Chương 6. Hãy đến với lễ hội của riêng bạn

Chương 6. Hãy đến với lễ hội của riêng bạn

Price:

Read more

Tôi mở hội bản thân tôi – Osho

Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ

Chương 6. Hãy đến với lễ hội của riêng bạn



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Chiêu Đề, người sinh ra năm 738 ở Trung Quốc và chết năm 820, đã là đệ tử của Thạch Đầu.

Chiêu Đề ở núi Hành Nhạc dưới Thạch Đầu trong ba năm, thế rồi đi sang núi Phật Tích ở đó ông ấy đã gặp Mã Tổ.

Mã Tổ hỏi, "Ông tới đây để làm gì?"

Chiêu Đề nói, "Tôi tới đây vì jamuna darshan của Phật."

Mã Tổ nói, "Phật không có jamuna darshan. Jamuna darshan là thế giới của ảo vọng. Ông tới từ núi Hành Nhạc, nhưng dường như ông chưa biết rằng ông cần Thạch Đầu. Cho nên ông phải quay về."

Nghe điều đó, Chiêu Đề đi tới Thạch Đầu. Khi gặp thầy, Chiêu Đề hỏi Thạch Đầu, "Phật là gì?"

Thạch Đầu đáp, "Không có bản tính phật trong ông."

Chiêu Đề hỏi, "Về mọi sinh linh thì sao?"

Thạch Đầu đáp, "Họ có bản tính phật."

Chiêu Đề hỏi, "Sao tôi không có nó?"

Thạch Đầu nói, "Vì ông không chấp nhận nó."

Với điều này, Chiêu Đề quyết định ở lại đó.

Về sau, ông ấy đã sống ở chùa Chiêu Đề-ji và đã không đi ra ngoài cửa trong ba mươi năm. Bất kì khi nào một người tìm kiếm tới ông ấy, ông ấy đều nói, "Đi đi - ông không có bản tính phật."

Các bạn,

Một nhà phân tâm nổi tiếng, Franz Strunz từ Munich, đã từng nghiên cứu hành vi trẻ nhỏ trong mơ, và ông ấy đã thấy rằng ý tưởng nguyên gốc của Sigmund Freud là không đúng.

Ý tưởng nguyên gốc của Sigmund Freud là ở chỗ đứa trẻ - mọi đứa trẻ, đặc biệt trong thế giới văn minh và văn hoá - sống dưới đạo đức đè nén, giới giáo sĩ đè nén, bố mẹ đè nén, và nó không thể hiểu đích xác tại sao hành vi tự nhiên và tự phát của nó là không được chấp nhận. Nó còn chưa trưởng thành trong tâm trí - tâm trí sẽ tới chậm - nhưng nó đã được sinh ra như một con người tự nhiên. Cho nên nó thấy tuyệt đối khó hiểu tại sao hành vi tự nhiên của nó bị kết án.

Nhưng bởi vì nó phải phụ thuộc vào bố mẹ - và nó là hoàn toàn bất lực - nó phải chấp nhận Thượng đế mà bố mẹ tin, và nó phải chấp nhận mọi lời răn trong đó bố mẹ tin. Và họ dẫn cho đứa trẻ tới nhà thờ, hay tới bất kì tổ chức tôn giáo nào họ thuộc vào. Đây là bắt đầu của việc lập trình cho đứa trẻ.

Luận đề nguyên bản của Sigmund Freud là ở chỗ dưới những hoàn cảnh này đứa trẻ chỉ tự do trong mơ của nó. Bố mẹ không còn đó, tu sĩ không còn đó, Thượng đế không còn đó... không đạo đức, không kết án, không đè nén, không cấm đoán. Trong mơ nó sống cuộc sống rất tự nhiên và rất hài lòng. Điều đó trở thành cái thay thế cho nó. Và tôi tuyệt đối đồng ý với Sigmund Freud.

Đứa trẻ còn chưa biết mơ là gì và thực là gì, điều đó cần chút thời gian. Đó là lí do tại sao bạn không thể nhớ được nếu bạn đi ngược lại. Mãi cho tới bốn tuổi bạn có thể có khả năng nhớ vài điều; bên ngoài điều đó là trống trơn hoàn toàn, nhưng mọi thứ đã xảy ra. Từ sinh của bạn, mãi cho tới bốn tuổi, mọi sự đã xảy ra nhưng bạn không có bất kì trí nhớ nào về chúng vì bạn vẫn chưa có tâm trí.

Tâm trí là sản phẩm xã hội. Nó mất ít nhất bốn năm để lập trình đứa trẻ để sẵn sàng chấp nhận bất kì cái gì được bảo cho nó, vì nó biết nếu nó phủ nhận điều đó, nó sẽ bị trừng phạt - không chỉ ở đây mà ở trong lửa địa ngục.

Nhưng trong mơ, mãi cho tới bốn tuổi, nó tận hưởng tự do tuyệt đối. Do đó Sigmund Freud đã nói rằng mơ của trẻ em là rất vui thích, rất đẹp. Thực ra, đứa trẻ có thể đối phó với thực tại chỉ bởi vì mơ của nó. Mơ là việc đền bù.

Người này, Franz Strunz, đã điều tra hàng trăm trẻ em và mơ của chúng, và kết luận của ông ta là ở chỗ Sigmund Freud là sai. Cho nên đầu tiên tôi phải cho bạn phát biểu của ông ta.

Cái nhìn của Sigmund Freud về mơ của trẻ em đã bị thách thức bởi nhà tâm lí Munich, Franz Strunz.

Sigmund Freud nói rằng mơ của trẻ em làm lộ ra bản tính hướng vui thích của những điều tưởng tượng ban đêm, điều không bị ngăn trở bởi việc kìm nén và đè nén của bản chất xúc động người lớn, và điều được nhắm tới làm cho các ước muốn bí mật trở thành thực.

Hiển nhiên, mơ là rất riêng tư. Không ai có thể đi vào mơ của bạn, và không ai có thể biết bạn đang mơ cái gì. Đứa trẻ có tự do tuyệt đối, nhưng nó không tự do khi nó thức - một cách tự nhiên nó bù lại. Bất kì cái gì đã bị phủ nhận trong cuộc sống thức của nó, nó hoàn thành những ước muốn này trong mơ của nó. Và vì nó không thể phân biệt được rằng mơ chỉ là mơ và thực tại là vấn đề khác toàn bộ, nó hoàn toàn hạnh phúc. Nó có thể dung thứ xã hội này và văn hoá đè nén này, và những đòi hỏi phi tự nhiên được tôn giáo làm ra, Thượng đế của họ, tu sĩ của họ, chỉ bởi vì nó có tự do ít nhất khi nó ngủ.

Điều này đã bị thách thức bởi nhà tâm lí học Munich này:

Nghiên cứu của Strunz chỉ ra rằng những mơ tưởng ban đêm của trẻ em chủ yếu được đi kèm bởi cảm giác ngột ngạt của không thoải mái và khó chịu, và rằng mọi loại đe doạ con vật, kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ giết người, các thảm hoạ, chết và những người lạ gây kinh hoàng gây rối loạn lớn cho trẻ em đang ngủ.

Phần lớn trẻ em, ông ấy nói, bị tê liệt với sợ bởi những nguy hiểm chúng mơ thấy.

Tôi tuyệt đối bất đồng với nhà tâm lí học Munich này. Trong vội vàng phê bình Sigmund Freud, ông ta đã quên mất rằng Sigmund Freud đã điều tra mơ của toàn bộ trẻ em khác nhau. Một điều lớn đã xảy ra ở giữa là ông ta đã không tính tới: đó là truyền hình.

Chính truyền hình đã làm thay đổi mơ của trẻ em - điều Thượng đế đã không thể làm được, điều tu sĩ đã không thể làm được, điều bố mẹ đã không thể làm được. Họ đã dùng ngôn ngữ bảng chữ cái, logic, điều đứa trẻ còn chưa có khả năng hiểu. Đứa trẻ sống theo cách nguyên thuỷ. Hình ảnh thì nó có thể hiểu được; ngôn ngữ của nó là ngôn ngữ hình ảnh. Mơ của nó là rất sinh động, rất mầu sắc và rất sống.

Truyền hình đã tạo ra tác động lớn lên trẻ em, lên hành vi của chúng, lên mơ của chúng, vì mơ và truyền hình có vẻ như nhau. Bây giờ đứa trẻ không thể biết khác biệt giữa truyền hình và mơ. Và trên truyền hình nó thấy mọi thứ mà nhà tâm lí học Munich này đang cố dùng như cách phê bình giả thuyết nền tảng của Sigmund Freud: "...cảm giác ngột ngạt của không thoải mái và khó chịu, và rằng mọi loại đe doạ con vật, kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ giết người, các thảm hoạ, chết và những người lạ gây kinh hoàng gây rối loạn lớn cho trẻ em đang ngủ."

Mọi điều này là món quà của truyền hình. Nó chẳng liên quan gì tới giả thuyết nền tảng của Sigmund Freud, điều đó vẫn đúng.

Nhưng đây là cách ngay cả các nhà tâm lí, những người nổi tiếng thế giới, hành xử một cách vô ý thức. Ông ta đã quên hoàn toàn rằng thứ mới đã xảy ra giữa ông ta và Sigmund Freud - và đó là truyền hình. Và nó đã thay đổi không chỉ mơ của trẻ em, mà cả hành vi của trẻ em nữa.

Nó thấy mọi loại cướp bóc, hãm hiếp, giết người, trộm cắp... đủ loại người nguy hiểm trên truyền hình. Đó là những hình ảnh. Bài giảng của tu sĩ không phải là hình ảnh, chúng là ngôn ngữ. Dạy dỗ của bố mẹ nó đã là ngôn ngữ, và nó còn chưa có năng lực hiểu ngôn ngữ và logic. Nhưng hình ảnh thì nó hiểu. Cho nên truyền hình đã cho mọi loại đe doạ, xúc động mạnh, các ý tưởng nguy hiểm cho tâm trí trẻ em.

Chính truyền hình đang phải được chú ý bởi nhà tâm lí học. Nhưng thay vì hội tụ vào truyền hình, ông ấy đã lập tức đi vào phê bình Sigmund Freud.

Tôi đang lấy điều đó làm ví dụ để cho bạn cảm giác rằng ngay cả các nhà phân tâm, các nhà tâm thần, các nhà tâm lí là vô ý thức như bất kì người nào khác. Không có khác biệt.

Không chỉ mơ đã thay đổi, mà ngay cả hành vi của trẻ em cũng vậy.

Ở Mĩ, mới vài ngày trước một đứa trẻ đi tới trường cùng chiếc súng của bố nó và đã giết ngẫu nhiên bốn đứa trẻ. Và không phải là chúng là kẻ thù hay bất kì cái gì - chỉ ngẫu nhiên. Nó bắn chỉ vì nó đã quan sát việc giết người liên tục, sát hại trên truyền hình... kích động lớn. Và đó không phải là trường hợp ngoại lệ.

Trẻ trai đã được thấy cố hãm hiếp trẻ gái nhỏ. Ý tưởng này được cho bởi truyền hình. Trẻ con độ tuổi bẩy và tám dùng ma tuý. Chúng đã bỏ xa người hippy đằng sau. Ít nhất để là một hippie bạn thường phải mười tám, mười chín, hai mươi...

Hành vi hippy tồn tại chỉ từ hai mươi tới ba mươi tuổi. Sau ba mươi người hippie biến mất - thay chỗ người đó, người có nhiều hoài bão tới. Đến lúc người đó ba mươi, người đó bắt đầu hiểu rằng cách sống này sẽ không kéo dài lâu. Bây giờ bố mẹ người đó đang từ chối hỗ trợ người đó, và người hippie phải thay đổi trong thế giới chỉn chu. Người đó phải quay lại cùng xã hội, đầu cạo sạch, ăn mặc tề chỉnh, có vẻ rất chuyên nghiệp và hiệu quả. Và người có nhiều hoài bão đã chứng tỏ rằng họ có năng lực làm các thứ. Bây giờ họ có nhà riêng của họ, xe của họ, vợ của họ, con của họ. Và không ai có thể hình dung rằng những người này đã từng ở quanh các phố bẩn thỉu, nhem nhuốc.

Không sạch sẽ đã trở thành triết lí của họ. Nó đã là phản ứng, vì bố mẹ họ bảo họ, "Sạch sẽ là ở cạnh Thượng đế." Và họ đã nghe tin tức rằng Thượng đế chết. Bây giờ ai ở cạnh Thượng đế? Sạch sẽ sao? Phản ứng là chống lại bố mẹ và nỗ lực thường xuyên đè nén bản tính của họ. Họ bắt đầu đi từ cực đoan này sang cực đoan kia. Họ bắt đầu có triết lí về không sạch sẽ, bẩn thỉu. Nhưng thế rồi họ trở thành kẻ bỏ học, và xã hội sẽ không chấp nhận họ; họ trở thành không khớp.

Nhưng họ có thể xoay xở chỉ tới độ tuổi ba mươi. Đến lúc đó bố mẹ họ đã chán rồi - bố mẹ họ đã từng cố gắng vất vả, nhưng họ đã không nghe chút nào. Họ đã không đi nhà thờ, họ đã hướng tới Kabul, Kulu Manali, Kathmandu, Goa... và kết thúc ở Poona! Đây đã là con đường của họ. Bạn biết con đường nào đã mang bạn tới đây - Poona đã là điểm cuối chết!

Nhưng trẻ em mới đang dùng ma tuý vì chúng xem mọi loại chuyện ma tuý trên truyền hình, và chắc chắn chúng trở nên quan tâm. Trẻ em rất tò mò thám hiểm bất kì cái gì mà chúng thấy trên truyền hình. Trẻ em bẩy tuổi đang dùng ma tuý, ma tuý nặng, và điều đó trở thành môi nguy hiểm lan rộng ở Mĩ.

Mơ của họ là đầy những nguy hiểm, sát hại, tự tử - đó là điều họ đang xem trong gần bẩy giờ rưỡi trung bình trong một ngày! Bạn không thể mong đợi... Nếu bạn phí hoài một phần ba cuộc đời bạn vào truyền hình, thế thì nó sẽ có tác động sâu sắc. Trẻ em hiểu ngôn ngữ hình ảnh, và truyền hình mang mọi câu chuyện giật gân mầu sắc này tới.

Mơ của chúng đã thay đổi, hành vi của chúng đã thay đổi.

