhất đang khổ, trong xã hội nguyên thuỷ không cậu bé nào trả lời,
chúng tất cả sẽ giữ yên tĩnh. Điều này sẽ bị coi là xấu, bạo hành - rằng khi một
người khổ, ai đó khai thác tình huống và trả lời và tận hưởng. Những người này
được coi là lạc hậu sao? Họ không vậy, họ là niềm hi vọng duy nhất.
Và một điều nữa: người này đã hỏi cái gì
sẽ xảy ra cho cuộc đời người ta nếu họ không biết số học và nếu họ không biết địa
lí và lịch sử. Họ sẽ kiếm sống thế nào? Và nó sẽ là loại xã hội gì?
Vâng, sẽ không có nhiều tiền. Có thể
không có những lâu đài lớn, có thể không có những vật dụng giầu có, công nghệ.
Nhưng sẽ có niềm vui. Và toàn thể công nghệ không xứng đáng với niềm vui một
khoảnh khắc. Sẽ có yêu và múa và hát và cảm động. Và mọi người sẽ lại trở thành
một phần của tự nhiên. Họ sẽ không tranh đấu với tự nhiên, vật lộn với tự
nhiên, họ sẽ không phá huỷ tự nhiên. Sẽ không có vấn đề sinh thái.
Nếu các trường học tiếp tục, tự nhiên sẽ
chết. Và cùng với tự nhiên, chúng ta sẽ chết.
Và một điều nữa: tôi không nói rằng mọi đứa
trẻ sẽ thích, và mọi cô gái sẽ thích, nghe tiếng hót của chim trên cửa sổ.
Không, sẽ có những đứa trẻ thích bảng đen hơn, đứa sẽ thích số học hơn. Thế thì
cái đó dành cho chúng. Mọi người không cần được giáo dục - đó là cách tiếp cận
của tôi. Chỉ những người có nhạy cảm bản chất về nó, người đó mới nên được giáo
dục. Và có vài người yêu thích số học hơn họ yêu tự nhiên. Có những người yêu
văn học hơn họ yêu cây cối. Có những người yêu kĩ nghệ, công nghệ hơn họ yêu âm
nhạc, nhảy múa, bài ca. Thế thì đây là những người được giáo dục. Mọi người là
không giống nhau. Những người này nên được giáo dục - như họ muốn, họ nên được
giúp đỡ.
Không nên có giáo dục phổ cập, điều đó là
tội. Điều đó có nghĩa là bạn đang ép buộc những người không muốn cũng phải được
giáo dục. Điều đó là phi dân chủ. Giáo dục phổ cập là độc tài.
Trong một thế giới thực sự dân chủ, cậu
bé muốn được giáo dục sẽ được giáo dục. Nhưng cậu bé muốn đi tới nghề mộc sẽ đi
tới nghề mộc, và cậu bé muốn trở thành ngư dân sẽ trở thành ngư dân. Và người
đàn bà muốn nấu ăn sẽ nấu ăn, và người đàn bà muốn nhảy múa sẽ nhảy múa. Và người
đàn bà muốn trở thành nhà khoa học, một bà Curie, cô ấy được đón chào.
Nhưng mọi người nên đi theo bản tính bên
trong của họ; không cái gì nên bị áp đặt lên họ. Giáo dục phổ cập này đang phá
huỷ mọi người. Nó dường như - nghĩ như ví dụ khác - là kẻ độc tài tới, người
yêu thích nhảy múa và ép buộc mọi người nhảy múa. Điều đó sẽ là việc xấu. Sẽ có
những người không muốn nhảy múa, và nếu bạn ép họ nhảy múa, nó sẽ là loại nhảy
múa gì? Nếu một người độc tài tới, người muốn mọi người trở thành nhà thơ, và mở
trường học và đại học để dạy thơ ca và mọi người phải làm thơ, điều đó sẽ là loại
thế giới gì? Một thế giới rất xấu. Chỉ vài người - một Shakespeare, một
Kalidas, một Milton, một Dante - sẽ tận hưởng điều đó. Nhưng với người khác thì
sao? Họ sẽ đơn giản khổ.
Và đó là điều đang xảy ra. Khi bạn áp đặt
số học lên mọi người, đó là điều bạn đang làm. Khi bạn áp đặt địa lí lên mọi
người, đó là điều bạn đang làm. Khi bạn áp đặt bất kì cái gì lên mọi người, đó
là điều bạn đang làm. Không cái gì nên bị áp đặt, đứa trẻ nên được phép tìm ra
cách riêng của nó. Và nếu nó muốn là người bạn thân, hoàn toàn tốt, không có
nhu cầu cho nó trở thành tổng thống. Người bạn thân là đẹp nếu người đó tận hưởng
công việc của mình, nếu người đó hạnh phúc với công việc của mình, nếu người đó
đã tìm ra công việc của mình.
Đừng giáo dục phổ cập.
