Read more
Tôi mở hội bản thân tôi –
Osho
Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ
Chương 3. Thiên đường của
chính bạn
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một lần, khi Đại Điên tới
Thạch Đầu, thầy hỏi ông ấy, "Ông là sư thiền hay sư thường?"
Đại Điên đáp, "Tôi
là sư thiền."
Thạch Đầu hỏi, "Thiền
là gì?"
Đại Điên đáp, "Nó
là nháy mày nhướng mắt."
Thạch Đầu nói, "Ngoại
trừ nháy mày nhướng mắt, đem mặt nguyên bản của ông chỉ nó cho ta xem."
Đại Điên nói, "Xin
hoà thượng, ngoại trừ nháy mày nhướng mắt, và nhìn vào tôi."
Thạch Đầu nói, "Ta
đã loại trừ chúng."
Đại Điên nói, "Tôi
đã trao nó cho thầy."
Thạch Đầu nói, "Cái
gì là vô trí mà ông đã trao cho ta?"
Đại Điên nói,
"Không khác với thầy, thưa hoà thượng."
Thạch Đầu nói,
"Không quan tâm về ông."
Đại Điên nói, "Thực
sự, không có bản tính vô trí."
Thạch Đầu nói, "Với
ông cũng không có một thứ sao?"
Đại Điên nói, "Nếu
không có một thứ nào thêm nữa, cái đó là thứ thực."
Thach Đầu nói, "Cái
thực không thể được thu lấy. Cho nên, cái đó là cái ông hiểu. Duy trì nó vững
chắc và giữ nó."
Thế rồi Đại Điên từ giã
Thạch Đầu và ẩn cư ở Linh Sơn, Triều Châu, miền Nam Trung Quốc, nơi nhiều đệ tử
về sau tới tụ tập quanh ông ấy.
Các
bạn,
Tôi
đã từng nói trong nhiều năm rằng đây là lúc các chính khách phải được theo dõi,
và họ phải được chăm sóc bởi các nhà tâm thần, nhà phân tâm.
Từ
khi vũ khí hạt nhân đã tới trong sự tồn tại, các chính khách đã trở nên mạnh vô
cùng. Quyền lực chắc chắn làm biến chất, và quyền lực tuyệt đối làm biến chất
tuyệt đối. Nó không chỉ làm biến chất, nó cho bạn hoang tưởng. Và mọi chính
khách là một nhân cách chia chẻ; ông ta phải vậy. Ông ta nói điều này, ông ta
làm điều khác. Ông ta bao giờ cũng đeo mặt nạ để trưng ra cho mọi người, và mặt
thực của ông ta bao giờ cũng giấu kín. Ông ta càng ở lâu trong quyền lực, càng
nhiều khả năng ông ta bị thần kinh, tinh thần phân liệt.
Điều
đó là được trong quá khứ, vì mọi chính khách này không thể gây hại nhiều, nhưng
ngày nay điều đó là tuyệt đối khác. Một chính khách ốm yếu về tinh thần, về tâm
lí, có thể phá huỷ toàn thể hành tinh đẹp này.
Tôi
đã từng đợi bản thân các nhà phân tâm và nhà tâm thần tuyên bố tình huống này,
và tuyên bố này đã tới hôm nay.
Hai
nhà tâm thần, rất nổi tiếng, được biết tới trên toàn thế giới, Ts. Jablow Hershman
và Ts. Julian Lieb, đã viết trong tờ Washington Post gần đây rằng phải có bác
sĩ tâm thần trong Nhà Trắng. Hiện tại có một bác sĩ chính thức cho tổng thống,
nhưng không có nhà tâm thần. Họ nói, "Trong thời đại hạt nhân này, khi tổng
thống Mĩ có thể khởi động chiến tranh hạt nhân, người ta phải chắc rằng ông ta ổn
định về tinh thần, và không là chủ thể cho trạng thái phởn phơ, suy nhược thất
thường, hay xu hướng tự tử."
Họ
đã trích dẫn nhiều ví dụ. "Tổng thống Nixon, trước khi ông ta từ chức, đã
bị khổ sở trong nhiều tháng - né tránh mọi người, đi dạo lâu một mình. Ông ta từ
chối nói về ông ta cảm thấy thế nào, và đã bỏ xa gia đình mình. Ông ta đã không
ngủ đủ, và có lần không thể ngủ được trong chuỗi bốn đêm liên tiếp. Ông ta đã uống
rượu quá nhiều, đôi khi trước bữa trưa. Ông ta đã trở thành không thể dự đoán
được: phút này sắp khóc, phút tiếp bực dọc về chút gì đó vô nghĩa, và một giờ
sau ở trên đỉnh thế giới. Đôi khi ông ta dường như mất hội tụ. Ông ta dạo chơi
hay ra lệnh kì cục. Có một đêm ông ta bước tới các phòng của Nhà Trắng nói chuyện với các
bức tranh trên tường. Ông ta nói bóng gió về tự tử.
"Những
tình tiết như vậy," Hershman và Lieb nói, "thường được giữ bí mật,
nhưng chúng ta đã bắt đầu nhận ra hiện tượng này lan rộng thế nào - từ sự trì
trệ đều đặn có chu kì của Ronald Reagan, tới những tiết lộ mới nhất về Lyndon Johnson, tới
các chi tiết về những hoàn cảnh không có năng lực mà Woodrow Wilson và Franklin
Roosevelt đã chịu đựng."
Sẽ
là một dấu hiệu tốt nếu mọi tổng thống, không chỉ tổng thống Mĩ, mà mọi thủ tướng
- bất kì ai có quyền lực phá huỷ thế giới này - có một nhà tâm thần cá nhân
chăm sóc cho ông ta. Nhưng điều đó là không đủ. Con người là thân thể - bác sĩ
điều trị cá nhân có thể chăm nom điều đó.
Con
người là tâm trí - nhà tâm thần có thể chăm nom điều đó. Nhưng con người là cái
gì đó nhiều hơn nữa. Cho nên điều hai nhà tâm thần này, Hershman và Lieb, đang
gợi ý là cách chữa không đầy đủ.
Mọi tổng thống, mọi thủ tướng, mọi vua trên khắp thế giới, cũng nên có một thầy về thiền. Chỉ thế thì chúng ta mới có thể được an toàn, và hành tinh này mới có thể được an toàn.
Nhà tâm thần chỉ có thể giúp để giữ cho tâm trí bình thường, nhiều nhất, nhưng giới hạn của nó là tâm trí. Nhưng sự tồn tại của con người là lớn hơn nhiều, nó ở bên ngoài tâm trí. Cái bên ngoài đó phải được hiểu nữa, và chỉ cái bên ngoài đó mới có thể tạo ra lành mạnh đúng. Cái bên ngoài đó có thể làm cho bạn an bình và im lặng, sáng tạo, mở hội. Một khi bạn biết cái gì đó của cõi bên kia, bạn không còn tự tử, và bạn không còn sát hại.
Vũ
khí hạt nhân sẽ biến mất khỏi thế giới nếu chúng ta có thể làm cho các chính
khách hiểu sự cần thiết tuyệt đối. Cũng như họ không cảm thấy ngượng ngùng với việc có bác sĩ điều trị cá nhân, họ không nên ngượng ngùng với việc có nhà tâm
thần cá nhân, và họ không nên ngượng ngùng bởi việc có thầy thiền cá nhân. Những
người này đã trở thành cần thiết tuyệt đối.
Nếu
chúng ta muốn thế giới sống còn, các chính khách phải được giữ trong kiểm soát
bởi những người thông minh, bởi những người biết các bí mật của sự sống, của
vĩnh hằng, và những người có thể truyền đạt năng lượng đó, hiểu biết đó, kinh
nghiệm đó của hiện hữu bên trong nhất. Đây là khả năng duy nhất, bằng không thì
không có hi vọng cho nhân loại, và không có hi vọng cho sự sống - không có hi vọng
cho Phật Gautams, mọi người vươn lên đỉnh cao nhất của tâm thức, tới chiều sâu
nhất của tâm thức.
Và
hành tinh này là đặc biệt. Nó là hành tinh rất nhỏ, nhưng nó là tuyệt đối duy
nhất vì nó có sự sống, có tâm thức, và cơ hội cho việc tiến hoá thành Phật
Gautams. Nó phải được cứu bằng bất kì giá nào. Chúng ta không thể đảm đương được
tự tử toàn cầu.
Tôi
cám ơn Ts. Hershman và Ts. Lieb vì những gợi ý của họ, nhưng tôi muốn họ biết rằng
những gợi ý của họ là không đầy đủ, vì nhiều nhà tâm thần phát điên hơn bất kì
nghề nào khác - hơn gấp bốn lần. Nhiều nhà tâm thần tự tử hơn bất kì nghề nào khác.
Nhiều nhà tâm thần là mong manh với mọi loại ốm tâm trí, vì nhà tâm thần không
phải là thiền nhân. Đây là toàn thể cái nghèo bên trong của chúng ta.
Nhà
tâm thần biết về tâm trí, nhưng tâm trí trong bản thân nó không phải là cội nguồn
vĩnh hằng của sự sống. Bất kì khoảnh khắc nào nó đều có thể trượt vào trong loạn thần
kinh. Bất kì khoảnh khắc nào nó đều có thể trở thành hoang tưởng. Chút ít quyền lực
thôi...
Tôi
cũng lo nghĩ về các nhà tâm thần, người sẽ chăm nom các tổng thống và thủ tướng.
Bản thân họ có thể biến thành người hoang tưởng vì họ bây giờ có quyền lực lớn!
Cho
nên gợi ý của họ là tốt, nhưng nó phải được hỗ trợ bởi một thầy về thiền, người
có thể chăm nom cho tổng thống hay thủ tướng, và cũng có thể chăm nom cho nhà
tâm thần. Bạn có hiểu điều tôi ngụ ý không?
Điều
đó là tuyệt đối khẩn thiết vì chúng ta không có nhiều thời gian trước khi ai đó
phát điên. Bất kì khoảnh khắc nào việc huỷ diệt trái đất đều sắp xảy ra.
Các
câu hỏi từ các sannyasin.
Câu hỏi thứ nhất:
Tôi nghe thầy nói sự tồn
tại là không phán xét, nhưng tâm trí chúng tôi đầy những phán xét.
Chúng từ đâu tới vậy?
Chúng cũng có liên quan tới ý tưởng về Thượng đế sao?
Sự
tồn tại là không phán xét.
Đó
là một trong những đóng góp lớn nhất của Thiền cho nhân loại: rằng bạn không cần
là thánh nhân để được thức tỉnh. Bạn có thể được thức tỉnh từ bất kì góc nào, từ
bất kì chiều nào của sự sống.
Điều
đó gần như ai đó đang mơ rằng người đó đang giết người nào đó, và ai đó khác
đang mơ một giấc mơ rất êm đềm rằng người đó đang phục vụ người nghèo. Ai đó
đang mơ rằng mình rất đức hạnh, một thánh nhân, và ai đó đang mơ rằng mình là kẻ
sát nhân, loại tội phạm tồi tệ nhất.
Bạn
có nghĩ người mơ thánh thiện sẽ thức dậy sớm hơn, và tội nhân và tội phạm sẽ mất
thời gian lâu hơn để thức dậy không? Cả hai sẽ thức dậy đích xác vào cùng thời
gian, bằng cùng phương pháp. Cứ đổ một thùng đầy nước đá lên cả hai và họ sẽ nhảy
ra khỏi giường ngay. Không thành vấn đề liệu họ đã mơ về tội lỗi hay họ đã mơ về
đức hạnh.
Hiểu
biết của Thiền là - và tôi tuyệt đối hỗ trợ cho điều đó, nó là kinh nghiệm
riêng của tôi - rằng bạn có thể thức dậy dù bạn ở bất kì chỗ nào, dù bạn đang
làm bất kì cái gì; hành động của bạn, nhân cách của bạn, tính cách của bạn,
không có giá trị chút nào. Đây là tuyên bố vô cùng vì mọi tôn giáo đã từng bảo
bạn, "Trước hết ông phải trở thành thánh nhân, chỉ thế thì ông có thể vào
trong thiên đường của Thượng đế."
Thiền
cho bạn phẩm chất vô cùng. Không thành vấn đề bạn đang làm gì, không thành vấn
đề bạn hành xử thế nào, không thành vấn đề nhân cách của bạn là gì - lịch sự,
thô lỗ, vô văn hoá... Bạn có thể thức dậy bằng cùng phương pháp, thiền, mà
không thay đổi bất kì cái gì trong tính cách của bạn, trong hành động của bạn.
Và
sự tồn tại theo cách này là không phán xét. Nó trao sự sống cho tội nhân, nó
trao sự sống cho thánh nhân, không có bất kì phân biệt nào. Nó trao yêu, trút
im lặng lên mọi thứ, không có bất kì phân biệt nào.
Câu hỏi của bạn là, những phán xét này tới từ đâu?
Về nền tảng, nguồn gốc, chúng tới
từ hư cấu về Thượng đế. Nhưng hư cấu không thể làm được bất kì cái gì, hư cấu
phải thuê người sống. Chúng tới từ giới giáo sĩ, từ các giáo hoàng, từ các
shankaracharyas, các imams, các Ayatolla Khomeniacs.
Mới
đây, một người Mô ha mét giáo đã viết một cuốn sách về Koran linh thiêng. Nó đã
bị cấm bởi Rajiv Gandhi - và ông ấy đã không đọc nó - vì sức ép của người Mô ha
mét giáo ở Ấn Độ là rất lớn. Họ bỏ phiếu theo khối nhất trí và họ là thứ hai
sau người Hindu - họ tạo ra sợ hãi. Họ đòi hỏi rằng cuốn sách đó phải bị cấm.