Tôi muốn nhà tâm lí học Munich này làm cuộc điều tra chỗ mà truyền hình đã không đi vào, và tôi tuyệt đối chắc chắn ông ta sẽ phải ủng hộ cho giả thiết của Sigmund Freud. Và nếu ông ta thực sự muốn đi sâu hơn và trong nghiên cứu của mình, ông ta phải đi tới những người thổ dân, nơi ngay cả truyền hình đã không đi vào. Ngay cả tu sĩ đã không đạt tới, ngay cả Thượng đế cũng không được nghe thấy. Mọi người đang sống một cách tự nhiên: không đè nén, không cấm đoán đạo đức. Nếu Franz Strunz đi tới những chỗ đó, ông ta sẽ ngạc nhiên.

Thứ nhất, ông ta phải thăm dò các nước mà truyền hình còn chưa tới, vì đây sẽ là những đứa trẻ mà Sigmund Freud đã nghiên cứu.

Tôi biết trẻ em ở Ấn Độ... gần chín mươi phần trăm, hay thậm chí hơn chín mươi phần trăm Ấn Độ không có ý tưởng về truyền hình hay phim ảnh. Những làng nhỏ... ở đó tôi đã bắt gặp những người thậm chí đã không thấy tầu hoả. Điện đã không tới nhiều nơi, cho nên không có vấn đề gì. Và truyền hình đã chỉ mới được đưa vào Ấn Độ, cho nên chỉ các thành phố lớn - như Bombay, New Delhi, Calcutta và Madras có thể có truyền hình, nhưng không phải phần lớn đất nước. Ông ấy có thể nghiên cứu trẻ em ở đó.

Tôi đã nghiên cứu trẻ em với chủ định riêng của tôi, và tôi có thể cho lời đảm bảo rằng nếu truyền hình và phim ảnh mà không vươn tới, bạn sẽ thấy giả thuyết của Sigmund Freud là tuyệt đối đúng. Và nếu bạn đi tới các thổ dân...

Đặc biệt một bộ lạc thổ dân ở Miến Điện đã được nghiên cứu bởi các nhà tâm lí và họ không thể tin được điều đó: bộ lạc đó chưa bao giờ trong bất kì cuộc chiến tranh nào. Họ không đánh lẫn nhau - ngay cả trong mơ của họ. Họ không có nhiều mơ thế như bạn có. Có hàng trăm người trong bộ lạc đó mà không bao giờ mơ. Khi bạn nói về mơ, họ chỉ nhìn bạn - "Ông đang nói về cái gì vậy? Khi chúng tôi ngủ chúng tôi ngủ. Ông ngụ ý gì bởi mơ?" Trong ngôn ngữ của họ không có từ mơ.

Và nếu thỉnh thoảng một đứa trẻ mơ, hay một người mơ bất kì cái gì - chẳng hạn, có đánh nhau với hàng xóm nào đó, hay có chuyện tình với đàn bà nào đó - điều đầu tiên, vào sáng sớm, người đó phải thú nhận giấc mơ với bố mẹ mình. Và thế rồi mọi người già của làng tụ tập lại để hình dung ra người này là ai mà anh ta đã giết trong mơ của anh ta, hay đã đánh nhau với người đó trong mơ của anh ta, hay người đàn bà đó là ai mà anh ta đã rơi vào yêu trong mơ của anh ta. Họ hình dung ra điều đó. Họ cho mô tả chi tiết hoàn toàn, rất sinh động và rất thực. Cho nên họ có thể hình dung ra người này là ai - đó là một bộ lạc nhỏ.

Thế rồi những người già bảo người đã mơ, "Anh phải đem bánh kẹo và hoa và quà cho người đàn bà đó, để cô ấy biết rằng anh đã cư xử không tốt với cô ấy trong mơ, và anh đã tới xin tha thứ. Đi cùng với lời xin lỗi người đàn bà hay người đàn ông mà anh đã từng bạo hành. Và chừng nào họ chưa tha thứ cho anh, đừng quay về, cứ ngồi đó." và hiển nhiên, người này chẳng liên quan gì tới điều đó - bạn đã không giết anh ta, bạn chỉ mơ - cho nên hiển nhiên, anh ta sẵn lòng tha thứ cho bạn.

Đây đã là văn hoá của họ trong hàng nghìn năm - rằng ngay cả mơ cũng phải được tính tới. Và kết quả tối thượng là ở chỗ mọi người bình thường không mơ. Chỉ thỉnh thoảng ai đó mơ, và điều đó xảy ra chỉ khi anh ta đã đè nén cái gì đó tự nhiên. Chẳng hạn, anh ta đã từng nhìn người đàn bà với sự thèm khát, nhưng không thể diễn đạt được nó trong thực tại; do đó mơ tới như cái thay thế cho việc hoàn thành ao ước.

Xã hội đó biết nhiều về phân tâm hơn là cái gọi là thế giới văn minh. Họ đã từng phân tâm trong hàng nghìn năm, và phương pháp của họ là hiệu quả hơn nhiều. Họ đã làm nhẹ bớt cho giấc ngủ của mọi người hoàn toàn khỏi mơ. Họ biết giấc ngủ đích thực, điều Patanjali gọi là ngủ không mơ.

Ông ấy chia trạng thái tâm trí của bạn thành bốn: cái gọi là trạng thái thức, trạng thái mơ, sâu hơn thì là giấc ngủ không mơ, và sâu hơn điều đó là samadhi, việc thức thực. Trạng thái thứ nhất được gọi là thức; trạng thái cuối cùng được gọi là thức tỉnh thực, điều làm bạn thành phật.

Nhưng các bộ lạc thổ dân không có trạng mơ chút nào. Từ trạng thái thức họ đơn giản chuyển vào giấc ngủ không mơ. Và họ là hồn nhiên, hoàn toàn duyên dáng. Không một cuộc chiến tranh nào trong toàn thể lịch sử của họ, không việc giết người nào trong toàn thể lịch sử của họ, không việc tự tử nào trong toàn thể lịch sử của họ! Họ chỉ như hoa - hồn nhiên, tự nhiên.

Và bạn gọi bản thân bạn là văn minh, và bạn gọi họ là vô văn minh... nguyên thuỷ... không theo tôn giáo nào...?

Cho nên nếu nhà tâm lí này thực sự quan tâm, trước hết ông ta phải nghiên cứu những người không biết truyền hình, người không biết phim ảnh, và ông ta sẽ thấy giả thuyết của Sigmund Freud tuyệt đối đúng.

Thế rồi ông ta phải nghiên cứu những thổ dân kia, người đã sống một cách tự nhiên thế, không có bất kì nhà thờ đè nén nào, không có bất kì Ki tô giáo nào, không có bất kì Thượng đế nào, không có bất kì tu sĩ nào. Giống như con vật, giống như chim, giống như cây, một phần của sự tồn tại mênh mông này, đang tuôn chảy một cách tự nhiên, chúng không có mơ chút nào. Thỉnh thoảng ai đó có thể có mơ, nhưng chỉ thỉnh thoảng. Và thế thì những người già của xã hội đó tụ tập với nhau để quyết định cái gì phải được làm.

Đầu tiên, người ta phải hình dung ra ai thực sự là người mà anh ta đã mơ tới. Anh ta cho toàn thể chi tiết, và thế rồi đi cùng với lời xin lỗi và với món quà nào đó - kẹo, quả, hoa; họ là những người nghèo. Anh ta chỉ biếu những món quà này và hỏi xin tha thứ của họ. Trong mơ của mình anh ta đã xấu với họ, giận họ, bạo hành với họ, thèm khát họ. Bây giờ điều tuyệt đối bắt buộc là anh ta phải hỏi xin tha thứ của họ: "Chừng nào họ chưa tha thứ cho anh, cứ ngồi trước cửa nhà..."

Đây là phân tâm đích thực hơn - không nằm trên tràng kỉ nhà tâm thần hay nhà phân tâm và chỉ nói về mơ của bạn. Điều đó tiếp diễn mãi, vì mọi ngày bạn đang đè nén nhiều tới mức nó sủi bọt lên trong mơ. Không việc phân tâm nào đã bao giờ hoàn thành. Không có một người nào trên toàn thế giới có việc phân tâm được hoàn thành.

Nó không thể là đầy đủ, vì mọi ngày bạn đang tạo ra vật liệu mới cho mơ mới. Bạn liên tục được phân tích, và bạn liên tục bị đè nén bởi tu sĩ nhân danh Thượng đế.

Thượng đế và tu sĩ cùng nhau đã mưu đồ chống lại tâm thức con người sâu sắc và bạo hành tới mức họ đã quấy rối trạng thái thức của bạn, họ đã quấy rối trạng thái mơ của bạn. Và bởi vì những trạng thái này bị quấy rối thế, bạn không thể đi ra ngoài. Việc quấy rối này giữ bạn dính líu và bận rộn.

Những người đi thẳng từ trạng thái thức sang trạng thái ngủ không mơ rất dễ có năng lực trượt xuống trạng thái thứ tư. Đó là lí do tại sao Thiền sư cổ đại liên tục nói bạn chỉ phải thảnh thơi, bạn không phải làm bất kì cái gì.

Vấn đề không phải là làm, vấn đề là không làm. Chỉ thảnh thơi và nghỉ ngơi, để cho bạn có thể đạt tới giai đoạn thứ tư nơi bạn đột nhiên thức tỉnh lần đầu tiên. Thế thì bạn biết cái gọi là thức của bạn không phải là đích thực, nó là tầng rất nhỏ, mỏng, rất manh mún, không hữu dụng mấy.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng trong các xã hội thổ dân này, không có chư phật. Không có nhu cầu. Những người đó chung cuộc tự nhiên đi vào trong trạng thái thứ tư.

Khi họ trở nên mỗi lúc được trải nghiệm hơn, và trở nên mỗi lúc an bình hơn, được định tâm hơn, họ bắt đầu đi vào trạng thái thứ tư mà không có bất kì nỗ lực nào, không có bất kì giáo huấn nào, không có bất kì kinh sách nào.

Nếu bạn hiểu tôi, cuộc sống tự nhiên sẽ kết thúc trong chứng ngộ mà không có bất kì nỗ lực nào. Bạn sẽ đột nhiên thấy bạn được chứng ngộ. Đó là lí do tại sao không có việc thừa nhận nào được trao cho người chứng ngộ. Đó là hiện tượng tự nhiên, cũng như mọi bụi hồng nếu được tưới nước đầy đủ, nếu được cho phép có ánh mặt trời nào đó, nếu được cho đất tốt, sẽ đi tới nở hoa. Đó không phải là phép màu.

Mọi người đi tới nở hoa, người đó trở thành một Phật Gautam mà không có nỗ lực nào. Và vì mọi con người tự nhiên nhất định trở thành người chứng ngộ, việc thừa nhận không được tính tới. Nó chỉ như tuổi thơ ấu được tiếp nối bởi tuổi thanh niên, tuổi thanh niên được tiếp nối bằng tuổi trung niên, tuổi trung niên được tiếp nối bằng tuổi già và bạn biết rằng tuổi già được tiếp nối bằng chết. Nó chỉ là một dãy tự nhiên.

Phật tính nên là trình tự tự nhiên. Nó không vậy, vì Thượng đế và tu sĩ và kinh sánh của bạn; chúng đang ngăn cản bạn. Tự do từ tất cả những điều này là tuyệt đối cần thiết.

Và khá kì lạ, mọi chính phủ biết rằng rằng truyền hình đang làm hại mọi người vô cùng, làm tàn tạ sức khoẻ thể chất của họ, làm tàn tạ lành mạnh tâm trí của họ. Dầu vậy, vì mọi tập đoàn lớn, nơi hỗ trợ cho các chính khách trong các cuộc bầu cử của họ, sở hữu các đài truyền hình... Nhà thờ có đài truyền hình riêng của họ, đài phát thanh, tạp chí, báo chí - trong những cái tên khác nhau cho nên bạn sẽ không biết nó.

Một trong những nhà xuất bản Anh, Sheldon, đã xuất bản chín cuốn sách của tôi. Tôi không có ý tưởng gì rằng nó chỉ ở ngay phía trước, và đằng sau nó là nhà thờ. Khi người cầm quyền nhà thờ trở nên nhận biết rằng sách của tôi đã được xuất bản, thế thì tôi mới đi tới biết. Người đã là người quản lí của Sheldon Press phải đã đồng cảm với ý nghĩ của tôi, cách tiếp cận của tôi tới mọi thứ. Cho nên không hỏi nhà thờ, ông ấy tiếp tục xuất bản. Chín cuốn sách được xuất bản. Và thế rồi ông ấy thông báo cho tôi, "Nhà thờ đã thấy rằng tôi đã xuất bản sách của ông, cho nên họ ban hành lệnh cấm tuyệt đối trên điều đó. Cho nên xin tha thứ cho tôi, tôi sẽ không có khả năng xuất bản thêm nữa. Và họ đã ra lệnh rằng nhưng sách này phải đưa vào tái chế - bất kì cái gì đã được xuất bản - để cho chúng có thể bị tiêu huỷ."

Nhưng người này phải đã trong tình yêu lớn với tôi. Ông ấy đã không cho chúng vào các cơ xưởng tái chế. Ông ấy đã bán chúng cho các cửa hàng sách dùng lại, và ông ấy thông báo cho một trong các sannyasin của tôi, "Ông có thể kiếm chúng từ các cửa hàng sách dùng lại." Thế là chúng tôi kiếm mọi sách với giá vứt đi, nhưng đó là người quản lí Sheldon Press xoay xở điều đó. Thế rồi chúng tôi trở nên nhận biết rằng Sheldon đã là cái tên giả. Bạn sẽ không nghĩ rằng nó có bất kì liên quan gì tới nhà thờ.

Tôi đã được thông báo từ Đức rằng mọi báo chí lớn đều bị sở hữu bởi nhà thờ, nhưng bạn sẽ không biết. Các đài truyền hình bị sở hữu bởi nhà thờ, các đài phát thanh bị sở hữu bởi nhà thờ. Các vệ tinh bị sở hữu bởi nhà thờ... và các tập đoàn lớn.

Mọi người đã không nhìn vào các tập đoàn lớn. Họ là tập đoàn quốc tế như Coca-Cola. Chỉ Liên Xô là không nhận biết về Coca-Cola, nhưng bây giờ Đồng chí Gorbachev đã mang Coca-Cola vào Liên Xô. Bây giờ thứ quốc tế duy nhất là Coca-Cola. Dù bạn đi bất kì chỗ nào, bạn sẽ thấy các bản thông cáo tuyên bố, "Mọi thứ sẽ tốt hơn với Coca-Cola."