Và các nhà truyền giáo là những người
nguy hiểm nhất. Thế giới không có nhà truyền giáo sẽ là thế giới đẹp - nó đã trở
thành địa ngục.
Bạn hỏi: Làm sao người ta hạnh phúc?
Quên về hạnh phúc đi, hạnh phúc không thể
được đạt tới một cách trực tiếp. Thay vì thế, nghĩ về bạn thích thú cái gì, bạn
thích thú làm nhất cái gì, và được cuốn hút vào trong nó. Và hạnh phúc sẽ tới
theo cách riêng của nó. Nếu bạn thích bơi, tận hưởng việc bơi đi, nếu bạn thích
chẻ củi, chẻ củi đi. Bất kì cái gì bạn thích, làm nó và được cuốn hút trong nó.
Và đột nhiên khi bạn bị cuốn hút, bạn sẽ thấy bầu khí hậu đó tới với bạn, bầu
khí hậu đầy ánh mặt trời của hạnh phúc. Đột nhiên bạn thấy nó khắp xung quanh bạn.
Đó là điều tôi muốn tạo ra trong tâm xã mới của chúng ta. Mọi người phải được
cuốn hút. Hạnh phúc là sản phẩm phụ, nó không là mục đích. Hãy làm điều bạn muốn
làm, và hạnh phúc tới.
Câu
hỏi thứ năm:
Chứng
ngộ có thể xảy ra cho người lười không?
Nó chỉ xảy ra cho người lười.
Câu
hỏi thứ sáu:
Osho
ơi, thầy có là đấng cứu tinh không? Và nếu thầy là vậy, làm sao nhận ra thầy?
Không, tôi không là đấng cứu tinh. Cả
nghìn lần không. Không ai có thể cứu được bất kì ai khác. Và bạn không nên tìm
điều đó, điều đó là lừa dối. Tôi đã cứu bản thân tôi, tôi không thể cứu bạn được,
bạn sẽ phải cứu bản thân bạn. Tôi có thể chỉ dẫn con đường, tôi có thể nói cho
bạn cách tôi đã cứu bản thân tôi. Chư phật chỉ chỉ ra con đường, nhưng mọi thứ
khác bạn phải làm. Không ai có thể cứu được bạn, bạn phải bắt đầu chịu trách
nhiệm cho bản thân bạn. Bạn đã học một thủ đoạn rất xấu của việc đổ trách nhiệm
lên ai đó khác. Tại sao bất kì ai khác phải là cứu tinh cho bạn?
Tôi không là vậy đâu. Tôi không nhận
trách nhiệm của bất kì người nào khác lên tôi. Tôi ném bạn về bản thân bạn. Đó
là cách duy nhất để giúp bạn, đó là cách duy nhất để tạo ra hồn trong bạn. Đó
là cách duy nhất để làm cho bạn cảm thấy rằng cuộc đời bạn là cuộc đời bạn. Nếu
bạn muốn nó là khổ, đó là chọn lựa của bạn, nếu bạn không muốn nó là khổ, tôi làm
ra cách thức sẵn có cho bạn. Bạn có thể bỏ khổ của bạn chính khoảnh khắc này.
Nhưng đừng bắt đầu bám lấy tôi và đừng bắt đầu ném trách nhiệm của bạn lên tôi,
bằng không sớm hay muộn, bạn sẽ bị thất vọng và bạn sẽ giận tôi.
Thỉnh thoảng có những câu hỏi - 'Tôi đã từng
ở đây trong ba tháng và, Osho ơi, thầy vẫn chưa làm bất kì cái gì cho tôi.' Tôi
là ai mà làm bất kì cái gì? Tôi chỉ có thể chỉ dẫn. Tôi là ngón tay trỏ lên
trăng. Đừng đợi, đi tới trăng đi. Đừng đợi và đừng bám lấy ngón tay. Nhưng có
những người bắt đầu cắn ngón tay tôi thay vì đi tới trăng.
Tôi không phải là cứu tinh. Lắng nghe
giai thoại hay này:
Trong chỗ để xe khu mua bán plaza tại
Midwest Mĩ, một người đàn bà cứ nhìn một người đàn ông lạ người tự nói mình là
Jesus Christ. Đám đông thường tụ tập để nghe ông ấy thuyết giảng: 'Ta là Jesus
Christ! Hãy tới đây và được cứu rỗi.' Một hôm trong lúc cáu tiết bà ấy tiến tới cái
gọi là đấng cứu thế và nói, 'Ông không là Jesus Christ hơn tôi là. Ông là kẻ lừa
gạt.' Và rồi thì Christ tự phong tuyên bố, 'Tôi là điều đó đấy, và tôi có thể
chứng minh điều đó nếu bà muốn. Đi cùng tôi nếu bà muốn bằng chứng.' Thế là bà ấy
đi cùng ông ta. Khi họ đi cùng nhau, ông ta nói, 'Bà sẽ thấy rằng tôi quả thực
không là gì khác hơn Jesus Christ.' Ông ta bước tới trước cửa một nhà và gõ cửa.