Nó bị cấm ở nhiều nước theo Mô ha mét giáo.
Ayatolla
Khomeini lên đài phát thanh ở Iran và tuyên bố rằng dù người này ở bất kì chỗ
nào, người này phải bị giết, bị sát hại ngay lập tức - không chỉ người đã viết
cuốn sách này, mà người đã xuất bản nó, và người đã in nó, và người có đại lí
bán nó. Cả bốn loại người này phải bị thịt dù họ ở bất kì chỗ nào. Và đó là bổn
phận của mọi người Mô ha mét giáo là kết thúc họ nhanh nhất có thể và đốt mọi bản
in của sách này. Không bản in nào được còn lại ở bất kì đâu trong sự tồn tại.
Và người đó đã làm một việc phân tích rất lớn.
Bạn
gọi điều này là thế giới dân chủ sao?
Bạn
gọi điều này là thế giới có tự do ngôn luận sao?
Những
tu sĩ này là nguồn, nguồn trực tiếp. Nhân danh Thượng đế, họ đã làm cho tâm trí
bạn thành phán xét. Không hiểu bất kì cái gì, bạn đang mang các phán xét trong
tâm trí bạn.
Khoảnh
khắc bạn thấy cái gì đó, lập tức phán xét nảy sinh. Bạn không phải làm phán
xét, nó đã trở thành gần như tự động. Bạn thấy hoa hồng và đột nhiên bạn quan sát một
phán xét nảy sinh: "Cái này đẹp." Nhưng khoảnh khắc bạn nói,
"Cái này đẹp," phán xét đang che giấu đi hoa hồng này. Phán xét đang tới
từ những kinh nghiệm quá khứ về hoa hồng. Nhưng đây là hoa hồng mới, bạn chưa
bao giờ gặp nó trước đây, nó chưa bao giờ có trước đây trên trái đất. Lần đầu
tiên và lần cuối cùng nó đã tới trong việc diễn đạt. Bạn có thể đã thấy các hoa
hồng, nhưng hoa này không phải là các hoa hồng đó. Mọi phán xét của bạn về các hoa hồng
khác là điều bịa đặt của kí ức của bạn.
Có thứ giống như robot đã nảy sinh trong bạn: "Cái này đẹp" - không phải là bạn đã hiểu
cái đẹp của nó, không phải là bạn có tiếp xúc trực tiếp mang tính tồn tại với
cái đẹp của nó, không phải là mắt bạn là tuyệt đối thuần khiết và hân hoan với
cái đẹp của hoa hồng này.
Phán
xét tới và bạn phá huỷ hoa hồng này.
Phán
xét đứng giữa bạn và hoa hồng, và bạn mất hút trong các kí ức quá khứ về các
hoa hồng mà bạn đã thấy trước đây. Nhưng đây không phải là hoa hồng mà bạn đã từng
bắt gặp.
Bất kì phán xét nào cũng đều hướng quá khứ, và sự tồn tại bao giờ cũng ở đây bây giờ, sự sống bao giờ cũng ở đây bây giờ. Mọi phán xét đều tới từ kinh nghiệm quá khứ của bạn, giáo dục của bạn, tôn giáo của bạn, bố mẹ bạn - cái có thể đã chết, phán xét của chúng đang được mang bởi tâm trí của bạn và chúng sẽ được trao như di sản kế thừa cho con bạn. Thế hệ tiếp thế hệ, mọi bệnh được truyền như di sản kế thừa.
Chỉ
tâm trí không phán xét mới có thông minh, vì nó là đáp ứng tự phát với thực tại.
Tôi
muốn bạn bỏ Thượng đế.
Tôi
muốn bạn bỏ kinh sách của bạn.
Tôi
muốn bạn bỏ bố mẹ bạn.
Tôi muốn bạn bỏ mọi thứ đã được trao cho bạn với mọi ý định tốt - điều đó không thành vấn đề. Những ý định tốt đó không có bất kì trọng lượng nào, nhưng chúng đã làm cho bạn thành có tính phán xét. Cho nên ngay lập tức, không biết, không hiểu, không trải nghiệm, bạn đi tới phán xét. Phán xét tới ngay, nhanh tới mức nếu bạn không đủ tỉnh táo, bạn sẽ không có khả năng gạt bỏ chúng. Chúng chỉ đợi đó trong tâm trí bạn, trong bộ nhớ của kí ức. Khoảnh khắc bạn thấy cái gì đó, khoảnh khắc bạn nghe thấy cái gì đó, phán xét lập tức tới: "Nó là đúng, nó là sai. Nó tương ứng với tâm trí của tôi, do đó tôi đồng ý với nó."
Nhưng
nếu bạn đồng ý theo tâm trí bạn, bạn không đồng ý đâu, bạn đơn giản làm cho tâm
trí của bạn trở nên mạnh hơn.
Chức năng của thầy là chức năng rất tinh tế. Thầy phải lấy đi mọi tâm trí của bạn, dần dần, để cho không gian thuần khiết nào đó tồn tại trong tâm trí bạn. Chỉ thế thì bạn mới có mắt để thấy, và tai để nghe. Thế thì mọi thứ đi sâu, không có bất kì chướng ngại nào, tới chính trung tâm con người bạn.
Mọi
thứ trong sự tồn tại đang nuôi dưỡng.
Mọi
thứ trong sự tồn tại có chủ định riêng của nó, nó hoàn thành việc riêng của nó.
Cái mà bạn phủ nhận theo tri thức vay mượn của bạn là được cần bởi sự tồn tại,
bằng không nó chắc đã không có đó. Bất kì cái gì đang xảy ra bởi bất kì chỗ nào
đều phải có hỗ trợ nào đó từ sự tồn tại, bằng không nó sẽ đơn giản chết bất đắc
kì tử.
Sự
sống cần đa dạng. Hãy nghĩ về một thế giới nơi mà mọi người đều là thánh nhân đi - nó sẽ là
thế giới xấu nhất, chán nhất. Và chán sẽ trở thành nặng nề tới mức nó sẽ tạo ra
chỉ một ham muốn: làm sao kết thúc bản thân bạn, vì bạn không thể kết thúc được
mọi thánh nhân. Bạn chỉ có thể tự tử để thoát ra khỏi cái chán đó. Nếu mọi người
mà có cùng kích cỡ và có cùng mặt... dù mặt đẹp thế nào, dù nhân cách đẹp thế
nào, nếu họ tất cả là như nhau, bản sao giấy than, chắc bạn sẽ hoàn toàn chán.
Biết một đàn bà, bạn sẽ biết mọi đàn bà, kết thúc - không có cơ hội để có
kinh nghiệm khác. Biết một đàn ông, bạn sẽ biết mọi đàn ông.
Và
điều đó là không đúng vì mọi đàn ông là khác và mọi đàn bà là khác. Mọi hoa hồng
là khác với các hoa hồng khác, mọi hoa là khác với các hoa khác.
Ngay
bây giờ, khi tôi sẵn sàng tới đây, khi đang tắm, con chim cúc cu trong vườn đã
thực sự lên tiếng cúc cu! Nhưng tôi ngạc nhiên rằng mọi con chim cúc cu có giọng
hót riêng của nó để hót. Tôi có thể phân biệt rõ ràng bao nhiêu con chim cúc cu
có đó. Tiếng hót của chúng là khác, âm thanh của chúng là khác.
Sự
tồn tại chăm nom cho tính đa dạng.
Tội
nhân cũng được cần trong thế giới này - họ làm cho sự sống được vui vẻ hơn. Các
thánh nhân cũng được cần như một ví dụ rằng bạn không nên đi theo họ. Họ là chết
như chim dodo. Họ là ví dụ tốt để tránh. Tội nhân là những người tốt. Tôi chưa
bao giờ thấy tội nhân buồn và tôi chưa bao giờ thấy thánh nhân vui. Điều đó là
lạ, nó đáng phải ngược lại nếu như tôn giáo là thực. Nhưng các tôn giáo là
không thực.
Tội
nhân có phẩm chất của hồn nhiên điều thánh nhân không có. Thánh nhân rất tính
toán, rất tinh ranh. Điều họ đang làm trong tính thánh thiện của họ chỉ là mua
mảnh đất tốt nào đó, nhà tốt nào đó, tài khoản ngân hàng nào đó ở thế giới kia.
Họ là tham tới mức họ không được thoả mãn với hành tinh đẹp này và điệu vũ sự sống
đẹp này. Tội nhân là người không tham, họ hân hoan trong những thứ nhỏ bé - người
đàn bà đẹp, thức ăn ngon, chỉ chút ít đồ uống; và họ hạnh phúc thế để múa và
hát và mở hội. Đây là muối thực của đất. Họ được cần tới. Và thánh nhân được cần
để cho bạn có thể tránh họ.
Nhưng
nhớ, mọi thứ trong thế giới này có chỗ riêng của nó và có chân giá trị riêng của
nó, và bởi phán xét của bạn, bạn đang phá huỷ chân giá trị của ai đó, bạn đang
can thiệp vào lãnh thổ của ai đó.
Người
đầy phán xét trở thành xấu, trở thành không thể chịu nổi. Người không có phán
xét nào bao giờ cũng được đón chào bởi mọi người vì người đó sẽ không bao giờ
can thiệp vào lãnh thổ của bạn, người đó sẽ không bao giờ xâm lấn vào tính tâm
linh của bạn và chân giá trị của bạn.
Mọi
phán xét của bạn đều tới từ giới giáo sĩ nhân danh Thượng đế. Thượng đế không
thể tự mình làm được điều đó vì ông ta là sự dối trá; ông ta không tồn tại, ông
ta không bao giờ tồn tại. Nhưng các tu sĩ liên tục hỗ trợ cho dối trá này, đó
là chính nghề của họ. Nếu Thượng đế bị vứt bỏ hoàn toàn thế thì các tu sĩ không
có cách nào tiếp tục việc khai thác nhân loại của họ. Họ đang bán Thượng đế cho
hầu hết toàn thể nhân loại - một Thượng đế mà không tồn tại.
Tôi
đã nghe nói về một cửa hàng ở New York có quảng cáo: "Chúng tôi chế tạo kẹp
tóc vô hình."
Chắc
chắn đã có xếp hàng của các bà. Cặp tóc vô hình sao? Không đàn bà nào có thể cưỡng
lại cám dỗ này.
Một
người đàn bà nhìn vào trong hộp khi bà ấy mua nó - tất nhiên kẹp vô hình bạn
không thể thấy được - khi thấy cái hộp trống rỗng, bà ấy hỏi người bán hàng, "Ông
có chắc rằng có kẹp tóc vô hình bên trong không?"
Anh
ta nói, "Nói thẳng với bà, chúng tôi đã bán hết kẹp tóc vô hình trong gần
hai tuần rồi, nhưng cái hộp rỗng thì đang bán. Nhưng sự thực là, không có kẹp
vô hình, và chỉ hộp rỗng đang bán từ chính lúc bắt đầu."
Bạn
có thể bán kẹp vô hình cho mọi người... và Thượng đế là thứ vô hình nhất trên
thế giới. Có lẽ một ngày nào đó chúng ta có thể phát minh ra kẹp vô hình, nhưng
Thượng đế không thể được chế tạo. Và Thượng đế được chế tạo sẽ không mấy là Thượng
đế. Chúng ta muốn thay đổi mẫu mã hàng năm, và những người siêu giầu muốn thay
đổi cứ sáu tháng.
Nhưng
vì Thượng đế chẳng được tìm thấy ở bất kì đâu, các tu sĩ có thể liên tục phát đạt
trên kinh doanh này. Họ biết hoàn toàn rõ - họ là người duy nhất biết - rằng
Thượng đế không tồn tại. Nhưng họ không thể nói điều đó vì cái gì sẽ xảy ra cho
toàn thể nghề của họ? Một nghề hàng triệu năm, hỗ trợ hàng triệu tu sĩ khắp thế
giới - và họ là những người cao nhất ở mọi nơi. Họ không muốn mất nó, họ không
muốn bỏ lỡ toàn thể kinh doanh của họ.
Cho
nên họ liên tục tạo ra nhiều lời răn hơn, nhiều phán xét hơn, họ liên tục tạo
ra nhiều hư cấu thượng đế học hơn và họ liên tục nạp vào tâm trí bạn. Toàn thể
chủ định của họ là tâm trí bạn phải đầy mọi loại rác rưởi để cho bạn không thể
có bất kì không gian nào để là thông minh. Vì nếu bạn có tâm trí trống rỗng, vô
trí là không xa xôi. Tâm trí trống rỗng trở thành cánh cửa cho vô trí. Khi tâm
trí trống rỗng trở thành bàn đạp cho vô trí, nó không tạo ra vấn đề nào, không
chướng ngại nào.
Cho
nên tâm trí của bạn phải bị đổ đầy bằng Koran linh thiêng, bằng Kinh Thánh linh
thiêng, bằng Gita linh thiêng, và có hàng nghìn kinh sách. Bạn có thể chọn bất
kì loại rác rưởi nào bạn muốn - nó tới theo đủ mọi kích cỡ và mọi hình dáng. Có
chọn lựa mênh mông. Có ba trăm tôn giáo trên trái đất. Bạn không thể hình dung
được tôn giáo mới, chúng đã vét cạn mọi khả năng. Ba trăm tôn giáo về một Thượng
đế - bạn có thể chọn. Bạn được tự do chọn nhưng bạn không được tự do không chọn.