Có mười tập đoàn đang lên và một điều tra nói rằng trong mười năm tới, sẽ chỉ có mười tập đoàn này trên toàn thế giới, vì họ đang mua mọi tập đoàn nhỏ. Các tập đoàn nhỏ không thể cạnh tranh được. Mười tập đoàn này sẽ có của cải của thế giới trong những cái tên khác nhau cho nên bạn thậm chí sẽ không nghi ngờ một loại chủ nghĩa đế quốc mới, và là một loại rất tinh vi mà bạn sẽ không có khả năng hình dung ra ai ở đằng sau nó.

Những tập đoàn này sở hữu gần như mọi đài truyền hình, và mối quan tâm của họ không ở tâm lí của mọi người hay sự quấy rối của họ. Toàn thể mối quan tâm của họ là ở chỗ năm mươi phần trăm thời gian xem truyền hình được dành cho quảng cáo - đó là thu nhập của họ. Nhưng thu nhập đó là có thể chỉ nếu hàng triệu người xem chương trình của họ, bằng không thì không ai sẽ quảng cáo.

Để hấp dẫn hàng triệu người tới chương trình họ phải làm nó gây xúc động mạnh như có thể. Nó phải là câu chuyện ba góc: hai đàn bà và một đàn ông, hay hai đàn ông và một đàn bà. Và thế rồi giết người, và tự tử, và bệnh tinh thần, và điên rồ và đủ mọi loại giật gân phải được mang tới mọi ngày. Nó là cùng câu chuyện diễn ra mãi.

Và họ không cho phép bạn thấy toàn thể câu chuyện. Họ cho bạn từng mảnh, và thế rồi tới quảng cáo. Khi bạn đang nóng lòng, kích động, thế thì đột nhiên quảng cáo tới. Trong giai đoạn nóng đó, mong manh, bạn lập tức nuốt quảng cáo. Bạn không bận tâm nó là lành mạnh hay liệu bạn cần nó hay không, nó đơn giản làm ra dấu ấn vào tâm trí bạn.

Và câu chuyện này lại tới, cho nên bạn thậm chí không có thời gian nghĩ cái gì đã đi vào tâm trí bạn; họ không cho bạn cơ hội để nghĩ. Lần nữa câu chuyện bắt đầu, và bạn quên toàn bộ về quảng cáo. Lại một mảnh, và lại cùng quảng cáo đó được lặp lại. Điều đó diễn ra từ sáu giờ sáng tới mười hai giờ đêm. Và mọi người chỉ bị in sâu bởi mọi loại vô nghĩa và ngu xuẩn.

Truyền hình đã trở thành một trong những nguy hiểm lớn cho nhân loại. Nó có thể đã là phúc lạc lớn, ân huệ lớn. Nó có thể đã là hữu dụng mênh mông như giáo dục.

Theo tôi, mọi đài truyền hình phải thuộc vào các đại học, các cao đẳng, các trường phổ thông. Và chúng phải có các chương trình giáo dục mọi người. Không quảng cáo - cái đó không là giáo dục, cái đó là giáo dục sai, cái đó là khai thác. Họ phải dạy mọi người lịch sử, địa lí... Trẻ nhỏ người không thể nắm được nó qua ngôn ngữ, sẽ dễ dàng quan tâm tới việc học lịch sử, học địa lí, học các loại môn học khác. Khoa học, văn học, viễn tưởng, thơ ca, hội hoạ... mọi loại nghệ thuật có thể được mang tới cho trẻ em mọi cấp.

Cho nên phải có đài truyền hình cho trẻ nhỏ, và thế rồi phải có vài đài cho người tốt nghiệp đại học. Và phải có truyền hình cho bậc cao nhất, sau đại học và người nghiên cứu. Các giáo sư phải liên tục được làm cho nhận biết về những loại khám phá mới, bằng không họ đang tụt lại sau, gần hai mươi năm đằng sau. Họ đã học từ hai mươi năm trước khi họ còn ở trong các lớp sau đại học, nhưng tri thức đó đã trở thành lỗi thời.

Cập nhật cho giáo sư sẽ rất dễ dàng với truyền hình. Mang cho sinh viên những mối quan tâm vô cùng trong mọi loại môn học, trong bất kì cái gì họ quan tâm... Nếu họ quan tâm tới âm nhạc, họ có thể được dạy cho âm nhạc, nhạc cụ. Nếu họ quan tâm tới hội hoạ, họ có thể được dạy vẽ, điêu khắc. Họ có thể được dạy thiền. Mọi loại khả năng có đó, một khi truyền hình được lấy ra khỏi bàn tay của những kẻ bóc lột, và từ tay của những người thuyết giảng tôn giáo. Và thế thì những trẻ em này sẽ chứng minh cho giả thuyết của Sigmund Freud một cách tuyệt đối.

Người này đã lấy thái độ báo thù. Điều đó bao giờ cũng xảy ra. Vì Sigmund Freud là người sáng lập ra tâm lí học, mọi nhà tâm lí học cảm thấy phải báo thù, cũng như mọi đứa trẻ cảm thấy cần trả thù bố mẹ.

Nghiên cứu này đơn giản chỉ ra một bí mật rất sâu của nhà tâm lí học này - rằng ông ta muốn trả thì nhân vật cha, Sigmund Freud. Bằng không, điều này là đơn giản thế để hiểu rằng công nghệ đã mang tới nhiều thứ thế cho trẻ em mà không sẵn có cho ông ta để nghiên cứu, mà ông ta cũng không nhận biết về trẻ em thổ dân. Ông ta đã nhận biết chỉ trẻ em Ki tô giáo và Do Thái giáo - cả hai đều là các tôn giáo đè nén.

Ki tô giáo là con của Do Thái giáo. Mô ha mét giáo cũng vậy. Cả ba tôn giáo được sinh ra bên ngoài Ấn Độ đều là các nhánh của Do Thái giáo, kìm nén. Thượng đế giận, Thượng đế ghen, Thượng đế sẽ trừng phạt bạn bằng lửa địa ngục vĩnh hằng. Nhưng những lời này không đi vào trong tâm trí của trẻ em. Chúng bắt đầu có tâm trí từ bốn tuổi, nhưng truyền hình có thể được xem trước bốn tuổi.

Trẻ nhỏ xem truyền hình vì chúng biết ngôn ngữ hình ảnh và mầu sắc. Thế giới của chúng bao gồm cá hình ảnh. Đó là lí do tại sao trong sách của trẻ em đầu tiên bạn phải in bức tranh lớn. Nếu bạn muốn dạy chúng quả xoài là gì bạn phải đặt vào bức tranh lớn về quả xoài. Nước bọt tới trước; thế rồi lời 'xoài' tới. Khi nhìn vào bức tranh, đứa trẻ bắt đầu cảm thấy ăn nó, và bức tranh trở nên được liên kết dần dần với lời 'xoài'. Khi đưa trẻ lớn lên, bức tranh xoài trở thành nhỏ đi và nhỏ đi và nhỏ đi. Trong đại học, bức tranh hoàn toàn biến mất khỏi sách; lời trở thành rất nhỏ, dài hơn, phức tạp, và câu trở thành phức tạp. Bây giờ đứa trẻ đã chuyển từ ngôn ngữ hình ảnh sang ngôn ngữ bảng chữ cái - chuyển sang lời từ hình ảnh.

Bây giờ lời không có mầu sắc, và lời không có loại tác động mà trẻ con có thể hiểu.

Cho nên nhà tâm lí học này phải hiểu cái gì - tôi định gửi cho ông ta toàn thể bài nói - là ở chỗ giả thuyết của ông ta là tuyệt đối sai và thiên lệch, và nó chỉ là việc trả thù chống lại Sigmund Freud. Bằng không, người nghiên cứu có ý thức chắc đã nhìn vào những thay đổi nào đã xảy ra giữa thời của Sigmund Freud và thời của chúng ta.

Trẻ em có là cùng trẻ em bạn đang điều tra không? Chúng không là cùng trẻ em. Thế thì bạn không thể kết án giả thuyết của Sigmund Freud được vì ông ấy đã nghiên cứu một loại trẻ em khác. Những trẻ em đó đã biến mất khỏi phương Tây hoàn toàn, cho nên giả thuyết này sẽ được chấp nhận. Đó là lí do tại sao tôi đã lấy nó cho cân nhắc của bạn rằng giải thuyết này là sai. Giả thuyết này nhất định được chấp nhận, vì bạn có thể nghiên cứu trẻ em và nghiên cứu đó sẽ hỗ trợ cho nó. Nhưng lí do là truyền hình, không phải là trẻ em! Bỏ truyền hình đi và bạn sẽ thấy trẻ em đích xác như Sigmund Freud đã thấy chúng. Nhưng ông ta cũng đã bỏ lỡ trẻ em thổ dân người không có bất kì mơ chút nào.

Ông ta đã không thể quan niệm được rằng có những người không có bất kì mơ nào, vì tôn giáo Ki tô- Do Thái là đè nén thế. Những người đã từng được nuôi lớn lên trong văn hoá đó không thể quan niệm được rằng vẫn có những người thổ dân khắp thế giới, ẩn kín trong rừng sâu, những người là tuyệt đối tự nhiên. Những người đó không bao giờ nghe nói rằng có bất kì cái gì bị đè nén.

Ngay ở giữa Ấn Độ có một bang, Bastar. Nó thường là bang độc lập dưới sự cai trị của Anh, và vua của Bastar đã là bạn tôi. Và ông ấy đã trở thành bạn tôi bởi một sự trùng hợp kì lạ...

Cả hai chúng tôi đã du hành trong cùng toa tầu hoả, và chúng tôi cả hai có vẻ giống nhau. Ông ấy có râu đích xác cùng cỡ như tôi có râu vào thời đó, và ông ấy thường mặc cùng loại áo choàng dài với khăn quấn quanh. Cho nên chúng tôi đã ngồi trong cùng toa nhìn nhau, nghĩ, "Điều nà thực lạ." Và ông ấy cũng nhìn tôi và quan sát, suy nghĩ, "Có chuyện gì nhỉ?"

Cuối cùng, ông ấy nói với tôi, "Chúng ta cả hai có vẻ giống nhau. Ông từ đâu tới?" Tôi bảo ông ấy. Ông ấy nói, "Kì lạ... và ông đi đâu vậy?"

Thế là chúng tôi đã đi tới cùng chỗ, Gwalior. Và chúng tôi sẽ là khách ở cùng cung điện của Gwalior maharani, hoàng hậu Gwalior. Chúng tôi cả hai cùng tham gia vào cuộc hội nghị hàng năm bà ấy thường triệu tập Hội nghị quốc tế về mọi tôn giáo.

Ông ấy sẽ đại diện cho ý tưởng thổ dân. Họ là người không tin vào bất kì tôn giáo nào, họ không có bất kì tôn giáo có tổ chức hay giáo điều nào; họ không có bất kì kinh sách linh thiêng nào, họ không có bất kì tu sĩ nào. Và vì ông ấy là người có giáo dục, ông ấy sẽ đại diện cho người không tin vào tôn giáo.

Tôi đã được mời vì hiểu lầm nào đó. Bà hoàng hậu maharani phải đã đọc một số sách của tôi và tưởng rằng tôi là người tôn giáo. Vào ngày đầu tiên của cuộc họp, bà ấy đã trở nên lo nghĩ, vì ít nhất năm mươi nghìn người đã có đó trong khu đất cung điện.

Cung điện của Gwalior là cung điện rất lớn, và có hàng mẫu hàng mẫu cỏ xanh quanh nó, và những dãy nhà nhỏ, và nó tất cả ở trong khu vườn có tường. Gần nửa thành phố thuộc về cung điện này. Và ngay đằng sau cung điện là một núi khổng lồ nơi đó họ quản lí một trường học cho mọi hoàng tử của đất nước và thậm chí ở ngoài đất nước. Trường đó thuộc về cung điện này. Nó đã được tạo ra cho con trai và con gái của Gwalior lúc ban đầu. Thế rồi nó trở thành trường hoàng gia cho mọi bang hoàng gia của Ấn Độ.

Nó là một cung điện đẹp, và nó có sân khổng lồ nơi năm mươi nghìn người có thể ngồi mọi năm. Nhưng khi tôi nói, bà ấy hoàn toàn bị tan nát. Bà ấy không thể ngủ được. Vào mười hai giờ đêm bà ấy gõ cửa phòng tôi. Tôi đã rời khỏi bà ấy lúc mười giờ sau cuộc họp. Tôi không thể nghĩ được ai sẽ gõ cửa phòng tôi, cho nên tôi mở cửa ra, và đó là đích thân hoàng hậu.

Bà ấy nói, "Tôi không thể ngủ được. Ông đã làm tan tành toàn thể tâm trí tôi. Và giờ tôi không thể cho phép ông nói ngày mai." Cuộc hội nghị định tiếp tục trong bẩy ngày, tôi đã nói chỉ một lần. Và bà ấy nói, "Con trai tôi muốn gặp ông, nhưng tôi đã cấm nó." Bà ấy nói, "Bất kì điều gì ông đã nói đều là đúng, nhưng nó đi ngược lại mọi niềm tin của chúng tôi, mọi tình cảm tôn giáo của chúng tôi."

Tôi nói, "Bà nghĩ về chân lí, hay bà nghĩ về dối trá và an ủi?"

Bà ấy nói, "Tôi có thể hiểu được, nhưng con trai tôi sẽ là người đứng đầu bang còn quá trẻ, và nó bị ấn tượng bởi ông ngay lập tức." Bà ấy yêu cầu tôi, "Chỉ vì tôi - cho dù nó tới, đừng cho phép nó vào."

Thế là tôi nói, "Nếu tôi sẽ không nói, thế thì tôi không phải ở đây. Bà đã đề nghị tôi về bài giảng bẩy ngày, và chỉ một bài giảng và bà được kết thúc. Để tôi làm việc của tôi. Năm mươi nghìn người kia sẽ hỏi về tôi."

Bà ấy nói, "Tôi biết điều đó, vì ông đã là người duy nhất họ dường như quan tâm, và đã có im lặng tuyệt đối. Tôi chưa bao giờ thấy im lặng như thế trong đám đông. Các tu sĩ liên tục nói, ai quan tâm? Họ nói cùng điều lặp đi lặp lại, hết năm nọ năm kia, cùng giáo điều. Lần đầu tiên," hoàng hậu nói với tôi, "tôi đã hiểu im lặng nghe được tiếng kim rơi. Cho nên họ sẽ hỏi, nhưng điều đó là khó, vì mọi người tham dự khác là tuyệt đối chống lại ông."

Người Hindu và người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo - tất cả họ có đó, cho nên họ tiến tới maharani sau bài giảng, "Nếu người này còn ở đây trong bẩy ngày, thế thì chúng tôi đi. Chúng tôi không thể ngồi cùng sân khấu với nhau được, vì ông ấy đang phá huỷ mọi tôn giáo."