Sau vài phút một người mở cửa ra, nhìn vào người thuyết giảng và la lên, 'Jesus
Christ! Ông lại ở đây à?!' Và ông ta nói, 'Trông đấy, đây là bằng chứng.'
Tôi không định cho bạn bất kì bằng chứng
thuộc bất kì loại nào. Và đừng hỏi 'Làm sao nhận ra thầy?' - không có nhu cầu.
Chỉ lắng nghe điều tôi đang nói với bạn, để nó được biến đổi trong sự sáng suốt
riêng của bạn. Bạn không cần nhận ra tôi - như đấng cứu tinh, như một Jesus,
như một Phật - không có nhu cầu. Và làm sao bạn có thể nhận ra tôi được? Chừng
nào bạn chưa trở thành một Christ, bạn sẽ không có khả năng nhận ra Christ - bạn
sẽ không biết là Christ nghĩa là gì. Không, tôi không mong đợi bạn nhận ra tôi.
Và không có nhu cầu. Tôi là điều tôi đang là vậy, việc nhận ra của bạn sẽ không
làm ra bất kì khác biệt nào. Cho nên đừng bận tâm về điều đó. Và tôi sẽ không
cho bạn bất kì bằng chứng nào.
Và lại nhớ: Đừng nhìn tôi như đấng cứu
tinh. Vì ý tưởng này - rằng đấng cứu tinh phải tới hay đấng cứu thế phải tới -
mọi người liên tục sống theo cách họ đang sống. Họ có thể làm gì được? họ nói.
Khi đấng cứu thế tới, thế thì mọi thứ sẽ xảy ra. Đây là cách trì hoãn biến đổi của
họ, đây là cách tự dối mình của họ. Thế là đủ rồi, bạn đã lừa dối đủ rồi. Giờ đừng thêm nữa. Không đấng cứu thế nào đã bao giờ tới. Bạn phải làm công việc
riêng của bạn, bạn phải có trách nhiệm cho bản thân bạn. Và khi bạn chịu trách
nhiệm, mọi sự bắt đầu xảy ra.
Và câu hỏi cuối cùng:
Chuyện nhảm nhí, chuyện nhảm nhí, chuyện
nhảm nhí. Tại sao thầy không câm mồm? Tôi chán với bài giảng của thầy, hoàn
toàn chán.
Ồ! Thiên thần khác từ Munich à? Lần này
tên anh ta không phải là Alois, tên anh ta là Swami Deva Bhanu.
Nếu bạn chán, đừng nghe tôi! Ai bắt bạn
nghe? Bạn tự do. Nếu bạn muốn chán, thế thì hoàn toàn được, hãy nghe đi. Nhưng
quyết định là của bạn. Bạn không thể bảo tôi 'Câm mồm.' Bạn là ai mà bảo tôi?
Cho dù không ai ở đây, nếu tôi muốn nói, tôi sẽ liên tục nói. Đó là niềm vui của
tôi!
Đã từng có các thầy làm điều đó. Một thầy
lớn đã xảy ra ở Hi Lạp, Pyrrho, người thường nói ngay cả khi không có đệ tử
nào. Đệ tử sẽ ngồi đó và đệ tử sẽ cảm thấy rằng nó quá dài và thầy cứ tiếp diễn
mãi. Và đệ tử này muốn bỏ đi. Và thầy sẽ tiếp tục. Ai bận tâm về đệ tử? Pyrrho
đã thực sự là một thầy. Đó đã là bài ca ông ấy hát - nếu bạn muốn tham gia,
tham gia đi, bằng không bạn là tự do. Trừ phi bạn là kẻ tự bạo và bạn muốn tự
hành hạ bạn, thế thì đấy là quyết định của bạn. Đừng nghe tôi!
Và việc cảm thấy chán của bạn có thể chẳng
có liên quan gì tới điều tôi đang nói. Nó có thể chỉ là bạn không thể hiểu được
nó, điều đó đi phía trên đầu bạn. Cho nên ngẩng đầu bạn lên cao hơn chút ít đi!
Hay có thể bạn đang mong đợi cái gì đó
khác, có thể bạn ở đây vì một loại giải trí nào đó. Thế thì bạn ở chỗ sai rồi.
Nhưng ở đây hay không ở đây là quyết định của bạn. Bạn hoàn toàn tự do không ở
đây.
Và tôi không biết - những người khác có
thể không bị chán. Chúng ta hãy xem. Deva Bhanu đâu rồi? Bạn có thể đứng dậy được
không, thưa ngài, để mọi người có thể thấy? Tốt. Và bây giờ tôi sẽ hỏi những
người khác: Những ai không đồng ý với Deva Bhanu, giơ tay lên. Bây giờ, thưa
ngài, tôi có thể làm gì? Tôi đồng ý với bạn - nhưng hai người chúng ta là gì mà
chống lại nhiều người thế?
0 Đánh giá