Và
đó là điều tôi đang dạy bạn: không chọn.
Thám
hiểm, khám phá, không quyết định trước khi bạn đã nhận ra. Và việc nhận ra, giải
thoát, tự do, sẽ cho bạn cái nhìn sâu vào mọi thứ. Bạn sẽ cảm thấy từ bi và yêu
thương với toàn thể sự sống đang bao quanh bạn, không phán xét.
Tôi
đã kể cho bạn câu chuyện về một Thiền sư...
Một
tên trộm đi vào trong nhà ông ấy mà không biết rằng đó là nhà của Thiền sư - nó
chẳng chứa cái gì. Thiền sư cảm thấy rất bối rối. Đêm lạnh và ông ấy chỉ có một
chiếc chăn ông ấy thường dùng trong ngày để che thân thể, và trong đêm để đắp
lên người đi ngủ. Đó là mọi thứ mà ông ấy có, và cả ngôi nhà là trống rỗng.
Ông
ấy cảm thấy từ bi với kẻ trộm này tới mức khi kẻ trộm đi ra, ông ấy ném chiếc
chăn lên vai anh ta và bảo anh ta: "Làm ơn nhận nó đi. Anh tới mà không
bao trước cho ta. Nếu như anh đã báo trước cho ta ít nhất ba ngày trước, ta chắc
đã thu thập cái gì đó cho anh. Ta cảm thấy thực sự nghèo lần đầu tiên. Ta không
thể cho anh bất kì cái gì; ngôi nhà này trống rỗng."
Và
kẻ trộm này rất sợ người này. Ông ấy đứng trần trụi trong đêm mùa đông lạnh và
ông ấy đã cho của cải duy nhất của mình, chiếc chăn. Nhưng người này là kì lạ,
ông ấy đã nói với anh ta, "Anh phải thông báo trước cho ta và thế rồi anh
có thể tới. Nhưng cho ta chút thời gian để ta có thể đi xin từ mọi người và giữ
cái gì đó cho anh. Tới bất thần mà không thông báo gì là không đúng về phần
anh."
Người
này chắc chắn là kì lạ. Tên trộm đã bắt gặp hàng trăm người - mọi người đều giận,
mọi người đã bắt anh ta trao cho cảnh sát. Anh ta đã phải chịu nằm trong tù nhiều
lần thế. Mọi người lăng mạ, mọi người xúc phạm. ra khỏi tù, cuộc sống là khó
khăn. Không ai thực sự cho anh ta việc làm, cho nên chung cuộc, anh ta phải phạm
tội khác chỉ để được vào tù vì chỗ đó trở thành nhà của anh ta. Ít nhất anh ta
có thức ăn, chỗ ở, quần áo.
Người
này là kì lạ. Anh ta trở nên sợ người này - anh ta chạy xô ra cửa.
Và
Thiền sư kêu to, "Dừng lại! Điều đó là không đúng, quay lại đi. Trước hết
cho ta lời 'cám ơn' để cho anh không cảm thấy mặc cảm rằng anh đã ăn cắp bất kì
cái gì - ta đã trao nó cho anh.
"Và
thế rồi đóng cửa lại. Anh đã mở cửa, ít nhất đây là trách nhiệm của anh để đóng
cửa lại. Ta đang trần trụi, cửa lại mở, và gió lạnh đang thổi... và anh không
có từ bi nào."
Thế
là anh ta nói lời 'cám ơn' ông ấy, và trong khi anh ta rời đi và đóng cửa,
thánh nhân nói, "Có lẽ ngày nào đó lời 'cám ơn' này sẽ cứu anh, việc đóng
cửa này sẽ giúp nhiều cho anh."
Anh
ta không thể hiểu được điều đó có thể là giúp đỡ gì... Nhưng đêm đó, nhìn từ cửa
sổ lên trăng tròn trên trời, Thiền sư đã viết bài haiku nhỏ nói:
Ta nghèo thế.
Ta yêu thích
trao trăng này cho kẻ trộm
kia,
nhưng ta không sở hữu
nó.
Hai
năm sau tên trộm bị lại bị bắt trong vụ kiện rất nguy hiểm - có lẽ anh ta sẽ bị
tù chung thân.
Quan
toà hỏi anh ta, "Anh có thể đem bất kì ai làm nhân chứng rằng anh không là
tội phạn không? Chúng ta không có bất kì bằng chứng nào, chỉ là bằng chứng hoàn
cảnh, rằng anh đã phạm tội ác. Nếu anh có thể đưa ra một người có nhân phẩm để
hỗ trợ cho anh trong đó anh là người không có năng lực làm tội ác như vậy..."
Anh
ta nhớ tới Thiền sư này vì đó là người duy nhất có thể hỗ trợ cho anh ta. Anh
ta nói cho quan toà tên của Thiền sư.
Quan
toà nói, "Anh đang nói tới một Thiền sư - ta biết ông ấy. Nếu ông ấy nói
anh không phải là tội phạm, vụ kiện này được kết thúc."
Và
Thiền sư tới và ông ấy nói, "Người này mà các ông đang nói tới là tội phạm
- người này là tốt thế. Khi ta cho anh ta chiếc chăn, anh ta đã cám ơn ta. Và
khi ta bảo anh ta đóng cửa lại, anh ta đã đóng cửa. Anh ta là người vâng lời thế,
người tốt thế. Cái chăn là không mấy, nó bị thủng, nó cũ rồi, nhưng anh ta đã
nhận nó cứ như ta cho anh ta một vương quốc. Anh ta biết ơn thế - cứ thả anh ta
ra."
Vụ
kiện được bỏ đi... Thiền sư này rất nổi tiếng, ngay cả với hoàng đế.
Kẻ
trộm đi theo Thiền sư, và Thiền sư hỏi anh ta, "Anh đi đâu?"
Kẻ
trộm nói, "Tôi không định đi bất kì đâu, tôi đi cùng thầy. Tôi đã tìm thấy
một người không có phán xét và người đã trả lại chân giá trị của tôi cho tôi. Lần
đầu tiên tôi cảm thấy tôi là con người và có ai đó yêu tôi, có ai đó cảm tôi,
và có ai đó có từ bi ngay cả với một người đã không bao giờ làm bất kì cái gì tốt."
Thiền
sư nói, "Đừng phán xét bản thân ông."
Đây
là rắc rối. Mọi người phán xét người khác và họ phán xét bản thân họ nữa. Khi họ
phán xét bản thân họ, họ cảm thấy mặc cảm; khi họ phán xét người khác họ lấy lấy
đi chân giá trị và sự kính trọng của mọi người. Tâm trí phán xét này là chiếc
kiếm hai lưỡi, nó chém cả hai cách. Nó chém bạn, nó chém người khác. Nó đã phá
huỷ toàn thể nhân loại.
Bỏ
tâm trí phán xét này đi và cùng với tâm trí phán xét này bạn sẽ bỏ mọi tôn giáo
của bạn, mọi đạo đức của bạn. Bạn sẽ trở thành đứa trẻ hồn nhiên, hân hoan
trong mọi người và trong tính duy nhất của nó.
Câu hỏi thứ hai:
Dường như là nhiều người
trong chúng tôi vẫn bị quấy rầy bởi mặc cảm, cho dù chúng tôi đã ở trong việc
giải phẫu của thầy một thời gian lâu. Không thành vấn đề nó là gì, chúng tôi cảm
thấy mặc cảm nếu chúng tôi làm, mặc cảm nếu chúng tôi không làm - tình huống
không-thắng. Và nó càng sâu hơn, nó dường như càng tinh tế và lẩn tránh hơn.
Chúng tôi sẽ bao giờ được
tự do khỏi việc tống tiền cảm xúc bên trong này? Đây có phải là cuộc giải phẫu
thầy đã làm trong những bài nói này về Thượng đế không?
Bạn
nghĩ gì?
Bằng
việc giết Thượng đế tôi đang giết mặc cảm của bạn.
Tôi
không quan tâm tới Thượng đế vì ông ta không tồn tại. Nhưng tôi phải rất thận
trọng không giết mặc cảm của bạn một cách trực tiếp, vì bạn sẽ đứng ra bảo vệ.
Cho nên tôi giết các Thượng đế - đó là cách gián tiếp của tôi để giết mặc cảm của
bạn. Bằng không tôi không quan tâm tới Thượng đế. Không có Thượng đế bạn không
thể bị mặc cảm, và đó chắc chắn là mối quan tâm của tôi.
Tôi
đang mổ Thượng đế - đó là cách gián tiếp của việc mổ bạn. Nó là một loại giải
phẫu rất kì lạ trong đó Thượng đế bị cắt thành các mảnh để cho việc bám víu của
bạn vào Thượng đế biến mất và việc bám víu của bạn vào những lời răn của Thượng
đế biến mất. Khi không có Thượng đế, đột nhiên bạn sẽ bỏ mọi đạo đức, và mọi
cái gọi là nghĩa vụ, đức hạnh. Đột nhiên bạn sẽ trở thành người không tin tôn
giáo.
Tôi
yêu người không tin tôn giáo.
Tôi
muốn thế giới trở lại trong tay người không tin tôn giáo.
Mọi
tôn giáo đã phá huỷ người không tin tôn giáo vì họ là những người không có bất
kì phán xét nào, không có bất kì Thượng đế nào, không có bất kì đạo đức nào -
chỉ đơn giản, hồn nhiên, tuôn chảy cùng tự nhiên, trong buông bỏ sâu sắc. Cho
nên bất kì cái gì đã là tự phát, họ làm, bất kì cái gì tới từ bản tính của họ,
họ đi theo. Không có vấn đề mặc cảm, không có tình huống như tình huống
không-thắng.
Người
không tin tôn giáo bao giờ cũng thắng. Bất kì cái gì người đó làm hay không
làm, người đó có chân giá trị của mình, sự kính trọng của mình. Tôi muốn bạn là
người không tin tôn giáo, đó là bước đầu tiên để là phật. Tôi đã chọn Zorba làm
ví dụ về người không tin tôn giáo, và đó là chính nền tảng. Trên nền tảng đó bạn
có thể làm điện thờ cho phật. Nhưng không có nền tảng, phật đang treo trong
không trung như quả bóng bay. Bạn có thể tôn thờ nó, nhưng bạn không thể được
nuôi dưỡng bởi nó chừng nào rễ của bạn chưa ăn sâu trong đất. Cành của bạn
không thể mọc lên trời, bạn không thể chạm tới các sao mà không có rễ sâu trong
đất. Đầu tiên bạn phải thuộc về đất, hướng về đất, chỉ thế thì bạn sẽ bắt đầu
phát triển hướng tới các sao.
Không
có rễ trong đất bạn đơn giản trở thành người ngắm sao, bạn không phát triển tới
sao. Bạn đơn giản nhìn phật, bạn tôn thờ, bạn cầu nguyện. Nhưng cả tôn thờ sẽ
không giúp mà lời cầu nguyện cũng sẽ không giúp. Cái sẽ giúp là nền tảng thực,
và nền tảng thực đó là không có Thượng đế, là không có kinh sách, là không có kỉ
luật, là không có bất kì lời răn nào. Là người tự do đi, đừng là người bị nô lệ
về tâm linh.
Một
khi bạn đã đạt tới tự do khỏi mọi hư cấu, huyền thoại này, bạn sẽ cảm thấy tuyệt
vời, tươi tắn, trẻ trung và sống động tới mức điệu vũ sẽ tự nó tới. Giầu có thừa
thãi thế trong con người bên trong nhất của bạn... vì con người bên trong nhất
của bạn là chỗ từ đó bạn được nối với càn khôn. Rễ của bạn trong càn khôn tăng
trưởng từ trung tâm bên trong nhất của bạn. Một khi bạn đã chấp nhận sự tồn tại
như nó vậy, bạn đã chấp nhận bản thân bạn cũng như bạn vậy.
Nếu
bạn muốn cải tiến lên sự tồn tại, lên người khác, bạn không thể thoải mái với bản
thân bạn được. Những phán xét riêng của bạn sẽ giết bạn. Bạn không bao giờ nghĩ
về điều đó... bất kì khi nào bạn phán xét ai đó, bạn đang phán xét bản thân bạn
nữa; nếu bạn kết án ai đó là kẻ cắp, bạn đang kết án bản thân bạn nữa. Bạn có
thể đã làm nhiều loại ăn cắp - bạn có thể đã ăn cắp ý nghĩ từ người khác, bạn
có thể đã ăn cắp các giả thuyết từ người khác.
Không
chỉ là tiền bạc, bất kì cái gì mà bạn lấy từ người khác mà không biết ơn người
đó, không có việc biết của người đó, đều là ăn cắp. Tiền là thứ bình thường nhất
trên thế giới, có những giá trị cao hơn nhiều. Khi bạn bắt chước bạn đang ăn cắp
đấy. Nếu bạn bắt chước Jesus, nếu bạn bắt chước Phật, bạn đang làm gì? - bạn
đang ăn cắp nhân cách của họ. Bạn là kẻ cắp thuộc loại tồi nhất và bạn không thể
cảm thấy thoải mái.
Mọi
người không thể chấp nhận được bản thân họ vì họ không thể chấp nhận được người
khác như họ vậy. Tôi chưa bao giờ phán xét trong đời tôi. Tôi đã yêu mọi loại
người; chỉ tính duy nhất của họ làm cho họ thành đáng yêu. Và vì tôi đã yêu mọi
loại người mà không phân biệt, tôi không có cách nào cảm thấy mặc cảm, tôi
không có cách nào bác bỏ bản thân tôi. Tôi đã yêu bản thân tôi vô cùng.