Tôi nói, "Họ có nhiều, họ có thể bảo vệ. Tôi một mình" - đã có gần mười hai người trên sân khấu cùng tôi - "Họ có đủ thời gian... có mười hai người, họ có thể bảo vệ."

Bà maharani nói, "Tôi biết họ không thể. Họ không có can đảm, họ không có luận cứ, họ không có bất kì ý tưởng nào làm sao để bảo vệ. Và ông đã phá huỷ những điều nhỏ nhất của họ, điều tôi đã không thể quan niệm được là có thể bị phá huỷ!"

Ngay trước tôi, một trong các shankaracharyas đã nói, và ông ấy kể một câu chuyện nhỏ mà tôi thích kể cho bản thân tôi, nhưng khi bất kì ai khác kể nó, đó là chuyện khác.

Nó là câu chuyện cổ ông ấy đã kể:

Câu chuyện kể rằng mười người mù đi qua dòng nước dâng ngập. Sợ hãi, họ nắm tay nhau, và bằng cách nào đó họ xoay xở được. Nước không sâu, nhưng dòng chảy xiết. Họ sang tới bờ bên kia, và ai đó trong số họ nói, "Chúng ta phải đếm, vì chúng ta không biết liệu sông có cuốn ai đi không, hay tất cả chúng ta vẫn cùng nhau."

Cho nên họ bắt đầu đếm. Mọi người đều đếm, và nó bao giờ cũng kết thúc với chín vì người đó đã bỏ bản thân mình ra. Người đó sẽ đếm những người khác: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bẩy, tám, chín - một người bị thiếu! Tất cả họ đều thử đếm, nhưng nó bao giờ cũng dừng lại ở người thứ chín!

Một người, đang ngồi bên cạnh đường, làm việc trên cánh đồng, đã quan sát mọi điều vô nghĩa này đang diễn ra. Và cả mười người mù đã bắt đầu kêu khóc, vì một người trong số họ, một người bạn của họ đã bị dòng nước cuốn đi.

Cho nên cuối cùng, người này đi tới và nói, "Có chuyện gì vậy?"

Họ nói, "Chúng tôi có mười người, và một người đã bị sông cuốn đi. Giờ chúng tôi chỉ có chín."

Người này lập tức nhìn - họ là mười. Cho nên anh ta nói, "Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi sẽ đếm. Đứng dậy đi! Tôi sẽ liên tục đập tay. Đầu tiên tôi sẽ đập vào người thứ nhất một cái, và tôi sẽ nói một! Thế rồi tôi sẽ đập người thứ hai hai cái, và tôi sẽ nói hai, và người thứ ba thì ba lần, và tôi sẽ nói ba... và đây là cách tôi sẽ đếm."

Họ nói, "Bằng cách nào cũng được... cứ đem ra người thứ mười."

Thế là người đó đếm - và họ là mười. Và họ hân hoan, mặc dầu họ đã bị đánh đau.

Nó là câu chuyện cổ. Và ông shankaracharya đã kể nó để chỉ ra rằng đây là cách chúng ta là vậy: quên bản thân chúng ta và nhìn quanh toàn thế giới; cố tìm an bình, cố tìm phúc lạc, cố tìm ra Thượng đế, và không nhìn vào trong, không đếm bản thân chúng ta.

Sau ông ấy tôi đã nói, và lần đầu tiên tôi đã phê bình câu chuyện này, điều tôi đã nói cho các bạn. Nhưng ngữ cảnh của tôi là khác toàn bộ!

Thế là tôi nói với ông shankaracharya, "Câu chuyện của ông là tuyệt đối ngu xuẩn, vì trước hết ông phải giải thích làm sao họ đi tới biết họ là mười người chứ. Trước khi họ bắt đầu đi vào sông, làm sao họ xoay xở để đếm? Và nếu họ biết cách đếm, làm sao họ quên nó chỉ bởi việc đi qua sông?"

Bây giờ ông ấy đâm ra lúng túng.

Tôi nói, "Chỉ có hai khả năng: một là ở chỗ ai đó khác đã đếm họ cũng như ai đó khác đã đếm họ sau đó."

Ông ấy nói, "Có lẽ."

Tôi nói, "Đó là rắc rối với tri thức vay mượn. Vì ai đó khác đã đếm họ, điều đó tạo ra rắc rối. Nó đã không phải là hiểu biết riêng của họ rằng họ có mười người. Nó đã là hiểu biết của ai đó khác rằng họ có mười người, và họ đã mang tri thức vay mượn đó. Tri thức vay mượn đó sẽ không giúp gì. Khi bản thân họ đếm, tri thức vay mượn này đã không giúp chút nào. Lần nữa họ cần ai đó đếm họ, lần nữa lại tri thức vay mượn.

"Tôi chống lại tri thức vay mượn vì nó sẽ không giúp bạn. Nó sẽ tạo ra nhiều khổ hơn, nhiều phiền não hơn, nhiều lo âu hơn. Cái gì đã xảy ra cho những người mù kia?" Và tôi đã hỏi ông shankaracharya, "Bất kì cái gì ông biết, đó là tri thức của ông hay chỉ vay mượn? Và là thực thà đi, vì tôi bao giờ cũng có cách kiểm tra lại liệu nó có là tri thức của ông hay được vay mượn."

Ông ấy nói, "Tôi không biết bản thân tôi; tôi là học giả. Tôi biết Vedas, tôi biết Upanishads, nhưng tôi không biết bản thân tôi."

Tôi nói, "Thế thì ông là người mù. Sớm hay muộn, đi qua bất kì dòng nước nào ông sẽ gặp khó khăn. Ông bao giờ cũng vẫn còn phụ thuộc vào người khác, ông sẽ không bao giờ tự do. Và không có tự do không có tính tâm linh."

Lần đầu tiên tôi đột nhiên thấy việc phê bình này, tôi chưa bao giờ nghĩ về nó.

Nhưng hoàng hậu nói với tôi, "Điều này là nguy hiểm, Ông đã kết thúc ông shankaracharya kia, và mọi người đã cười và thích thú. Bây giờ ông shankaracharya kia rất giận. Ông ấy đang ngồi trong cung điện của tôi."

Tôi đã ở trong nhà khách. Mọi người đều có nhà khách. Họ có ít nhất hai mươi nhà khách trong khu vườn rậm... những cây khổng lồ và cổ đại. Ông shankaracharya đã ngồi trong cung điện chính nơi hoàng hậu và nhà vua sống. Và ông ấy nói, "Tôi sẽ không ra đi chừng nào các vị chưa làm thu xếp này. Hoặc tất cả chúng tôi ra đi - mười hai người..."

Tôi nói, "Đừng lo nghĩ, tôi sẽ nói trong ba tiếng liên tục. Mười hai người kia không được cần. Tôi sẽ quản lí năm mươi nghìn người. Thực ra, ngày mai bà sẽ gặp khó khăn vì nhiều người hơn sẽ tới. Năm mươi nghìn người này sẽ nói cho ít nhất một trăm nghìn người. Cho nên đừng lo nghĩ, sẽ có sự tụ tập gấp đôi. Bà phải làm việc thu xếp. Để mười hai người đó đi, tôi sẽ quản lí cho bẩy ngày."

Bà ấy nói, "Nhưng tôi không thể làm được điều đó. Tôi là người Hindu chính thống."

Tôi nói, "Điều đó không thành vấn đề. Tôi sẽ kết thúc mọi thứ chính thống trong bẩy ngày."

Bà ấy nói "Điều đó tôi có thể hiểu. Ông sẽ kết thúc, nhưng tôi không thể bảo tất cả những người lãnh đạo tôn giáo kia đi được. Và họ là mười hai người, còn ông có một mình."

Tôi nói, "Điều đó không thành vấn đề. Tôi là đủ cho mười hai người kia. Nếu họ không muốn ngồi trên cùng sân khấu, làm sân khấu khác cho họ, và tôi sẽ chỉ ngồi một mình trên sân khấu của tôi. Tôi sẽ chăm nom cho từng người trong mười hai người đó."

Bà ấy nói, "Ông đang tạo ra rắc rối, và tôi không muốn rắc rối."

Tôi nói, "Thế thì nếu bà muốn giữ những người đó, bà không hiểu. Bà sẽ bị rắc rối."

Và khoảnh khắc đó ông Bastar maharajah cũng bước vào. Ông ấy ở trong phòng bên cạnh trong nhà khách cùng tôi. Và ông ấy nói với tôi, "Ông đã làm một việc lớn, và nếu ông phải đi, tôi đi cùng ông."

Đó là cách chúng tôi đã trở thành bạn bè. Và ông ấy đã mời tôi tới bang của ông ấy. Cho nên từ Gwalior tôi đã đi thẳng tới Bastar. Nó là xa với Gwalior. Và ông ấy đã giới thiệu tôi với người của Bastar. Họ là những thổ dân, và họ sống gần như trần truồng. Họ đặt khoanh vải nhỏ quanh người khi họ tới kinh đô chính, Jagdalpur - bằng không, trong rừng, trong núi họ sống trần trụi.

Bạn có thể hỏi người đàn bà, ngay cả bằng việc chạm vào vú cô ấy, "Đây là cái gì?" - và cô ấy sẽ không cảm thấy ngượng nghịu, cô ấy sẽ không cảm thấy bị xúc phạm. Cô ấy sẽ nói, "Cái này chỉ để cho con tôi sữa," mà không có ý tưởng nào rằng "ông đang xúc phạm, ông đang chạm vào vú tôi." Cô ấy sẽ không la hét, và cô ấy sẽ không đi tới bất kì đồn cảnh sát nào; thực ra, không có đồn cảnh sát ở đó.

Những người này là hồn nhiên, tới mức hiếm khi chuyện xảy ra là ai đó giết người nào đó. Điều đó đã xảy ra có lẽ hai lần trong thời của maharajah này. Thế rồi người này, người đã giết người, tự mình đi tới kinh đô, vì chỉ kinh đô có đồn cảnh sát và toà án. Người đó đi tới đồn cảnh sát và thông báo cho họ: "Tôi đã giết một người và tôi cần bị trừng phạt." Bằng không thì không ai đã bao giờ biết rằng người đó đã giết bất kì ai. Không người nào đi vào trong rừng sâu đó. Họ sống trong hang động; không ai đi tới đó. Và họ có những cái hang đẹp thế.

Và họ là những người đẹp thế. Bạn sẽ không tìm thấy bất kì người béo nào, bạn sẽ không tìm thấy bất kì người gầy nào - họ toàn có vẻ giống nhau. Họ sống lâu, và họ sống rất tự nhiên. Ngay cả về dục họ rất tự nhiên, có là là những người tự nhiên duy nhất còn lại ở Ấn Độ.

Và đích xác điều họ làm, phải đã được làm trên khắp thế giới nếu bạn muốn mọi người không bị làm hư hỏng. Đằng sau mọi loại ốm tinh thần và suy đồi dục. Ở Bastar tôi đã thấy lần đầu tiên, mọi người tự nhiên toàn bộ.

Sau khi con gái và con trai tới tuổi - đó là mười ba và mười bốn... Họ có trong các làng của họ, ở giữa làng, một phòng nhỏ được làm bằng tre, như lều của họ được làm. Khoảnh khắc con gái có kinh, cô ấy phải ở trong phòng trung tâm này. Đến lúc con trai được mười bốn tuổi, có khả năng dục, anh ta phải sống... Mọi con gái và con trai đã trở nên trưởng thành về dục, họ bắt đầu sống cùng nhau, ngủ cùng nhau, với một điều kiện - và đó là điều kiện hay - rằng không con trai nào phải ngủ với một con gái hơn ba ngày. Cho nên bạn phải trở nên quen với mọi cô gái của làng, và mọi cô gái phải quen với mọi con trai của làng.

Trước khi bạn quyết định cưới ai đó, bạn phải biết mọi đàn bà của làng, để cho không có vấn đề nảy sinh sau đó mà bạn bắt đầu thèm khát đàn bà khác nào đó. Bạn đã sống với mọi đàn bà với lứa tuổi của bạn, và đó là chọn lựa của bạn sau khi thực nghiệm với mọi đàn bà.

Và không có ghen tuông chút nào, vì từ chính lúc bắt đầu mọi người đang sống với mọi cô gái. Mọi con trai có cơ hội quen với mọi con gái của làng, và mọi con gái đã có cơ hội quen với mọi con trai của làng.

Cho nên không có vấn đề về bất kì ghen tuông nào, không có tinh thần cạnh tranh chút nào. Nó chỉ là thực nghiệm, cơ hội cho mọi đứa trẻ biết dục với người khác, và thế rồi tìm ra ai phù hợp với bạn, và với ai bạn là hạnh phúc nhất, với ai bạn lắng đọng một cách hài hoà, với ai bạn cảm thấy tim bạn. Có lẽ đây là cách khoa học duy nhất để tìm ra bạn tâm giao.

Nhưng những người này được gọi là không văn minh, và các nhà truyền giáo đang làm việc lớn là văn minh hoá họ: mở trường học, bệnh viện. Họ không cần bệnh viện. Họ là những người mạnh khoẻ thế, và những nhà truyền giáo này mang tới mọi loại bệnh cho họ. Họ chưa bao giờ nghe nói tới bệnh lậu, họ chưa bao giờ nghe nói về mọi loại bệnh suy đồi. Các nhà truyền giáo đem tới các bệnh này, và thế rồi bệnh viện.

Các nhà truyền giao mang tới ý tưởng cho họ rằng họ là nghèo. Họ chưa bao giờ nghĩ về điều đó - tất cả họ là bình đẳng, nghèo bình đẳng. Không có vấn đề so sánh, và họ đang sống tốt hoàn hảo, và mạnh khoẻ, một bữa một ngày. Họ là mạnh khoẻ hơn bất kì người nào khác trên thế giới.

Mới gần đây các nhà khoa học đã làm thực nghiệm trên chuột, và họ phân vân. Họ tạo ra hai nhóm chuột, cùng một loại. Với một loại họ cho ăn nhiều thức ăn nhất tuỳ chúng muốn - chuột Mĩ. Và với loại kia, chuột Bastar, họ cho thức ăn chỉ một lần. Và họ ngạc nhiên. Lũ chuột được cho bất kì cái gì chúng muốn, sống chỉ bằng nửa tuổi của chuột được cho ăn chỉ một lần. Chúng gấp đôi tuổi thọ - gấp đôi các anh chàng Mĩ!

Cho nên người Bastar sống lâu hơn, mặc dầu họ không biết họ đã sống bao lâu, vì họ không thể đếm. Họ sống tới một trăm tuổi rất dễ dàng, một trăm hai mươi rất dễ dàng. Nếu bạn tìm sâu hơn trong rừng, có lẽ bạn có thể thấy người đã sống một trăm năm mươi tuổi. Họ không biết điều đó - bạn phải hình dung ra nó. Và họ không có vẻ già nữa.

Ngay cả người già nhất vẫn liên tục làm việc. Sống là khó khăn, nhưng nó đẹp. Mọi đêm - đặc biệt khi đó là đêm trăng tròn - họ nhảy múa để bỏ lại. Cả ngày họ đã làm việc vất vả, và trong đêm họ nhảy múa. Mọi đàn bà, mọi đàn ông cùng nhau... không có vấn đề rằng bạn phải nhảy với vợ bạn. Mọi người liên tục đổi bạn tình. Nó là hiện tượng xã hội, nó không phải là vấn đề sở hữu mà bạn phải nhảy với vợ riêng của bạn. Và nếu cô ấy nhảy múa với ai đó khác, thế thì bạn có vẻ ghen, bạn có vẻ như có tính giết người.

Tôi đã quan sát điệu múa của họ. Họ có vẻ đẹp thế. Không có vấn đề về bất kì thèm khát nào, vì họ được đáp ứng, đáp ứng về thể chất.

Họ không có mơ. Tôi đã hỏi nhiều người. Tôi đã hỏi ông maharajah. Ông ấy nói, "Họ không có mơ, nhưng tôi có vì tôi là người có giáo dục. Họ đã phá huỷ tôi. Tôi được sinh ra trong vùng đồi núi này, và tôi đã yêu thích vẫn còn là vô giáo dục, vô văn hoá như những người này. Vui vẻ của họ có tính lây nhiễm, tiếng cười của họ có tính lây nhiễm. Nhưng họ không có bất kì mơ nào."

Không có nhu cầu về mơ. Mơ là nhu cầu được tạo ra bởi đạo đức bị đè nén, bởi Thượng đế đè nén, bởi tu sĩ đè nén. Đây là những người đã tạo ra mơ. Và thế rồi tu sĩ khác đã đi vào hiện hữu, các nhà phân tâm. Họ khai thác việc mơ của bạn. Tu sĩ này đã tạo ra mơ, tu sĩ khác... và cả hai đã là người Do Thái.

Jesus đã là người Do Thái, và Sigmund Freud đã là người Do Thái. Người Do Thái này đã tạo ra Ki tô giáo - tôn giáo đè nén nhất trên thế giới, và người Do Thái kia đã tạo ra phân tâm học để phân tích các giấc mơ của bạn. Và cả hai đều có vui đùa lớn. Cả hai là những người được trả tiền cao nhất... nhà phân tâm và nhà truyền giáo, và các linh mục và giám mục, và hồng y và giáo hoàng...

Phân tâm học sẽ vẫn còn là không đầy đủ chừng nào nó chưa đi tới hiểu những người không có mơ. Thế thì bạn sẽ phải đổi toàn thể ý tưởng. Không phải là bạn sẽ phải thay đổi toàn thể ý tưởng này. Không phải là bằng việc phân tích mơ của mọi người bạn sẽ cho họ mạnh khoẻ tinh thần. Vấn đề là làm sao giúp họ đi từ giấc ngủ không mơ sang thảnh thơi trong giai đoạn thứ tư có tên là turiya, samadhi, satori, nơi người ta trở nên hoàn toàn thức tỉnh, trạng thái của Phật Gautam.

Và tin vui trước khi tôi lấy lời kinh.

Nhà điêu khắc New York nổi tiếng, Martine Vaugel vừa mới nhận tính chất sannyas từ Trung tâm Quốc tế Tân-Sannyas New York. Cô ấy là nhà điêu khắc nổi tiếng thế giới. Cô ấy phải đã nghe băng của tôi, và phải đã nghe tên của Sardar Gurudayal Singh mọi ngày. Cho nên, không thấy anh ấy - cô ấy còn chưa tới Poona, và cô ấy đã không gặp Sardar Gurudayal Singh... nhưng đây là tính nhạy cảm của nghệ sĩ, tính sáng tạo. Cô ấy đã làm bức tượng của Sardar Gurudayal Singh, và cô ấy đã gửi cho tôi ảnh của bức tượng để xem liệu cô ấy có đúng không? Và tôi đã ngạc nhiên. Cô ấy là tuyệt đối đúng. Bức ảnh trông gần như Sardar Gurudayal Singh.

(Thầy giơ bức ảnh của Sardar Gurudayal Singh cho tất cả thấy. Đáp lại, mọi người hoan hô và vỗ tay.)

Sardar Gurudayal Singh... cầm lấy ảnh của bạn!

(Thầy, thích thú mênh mông với tình huống này, cầm chiếc ảnh để Sardar nhận.)

Câu hỏi thứ nhất:

Cái gọi là "người Ki tô giáo hiện đại" đặc biệt những người Tin Lành trẻ, nói về Thượng đế dường như ông ấy không phải là người - như "Thượng đế là mọi nơi, trong mọi sinh linh, trong mọi cây, trong tự nhiên" - không phải là người ẩn trong mây.

Họ có nắm được vấn đề hay đó chỉ là từ sự tinh ranh, vì họ thấy rằng Thượng đế ông già đã không có nền tảng chút nào và không có tương lai?

Nó là từ tinh ranh tuyệt đối, vì họ liên tục nói rằng Thượng đế không là người. Thế thì tại sao họ đi tới nhà thờ? Thế thì tại sao họ liên tục cầu nguyện Thượng đế như một người? Nếu Thượng đế không phải là người, lời cầu nguyện phải được dừng lại, đi tới nhà thờ phải được dừng lại. Nếu Thượng đế không phải là người, thế thì Jesus không thể là đứa con duy nhất của ông ấy. Thế thì bạn phải bỏ ý tưởng rằng Jesus có quan hệ đặc biệt với Thượng đế.

Nếu Thượng đế thực sự là mọi nơi, thế thì ông ấy không có nhiều trong Jesus Christ hơn trong bạn. Thế thì tại sao bạn phải tôn thờ? Thế thì chức năng của linh mục là gì nếu không có Thượng đế như người? Linh mục phải biến mất.

Đó là lí do tại sao tôi nói những người này đơn giản lặp lại cách tiếp cận của Thiền - điều đã trở nên được biết cho phương Tây bây giờ - rằng không có Thượng đế. Nhưng họ không thể nói điều đó một cách đích xác, "Không có Thượng đế" - điều đó làm tổn thương tâm trí được lập trình của họ. Cho nên họ đang tìm các cớ theo cách rằng dường như Thượng đế hiện hữu, nhưng nó không là người.

Nhưng họ không hiểu những điều được ngụ ý. Họ nói, "Thượng đế là mọi nơi." Nếu Thượng đế là mọi nơi. Thế thì không chỗ nào có thể được gọi là linh thiêng. Nếu Thượng đế là mọi nơi, trong mọi sinh linh, thế thì bạn không thể bạo hành với con vật, bạn không thể đi săn con vật, bạn không thể giết con vật lấy làm thức ăn của bạn. Bạn đang giết Thượng đế. Nếu Thượng đế ở trong mọi sinh linh, thế thì mọi người phải là người ăn chay. Không ai có thể là không ăn chay; bằng không bạn đang giết Thượng đế và ăn Thượng đế.

Trong mọi cây trong tự nhiên... và bạn đang chặt cây, bạn đang phá huỷ sinh thái của tự nhiên.

Ngay khi Ấn Độ trở nên độc lập, bốn mươi năm trước, đã có quãng một trăm năm mươi triệu hec ta cây trong nước. Bây giờ chỉ có sáu mươi triệu hec ta. Quá nửa cây ở Ấn Độ đã bị chặt đi. Và người Ki tô giáo đang nói bây giờ rằng Thượng đế là mọi nơi, ngay cả trong mọi cây...? Người Hindu đã từng nói điều đó trong nhiều thế kỉ rằng Thượng đế là mọi nơi. Đó là nghĩa của 'omnipresent-có mặt khắp nơi'. Và nếu Thượng đế là mọi nơi, thế thì tại sao bạn đi tới nhà thờ, tại sao bạn đi tới đền chùa, tại sao bạn đi tới nhà thờ hồi giáo? Và tại sao bạn nghe bài giảng? Tại sao bạn mang Kinh Thánh linh thiêng hay Koran linh thiêng?

Tôi không nghĩ một Thượng đế phi nhân có thể viết ra Vedas và Kinh Thánh và Koran - hay Thượng đế phi nhân có thể gửi các thông điệp và các nhà tiên tri và các đấng cứu thế. Thế thì nếu bạn chân thực, mọi kinh sách linh thiêng của bạn đều phải bị đốt đi. Và mọi nhà thờ của bạn phải bị phá đi, nếu bạn là chân thực. Và mọi tu sĩ của bạn phải được bảo: "Ông đã khai thác đủ rồi; giờ bắt đầu làm việc đi. Chừng nào ông chưa làm việc ông sẽ không có cái gì để ăn đâu."

Nếu bạn không làm điều đó thế thì nó là tinh ranh đơn thuần, vì bạn không thể chứng minh được Thượng đế nhân tính thêm nữa. Bạn đang cố tạo ra Thượng đế phi nhân, nhưng toàn thể tôn giáo của bạn tiếp tục là như cũ. Nó không thay đổi.

Đó là thay đổi lớn từ Thượng đế nhân tính sang Thượng đế phi nhân tới mức toàn thể tôn giáo của bạn sẽ trải qua cách mạng - không nhà thờ, không linh mục, không kinh sách linh thiêng. Thế thì toàn thể sự tồn tại trở thành kinh sách linh thiêng.

Và nếu Thượng đế là mọi nơi, không có nhu cầu cầu nguyện. Cái gần nhất là con người riêng của bạn, cho nên đầu tiên tìm Thượng đế trong con người riêng của bạn.

Nhưng dầu vậy những người Ki tô giáo này không quan tâm tới thiền. Những người Ki tô giáo này vẫn cầu nguyện, tới Thượng đế phi nhân.

Lời cầu nguyện là tuyệt đối ngớ ngẩn. Và nếu những người Ki tô giáo này hiểu những điều ngụ ý, thế thì Ki tô giáo biến mất và những người không tin tôn giáo lại xuất hiện. Đó là vấn đề duy nhất. Ki tô giáo đã giết hàng triệu người không tin tôn giáo, người tin vào toàn thể tự nhiên, vào toàn thể sự tồn tại là thiêng liêng; người tôn thờ cây, người tôn thờ trăng, người tôn thờ mặt trời, người tôn thờ sông, núi, bất kì cái gì - vì mọi thứ là linh thiêng. Ki tô giáo đã tiêu diệt họ, và cải đổi những người không tin tôn giáo thành người Ki tô giáo - từ Thượng đế phi nhân sang Thượng đế nhân tính, từ những người tự nhiên thành những kẻ điên đè nén!

Và bây giờ nếu bạn lại giải tán Thượng đế nhân tính vào trong cái toàn thể của sự tồn tại, bạn sẽ phải giải tán toàn thể Ki tô giáo. Bạn sẽ phải giải tán mọi tôn giáo, và toàn thể trái đất sẽ đầy những người không theo tôn giáo nào, Zorbas.

Đó là nỗ lực của tôi - tạo ra Zorba như nền tảng vững chắc cho vị phật.

Zorba là đất.

Phật là trời.

Và khi hai điều này gặp gỡ có đồng cảm. Khi hai điều này gặp gỡ, có tính đồng bộ. Khi hai điều này gặp gỡ có cách mạng. Bạn không còn là cùng người cũ, mà thế giới cũng không còn là như cũ thêm nữa. Mọi thứ thay đổi trong cảnh quan mới toàn bộ. Những cánh cửa mới mở ra - và con người mới, và sự tồn tại mới, tươi tắn không có bất kì tu sĩ nào để đầu độc bản tính của bạn.

Không, những người này, cái gọi là nhà thượng đế học Ki tô giáo mới chỉ đang lừa bản thân họ và những người Ki tô giáo khác, vì toàn thể cấu trúc của họ vẫn còn như cũ. Chỉ Thượng đế... vì họ không thể hỗ trợ bằng logic hay bằng chứng, và họ có thể thấy ra ý nghĩa của Thiền, ít nhất về mặt trí tuệ. Không cảm thấy thấp kém, họ đang nói về Thượng đế phi nhân.

Đó là điều Eckhart đã làm, đó là điều Thánh Bernard đã làm - cố làm ra Thượng đế phi nhân. Nhưng họ không hiểu rằng điều đó ngụ ý phá huỷ toàn thể cấu trúc của tôn giáo. Nếu họ thực sự hiểu hiện tượng này họ sẽ phá huỷ mọi Kinh Thánh, mọi nhà thờ, giáo hoàng, Vatican... tất cả sẽ bị kết thúc, không có nhu cầu. Thượng đế là mọi nơi - không có nhu cầu về bất kì tu sĩ nào đứng giữa bạn và Thượng đế. Ngài bao quanh bạn, ngài là trong không trung, và ngài là trong máu bạn và trong xương bạn. Ngài là trong chính tuỷ bạn và ngài là trong không gian bên trong của bạn - vì ngài là mọi nơi.

Nhưng biết rằng ngài là mọi nơi không phải là kết luận logic. Biết ngài là mọi nơi phải là kinh nghiệm có tính tồn tại. Đầu tiên bạn phải đi vào trong bản thân bạn. Chừng nào bạn chưa biết nó trong bản thân bạn, bạn không thể nói nó là trong cây và nó là trong mọi vật và nó là trong mọi sinh linh. Bạn là sinh linh - đầu tiên đi vào trong bản thân bạn.

Những người Ki tô giáo này không nói về thiền chút nào. Cho nên mọi bài nói đơn giản để lừa bản thân họ và người khác, dường như họ đã vươn lên cùng chiều cao của Thiền. Chỉ bằng việc nói bạn không thể làm được điều đó. Bạn phải cho bằng chứng, chứng minh, bằng mọi cử chỉ của bạn, bằng mọi hành động của bạn, bằng mọi lời của bạn.

Nhưng tôi quan sát, tôi đã nhận biết về những người thượng đế học Ki tô giáo mới này, và hành vi của họ là hệt như bất kì người Ki tô giáo nào. Hành vi đó chứng tỏ rằng hiểu biết của họ chỉ là để nguỵ trang tâm trí mọi người, để tạo ra lẫn lộn. Họ đang bảo vệ Thượng đế cũ với cái tên mới - "Thượng đế phi nhân tính" - vì toàn thể tôn giáo của họ vẫn còn như cũ.