Hai
điều này đi cùng nhau: nếu bạn phán xét người khác bạn sẽ cảm thấy mặc cảm, và
bạn cũng sẽ phán xét bản thân bạn liên tục - liệu nó là đúng hay sai. Cả hai điều
này phải bị bỏ cùng nhau vì chúng là hai mặt của cùng một hiện tượng. Và điều
đó là dễ dàng thế. Đừng hỏi tôi điều đó sẽ mất bao lâu - đó là cách thức tinh
ranh của trì hoãn. Điều đó không mất thời gian, điều đó cần hiểu biết. Và hiểu
biết đó là có thể bây giờ, chính khoảnh khắc này. Bạn bỏ mọi phán xét của bạn -
bạn bỏ mọi mặc cảm của bạn. Chúng đi cùng nhau tiêu tan.
Thế
thì bạn sẽ sống như con vật mạnh khoẻ, và từ mạnh khoẻ và từ con vật mạnh khoẻ
của bạn sẽ nảy sinh kinh nghiệm lớn nhất có thể có. Khi bạn trở thành tự nhiên
bạn đang tới gần hơn với kinh nghiệm của phật.
Chỉ
các Zorba có thể là chư phật.
Bản
thân Phật Gautam đã là một Zorba. Phật tử không hiểu điều đó. Trong hai mươi
chín năm đời ông ấy - phần đầu đời của ông ấy - ông ấy có nhiều đàn bà đẹp như
bất kì đàn ông nào trong toàn bộ lịch sử. Ông ấy đã có mọi loại thuận tiện và
xa hoa mà sẵn có vào thời đó. Ông ấy đã sống trong xa hoa nhiều thế, uống rượu,
múa, hát - đó đã là toàn thể cuộc sống của ông ấy trong hai mươi chín năm. Điều
không thường xảy ra cho bạn ngay cả tới lúc bạn tám mươi, đã xảy ra cho ông ấy
trước tuổi hai mươi chín.
Ông
ấy đã trở nên chán ngán - mọi thứ là lặp lại. Vì ông ấy được bao quanh với nhiều
đàn bà thế ông ấy đã trở nên chán đàn bà. Bạn không trở nên chán vì vợ bạn. Vợ
bạn là sự bảo vệ, cô ấy không cho phép bạn nhìn theo cách này hay cách nọ, cô ấy
giữ bạn nhìn thẳng, nhìn lên trước - một mét hai phía trước, không nhìn lên! Và
bạn không muốn tạo ra rắc rối không cần thiết cho bản thân bạn, cho nên bạn phải
tuân theo. Và bởi vì cô ấy áp đặt những đạo đức nào đó lên bạn, bản thân cô ấy
phải tuân theo những đạo đức đó; bằng không cô ấy sẽ không có khả năng áp đặt
chúng.
Đó
là hệ thống rất phức tạp. Chồng trở thành nhà tù cho vợ, vợ trở thành nhà tù
cho chồng. Cả hai vừa là tớ và cả hai vừa là chủ; cả hai là các tù nhân và cả
hai là cai tù - và cả hai muốn gạt bỏ! Nhưng cả hai có các giá trị - rằng hôn
nhân được làm trên Cõi trời, và điều Thượng đế đã đặt vào với nhau bạn phải
không được tách ra.
Bây
giờ, không hôn nhân nào tôi đã thấy là xảy ra trên Cõi trời. Bản thân Thượng đế
không có vợ và ngài đã thoát khỏi đàn bà thật xa - có lẽ xa tới hàng triệu năm
ánh sáng... không có khả năng nào tìm ra bất kì đàn bà nào. Nhưng ham muốn có
đó cho nên ngài thỉnh thoảng tới để tạo ra một Jesus Christ. Thỉnh thoảng thôi,
ngài phải được tha thứ... anh chàng đáng thương đang sống cùng với Thánh Linh.
Tôi đã cố tìm xem Thánh Linh này là đàn ông hay đàn bà; có lẽ ông ta có năng lực
vận hành theo cả hai cách!
Tôi
đã nghe một câu chuyện...
Khi
Henry Ford chết... và ông ấy là người cầu toàn và một người vĩ đại, một trong
những người vĩ đại nhất, giầu có nhất. Ông ấy xuất thân từ một gia đình nghèo
và mọi điều ông ấy đã tạo ra đã là bởi nỗ lực riêng của ông ấy với thông minh
riêng của ông ấy.
Cho
nên khi ông ấy gặp Thượng đế trên Cõi trời, Thượng đế đã hỏi Henry Ford - vì
ông ấy đã là người đúng để hỏi - "Ông nghĩ gì về sự sáng tạo của ta? Ông
là người cầu toàn, ta biết. Ông đã tạo ra những chiếc xe tốt nhất và ông liên tục
cải tiến và cải tiến và cải tiến. Ông nghĩ gì về sáng tạo của ta?"
Ông
ấy nói, "Sáng tạo của ngài cần cải tiến nhiều lắm."
Thượng
đế nói, "Ví dụ xem nào?"
Ông
ấy nói, "Chẳng hạn, ngài đã đặt trung tâm vui thú của đàn ông và đàn bà
vào chỗ sai. Trung tâm vui thú của đàn bà ở giữa hai ống xả!"
Ông
ấy là nhà chế tạo xe hơi, và ông ấy dường như là đúng: "Ngài là loại người
bẩn thỉu gì vậy? Trung tâm vui thú ở chỗ bẩn nhất. Ngài không thể đặt nó ở đâu
đó khác được sao? - trong tay chẳng hạn...?"
Và
tôi nghĩ phê bình của ông ấy là đúng.
Thượng
đế bị choáng - ngài đã nghĩ rằng Henry Ford là người Ki tô giáo!
Nhưng
khi bạn áp đặt phán xét lên mọi người, những người này sẽ áp đặt phán xét lên
Thượng đế nếu tình cờ họ gặp ngài.
Tâm
trí phán xét sẽ phán xét mọi người, nó sẽ phán xét bản thân người đó. Mọi thứ
trở thành khổ, mọi thứ dường như là sai, mọi thứ dường như là phủ định. Người
đó bao giờ cũng liên tục đếm gai trong bụi hồng và không bao giờ nhìn vào hoa.
Không có thời gian để nhìn vào hoa, đếm gai chiếm cả đời người đó. Người đó bao
giờ cũng nhìn và phía tối của mọi sự. Nếu bạn hỏi người đó, người đó sẽ nói,
"Đó là thế giới khổ. Giữa hai đêm chỉ có một ngày!"
Toàn
thể cảm nhận của người đó là để kết án và người đó cảm thấy thoải mái trong kết
án. Nhưng người đó không biết rằng khi người đó kết án người khác, người đó
cũng kết án bản thân mình. Sâu bên dưới người đó sẽ cảm thấy mặc cảm.
Đừng
trì hoãn. Đừng hỏi tôi điều đó sẽ mất bao lâu - điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Nếu
bạn khổ và cảm thấy bị mắc trong tình huống không-thắng, thế thì sao mang nó? Nếu
tôi có thể bỏ nó, tại sao bạn không thể bỏ được nó? Tôi không là đấng cứu tinh,
hay nhà tiên tri, hay hoá thân của Thượng đế. Tôi không có bất kì quyền năng
phép màu nào cùng tôi, tôi chỉ là người như bạn vậy. Nếu tôi có thể làm được điều
đó, ai ngăn cản bạn?
Có
lẽ bạn đã bắt đầu tận hưởng khổ của bạn. Có lẽ bạn đã trở thành quen và dường
như là nếu bạn bỏ khổ của bạn, bạn sẽ là trống rỗng. Vâng, bạn sẽ là trống rỗng,
nhưng chỉ trong thời kì chuyển tiếp mà rất nhỏ. Trong một khoảnh khắc bạn sẽ cảm
thấy tất cả bị mất, nhưng bạn sẽ sớm thấy trống rỗng của bạn bắt đầu trở nên được
rót đầy với năng lượng mới một cách toàn bộ mà bạn đã từng đè nén bằng phán xét
của bạn, và mặc cảm, và đạo đức, và tôn giáo, và Thượng đế.
Đột
nhiên bạn sẽ cảm thấy từ chính cội nguồn riêng của bạn nước mới, tươi mát của sự
sống đang dâng lên như suối nước. Bạn sẽ sớm thấy bản thân bạn được rót đầy với
sự mãn nguyện vô cùng, được rót đầy bằng ánh sáng, niềm vui, phúc lạc - không
chỉ được rót đầy mà còn tràn ngập. Việc dư thừa như vậy là có thể, nhưng bạn phải
nhận mạo hiểm là trống rỗng. Và nó không là mấy vì điều bạn mất chỉ là khổ, mặc
cảm, buồn, đau khổ, lửa địa ngục; điều bạn bỏ đi không đáng giữ lại.
Và
một khi bạn sạch sẽ, bạn sẵn sàng cho sự tồn tại để khẳng định bản thân nó với
mọi duyên dáng và cái đẹp của nó, với mọi trí huệ và chứng ngộ của nó. Nhưng
trong một khoảnh khắc bạn sẽ phải là trống rỗng.
Trước
khi cái mới đi vào, cái cũ phải đi ra.
Trước
khi chân lí đi vào, cái giả phải rơi ra.
Và
bạn chắc chắn bị tống tiền. Toàn thể nhân loại đã từng bị tống tiền, và việc tống
tiền vẫn tiếp tục. Từ chính thời thơ ấu điều đó bắt đầu và nó tiếp diễn ngay cả
khi bạn đi vào trong mồ của bạn và tu sĩ đang làm lễ. Từ sinh tới tử tu sĩ đang
tống tiền bạn nhân danh Thượng đế, nhân danh những điều lớn lao. Chính khách
đang tống tiền bạn nhân danh chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa yêu nước. Bố mẹ
riêng của bạn đang tống tiền bạn nhân danh vâng lời và kính trọng người già.
Một
lần tôi đã tham gia vào một xê mi na toàn Ấn Độ của các giáo sư được tổ chức bởi
chính phủ liên bang dưới sự đỡ đầu của bộ giáo dục. Mọi giáo sư đã thảo luận chỉ
một điều - hết giáo sư này, đến giáo sư khác, giáo sư khác, giáo sư khác - rằng
vấn đề là ở chỗ sinh viên không có bất kì kính trọng nào, và cái gì đó phải được
làm về nó. Dường như mọi người đã trong đồng ý tuyệt đối.
Khi
đến lượt tôi phát biểu, tôi nói, "Tất cả những người này đang nói điều vô
nghĩa."
Ông
bộ trưởng giáo dục bị choáng, và tất cả những giáo sư đã rơi vào giấc ngủ tỉnh
dậy. Tôi nói, "Vấn đề không phải là sinh viên không có kính trọng, vấn đề
là ở chỗ các giáo sư không xứng đáng được kính trọng. Các vị đang xét vấn toàn
thể vấn đề từ phía sai; đó là lí do tại sao các vị không thể giải quyết được
nó.
"Và
tôi đang nói điều đó từ kinh nghiệm riêng của tôi. Tôi đã là giáo sư trong chín
năm và không ai đã từng bất kính với tôi. Vì tôi kính trọng sinh viên của tôi,
làm sao họ có thể bất kính tôi được? Tôi kính trọng họ, tôi yêu họ, tôi cho họ
tự do. Tôi bảo họ: Nếu các em muốn rời khỏi lớp các em có thể rời một cách im lặng
không làm phiền bất kì người nào. Đừng hỏi tôi; các em không cần hỏi. Bất kì
khi nào các em muốn vào lớp các em có thể vào. Đừng hỏi tôi vì việc hỏi của các
em làm rối tôi và rối lớp."
Khi
tôi lần đầu tiên vào đại học tôi không thể tin được vào mắt mình: con gái ngồi
một bên, con trai ngồi bên kia, và ở giữa có kẽ hở lớn. Tôi nói, "Vấn đề
gì vậy? Tôi sẽ nói cho ai? Cho kẽ hở này à? Và tôi không có loại mắt nhìn theo
cách này..."
"Cho
nên nếu các em muốn tôi dạy, tất cả các em phải mang bàn của các em vào giữa và
ngồi cùng nhau, vì tôi ghét nhìn các em ném thư - điều đó là xấu. Tại sao không
ngồi cạnh bạn gái và tận hưởng hơi ấm và chia sẻ tình yêu của các em? Các em đủ
lớn - các em không cần bất kì kiểm soát nào. Tôi nghĩ các em không phải là người
ăn thịt và rằng các em sẽ ăn bạn gái hay làm cái gì đó... cho nên trộn lẫn lại
ngay đi!"
Họ
nhìn nhau vừa nghĩ, "Điều này là tình huống rất kì lạ. Mọi giáo sư vận
hành như một đốc hiệu, giữ chúng mình tách ra, và thầy này dường như là kì lạ..."
Tôi
nói, "Nhanh lên, bằng không tôi sẽ rời khỏi lớp và tôi sẽ không bao giờ
quay lại!"
Một
cách không sẵn lòng họ phải kéo bàn của họ lại cùng nhau. Với bối rối lớn họ đi
tới các bạn gái người mà họ đã từng ném đá, người có xe đạp bị họ chọc thủng lốp.
Các bạn gái rất bối rối... và tôi nói, "Ngồi gần nhau vào. Tại sao các em
co lại phía này và bạn gái co lại về phía kia? Kẽ hở đó giữa các em phải được lấp
lại. Ngồi cùng nhau đi!"