Làm sao nó có thể vẫn còn như cũ nếu Thượng đế là phi nhân tính? Điều đó là tương đương với không có Thượng đế, chỉ có tính Thượng đế, phẩm chất toả khắp toàn thể càn khôn.

Có một câu chuyện hay...

Al-Hillaj Mansoor, người cuối cùng đã trở thành người chứng ngộ lớn, đã bị sát hại bởi người Mô ha mét giáo. Ông ấy là người nghèo và ông ấy muốn đi tới Kaaba vì đó là bổn phận của mọi người Mô ha mét giáo, ít nhất một lần trong đời bạn, bạn phải đi haj, cuộc hành hương linh thiêng tới Kaaba. Nếu bạn không đi ít nhất một lần bạn không là người Mô ha mét giáo. Cho nên ngay cả người Mô ha mét giáo nghèo nhất cũng bán nhà của họ, đất đai của họ, và đi ít nhất một lần tới Kaaba.

Mansoor đã rất nghèo. Bố và mẹ ông ấy đã chết khi ông ấy còn rất trẻ, cho nên ông ấy gần như là con côi, người ăn xin. Các hàng xóm đã giúp ông ấy cho tới tuổi thanh niên và thế rồi ông ấy bắt đầu - vì không có giáo dục cho ông ấy... Mọi người đã đi... có một tháng đặc biệt mọi năm khi người Mô ha mét giáo từ khắp trên thế giới sẽ đi tới Kaaba. Nhiều người từ làng này đã đi, và ông ấy bắt đầu bảo họ, "Tôi cũng muốn tới." Nhưng họ nói, "Anh không có tiền." Thế là ông ấy đi xin tiền từ mọi nhà. Nhưng đến lúc ông ấy xin đủ tiền, những người hành hương khác đã đi cả rồi.

Thế là một mình, ông ấy bắt đầu cuộc hành trình. Ngay bên ngoài ngoài làng, dưới một cây là một người mà sẽ trở thành thầy của ông ấy - Junnaid. Và ông này nói với anh thanh niên, "Anh đi đâu vậy?"

al-Hillaj nói, "Tôi đi tới Kaaba đây. Mọi người hành hương từ làng tôi đã đi rồi."

Junnaid nói, "Lại đây!" Giọng nói của Junnaid là tới mức... mắt ông ấy là tới mức al-Hillaj không thể nói không. Ông ấy nói, "Đưa tiền cho ta! Không cần đi bất kì chỗ nào. ta là Kaaba và ta đã tới làng anh chỉ vì anh. Anh có thể đi bẩy vòng quanh ta, cũng như những người hành hương khác sẽ đi bẩy vòng quanh Kaaba. Đó là hòn đá - ta là sinh linh người."

Al-Hillaj bị kéo như bị nam châm hút tới người này tới mức anh ta đã đưa mọi tiền của mình cho ông ấy, và đã đi bẩy vòng quanh người này.

Và Junnaid nói, "Bây giờ anh có thể đi về làng. Và ta sẽ ra đi sáng mai, cho nên nếu anh muốn tới cùng ta, anh có thể tới."

Anh ta về làng. Dân làng hỏi, "Cái gì đã xảy ra? Anh đã đi tới Kaaba" - thường phải mất ba tháng đi bộ tới Kaaba, và ba tháng quay về - "và anh quay về chỉ mới nửa giờ! Tiền đâu rồi?"

al-Hillaj nói, "Phải làm gì? Tôi đã gặp Kaaba ngay bên ngoài làng. Ông ấy đã ngồi dưới cây."

Họ nói, "Anh ngốc! Anh đã đưa tiền cho Kaaba đó sao?"

Anh ta nói, "Ông ấy đã hỏi, và ông ấy bảo tôi đi bẩy vòng quanh ông ấy. Cho nên tôi đã đi bẩy vòng và tôi cảm thấy được hoàn thành thế, và bản thân Kaaba đầy phẩm giá đó đã tới."

Họ nói, "Anh đi cùng chúng tôi. Chúng tôi muốn thấy người này, người đã lừa anh. Anh là người ngốc! Làm sao Kaaba có thể tới đây được, và vì anh?"

Anh ta nói, "Các ông có thể tới. Sáng mai tôi sẽ ra đi cùng Kaaba."

Họ nói, "Anh tới cùng chúng tôi đi. Đầu tiên để chúng ta xem người này là ai - ông ấy là người sao?"

Al-Hillaj nói, "Tất nhiên, Và là người rất có sức lôi cuốn. Tôi nghĩ đó là Kaaba được nhân tính hoá."

Họ nói, "Anh giữ yên tĩnh đi, anh cứ đi theo chúng tôi." Cả làng tụ tập lại, và họ có thể thấy. Người này có ánh sáng vô cùng quanh mình - lúc đó là đêm - và họ có thể cảm thấy khi họ tới gần ông ấy hơn, rằng ông ấy đã trong im lặng sâu sắc với mắt nhắm. Ánh sáng toả ra, và Al-Hillaj đã không sai, đã có hấp dẫn mênh mông, người này có sức thu hút.

Tất cả họ đi vòng quanh ông ấy và Junnaid mở mắt ra và nói, "Đầu tiên để tiền ra! Ta đã du hành tới làng các ông và các ông đang làm haj của các ông mà không trả tiền. Đem tiền ra trước hết!"

Al-Hillaj nói, "Giờ các ông biết rằng ông ấy không phải là Kaaba thường, ông ấy nói nữa!"

Và cả làng, bất kì cái gì họ có thể mang, đã mang ra và đưa cho ông ấy.

Junnaid cho phép họ đi vòng quanh, và ngày hôm sau, ông ấy ra đi cùng al-Hillaj. Cả làng đã tới để tiễn họ. Dân làng nghĩ, "Cậu Al-Hillaj, mặc dầu cậu ta là con côi, đã chứng tỏ là được ân huệ hơn chúng ta. Cậu ấy đã tìm ra thầy."

Chỉ người chứng ngộ có thể nói những điều như vậy, rằng không có Thượng đế, vì ông ấy biết Thượng đế là phẩm chất, đó là hương thơm; bạn không thể bắt giữ được nó, nhưng nó ở mọi nơi. Bất kì chỗ nào có sự sống, bất kì chỗ nào có tiếng cười, bất kì chỗ nào có yêu, phẩm chất đó tràn ngập khắp, xuyên thấu tim bạn. Và trong thiền nó đi tới phần sâu nhất của con người bạn. Chỉ thế thì bạn có thể nói không có Thượng đế. Điều đó không có nghĩa bạn là người vô thần, điều đó đơn giản ngụ ý bạn đang phủ nhận Thượng đế nhân tính, Thượng đế đấng sáng tạo, và bạn đang chấp nhận bản thân sự tồn tại là thiêng liêng. Nhưng thế thì không có nhà thờ và thế thì không có tu sĩ, và thế thì không có kinh sách linh thiêng.

Nếu những nhà thượng đế học mới này thực sự chân thực, những con người chân thực nhất, họ phải bắt đầu phá huỷ kinh sách linh thiêng - ít nhất kinh sách Ki tô giáo, vì họ là người Ki tô giáo. Và họ phải bắt đầu phá huỷ Vatican, lấy đi quyền lực khỏi các linh mục, và bãi bỏ các tu viện.

Nhưng họ không làm bất kì cái gì thuộc loại này, cho nên nó toàn là chuyện tầm phào - chỉ chuyện phiếm và không gì khác.

Lời kinh:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Chiêu Đề, người sinh ra năm 738 ở Trung Quốc và chết năm 820, đã là đệ tử của Thạch Đầu.

Chiêu Đề ở núi Hành Nhạc dưới Thạch Đầu trong ba năm, thế rồi đi sang núi Phật Tích ở đó ông ấy đã gặp Mã Tổ.

Mã Tổ hỏi, "Ông tới đây để làm gì?"

Bạn có thể thấy khác biệt giữa cái gọi là người tôn giáo và Thiền sư. Mã Tổ đã biết rằng ông này tới từ Thạch Đầu. Thay vì cảm thấy hài lòng rằng ông ấy đã có được một đệ tử từ Thạch Đầu và số đệ tử của ông ấy ít nhất đã tăng thêm một, Mã Tổ nói, "Ông tới đây để làm gì? Thạch Đầu là đủ cho ông mà."

Đây là cái đẹp của Thiền - sự tôn kính mênh mông với mọi người đã chứng ngộ. Không có ganh đua chút nào. Không bao giờ nghe nói trong thế giới Thiền có từ 'ganh đua'... không có nỗ lực nào để cải đổi bất kì người nào. Mã Tổ đơn giản hỏi ông ta, "Tại sao ông đã tới đây? Để làm gì? Mọi thứ là sẵn có nơi ông đã đi."

Chiêu Đề nói, "Tôi tới đây vì kỉ niệm ngày sinh của Phật, jamuna darshan."

Ngày sinh của Phật đã tới. Và ngày sinh của Phật có sự trùng hợp rất đặc biệt. Ông ấy đã được sinh ra cùng đêm trăng tròn như ông ấy đã trở nên chứng ngộ, trong cùng tháng, vào cùng đêm trăng tròn, như ông ấy chết tám mươi hai năm sau đó - cùng tháng, cùng đêm trăng tròn. Một người kì lạ - sinh, chứng ngộ, chết, tất cả xảy ra vào cùng đêm trăng tròn, vào cùng tháng của năm. Cho nên ngày sinh của ông ấy cũng là ngày chứng ngộ của ông ấy. Nó cũng là ngày kỉ niệm chết của ông ấy. Cho nên trong một ngày cả ba kinh nghiệm xảy ra. Đó là lí do tại sao với Thiền ngày trăng tròn đã trở thành cái gì đó đặc biệt - vì mọi thứ đã xảy ra cho Phật thì đã xảy ra vào đêm trăng tròn.

Cho nên trong mọi Thiền viện vào đêm trăng tròn mọi người ngồi dưới cây và ngắm trăng tròn. Trăng tròn đã trở nên được kết nối có tính biểu tượng với Phật Gautam. Và chỉ ngắm và chứng kiến trăng tròn, họ đi vào trong thiền sâu.

Đêm trăng tròn có tính đặc biệt mà giờ được thừa nhận bởi bản thân khoa học. Họ phải tiếp cận tới nó từ phía sai, vì các nhà khoa học đang sống ở phía sai của trái đất, ở phương Tây. Họ đã trở nên nhận biết rằng nhiều giết người hơn xảy ra vào đêm trăng tròn, nhiều tự tử hơn vào đêm trăng tròn, nhiều người phát điên vào đêm trăng tròn... kì lạ. Đêm trăng tròn này chắc chắn ảnh hưởng tới con người và tâm lí của họ. Nó ảnh hưởng tới đại dương - đó là sự kiện đã biết. Vào đêm trăng tròn sóng trở thành sóng triều - dường như đại dương đang cố với tới trăng. Con người bao gồm tám mươi phần trăm nước đại dương, cho nên cái gì đó trong con người cũng bắt đầu cảm thấy rung động tinh tế. Các nhà khoa học nói rằng sinh linh sống đầu tiên đã là cá. Con người là đầu kia của quá trình - lúc ban đầu là cá. Cho nên chúng ta có kết nối rất sâu. Tổ tiên thực của chúng ta đã sống trong đại dương - họ đã là cá.

Cho nên đừng ăn cá! Bạn đang ăn tổ tiên riêng của bạn, và điều đó là xấu! Và tôi thấy mọi người mang cá đóng hộp - tổ tiên bị đóng hộp! Và mọi người thích ăn cá...

Nếu sự sống được sinh ra trong đại dương thế thì sự sống nhất định bị ảnh hưởng khi đại dương bị ảnh hưởng. Có kết nối sâu sắc, dòng chảy ngầm. Nhưng các nhà tâm lí phương Tây đã trở nên nhận biết từ phía sai: tự tử, giết người, điên. Phương Đông đã trở nên nhận biết rằng nhiều người hơn đã trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn; thực ra, gần như tất cả ngoại trừ một người, Mahavira.

Ông ấy đã trở nên chứng ngộ vào đêm không trăng, amawas. Đêm trăng tròn được gọi là purnima - trăng đã trở nên hoàn hảo, purna. Và đêm không trăng là khi không có trăng chút nào, tuyệt đối tối. Ngoại trừ Mahavira, không ai đã trở nên chứng ngộ vào ngày amawas, đêm không trăng. Tên của Mahavira đã không phải là Mahavira - Mahavira ngụ ý chiến binh vĩ đại. Tên của ông ấy đã là Vardhaman. Nhưng vì ông ấy đã trở nên chứng ngộ vào ngày amawas, đêm không trăng, ông ấy đã chứng minh rằng ông ấy có thể đi ngược lại dòng chảy. Điều là tự nhiên cho mọi người trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn, nhưng anh chàng Mahavira này đã cố đi ngược lại trật tự bình thường của mọi thứ, và vẫn xoay xở để trở nên chứng ngộ.

Ở Ấn Độ, mọi người đã hoàn toàn quên mất tại sao mọi năm vào amawas đặc biệt, đêm không trăng, họ kỉ niệm Diwali, lễ hội ánh sáng. Bạn phải đã thấy mọi người để mọi loại nến, đèn, ánh sáng trong nhà họ. Đây là đêm mà Mahavira đã trở nên chứng ngộ. Và lễ hội này là để nhớ tới Mahavira nhưng không ai thậm chí nghĩ về Mahavira.

Những pháo hoa kia là trong kỉ niệm Mahavira. Ông ấy chắc chắn đã làm cái gì đó duy nhất mà không bao giờ xảy ra trước đây và không bao giờ xảy ra sau này. Cho nên điều đúng hoàn hảo là gọi ông ấy là Mahavira, chiến binh vĩ đại. Một người rất mạnh mẽ... bằng không gần như là không thể được cho bất kì người nào trở nên được chứng ngộ vào đêm không trăng.

Trong Thiền, vào đêm trăng tròn của mọi tháng, họ ngắm trăng cả đêm. Và khi họ liên tục chứng kiến trăng, thanh bình và im lặng sâu giáng lên họ, đặc biệt vào đêm khi Phật Gautam được sinh ra, trở nên chứng ngộ, và chết. Cho nên đây là đêm đặc biệt, rất đặc biệt cho những người thuộc về dòng chảy nhỏ của Thiền.

Chiêu Đề nói, "Tôi đã tới đây vì việc kỉ niệm ngày sinh của Phật." Mã Tổ đã là một thầy rất nổi tiếng; Thạch Đầu đã không nổi tiếng được như thế. Dần dần, dần dần ông ấy đã trở nên nổi tiếng sau cái chết của ông ấy, nhưng Mã Tổ đã nổi tiếng khi ông ấy vẫn còn sống - rất nổi tiếng, vì hành vi kì lạ của ông ấy. Chiêu Đề phải đã nghĩ rằng vào dịp kỉ niệm trăng này, sẽ là đúng lúc để đi tới Mã Tổ - cái gì đó có thể xảy ra. Cho nên anh ta nói, "Tôi đã tới đây để kỉ niệm ngày sinh của Phật Gautam."