Họ
báo với thầy hiệu phó: "Chúng em được cho là phải làm gì? Giáo sư khác tới
và thầy ấy nói 'Cái gì xảy ra? Để bàn của các em tách ra! Ai đã làm điều này?'
Và chúng em liên tục mang bàn từ bên nọ sang bên kia."
Thế
là ông hiệu phó gọi tôi lên và ông ấy nói, "Điều này là không đúng về phần
thầy."
Tôi
nói, "Thầy đã bao giờ là thanh niên chưa?"
Ông
ấy nói, "Có."
Tôi
nói, "Thế thì thẳng thắn đi. Thầy đã bao giờ yêu một cô gái khi thầy là
sinh viên không?"
Ông
ấy nhìn quanh để xem rằng không ai đang nghe... Tôi nói, "Không có ai đâu.
Mỗi tôi ở đây, và thầy có thể nói thật."
Ông
ấy nói, "Có."
Tôi
hỏi ông ấy, "Thầy đã bao giờ chọc lốp xe của họ, ném đá họ không?"
Ông
ấy nói, "Có."
Tôi
nói, "Thế thì thầy hiểu mọi chuyện. Thầy đang tạo ra tình huống phi tự
nhiên. Bây giờ sinh viên của tôi sẽ không chọc lốp xe của bất kì ai, họ sẽ
không ném đá - họ không phải làm điều đó. Và điều này là tuyệt đối tự nhiên. Họ
là trưởng thành về dục - họ đã trở thành trưởng thành lâu trước đây rồi khi họ
mười bốn và mười ba. Bây giờ họ hai mươi hai, hai mươi bốn, hai mươi nhăm. Thầy
đã hành hạ họ trong mười năm liên tục, tống tiền họ chống lại sinh học, chống lại
sự tồn tại, chống lại tự nhiên. Đây là lúc họ phải có nhiều kinh nghiệm nhất có
thể trước khi họ chọn người đàn bà hay chọn chồng."
Bạn
đi mua sắm... ngay cả với những thứ nhỏ bé bạn đi nhiều cửa hành để kiểm giá, để
xem sản phẩm. Bạn sẽ sống với người đàn bà hay người đàn ông cả đời bạn và bạn
đã không đi mua sắm sao...? Trước hết đi mua sắm đã. Chỉ đi quanh và có nhiều
kinh nghiệm nhất có thể được. Nếu bạn thông minh, mọi kinh nghiệm nào sẽ làm
cho bạn giầu có hơn. Thế thì bạn sẽ có năng lực tìm ra người đàn bà hay người
đàn ông mà với người đó bạn có thể ở trong yêu và tình bạn sâu sắc.
Không
có nhu cầu li dị. Li dị sẽ rất ít nếu chúng ta cho trẻ em đủ kinh nghiệm. Thế
thì họ sẽ biết rằng có hơi khác biệt giữa đàn ông và đàn ông, đàn bà và đàn bà.
Và họ cũng sẽ đi tới biết loại đàn bà nào, loại đàn ông nào họ cảm thấy thoải
mái nhất, như ở nhà. Bạn không cho bất kì cơ hội nào. Điều này là tống tiền vô
cùng.
Bố
mẹ bạn chịu trách nhiệm, Thượng đế của bạn chịu trách nhiệm, các tu sĩ chịu
trách nhiệm, thầy cô giáo của bạn chịu trách nhiệm - toàn thể xã hội chịu trách
nhiệm. Nhưng chung cuộc bạn chịu trách nhiệm. Tại sao bạn sống trong nhà tù này
khi các cửa mở? Thoát ra đi! Và đừng hỏi tôi điều đó mất bao lâu. Nó tuỳ vào bạn
liệu bạn chạy ra khỏi nhà tù, hay bước đi theo cách bạn sẽ bị bắt lại và bị đưa
lại vào xà lim của bạn.
Một
đứa bé đến trường muộn vào ngày mưa, và cô giáo hỏi nó, "Johnny, con bao
giờ cũng đi muộn. Con lại đi muộn nữa à?"
Nó
nói, "Con có thể làm được gì? Đường trơn tới mức con đưa một chân lên trước
và con sẽ trượt lại sau hai bước."
Cô
giáo nói, "Nếu con đúng, thế thì con xoay xở thế nào để tới đây? Một bước
đi lên hai bước lùi lại... con không bao giờ có thể tới đây."
Nó
nói, "Cô không hiểu rồi. Thế thì con bắt đầu bước hướng về nhà con! Cuối
cùng, con đã tới trường."
Cho
nên điều đó tất cả tuỳ thuộc vào bạn - nó là đường rất trơn. Nếu bạn thực sự muốn,
khoảnh khắc này nó có thể xảy ra. Nhưng nếu bạn trì hoãn, thế thì có lẽ không
bao giờ. Bây giờ hay không bao giờ.
Lời
kinh:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một lần, khi Đại Điên tới
Thạch Đầu, thầy hỏi ông ấy, "Ông là sư thiền hay sư thường?"
Đại Điên đáp, "Tôi
là sư thiền."
Thạch Đầu hỏi, "Thiền
là gì?"
Đại Điên đáp, "Nó
là nháy mày nhướng mắt."
Chắc
chắn có phương pháp cổ đại từ Đạo giáo sang Thiền - nó có thể cho bạn tâm trí rất
trống rỗng. Nếu bạn chỉ nhắm mắt lại và chuyển động nhãn cầu, bạn sẽ sớm thấy bạn
bị chóng mặt như các thầy tu xoay tít trong Sufi giáo bị chóng mặt, chỉ bởi việc
xoay tít. Nhưng khi thầy tu Sufi chóng mặt ông ấy bắt đầu cảm thấy trung tâm của
xoáy lốc. Toàn thân ông ấy đang chuyển động, nhưng có cái gì đó ở chính trung
tâm là bất động - đó là chính con người ông ấy.
Với
Mevlana Jalaluddin Rumi phải mất ba mươi sáu giờ liên tục xoay tít. Ông ấy cứ
xoay tít mãi. Và đó là toàn thể bí mật của nó - rằng bạn phải không dừng lại vì
bạn cảm thấy mệt, bạn phải tiếp tục và tiếp tục cho tới khi bạn ngã. Không phải
là bạn phải xoay xở để ngã, bạn chỉ liên tục làm việc xoay tít. Một thời điểm
nhất định tới khi bạn không thể xoay xở mà không ngã. Bạn sẽ ngã xuống gần chết.
Tôi nói gần chết - toàn thân hoàn toàn mệt mỏi. Nhưng ở đó bạn có thể thấy sự
khác biệt, vì toàn thân mệt thế và chết thế, nó muốn trở lại với đất chỉ để nghỉ
ngơi. Bạn sẽ thấy bên trong bạn vẫn có một trung tâm đầy ánh sáng, đầy năng lượng,
không mệt chút nào. Tương phản được cần để thấy trung tâm đó.
Thiền
có phương pháp đơn giản hơn nhiều. Không cần đứng và xoay tít. Bạn chỉ ngồi xuống
và quay mắt bạn, nhãn cầu của bạn, mỗi lúc một nhanh hơn, và bạn sẽ sớm thấy
toàn thể đầu bạn xoay tít. Một khoảnh khắc tới khi chính việc xoay tít của đầu
bên trong cho bạn lối chuyển dẫn tới chính trung tâm của bạn ở dưới rốn.
Trong
Thiền họ gọi nó là đan điền hara - nó là chính nguồn sống của bạn. Bạn phải đã
nghe rằng ở Nhật Bản, tự tử được gọi là hara-kiri. Nếu bạn ấn con dao vào khoảng
6 cm dưới rốn, nó sẽ đâm vào trung tâm hara mà là nguồn sống của bạn. Cho nên
không một giọt máu, người này chết vì anh ta đã đâm vào trung tâm sống và mở cửa
cho sự sống bay vào sự tồn tại. Họ đã tìm thấy phương pháp tốt nhất để tự tử.
Nhưng làm sao họ đã tìm ra nó? Họ đã thấy nó qua thiền. Cùng trung tâm này là
sinh của bạn, và cùng trung tâm này là chết của bạn.
Cho
nên khi bạn xoay tít đầu bạn, bạn sẽ thấy lối chuyển mà không bị chạm tới chút
nào bởi việc xoay tít của bạn - hoặc bằng việc xoay tít thân thể, hoặc chỉ bằng
việc chuyển động nhãn cầu. Cả hai làm cùng chức năng - bạn đạt tới trung tâm sống
của bạn.
Có
lẽ sư Thiền này đã từng dùng phương pháp đó cho thiền. Cho nên ông ấy nói,
"Nó là nháy mày nhướng mắt."
Thạch
Đầu nói, "Ngoại trừ nháy mày nhướng mắt, đem mặt nguyên bản của ông chỉ nó
cho ta xem. Cả lông mày lẫn nhãn cầu không chứa mặt nguyên bản của bạn, vị phật,
người thức tỉnh. Cho nên bỏ chúng sang bên, những cái này là thứ không cần thiết,
không bản chất. Đem mặt nguyên bản của ông chỉ nó cho ta xem.
Đại
Điên nói, "Xin hoà thượng, ngoại trừ nháy mày nhướng mắt, và nhìn vào
tôi."
Đại
Điên chắc chắn là rất gần tới chứng ngộ. Anh ta nói với Thạch Đầu, "Xin
hoà thượng - Ôi, đại sư - ngoại trừ nháy mày nhướng mắt, và nhìn vào tôi. Đây
là mặt nguyên bản của tôi."
Thạch
Đầu nói, "Ta đã loại trừ chúng."
Đại
Điên nói, "Tôi đã trao nó cho thầy. Nếu thầy đã loại trừ lông mày và nhãn
cầu, tôi đã trao mặt nguyên bản của tôi cho thầy."
Những
đối thoại này là giá trị thế, huyền bí thế. Nhưng một khi bạn đã hiểu cái mẹo để
hiểu chúng, chúng cho bạn chìa khoá vô cùng để mở những điều huyền bí của sự sống.
Đại
Điên nói, "Tôi đã trao nó cho thầy."
Thạch
Đầu nói, "Cái gì là vô trí mà ông đã trao cho ta?"
Đại
Điên nói, "Không khác với thầy, thưa hoà thượng." Nó là cùng một thứ:
thầy có nó; tôi cũng có nó. Không có nhu cầu về bất kì giải thích nào, không có
nhu cầu về bất kì câu trả lời nào từ thầy. Nó là cùng một điều - không khác với
thầy, thưa hoà thượng."
Thạch
Đầu nói, "không quan tâm về ông."
Đại
Điên nói, "Thực sự, không có bản tính vô trí."
Anh
ta nói, "Một khi tôi đã tìm thấy mặt nguyên bản của tôi, tôi không còn nữa.
Và khi tôi không còn nữa, tâm trí tôi không còn nữa, vô trí của tôi cũng không
còn nữa. Thực ra, tính cá nhân của tôi đã tan chảy vào trong toàn thể càn khôn.
Đừng hỏi tôi câu hỏi về người, tôi không còn là người, chỉ là sự hiện diện."
Thạch
Đầu nói, "Với ông cũng không có một thứ sao?" Ông có chắc rằng ông
không có bất kì cái gì còn lại mà cần bị làm tan biến không?
Đại
Điên nói, "Nếu không có một thứ nào thêm nữa, cái đó là thứ thực."
Khi
bạn không có bất kì cái gì bạn có thứ thực, chính bản chất của sự tồn tại,
chính bản chất của sự sống. Khi bạn mất bản thân bạn, bạn đã tìm thấy bản thân
bạn thực lần đầu tiên. Đây là điều huyền bí của sự tồn tại.
Bằng
việc mất đi bạn tìm thấy.
Bằng
việc tan biến bạn vươn dậy.
Bằng
việc biến mất bạn tìm thấy bản thân bạn trở thành cái toàn thể - không biến mất
nhưng mở rộng tới vô hạn.
Một
phát biểu lớn từ Đại Điên: "Nếu không có một thứ nào thêm nữa, cái đó là
thứ thực."
Thạch
Đầu nói, "Cái thực không thể được thu lấy. Cho nên, cái đó là cái ông hiểu.
Duy trì nó vững chắc và giữ nó."
"Cái
thực không thể được thu lấy" nghĩa là cái thực bao giờ cũng có đó. Cho nên
không có vấn đề đạt tới nó, thu lấy nó, tìm thấy nó, đạt tới nó, nhận ra nó. Tất
cả những từ này là vô nghĩa. Nó đã có đó rồi; bạn chưa bao giờ đánh mất nó.
"Cái
thực không thể được thu lấy. Cho nên, cái đó là cái ông hiểu. Duy trì nó vững
chắc và giữ nó."
Thế
rồi Đại Điên từ giã Thạch Đầu và ẩn cư ở Linh Sơn, Triều Châu, miền Nam Trung
Quốc, nơi nhiều đệ tử về sau tới tụ tập quanh ông ấy.
Ông
ấy đã trở thành thầy theo quyền riêng của ông ấy, không nói một lời khi Thạch Đầu
nói, "Nếu ông hiểu điều này, thế thì duy trì nó vững chắc và giữ nó."
Thạch Đầu đã cho ông ấy công nhận chính thức về chứng ngộ: "Ông hiểu nó,
ông rất rõ ràng về nó. Ta đã thử bẫy ông vào câu hỏi nào đó, nhưng ông bao giờ
cũng xoay xở thoát ra khỏi nó. Cho nên bây giờ ông đã có nó, duy trì nó, giữ lấy
nó."