Mã Tổ nói, "Phật bất sinh, bất diệt - Phật là vĩnh hằng. Sống vô thuỷ, vô chung, nó là vĩnh hằng. Chính từ 'sinh' thuộc vào thế giới của ảo vọng, vì cái là đích thực trong ông không bao giờ được sinh ra. Nó đã đi từ nhà này sang nhà khác, từ thân thể này sang thân thể khác, nhưng nó là vĩnh hằng trong bản thân nó. Cho nên bất sinh, bất diệt xảy ra cho nó. Sinh diệt chỉ xảy ra cho cái bên ngoài của ngôi nhà, cái trở nên bị xé rách để cho nó phải được làm mới, hoặc ông phải chuyển vào nhà mới."

Mã Tổ nói, "Phật bất sinh, bất diệt. Chính ý tưởng về sinh và diệt là ảo vọng. Ông tới từ núi Hành Nhạc, nhưng dường như ông chưa biết rằng ông cần Thạch Đầu. Ông ấy là thầy của ông. Ta nghĩ giờ không phải là thời điểm đúng cho ông, hay có bất kì nhu cầu nào đổi thầy của ông. Ông đã chưa cho phép thầy của ông biến đổi ông. Cho nên ông phải quay về. Ông không thể ở đây."

Nghe điều đó, Chiêu Đề đi tới Thạch Đầu. Khi gặp thầy, Chiêu Đề hỏi Thạch Đầu, "Phật là gì?"

Mọi con đường quay lại anh ta phải đã từng nghĩ, "Mã Tổ đã nói Phật bất sinh bất diệt. Thế thì phật là gì?"

Phật là tương đương với sự sống được thức tỉnh.

Thạch Đầu đáp, "Không có bản tính phật trong ông."

Chiêu Đề hỏi, "Về mọi sinh linh thì sao?"

Thạch Đầu đáp, "Họ có bản tính phật."

Thạch Đầu là kì lạ trong cách riêng của ông ấy. Mã Tổ có hành vi rất kì lạ, ông ấy đã đi tới cực đoan. Nhưng Thạch Đầu đã không chỉ là một thầy chứng ngộ; ông ấy có tính duy nhất riêng của ông ấy. Ông ấy nói, "Mọi sinh linh đều có bản tính phật, nhưng Chiêu Đề, ông không có nó!" Đây là phát biểu rất kì lạ. Tại sao Chiêu Đề đáng thương này không có bản tính phật? Khi mọi sinh linh sống, ngay cả con vật, ngay cả cây cối đều có bản tính phật - chỉ Chiêu Đề không có!

Chiêu Đề hỏi, "Sao tôi không có nó?"

Thạch Đầu nói, "Vì ông không chấp nhận nó."

Vấn đề duy nhất là việc nhận ra, việc chấp nhận, việc nhớ lại. Cho dù bạn có kho báu mênh mông nhưng bạn vô nhận biết chúng, phỏng có ích gì việc bạn có chúng hay không?

Câu chuyện cổ kể rằng một thầy và đệ tử của mình đi từ làng nọ sang làng kia. Nhưng họ bắt đầu muộn vì mọi người cố thuyết phục họ ở lại lâu hơn chút nữa trong làng của họ. Bắt đầu muộn, thầy liên tục nhìn vào trong túi của mình. Điều đó ông ấy chưa bao giờ làm trước đây. Và đệ tử này ở đằng sau - anh ta cũng nghĩ, "Có chuyện gì thế nhỉ? Tại sao thầy liên tục nhìn vào trong túi, và thế rồi đóng nó lại?"

Và thầy lặp đi lặp lại, "Chúng ta phải đi nhanh hơn, chúng ta phải tới làng kia trước khi mặt trời lặn."

Đệ tử này đơn giản không thể tin được điều đó, vì đã có nhiều đêm khi họ ở lại trong các khu hoang dã nhất của rừng nơi có toàn các loại nguy hiểm... và thầy đã không bao giờ bận tâm. Họ đã ngủ say dưới cây, biết hoàn toàn rõ có nguy hiểm khắp xung quanh. Nhưng cái gì đã xảy ra hôm nay? Thầy muốn tới làng kia trước mặt trời lặn. Có nguy hiểm - loại nguy hiểm nào?

Thế rồi họ dừng lại ở một chiếc giếng, và thầy phải rửa mặt và làm cầu nguyện buổi tối trước khi mặt trời lặn, cho nên thầy đang vội. Thầy đưa cái túi cho đệ tử này và bảo anh ta, "Giữ nó cẩn thận vào." Điều đó nữa cũng là lạ. Thầy đã đưa cái túi này cho anh ta nhiều lần rồi, nhưng thầy chưa bao giờ nói, "Giữ nó cẩn thận vào." Tất nhiên anh ta bao giờ cũng giữ nó cẩn thận.

Cho nên khi thầy bắt đầu kéo nước từ giếng, đệ tử này nhìn vào trong túi. Và thế thì anh ta biết vấn đề đã là gì: thầy đã mang một viên gạch vàng, viên gạch hoàn toàn bằng vàng ròng. Anh ta bây giờ biết nguy hiểm là gì. Cho nên khi thầy đang cầu nguyện - và thầy cầu nguyện nhanh, chóng - đệ tử này ném viên gạch vàng ở bên giếng trong rừng và lấy hòn đá cùng trọng lượng và để nó vào trong túi.

Thầy nhanh chóng kết thúc việc cầu nguyện và lập tức cầm cái túi... cảm thấy trọng lượng này. Mặt trời đã lặn và trời tối dần. Cảm thấy trọng lượng này, và chạm vào túi, thầy hoàn toàn thoả mãn. Họ bắt đầu đi và thầy nói, "Chúng ta phải chạy thôi. Bằng mọi cách chúng ta phải tới làng, chúng ta không thể ở trong rừng trong đêm. Điều đó là nguy hiểm."

Sau hai dặm chạy, cả hai mệt lử, thở hổn hển, hồng hộc... Cuối cùng, thầy nói, "Dường như chúng ra đi sai đường vì dường như không có làng nào phía trước. Từ xa chúng ta có thể thấy - thậm chí không một tia sáng. Và nguy hiểm có đó..."

Đệ tử nói, "Xin thầy đừng lo, tôi đã vứt nguy hiểm này gần giếng kia rồi."

Thầy nói, "Cái gì!!" Thầy nhìn, thầy lấy hòn đá ra, và thầy nói, "Ông đã vứt viên gạch vàng đó đi rồi ra? Ta đã bảo ông giữ nó cẩn thận cơ mà!"

Và đệ tử nói, "Tôi đã giữ nó cẩn thận đấy! Trong hai dặm thầy cũng đã giữ hòn đá này một cách cẩn thận. Không biết rằng đó chỉ là hòn đá, thầy đã lo nghĩ. Giờ chúng ta có thể ở lại qua đêm được chưa?"

Thầy nói, "Giờ thì không có vấn đề gì! Ông thực sự đã ném đi toàn thể nguy hiểm."

Họ ngủ rất ngon trong đêm...

Nếu bạn không biết, bạn có thể mang hòn đá dường như nó là vàng. Và bạn có thể mang vàng dường như nó chẳng là gì nếu bạn không biết.

Bạn đang mang kho báu vô cùng bên trong bạn - phật tính, chứng ngộ. Nhưng chừng nào bạn chưa nhận ra nó, dù nó có đó hay không cũng không thành vấn đề. Nó là cùng một thứ.

Đó là lí do tại sao Thạch Đầu nói, "Ông không có nó. Mọi sinh linh khác có thể có nó, nhưng ông không có nó. Chừng đó là chắc chắn. Mọi sinh linh không ở đây, cho nên ta không biết, nhưng về ông thì ta biết - ông không có nó."

Anh ta nói, "Nhưng tại sao? Tại sao làm cho tôi thành ngoại lệ vậy? Mọi sinh linh có nó...!"

Ông ấy nói, "Vì ông không chấp nhận nó. Ông không thám hiểm nó, ông không nhận ra nó. Ông không nhớ ngôn ngữ đã bị quên."

Với điều này, Chiêu Đề quyết định ở lại đó với Thạch Đầu.

Mã Tổ là đúng. Đây là người đúng cho anh ta.

Đầu tiên anh ta phải đã cảm thấy hơi thất vọng với Mã Tổ, hơi bị mất mặt rằng anh ta đã bị gửi trả lại. Nhưng bây giờ anh ta đã nhận ra: "Mã Tổ là đúng. Thạch Đầu có bí mật trong tay ông ấy, và ông ấy là thầy mình. Mã Tổ có những kỉ luật khác và mình sẽ phải bắt đầu học từ ABC, và Thạch Đầu đã từng làm việc trong nhiều năm với mình."

Cho nên bây giờ mọi thứ là rõ ràng tại sao anh ta đã bị gửi trả lại. "Đi tới cùng thầy đã từng làm việc trên ông đi, và ông ấy đã làm việc hoàn toàn đúng. Phương pháp của ông ấy là của ông ấy; phương pháp của ta là khác."

Nhưng phương pháp không thành vấn đề, chúng là phương cách thuần tuý để mang bạn tới nhận biết nào đó, việc nhận ra nào đó, việc làm sâu sắc nào đó cho tâm thức của bạn. Phát biểu này: "Vì ông không chấp nhận nó, ông không có nó. Chỉ nhận ra nó và ông có nó - ông đã có nó nhiều thế kỉ rồi, nhưng ông đã không bao giờ nhìn vào nó." với điều này, phải có chớp loé lên trong tâm trí Chiêu Đề, trong tâm thức anh ta. Anh ta quyết định ở lại với Thạch Đầu.

Về sau, anh ta đã sống ở chùa Chiêu Đề - anh ta đã tạo ra một ngôi chùa, và anh ta đã sống trong ngôi chùa này, thường được gọi là chùa Chiêu Đề - và đã không đi ra ngoài cửa trong ba mươi năm.

Điều này đơn giản là biểu tượng và sự kiện, cả hai. Ông ấy đã không đi ra ngoài chùa trong ba mươi năm. Sau phát biểu này của Thạch Đầu - "Ông có nó, nhưng vì ông không chấp nhận nó, ông không có nó" - trong ba mươi năm ông ấy đã không đi ra ngoài chùa. Ông ấy đã không đi ra ngoài bản thân ông ấy trong ba mươi năm, ông ấy liên tục đi vào trong và vào trong và vào trong. Ba mươi năm đó ông ấy thậm chí đã không đếm. Điều duy nhất thành vấn đề là ở chỗ ông ấy phải nhớ tới bí mật ẩn kín của phật tính. Ông ấy phải cho sinh ra phật tính riêng của ông ấy - và ông ấy đã đi tới Mã Tổ vì kỉ niệm ngày sinh của Phật.

Làm sao bạn có thể kỉ niệm ngày sinh của Phật Gautam nếu vị phật của bạn vẫn chưa được sinh ra? Bạn không thể hiểu được phật ngụ ý gì, bạn không thể hiểu được lễ hội này dành cho cái gì, vì bạn đã không đi tới lễ hội riêng của bạn.

Đầu tiên bạn phải mở hội bản thân bạn.

Chỉ thế thì bạn có thể mở hội mọi chư phật, dù thức tỉnh hay ngủ, bạn có thể mở hội toàn thể sự tồn tại. ... và đã không đi ra ngoài cửa trong ba mươi năm - không ra khỏi am không ra khỏi bản thân ông ấy. Ông ấy đi vào và đi vào - liên tục đào.

Bất kì khi nào một người tìm kiếm tới ông ấy, nhìn thấy ngôi chùa, và biết rằng Chiêu Đề ở bên trong đang thiền trong ba mươi năm... Mọi người thường mang gạo, thức ăn, nước, vào bên trong chùa. Nhưng ông ấy không bao giờ hỏi xin bất kì người nào và ông ấy không bao giờ đi ra.

Ở phương Đông điều đó đã từng là hành động rất đức hạnh nếu ai đó đang thiền sâu tới mức người đó không có thời gian kiếm thức ăn, không có thời gian đi xin ăn, không có thời gian đi ra ngoài. Mọi người có lòng tôn kính vô cùng với các thiền nhân. Họ có thể đã từng nghèo và họ có thể đã chia thức ăn riêng của họ thành hai phần - một phần họ sẽ ăn, phần kia họ sẽ đi và cúng dường cho Chiêu Đề.

Ở phương Đông, thiền đã không được coi như vấn đề cá nhân. Không phải là bạn làm cái gì đó một cách ích kỉ cho cái ngã riêng của bạn; nó là cái gì đó bạn đang làm cho toàn thể sự tồn tại. Nếu bạn trở nên được nở hoa, bạn sẽ là bằng chứng cho mọi người rằng họ cũng có thể nở hoa. Bạn sẽ trở thành luận cứ cho thế giới bên trong. Bạn sẽ trở thành sự khuyến khích cho người khác cũng thám hiểm - điều đó là có thể; điều đó không là không thể được. Không chỉ việc Phật Gautam có thể trở nên chứng ngộ, Chiêu Đề cũng có thể. Anh ta đã bị Thạch Đầu từ chối - "Ông không có nó!" Điều này đánh mạnh anh ta.

Nhưng đây là phương cách của Thạch Đầu. Anh ta cần cú đánh chừng nấy. Cho nên anh ta đã ẩn dật trong chùa, thiền trong ba mươi năm, đã trở nên chứng ngộ. Nhưng bất kì khi nào bất kì người nào tới ông ấy, ông ấy đều nói, "Đi đi - ông không có bản tính phật."

Cùng phương cách này đã được dùng trên ông ấy bởi thầy ông ấy, ông ấy liên tục dùng cả đời mình. Và ông ấy đã giúp nhiều người, vì khoảnh khắc ông ấy nói, "Ông không có bản tính phật," lập tức họ sẽ hỏi, "Về các sinh linh khác thì sao?" Và ông ấy sẽ nói, "Tất nhiên, họ có nó."

Một cách tự nhiên, cùng đối thoại này đã xảy đi xảy lại mãi, và người này sẽ nói, "Ông là ngớ ngẩn rồi. Nếu mọi người có nó, tại sao tôi không có?" Và ông ấy sẽ nói, "Vì ông không chấp nhận." Chỉ nhớ lại - nó là bản tính bị quên mất. Chỉ đi vào trong.