Đại
Điên không nói một lời. Trong im lặng sâu sắc, trong biết ơn sâu sắc - cái ở
ngoài lời - ông ấy đơn giản ra đi và chuyển tới núi ở nam Trung Quốc nơi nhiều
đệ tử về sau tới tụ tập quanh ông ấy.
Bạn
là sự sống, sự sống vĩnh hằng.
Bạn
là sự tồn tại, sự tồn tại vô hạn.
Bạn
là vô trí thuần khiết.
Chỉ
bị hướng dẫn sai, bị định hướng sai, bạn đã quên bản thân bạn. Mọi điều được cần
là, theo lời Phật Gautam, "Sammasati - chỉ nhớ tới cái ngã của ông."
Bạn không phải đi bất kì chỗ nào, chỉ việc nhớ về ngôn ngữ đã bị quên, việc nhớ
điều bạn đã là. Nó không phải là nhận ra vì bạn chưa bao giờ là khác.
Bạn
không phải đi tới bất kì Kaaba hay tới bất kì Jerusalem hay tới bất kì Kashi, bạn
chỉ phải nhớ lại, trong trạng thái im lặng, con người đích thực của bạn. Và đột
nhiên, mọi điều bạn nghĩ là quan trọng trở thành giả. Mọi điều bạn nghĩ - quyền,
danh, tiền, trọng... biến mất như mơ không có nghĩa chút nào. Đột nhiên, với
tim thoải mái, bạn bắt đầu sống cuộc sống theo cách mới toàn bộ từ tính tự phát
của bạn, từ sự đơn giản của bạn, từ sự hồn nhiên của bạn.
Thế
thì bất kì cái gì bạn làm đều là tốt; thế thì bất kì cái gì bạn làm đều là đẹp.
Thế thì bất kì cái gì bạn làm đều bắt nguồn từ sự thuần khiết tối thượng của bạn
mà không bao giờ bị nhiễm bẩn. Thế thì duyên dáng của bạn là cùng như duyên
dáng của Phật, và sự sáng tỏ của bạn là cùng như mọi chư phật. Bạn đầy thức tỉnh,
đêm qua rồi, mơ được kết thúc, mặt trời đang lên. Và mặt trời bên trong này chỉ
bắt đầu mọc, nó không bao giờ lặn nữa.
Buson
đã viết:
Chớp loé sáng!
Tiếng giọt nước
nhỏ xuống tre.
Những
đoạn nhỏ này về tâm trí có tính thiền - "Chớp loé sáng!" Quán tưởng
đi, bạn có thể thấy nó - "Chớp loé sáng! Tiếng giọt nước nhỏ xuống
tre." Lắng nghe một cách yên tĩnh và bạn sẽ nghe thấy tiếng giọt nước nhỏ
từ tre.
Con
người của im lặng hoàn toàn đi tới biết nhiều điều thế đang xảy ra quanh bạn,
nhưng bạn bận rộn nhiều thế. Bạn đã bao giờ nghe nói về tiếng gọt nước rơi từ
tre chưa? Bạn bận rộn nhiều thế, bạn đầy các ý nghĩ tới mức những kinh nghiệm
tinh tế này quanh bạn mà có cái đẹp vô cùng, thoát khỏi bạn, đi qua bên cạnh bạn.
Nhưng bạn bận rộn, bạn không nhìn vào chúng. Tai bạn, mắt bạn, tâm trí bạn - mọi
thứ là đầy. Không có không gian cho bất kì kinh nghiệm mới nào đi vào bạn.
Thiền
làm cho bạn thành như không gian, nó lau sạch mọi giác quan của bạn. Nó làm cho
sự nhạy cảm của bạn thành sắc bén tới mức hương thơm nhỏ nhất thoảng qua bên cạnh
bạn, và bạn sẽ lập tức nhận được nó. Chỉ một âm thanh nhỏ, ngay cả âm thanh của
im lặng, sẽ được nghe thấy to thế và rõ thế.
Chúng
ta đang sống trong cái tầm thường, và mọi cái là lớn lao trong sự tồn tại chúng
ta đang bỏ lỡ. Chỉ con người của vô trí, con người của chứng ngộ, biết cái đẹp
là gì, niềm vui là gì, cực lạc là gì. Và khoảnh khắc bạn biết cực lạc là gì, bạn
biết bạn không cần bất kì Thượng đế nào, bạn không cần bất kì lời răn nào, bạn
không cần bất kì kỉ luật nào. Mọi thứ bắt nguồn từ vô trí của bạn, tươi tắn. Lần
đầu tiên bạn sống trong tự do mà không có lệ thuộc nào.
Tôi
định nghĩa tính chất sannyas là sống trong tự do không bị lệ thuộc, sống trong
tự do khỏi mọi lời răn, khỏi mọi kỉ luật, khỏi mọi đạo đức, khỏi mọi tôn giáo.
Sự
sống này trong tự do là sự sống đích thực duy nhất có đó. Và điều này là vĩnh hằng
- vô thuỷ vô chung.
Câu hỏi của Maneesha:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi
Trong cuốn sách của
mình, Triết học vĩnh viễn, Aldous Huxley viết: "Tôn giáo không tạo ra hấp
dẫn các xúc động có rất ít môn đồ."
Nhìn vào bao nhiêu người
Ki tô giáo có đó trên thế giới khi so sánh với những người được hấp dẫn tới Thiền,
điều đó dường như là đúng.
Mọi người có bị gắn bó với
ý tưởng về Thượng đế vì nó kích thích xúc động không? Điều đó có thể bao gồm sợ
cũng như yêu, nhưng ít nhất người ta cảm thấy cái gì đó, và với thời gian hiện
tại được đưa ra khỏi bản thân người ta.
Không.
Maneesha, Aldous Huxley là nhà tư tưởng lớn, nhưng ông ấy không là phật đã thức
tỉnh. Điều ông ấy nói là đúng về logic, nhưng không đúng về mặt tồn tại.
Tôn
giáo không tạo ra hấp dẫn tới xúc động có rất ít môn đồ, nhưng đó là những tôn
giáo duy nhất có đó. Tôn giáo hấp dẫn mọi người tới các xúc động của họ không
phải là tôn giáo mà là tôn giáo giả, tôn giáo rởm, đồ giả.
Tôn
giáo đích thực đi ra ngoài xúc động, tình cảm, cảm tính, ý nghĩ - cái là toàn
thể tâm trí của bạn. Nhưng tôn giáo không đích thực, tôn giáo quan tâm nhiều tới
khai thác mọi người hơn là giải phóng họ, làm cho họ thành nô lệ thay vì được
thức tỉnh, nhất định hấp dẫn các xúc động của bạn. Hiển nhiên, những tôn giáo
này có nhiều người đi theo hơn Thiền. Nhưng những tôn giáo này không phải là
tôn giáo, đó là lí do tại sao nhiều người được hấp dẫn hướng tới chúng.
Khi
đám đông bị hấp dẫn tới bất kì cái gì bạn có thể chắc chắn cái gì đó là sai, vì
đám đông bao gồm những người chậm phát triển tinh thần; tuổi tinh thần của họ
không hơn mười. Cho nên có các cái bẫy cho họ. Có những tôn giáo quan niệm về
Thượng đế như nữ, đàn bà đẹp. Đột nhiên bạn bắt đầu cảm thấy xúc động dâng lên
- Thượng đế phải là người đàn bà đẹp nhất trong toàn thể sự tồn tại; bạn trở
nên bị sở hữu bởi lãng mạn.
Đó
là chỗ người Sufis bị mắc kẹt - họ quan niệm về Thượng đế là đàn bà đẹp. Họ là
những người yêu, và Thượng đế là người được yêu; họ là nam, và Thượng đế là nữ.
Bây giờ, họ đơn giản truyền mọi sinh học của họ, chuyển nó từ người đàn bà bình
thường được làm từ xương và thịt và máu và mủ... và có lẽ cả răng giả, tóc giả,
vú cao su...!
Kinh
sách không nói về vú cao su, răng giả, phẫu thuật tạo hình, tóc giả, nhưng khi
kinh sách được viết ra những thứ này đã không sẵn có. Cho nên họ đã nói chỉ về
xương, và thịt, và máu, và mủ. Thượng đế phải là đàn bà bằng vàng - không mồ
hôi, không cần chất khử mùi. Thượng đế phải là trẻ vĩnh hằng.
Điều
này chuyển sinh học của bạn thành ý tưởng giả, hư cấu. Nhưng đây không phải là
tôn giáo. Điều này đang đưa bạn thành điên, vì nếu bạn muốn yêu bạn phải hiểu rằng
người đàn bà thực tồn tại ở đây, không trên cõi trời. Và vấn đề là gì?
Tôi
bao giờ cũng tự hỏi... Những người đã viết ra các kinh sách - và tôi đã nghe
các thánh nhân lớn ở nước này - liên tục nói về đàn bà như thịt, và xương, và
máu, và không gì khác. Và tôi bao giờ cũng tự hỏi họ nghĩ gì về thân thể riêng
của họ? Họ có được làm bằng vàng không? Hay bằng bạch kim? Không một kinh sách
nào nói về thân thể đàn ông, chỉ nói về thân thể đàn bà.
Hiểu
biết của tôi là ở chỗ những người này vẫn ở sâu trong khao khát đàn bà. Để đè
nén khao khát đó họ liên tục kết án đàn bà. Họ không kết án cho bạn, họ kết án
cho bản thân họ để cho họ có thể đè nén ham muốn về đàn bà.
Bây
giờ đây là việc chuyển - rằng Thượng đế trở thành đàn bà. Tôi sẽ cho bạn trường
hợp khác mà sẽ đơn giản hơn...
Meera,
một trong những nữ thánh nhân Ấn Độ nổi tiếng nhất, nghĩ về Thượng đế như đàn
ông, thanh niên, Krishna. Cô ấy là người được yêu và ông ấy là người yêu. Cô ấy
ngủ cùng bức tượng của Krishna trong giường.
Cô
ấy lấy chồng - cô ấy thuộc về hoàng gia cho nên cô ấy lấy một hoàng tử của hoàng
gia khác ở Rajasthan. Nhưng hoàng tử này đã hoàn toàn chán ghét vì cô ấy bảo với
anh ta vào đêm đầu tiên, "Chồng tôi là Krishna. Đừng chạm vào thân thể
tôi, nó sẽ là phạm thượng. Duy nhất Krishna có thể làm tình với tôi, không phải
anh."
Chắc
chắn hoàng tử này đã tuyệt đối giận dữ, và không bao giờ vào lại căn phòng nơi
Meera thường sống, hát bài ca và múa trước Krishna. Toàn thể ý tưởng của cô ấy
về Krishna đã là ở chỗ ông ấy là người thực trên trời, và vấn đề chỉ là vài năm
trước khi cô ấy sẽ gặp ông ấy. Nhưng việc chuẩn bị được cần - cô ấy phải làm ra
tiếp xúc tim qua tim.
Đó
toàn là tính dục bị đè nén...
Cô
ấy càng tránh đàn ông, tình yêu của cô ấy với Krishna càng tăng trưởng, vì năng
lượng dục cần việc diễn đạt theo cách nào đó.
Cô
ấy đã rời khỏi cung điện, bắt đầu nhảy múa trên phố và hát các bài hát về
Krishna. Bạn phải nhìn vào các bài hát và bạn sẽ thấy dục chi phối, vượt trội
thế nào: "Khi anh tới em sẽ đợi anh trong giường của em. Khi nào anh tới?
Đêm thật đẹp, hoa đêm đã nở, mọi người yêu đã tới người được yêu của họ, và em
đang đợi một mình - khi nào anh tới?"
Đây
là những cách diễn đạt tinh vi của tính dục, yêu thích dục. Bài ca của cô ấy là
rất nhục dục. Cô ấy đã rót mọi nhục dục của cô ấy và mọi tính dục của cô ấy vào
trong các bài hát của cô ấy, và Krishna đã trở thành ảo giác của cô ấy. Cô ấy
mơ về Krishna, cô ấy hát về Krishna, cô ấy múa cùng Krishna - cô ấy giữ Krishna
gần tim cô ấy.
Cô
ấy được tôn thờ bởi mọi người như một thánh nhân lớn, nhưng những người hiểu biết
một chút ít về tâm lí chắc đã gợi ý, "Cô cần trị liệu tâm thần, cô đơn giản
ốm."
Những
người này đã hấp dẫn nhiều người, hiển nhiên. Bạn đã có tính dục của bạn... chỉ
thay đổi chút ít... Bạn đã có những xúc động và tình cảm của bạn... chỉ thay đổi
chút ít... Nó toàn là trò chơi tâm trí.
Cho
nên những người Cơ đốc giáo có thể có số lượng sáu trăm triệu người, nhưng Thiền
chỉ dành cho vài người được chọn, những người rất tinh hoa. Sự hấp dẫn của nó
không dành cho đám đông; sự hấp dẫn của nó dành cho những người rất thông minh,
người có thể nhìn ra ngoài tâm trí nơi không có tình cảm, không ý nghĩ, không cảm
tính. Bạn đơn giản đi ra ngoài hoá học thân thể của bạn, ngoài sinh học, sinh
lí. Bạn đã đi vào trong không gian mà chỉ có thể được gọi là vô trí.
Cho
nên, Maneesha, đúng là tôn giáo không tạo ra hấp dẫn tới xúc động, có rất ít
môn đồ, nhưng họ là những tôn giáo duy nhất xứng đáng được gọi là tôn giáo. Và
những tôn giáo hấp dẫn hàng triệu người... bạn có thể thấy nó - tôn giáo càng
thấp hơn và giả hơn, càng nhiều người sẽ bị hấp dẫn tới nó. Bây giờ, Cơ đốc
giáo có gì trong nó ngoại trừ các hư cấu? Loại ra những hư cấu đó và chẳng cái
gì còn lại. Không có cái gì bản chất.
Các
học giả Kinh Thánh liên tục chỉ ra rằng phép màu được kể về Jesus là không
đúng. Chúng không bao giờ xảy ra vì thậm chí không có nguồn đương đại nào tường
thuật về chúng. Và các phép màu là tới mức chúng không thể xảy ra mà không được
tường thuật. Đó là điều rất đơn giản. Người chỉ để tay mình vào mắt người mù và
người này bắt đầu nhìn thấy; người biến nước thành rượu; người làm người chết
trở lại sống... bạn nghĩ người như vậy sẽ không được tường thuật lại sao? Và
ông ấy không phải là người Ki tô giáo, cho nên bạn không thể nói được rằng vì
ông ấy đã là người Ki tô giáo, người Do Thái đã không tường thuật về ông ấy.
Ông ấy được sinh ra là người Do Thái, ông ấy đã sống là người Do Thái, ông ấy
đã chết là người Do Thái. Jesus không bao giờ biết rằng ông ấy đã là người Ki
tô giáo.
Ki
tô giáo được sinh ra ba trăm năm sau cái chết của Jesus. Ông ấy không bao giờ
biết rằng mọi người sẽ biết ông ấy là Christ. Christ là từ Hi Lạp cho đấng cứu
tinh; Messiah là từ Do Thái cho đấng cứu tinh.
Ki
tô giáo dường như là tôn giáo thấp nhất, do đó nó hấp dẫn đám đông lớn nhất.
Khi tôn giáo đi lên cao hơn, càng ít người hơn được hấp dẫn tới, vì càng ít người
có thể hiểu nó.
Thông
minh là không phổ biến. Bao nhiêu người có thể hiểu thuyết tương đối của Albert
Einstein? Khi ông ấy còn sống một sự kiện nổi tiếng là đã chỉ có mười hai người
trên khắp thế giới có thể hiểu điều ông ấy ngụ ý bởi tính tương đối.
Bertrand
Russell, một trong những triết gia vĩ đại nhất của thế kỉ này, đã viết một cuốn
sách về Albert Einstein. Ông ấy gọi nó là ABC về tính tương đối. Và khi ông ấy
gặp Albert Einstein, Einstein đã hỏi, "Tại sao ông đã viết ABC, sao không
là thứ toàn thể?"
Russell
nói, "Tôi chỉ hiểu chính cái bắt đầu. Tôi không thể nói rằng tôi hiểu toàn
thể ngụ ý của thuyết của ông. Tôi đã viết ABC vì đó là điều tôi hiểu. Ngày nào
đó ai đó sẽ viết XYZ... có lẽ ông có thể viết nó."
Mười
hai người trên khắp thế giới - điều đó có làm cho thuyết tương đối sai không?
Và sáu trăm triệu người Cơ đốc giáo "biết' rằng Jesus được sinh ra từ người
đàn bà đồng trinh - chỉ người ngu có thể tin vào điều đó. Rằng Jesus bước đi
trên nước - chỉ người ngu có thể tin điều đó. Mọi hư cấu này đã từng được tạo
ra để hấp dẫn đám đông.
Tôi
đã nghe nói về một tổng giám mục của Anh, người tới thăm Jerusalem. Và ông ấy
có hai người bạn cũ, cả hai đều là các giáo sĩ rất am tường. Cho nên ông ấy báo
cho họ, "Tôi đang tới và tôi muốn thấy mọi chỗ mà Jesus đã ở."
Hiển
nhiên ông ấy quan tâm xem biển Galilee nơi Jesus thường bước đi trên nước. Hai
giáo sĩ đưa ông ấy đi trong chiếc thuyền tới chỗ Jesus thường bước đi. Tổng
giám mục hỏi, "Các ông cũng có thể bước đi chứ... vì các ông là các giáo
sĩ lớn?"
Họ
nói, "Tất nhiên."
Ông
ấy không thể tin được điều đó. Ông ấy nói, "Thế thì cho tôi chút ví dụ đi,
vài bước thôi."
Thế
là một giáo sĩ bước xuống bên phải và đi trên nước - tổng giám mục không thể
tin được điều đó - và ông này quay lại.
Hai
giáo sĩ kia nói với ông ấy, "Ông có thể làm được nó chứ? Chúng tôi không
tin vào Christ; ông tin vào Christ. Nếu đức tin của ông là đủ ông có thể bước."
Bây
giờ đó là vấn đề về đức tin. Đức tin bị lâm nguy. Tổng giám mục ngần ngại và
run bên trong. Nhưng trước hai giáo sĩ này, bị thất bại sẽ là không đúng. Thế
là ông ấy nói, "Được, tôi có thể làm. Tôi có đức tin. Nếu các ông những
người không tin vào Jesus Christ có thể bước đi, sao tôi không thể?"
Và
ông ấy bước đi từ bên trái thuyền và lập tức bắt đầu chìm và kêu to, "Cứu
tôi với! Cứu!"
Thế
là hai giáo sĩ kéo ông ấy trở lại. Họ nói, "Cái gì đã xảy ra vậy?"
Ông
ấy nói, "Tôi không biết, nhưng tôi có đức tin mà."
"Đức
tin của ông dường như không giá trị gì mấy," hai giáo sĩ kia nói.
Chung
cuộc, giáo sĩ đã bước ra nói với giáo sĩ kia, "Chúng ta đáng phải nói cho
ông này điều đúng chứ?"
Tổng
giám mục nghe thấy họ thì thào. Ông ấy nói, "Các ông thì thào cái gì vậy?"
Họ
nói, "Sự thực là, ông bước ra từ phía sai. Ở phía này, phía bên phải, có
những hòn đá ngay bên dưới nước. Nước chỉ phủ trên chúng vài li, không hơn thế.
Jesus thường bước ở đây, và mọi người Do Thái có thể bước được, người biết những
tảng đá này. Nó không phải là đức tin, nó là đá!"
Cứ
lấy đi mọi phép màu - và cái gì còn lại của Jesus? Lấy đi việc sinh đồng trinh
- cái gì còn lại của Jesus? Lấy đi lời rêu rao của ông ấy mà tuyệt đối bệnh hoạn:
"Ta là đứa con duy nhất của Thượng đế" - cái gì còn lại của Jesus? Chỉ
là con trai thợ mộc bình thường cưỡi trên lừa - một trò cười!
Cho
nên Vatican bây giờ đã thông báo cho mọi nhà thờ đừng chú ý tới bất kì học giả
kinh thánh nào. Vì nếu bạn chú ý tới họ, họ sẽ phá huỷ toàn thể tôn giáo của bạn.
Đây là toàn thể tôn giáo của họ.
Nhưng
Phật Gautam đã không làm bất kì phép màu nào, cho nên bạn không thể phá huỷ Phật
Gautam dễ dàng thế. Ông ấy không được sinh ra từ người đồng trinh, và ông ấy
không phải là con trai duy nhất của Thượng đế. Bất kì điều không bản chất nào đều
không có đó cho nên bạn không thể lấy đi bất kì cái gì. Nhưng chắc chắn ông ấy
trở thành khó hiểu hơn cho đám đông.
Cách
tiếp cận của ông ấy có thể được hiểu bởi những người rất thông minh. Cho nên
ngay cả ở Ấn Độ... ông ấy đã được sinh ra ở Ấn Độ, nhưng tôn giáo của ông ấy đã
biến mất khỏi Ấn Độ. Những đám đông của Ấn Độ đã không thể đi theo được ông ấy.
Ông ấy đã không cho họ điều Maneesha gọi là "cái gì đó." Ông ấy đã
cho họ hư không, vì hư không là không gian thuần khiết.
Cái
gì đó nhất định là cái gì đó trong tâm trí.
Hư
không là bên ngoài tâm trí.
Phật
Gautam đã biến mất sau cái chết của ông ấy rất nhanh. Trong hai nghìn năm trăm
năm đã không có một phật tử nào ở Ấn Độ. Ngay cả trong đền mà vua Ashoka đã xây
dựng như nơi tưởng niệm bên cạnh cây bồ đề nơi Phật Gautam đã trở nên chứng ngộ,
tu sĩ là người brahmin. Thậm chí không có Phật tử ở nơi tưởng niệm để chăm nom
ngôi đền.
Người
brahmin đó không tin vào Phật. Ông ấy được trả tiền và ông ấy vẫn đang được trả
tiền bởi các Phật tử từ bên ngoài Ấn Độ. Ông ấy không tin vào Phật, nhưng ông ấy
chăm nom. Gia đình ông ấy đã từng chăm nom ngôi đền này trong hàng trăm năm, thế
hệ tiếp thế hệ - chỉ là người trông nom nhà cửa. Ông ấy không tin vào Phật, ông
ấy không nghĩ rằng Phật là người đúng để thuộc vào.
Nhưng
Phật giáo lan toả ở Trung Quốc và Nhật Bản, ở Tây Tạng và Ceylon, ở Hàn quốc và
Đài Loan - nó vươn tới những chỗ xa xăm. Ở Mông cổ, ở Afghanistan, trong vài nước
mà bây giờ thuộc về Liên Xô, tượng và chùa Phật giáo đã được phát hiện ra.
Việc
lan toả của nó là rộng, nhưng lí do cho việc lan toả của nó là ở chỗ các Phật tử,
những người đã đi tới những chỗ đó bắt đầu thoả hiệp. Phật đã là người không
thoả hiệp. Không con người của chân lí nào có thể thoả hiệp - không thành vấn đề.
Điều thành vấn đề là chân lí trong sự thuần khiết của nó. Nhưng bao nhiêu người
có khả năng vươn tới chiều cao đó, tới tâm thức đó, để hiểu? Chắc chắn rất ít
người.
Cho
nên mọi Phật tử trên toàn thể lục địa châu Á không phải là Phật tử đúng, họ đã
thoả hiệp với tôn giáo địa phương của họ, họ bị trộn lẫn. Nếu Phật quay lại ông
ấy sẽ đơn giản phủ nhận mọi Phật tử này vì họ đang làm cái gì đó mà ông ấy đã
chống lại, tuyệt đối chống lại. Và họ toàn làm mọi điều đó chỉ như việc thoả hiệp.
Duy
nhất Thiền đã không thoả hiệp - đó là lí do tại sao có kính trọng của tôi với
Thiền. Nó đã duy trì một dòng suối rất nhỏ các thầy. Nó không bao giờ trở thành
tôn giáo của đám đông - nó không thể vậy. Ngày nó trở thành tôn giáo của đám
đông nó sẽ không là tôn giáo thêm nữa. Tình yêu của tôi với nó, kính trọng của
tôi với nó là vì việc không thoả hiệp tuyệt đối, nó không quan tâm tới thu thập
đám đông. Nó chỉ quan tâm tới những con người tiến hoá cao nhất. Đó cũng là mối
quan tâm của tôi nữa. Đó là lí do tại sao bạn không thể thấy đám đông tới với
tôi.
Ngày
đám đông bắt đầu tới tôi, tôi sẽ không tới. Tôi ghét đám đông vô ý thức. Họ đã
là nguyên nhân của việc giết người như Socrates, việc giết người như al-Hillaj
Mansoor, việc giết người như Jesus. Có mọi khả năng rằng Phật Gautam cũng đã bị
giết bởi việc cho chất độc. Họ đã cố giết Mahavira - nhiều nỗ lực.
Đám
đông chống lại chân lí vì chân lí sẽ làm tan nát mọi dối trá của họ. Điều
Maneesha gọi là "cái gì đó" - cái gì đó đó là dối trá, là an ủi.
Không
người nào yêu chân lí sẽ an ủi bạn.
Người
đó sẽ phá huỷ mọi an ủi của bạn. Người đó có đó để lấy đi mọi dối trá của bạn để
cho bạn có thể vươn lên đỉnh tối thượng của tâm thức. Nhưng đỉnh đó tới với bạn
khi bạn không còn nữa.
Khi
không có gì bên trong bạn, thế thì toàn thể sự tồn tại đơn giản bắt đầu trút xuống
bạn an bình, yêu, im lặng, cực lạc và say sưa thiêng liêng.
Aldous
Huxley là không đúng vì ông ấy không hiểu khác biệt giữa tôn giáo đích thực và
tôn giáo giả. Ông ấy là con người của hiểu biết hợp lí và logic, nhưng không là
con người có thể được gọi là có tính thiền. Chính bởi điều này ông ấy bắt đầu
dùng LSD. Ông ấy đã viết cuốn sách có tên Cõi trời và Địa ngục trong đó ông ấy
thuyết giảng rằng LSD cho bạn samadhi thực, chứng ngộ thực.
Hoá
chất có thể cho bạn chứng ngộ sao...? Và sau sáu giờ, tám giờ, hai mươi bốn giờ,
chứng ngộ biến mất và bạn lại dứt khoát là cái ngã cũ!
Đây
là đúng lúc cho for Sardar Gurudayal Singh. Bật đèn lên!
Một
đêm, Thiền sư Đức, Thạch Đầu Niskriya, quyết định rằng anh ta muốn có cuộc hẹn
hò...
Rất
khó cho các Thiền sư có cuộc hẹn hò. Anh ấy có bạn gái... Khi tôi nói với bạn rằng
tôi không thấy được theo cách này...
(Với
hai cánh tay bắt chéo giơ lên cao, thầy chỉ dẫn cho cả hai bên của thính phòng,
đồng thời.) ... bạn gái đó thường nhìn theo cách này! Cô ấy bao giờ cũng bỏ lỡ
Thiền sư Niskriya, cho nên cô ấy không bao giờ biết anh ấy là ai. Nhưng ngay cả
cô ấy cũng trốn đi. Cho nên anh ấy đi sang Đức - bạn có thể thấy, ở đây anh ấy
không thể tìm được một cô gái...! Cho nên anh ấy đi sang Đức và kiếm một cô gái
thô lỗ. Ngay cả cô gái thô lỗ đó đã trốn mất! Đó là lí do tại sao Niskriya đang
không có tại chỗ của anh ấy. Anh ấy bị sốt!
Ai
đó phải có từ bi nào đó với anh ấy. Anh ấy đang nghĩ đi tới Goa - không vì Goa,
nhưng chỉ để tìm một người thô lỗ khác. Cho nên câu chuyện này tới đúng lúc...
Một
đêm, Thiền sư Đức, Thạch Đầu Niskriya, quyết định rằng anh ấy muốn có cuộc hò hẹn.
Nhưng gần đây, anh ấy đã gặp rắc rối khi có bất kì đàn bà nào đi chơi cùng anh ấy
vì họ sợ dáng vẻ dữ dằn của anh ấy và chiếc gậy thiền của anh ấy.
Cho
nên Thạch Đầu có một ý tưởng. Anh ta cải trang bản thân mình trong bộ áo bành
tô lớn, mũ đen và kính râm.
Thế
rồi anh ta đi tới chỗ Zorba và ngồi xuống cạnh Ma Papaya Pineapple. Họ bắt đầu
nói chuyện. Thạch Đầu mua cho cô ấy một miếng mì ống, và chuyện nó dẫn tới chuyện
kia, và cuối cùng Thạch Đầu mời Papaya trở về phòng của anh ta.
Papaya
nghĩ anh chàng này có vẻ hơi kì dị đeo kính râm ban đêm, nhưng tự nhủ mình,
"A! Cái chết tiệt gì đây! Luân xa của mình mở tuần này!" Và họ đi
cùng nhau.
Khi
họ vào phòng của anh ta, Thạch Đầu tắt mọi đèn. "Này, Papaya," anh ta
nói, "Tôi chỉ thích làm nó trong tối. Điều đó là được với cô chứ?"
"Chắc
chắn," Papaya nói, và họ bắt đầu cởi quần áo.
Papaya
đang ngồi ở cạnh giường trong tối toàn bộ, và Thạch Đầu đang đứng cạnh cô ấy.
Khi anh ta nghiêng người để cởi tất, Papaya với ra trong tối và chạm vào cái đầu
hói, nhẵn bóng của Thạch Đầu, lảng vảng gần mặt cô ấy.
"Úi
chao!" Papaya kêu lên trong choáng. "Tốt hơn cả anh cẩn thận với thứ
đó!"
Một
tổ quốc tế các nhà động vật học lỗi lạc tụ tập ở châu Phi để làm nghiên cứu về
vòng đời của voi trong nơi hoang dã. Khi một năm đã qua, mọi nhà khoa học xuất
bản báo cáo của họ.
Báo
cáo của người Anh mang tiêu đề: "Voi châu Phi vào giờ trà."
Báo
cáo của người Mĩ có tiêu đề: "Thịt băm phô mai thức ăn nhanh và Voi châu
Phi hiện đại."
Báo
cáo của người Italy mang tiêu đề: "Làm khít Voi vào trong xe
Ferrari."
Báo
cáo của người Pháp mang tiêu đề: "Bẩy mươi hai tư thế yêu của Voi châu
Phi."
Báo
cáo của người Nga mang tiêu đề: "Cách giấu Voi của bạn khỏi KGB."
Báo
cáo của người Đức được xuất bản trong năm tập mang tiêu đề: "Giới thiệu về
tinh hoàn trái của Voi châu Phi."
Và
cuối cùng, báo cáo của người Ba Lan mang tiêu đề: "Voi? Voi gì?"
Cha
trẻ Fever lại có vấn đề. Thế là anh ta đi tìm lời khuyên như cha nào đó từ cấp
trên của mình, cha Fornicate.
"Nói
cho ta, con ta," cha Fornicate nói, "con vẫn có vấn đề với nhưng mơ
tưởng xấu đó sao? Con biết đấy, nhưng thứ như xi líp không đáy, cái cù kiểu
Pháp và bơ nóng do các sơ làm?"
"Không,
không!" Fever trẻ kêu lên, "lần này nó là 'T' hoa - cha biết rồi, thủ
dâm!"
"À!
Thủ dâm!" Cha Fornicate đáp, vắt chéo chân và nghiến răng. "Ừ! Một
trong những chủ đề ưa thích của ta đây! Con muốn biết cái gì về nó?"
"Thế
này," Fever đáp, vã mồ hôi, "nó có là xấu như họ nói không?"
"Con
ta," Fornicate lên giọng, buông bắt chéo chân và điều chỉnh lại áo choàng,
"điều thường được tin là thủ dâm dẫn tới điên rồ và mù. Nhưng điều đó
không còn được coi là đúng nữa."
"Con
không lo nghĩ về điều đó," Cha Fever nói, vừa run. "Con đọc trong báo
cáo mới nhất của Vatican rằng thủ dâm có thể là nguyên nhân của suy giảm nghiêm
trọng việc nghe - thậm chí điếc!"
Cha
Fornicate nghiêng người ra trước và nói, "Cái gì?"
Nivedano...
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Im
lặng...
Nhắm
mắt lại và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Đây là khoảnh khắc đúng để
quay vào trong.
Thu
mọi năng lượng của bạn, toàn bộ tâm thức của bạn, và xô về trung tâm con người
của bạn - nó ở ngay dưới rốn bạn, đích xác 6 cm bên dưới, bên trong - với sự khẩn
thiết dường như nó là khoảnh khắc cuối cuộc đời bạn. Không có sự khẩn thiết và
mãnh liệt như vậy, không ai đã bao giờ đạt tới trung tâm của con người của
mình.
Mỗi
lúc một nhanh hơn...
Mỗi
lúc một sâu hơn.
Khi
bạn tới gần hơn trung tâm của bạn, im lặng lớn giáng xuống bạn hệt như làn mưa
nhẹ. Bạn có thể cảm thấy cái mát mẻ của nó.
Gần
hơn chút nữa và bạn thấy an bình lớn nảy sinh từ cội nguồn sự sống riêng của bạn,
và bao quanh bạn như hương thơm.
Ngay
cả đêm đang giúp bạn.
Toàn
thể sự tồn tại đang giúp bạn.
Không
chỉ bạn đang thiền, toàn thể sự tồn tại đang thiền cùng bạn.
Chỉ
thêm một bước nữa và bạn ở trung tâm con người của bạn, hoàn toàn say sưa với
điều thiêng liêng, cực lạc đích thực mà không được tạo ra bởi bất kì ma tuý nào
như LSD, nhưng là một phần của việc nở của hoa sen bên trong của bạn.
Một
khi nó ở cùng bạn, nó ở mãi mãi và nó biến đổi toàn thể sự sống của bạn, hoạt động
của bạn, đáp ứng của bạn.
Tại
trung tâm, với cực lạc này bạn không còn nữa, chỉ không gian thuần khiết còn lại.
Không
gian thuần khiết này chúng ta đã nhân cách hoá là Phật Gautam. Nó đơn giản ngụ
ý tâm thức đã thức tỉnh. Mặt của phật là mặt nguyên bản của mọi người. Trong
không gian này đột nhiên bạn thấy bạn không còn nữa nhưng phật là mặt nguyên bản
của bạn. Bạn không còn nữa nhưng sự sống hiện hữu, sự sống vĩnh hằng - vô thuỷ,
vô chung. Bạn không còn nữa, nhưng sự tồn tại hiện hữu.
Và
tính đây này đem bạn tới giải thoát vô cùng. Tính đây này là cứu rỗi duy nhất.
Không người nào khác có thể trao nó cho bạn, bạn đã có nó. Mọi thứ được cần là việc
nhớ lại, nó là ngôn ngữ bị quên lãng. Bạn bị bận rộn quá nhiều với những cái tầm
thường và quên đi cái bản chất.
Tại
khoảnh khắc này bạn là người được phúc lành nhất trên trái đất chỉ vì bạn đang
du hành vào trong, trong khi mọi người đang đi ra ngoài.
Một
điều cần nhớ: phật chỉ bao gồm một phẩm chất - nhận biết, tính quan sát, việc
nhớ lại, việc chứng kiến. Bạn có thể gọi nó là bất kì cái gì, nhưng tôi ưa
thích từ 'việc chứng kiến', để làm thành rõ ràng cho bạn nó nghĩa là gì.
Chứng
kiến rằng bạn không là thân thể.
Chứng
kiến rằng bạn không là tâm trí.
Chứng
kiến rằng bạn chỉ là nhân chứng, chỉ là gương thuần khiết phản ánh, đáp ứng với
mọi tình huống.
Để
làm cho việc chứng kiến này sâu hơn và rõ hơn,
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi, nhưng liên tục nhớ chỉ một điều: việc chứng kiến. Việc chứng kiến là toàn
thể bí mật của thiền, chìa khoá chủ cho mọi điều huyền bí của sự tồn tại và sự
sống.
Khi
việc chứng kiến của bạn sâu sắc lên bạn bắt đầu tan chảy.
Việc
tách rời của bạn biến mất, mọi biên giới bị tan biến, Thính phòng Phật Gautam
trở thành đại dương tâm thức. Mười nghìn chư phật đã trở thành một tâm thức vững
chãi, một tâm thức đại dương.
Thu
lấy mọi kinh nghiệm đã xảy ra bên trong bạn, cái im lặng, cái an bình, cái phúc
lạc, cái cực lạc, sự say sưa thiêng liêng, và thuyết phục vị phật của bạn tới
cùng bạn, đi theo bạn.
Đây
là ba bước của chứng ngộ: bước thứ nhất, phật tới theo bạn như cái bóng - nó là
bản tính của bạn, bản tính vĩnh hằng của bạn.
Bước
thứ hai, phật tới phía trước bạn; bạn trở thành cái bóng.
Và
bước thứ ba, bạn biến mất trong phật. Thậm chí cái bóng bị bỏ từ bạn. Duy nhất
phật hiện hữu, duy nhất sự sống hiện hữu, duy nhất sự tồn tại hiện hữu.
Điều
này mang bạn thành bất tử, vĩnh hằng. Nó làm bạn thành toàn thể với càn khôn,
thành một với cái toàn thể. Nó là lành mạnh tối thượng và mạnh khoẻ tối thượng
và linh thiêng tối thượng. Đây là Thiền.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Quay
lại, nhưng quay lại như chư phật - rất im lặng, rất an bình, với duyên dáng lớn.
Ngồi
xuống trong vài khoảnh khắc chỉ để nhớ lại con đường vàng bạn đã đi qua, và mọi
đoá hoa đã trút xuống bạn từ im lặng, an bình, vui vẻ, cực lạc, và lối mở vào
vĩnh hằng, vào điều tối thượng, vào càn khôn tuyệt đối.
Chăm
nom vị phật ở ngay sau bạn như sự hiện diện im lặng. Nhưng bạn có thể chạm vào
nó. Nó là chạm thấy được, bạn có thể cảm thấy hơi ấm của nó. Nó sẽ biến đổi những
hành động bình thường của bạn thành đáp ứng phi thường.
Nó
sẽ mang bạn tới nhận biết vô chọn lựa nơi bạn đơn giản làm một cách tự phát điều
là tốt... một loại đạo đức mới toàn bộ chảy ra từ tính tự phát của bạn, một loại
sự sống mới toàn bộ được sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc với sự hiến dâng
tuyệt đối cho sự tồn tại.
Tự
do mới, bầu trời mới để mở ra đôi cánh của bạn, và việc mở hội mới không có bất
kì lí do nào, không có bất kì nguyên nhân nào. Chỉ tràn ngập năng lượng, tràn
ngập nước cam lồ sự sống, tràn ngập cực lạc, tràn ngập bài ca và điệu múa.
Biến
đổi sự sống thành mở hội là khoa học đích thực duy nhất của tôn giáo.
Tôi
mở hội bản thân tôi và tôi muốn bạn học nghệ thuật mở hội bản thân bạn - không
vì lí do nào, không vì nguyên nhân nào. Chỉ hiện hữu là đủ, quá đủ. Là một phần
của cái toàn thể là biến thái lớn tới mức bạn không thể cưỡng lại - bạn phải nhảy
múa, bạn phải hát, bạn phải diễn đạt niềm vui của bạn, phúc lạc của bạn. Bạn phải
chia sẻ nó.
Việc
chia sẻ phúc lạc của bạn là từ thiện duy nhất.
Việc
chia sẻ niềm vui của bạn là lòng biết ơn duy nhất.
Sự
tồn tại đã cho bạn quá nhiều, chia sẻ nó đi.
Bạn
càng chia sẻ nhiều bạn sẽ càng có nó nhiều.
Bạn
càng chia sẻ ít bạn sẽ càng có nó ít.
Nếu
bạn không chia sẻ nó bạn sẽ không có nó chút nào.
Được
chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.
..............................
0 Đánh giá