Chiêu Đề đã không rất sáng tạo - đó là điều tôi gọi là Thiền sư "thường". Ông ấy đơn giản có một phát biểu nhỏ. Ngay cả phát biểu nhỏ đó đã giúp cho nhiều người, nhưng không thể giúp được số thực sự lớn mọi người, vì những người đã tới ông ấy đã không trong cùng trạng thái mà ông ấy đã vậy khi ông ấy hỏi Thạch Đầu. Ông ấy đã từng thiền với Thạch Đầu trong nhiều năm. Ông ấy đã ở ngay trên bờ... cú đánh cuối cùng...

Nhưng những người đã tới đều đã tuyệt đối là người bắt đầu, cho nên với nhiều người không cái gì đã được xảy ra. Thỉnh thoảng, nếu một người đã tới từ thầy khác nào đó... có lẽ thầy đó đã chết, hay có lẽ thầy đã trở nên mệt - anh ta đã phải đợi bao lâu? Và anh ta trở nên lo âu: "Thầy mình trở nên già rồi và mình còn chưa chứng ngộ..." Mọi người thích những người đã từng thiền và đã chỉ ngay trên bờ - Chiêu Đề này đã thành công bởi việc đánh họ. Ông ấy chỉ biết một cách đánh - một Thiền sư nghèo.

Có những Thiền sư nghèo và Thiền sư giầu và Thiền sư siêu giầu. Bạn có thể bị bắt bởi một siêu Thiền sư! Tôi đánh bạn mà không đánh bạn. Tôi đánh bạn theo nhiều cách thế, từ mọi hướng có thể, và cú đánh của tôi là không ác và không thô. Chúng rất đương đại - thực ra rất ít người đương đại sẽ hiểu tôi. Có lẽ một hay hai thế kỉ sau đó, các cú đánh của tôi sẽ làm rung chuyển mọi người vào thức tỉnh. Nhưng ngay bây giờ bạn bị bắt, và bạn không thể đi tới bất kì chỗ nào vì bạn sẽ không tìm thấy tôi ở bất kì chỗ nào trên khắp thế giới. Bạn sẽ thấy chỉ các thầy nghèo. Những thầy siêu giầu đó đã biến mất khỏi thế giới.

Chúng ta đang sống trong một thế giới nghèo về tâm linh hơn trước đây. Về vật chất chúng ta sống trong thế giới giầu có hơn, nhưng về mặt tâm linh nó là thế giới rất nghèo. Khi Mã Tổ có đó và Thạch Đầu có đó và Lâm Tế có đó và Nam Nhạc có đó, Dược Sơn có đó... đã có nhiều thầy thế ở ngay Nhật Bản - hay ở Trung Quốc...! Khi Phật Gautam đã ở đây tại Ấn Độ, đã có tám thầy ở trong một tỉnh nhỏ của Bihar, và họ đã làm cho hàng trăm người đi vào chứng ngộ.

Nhưng bạn được phúc lành. Bạn đã tìm thấy một Thiền sư siêu giầu. Đừng bỏ lỡ cơ hội này, vì thế giới đã trở nên ngày càng mỏng hơn khi có liên quan tới tâm linh.

Bạn phải tạo ra sự nổi dậy lớn quanh trái đất.

Bạn phải làm đảo lộn mọi tôn giáo có tổ chức.

Chỉ thế thì mọi người sẽ được giải thoát khỏi các chương trình tâm trí của họ. Và giải thoát bất kì người nào khỏi việc lập trình, ước định tâm trí của người đó là một trong những đức hạnh lớn nhất. Bạn đang giúp người đó hướng tới tự do. Nhưng bạn có thể giúp chỉ nếu bạn tự do. Nếu bạn không tự do, không có khả năng giúp đỡ. Người mù không thể giúp được người mù khác. Trước hết bạn phải mở mắt ra và nhận ra phật tính của bạn, và thế thì rất dễ dàng lẩy cò cùng kinh nghiệm này trong người khác.

Có nhiều người sẵn sàng, trên bờ, nhưng không có người nào đẩy họ. Mọi người cần cú đẩy, và mọi người cần bằng chứng nào đó rằng phật tính là thực tại.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng khi các nhà truyền giáo Ki tô giáo lần đầu tới Ấn Độ - và họ đã là người đầu tiên dịch Kinh Phật sang tiếng Anh - họ đã không nghĩ rằng một người như Phật đã bao giờ có đó. Với họ điều đó dường như gần không thể được; họ chưa bao giờ nghe nói về chứng ngộ. Họ đã nghe nói về những nhà tiên tri tới từ Thượng đế, họ đã nghe nói về các đấng cứu tinh, các sứ giả, họ đã nghe nói về đứa con duy nhất Jesus. Họ đã tin vào những người đó, nhưng họ chưa bao giờ nghe nói về chứng ngộ.

Moses có chứng ngộ không? Jesus có chứng ngộ không? Họ không có câu trả lời. Họ chưa bao giờ nghe nói về hiện tượng này chút nào. Cho nên Phật đã là hiện tượng lạ. Các nhà truyền giáo ban đầu đơn giản cắt bỏ ý tưởng rằng ông ấy đã là con người lịch sử. Phải mất gần một trăm năm nghiên cứu của những nhà truyền giáo Ki tô giáo để chấp nhận rằng Phật đã là con người thực, không là hư cấu. Điều này chỉ ra rằng họ đã tin vào các hư cấu!

Cho nên họ đã nghĩ, sâu bên dưới... không ai có thể tin vào Jesus và phép màu của ông ấy. Dù bạn làm nỗ lực lớn tới đâu để tin, hoài nghi sẽ vẫn còn ở bên dưới và sẽ trồi lên bề mặt bất kì khi nào niềm tin của bạn bị lung lay bởi cái gì đó - và nó sẽ bị lung lay bởi bất kì cái gì, vì niềm tin không có bằng chứng, không có minh chứng.

Mọi người Ki tô giáo, mọi người Do Thái, mọi người Mô ha mét giáo, mọi người Hindu, đang sống dưới những niềm tin như thế mà bản thân họ biết không thể là đúng. Nhưng từ sợ họ đang chấp nhận nó.

Nhưng sợ không thể biến đổi được bạn. Chỉ có một cách để được biến đổi, và đó là tìm ra phật tính của bạn. Điều đó sẽ cho bạn bằng chứng rằng các chư phật khác thực tại đã xảy ra.

Nếu bạn có thể trở thành phật, bạn là luận cứ, bạn là chứng cứ. Và chừng nào bạn chưa biết phật tính bạn không thể đi tới tin cậy rằng phép màu như vậy là có thể. Và nó là phép màu lớn nhất. Bước đi trên nước chỉ là ngu xuẩn; nó không phải là phép màu.

Có lần chuyện xảy ra...

Một người tới Ramakrishna và ông này đã tự huấn luyện mình theo phương pháp yoga nào đó. Có những phương pháp yoga qua đó bạn có thể tống mọi không khí ra khỏi thân thể để cho bạn trở thành chân không bên trong. Bạn không thể vẫn còn trong chân không đó hơn mười phút, nhưng mười phút là đủ để chỉ ra rằng bạn có thể bước trên nước. Nếu bạn là chân không, bạn có thể bước trên nước.

Nhưng phải mất gần mười tám tới hai mươi năm để học phương pháp đó của việc tạo ra chân không. Một khi bạn đã tạo ra chân không... tôi đã thấy một người duy nhất. Nếu bạn có thể tạo ra chân không bạn có thể làm những điều kì lạ. Tôi đã thấy người này trong thời thơ ấu của tôi, và trí nhớ của tôi là tuyệt đối không có lỗi về người đó. Tôi có thể thấy người đó tĩnh lặng, vì người đó đã làm những điều kì lạ thế. Từ chim của mình người đó sẽ uống nước! Và điều đó là có thể chỉ nếu bạn có thể tạo ra chân không bên trong. Thế thì chân không kéo nước vào. Nhưng tôi đã bắt gặp duy nhất một người. Tôi đã thử cố gắng tìm lại ai đó...

Tôi hỏi ông ấy, "Bác mất bao lâu để làm điều đó?"

Ông ấy nói, "Đó là việc rất khó. Phải mất ít nhất hai mươi năm cho tôi tạo ra chân không đó. Và chỉ trong mười phút...!"

Một người tới Ramakrishna và ông này nói, "Tôi đã nghe nói nhiều về ông, nhưng ông có thể bước đi trên nước được không?"

Ramakrishna nói, "Cái đó không là gì cả. Ông có thể làm được không?"

Ông này nói, "Tất nhiên."

Ramakrishna said, "Tôi ưa thích cưỡi mây. Ông có biết nghệ thuật đó không?"

Ông ấy nói, "Không, tôi chưa bao giờ nghe thấy."

Ramakrishna nói, "Ông mất bao lâu để học mẹo này?"

Người này nói, "Mười tám năm liên tục tôi đã từng..."

Ramakrishna nói, "Ông là đồ ngốc. Vì khi tôi muốn đi tới sông Hằng" - và họ cả hai đang ngồi bên cạnh sông Hằng dưới một cây đẹp nơi Ramakrishna thường ngồi và chỉ ngắm sông Hằng chảy. Nó là chỗ đẹp nơi Ramakrishna đã sống - bên ngoài Calcutta, một chỗ rất im lặng, an bình. Chỉ một ngôi đền tồn tại vào thời đó trong đó ông ấy đã sống, ngay trên bờ sông Hằng.

Thế là Ramakrishna nói, "Bất kì khi nào tôi muốn đi tới đó, ông thấy chiếc phà kia không? - chỉ mất hai xu thôi. Và thêm nữa, người chở đò không lấy tiền của tôi. Ông ấy nói, 'Ông thì không... Tôi kiếm đủ rồi, tôi có thể chở ông đi mà không cần tiền.' Cho nên khi tôi có thể đi sang bờ bên kia mà thậm chí không phải trả hai xu, tại sao tôi phải phí mười tám năm đời mình trong việc học bước đi trên nước? Và ông có nghĩ nó là cái gì đó tâm linh không? Mọi cá đều đang làm điều đó, và có nhiều con vật dưới nước thế... cho nên phỏng có ích gì? Làm sao ông nghĩ nó được kết nối với trưởng thành tâm linh của ông? Ông đã phí hoài mười tám năm trong ngu xuẩn vô cùng. Và tôi không cưỡi mây nữa. Tôi chỉ cố chỉ ra cho ông rằng ngay cả cưỡi mây sẽ không có giá trị gì."

Giá trị thực là: bạn có quen biết phật của bạn không?

Đó là điều duy nhất thành vấn đề.

Khi người Ki tô giáo, những nhà truyền giáo, đi tới biết về Phật và kinh sách của ông ấy họ đã rất ngạc nhiên, vì những kinh này của Phật có cái đẹp tới mức Kinh Thánh đơn giản nhạt nhoà xa xôi, có vẻ rất trẻ con.

Một nhà truyền giáo lớn ở Nhật Bản đã tới gặp một Thiền sư, và ông ta tin ông ta có thể cải đạo ông này. Ý tưởng của ông ta đã là ở chỗ nếu ông ta có thể cải đạo Thiền sư này, thì với ông ta ngay cả hoàng đế Nhật Bản tới - và có số lớn người đi theo - chỉ cải đạo một người này, ông ta có thể cải đạo toàn thể Nhật Bản. Hoàng đế chắc sẽ được cải đạo, hàng nghìn đệ tử của ông ấy chắc được cải đạo. Cho nên thay vì làm việc trên người thường, tốt hơn cả là làm việc trên người này. Và chắc chắn có những đoạn hay trong Kinh Thánh, đặc biệt là Bài giảng trên Núi. Cho nên ông ta đem theo Kinh Thánh.

Ông ta được Thiền sư đón chào, và ông ta nói, "Tôi đã mang cho ông cuốn kinh linh thiêng của tôi. Tôi muốn đọc nó cho ông và tôi muốn biết ý kiến của ông."

Thế là ông ta bắt đầu đọc Bài giảng trên Núi. Ông ta đã đọc được hai hay ba dòng thì Thiền sư nói, "Dừng lại. Bất kì ai đã viết nó, trong kiếp sau của người đó, người đó có thể được chứng ngộ."

Ông ấy thậm chí đã không nghe toàn thể bài giảng. Ông ấy nói, "Dừng lại đi. Bất kì ai viết nó, trong kiếp sau người đó sẽ trở nên chứng ngộ. Nhưng ngay bây giờ những lời kinh này đang tới từ người chưa chứng ngộ."

Bị choáng, nhà truyền giáo không thể hiểu nổi - "Jesus Christ là không chứng ngộ sao?"

Nhưng ý tưởng về chứng ngộ đã không bao giờ xảy ra ở phương Tây. Chính ý tưởng này bị thiếu. Cho nên rất khó cho họ hiểu rằng đã từng có một loại người khác toàn bộ. Họ bao giờ cũng tin vào Thượng đế, con trai của ngài, điều không thể có nếu không có Thượng đế. Nhà tiên tri của ngài, cái tới từ Thượng đế, các sứ giả của ngài, họ tới từ Thượng đế - mọi thứ tới từ Thượng đế. Giả thuyết đó là nền tảng. Nếu bạn phủ nhận điều đó, thế thì toàn thể Do Thái giáo, Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, cả ba tôn giáo này rơi tõm. Họ đơn giản biến mất với một giả thuyết mà tuyệt đối không được chứng minh.

Ở đây họ đã đi tới hiểu một quá trình khác toàn bộ. Vị phật không tới từ bên trên, ông ấy tới từ bên dưới và ông ấy vươn lên trên. Bạn thấy sự khác biệt: ông ấy trở thành tính Thượng đế khi ông ấy đi lên. Và mọi nhà tiên tri và đấng cứu tinh Ki tô giáo hay Do Thái hay Mô ha mét giáo tới từ trên đi xuống.

Phật là sự tiến hoá. Đó là tiềm năng bản chất mà bắt đầu đi lên như cây, và khi xuân tới nó nở hoa. Họ đã không bao giờ nghĩ rằng con người đó trở thành tính Thượng đế; họ bao giờ cũng nghĩ chỉ Thượng đế có thể đi xuống. Người Hindu tin vào hoá thân - Thượng đế tới như Krishna, Thượng đế tới như Rama...

Và điều tuyệt đối rõ ràng là Thượng đế đã tới nhiều lần thế - và thế giới là đống lộn xộn thế! Thượng đế đã làm gì cho thế giới? Thượng đế tới trong Krishna như một hoá thân hoàn hảo - và hoá thân hoàn hảo đó đã làm gì? Không ai hỏi câu hỏi: Tại sao ngài đã tới ngay chỗ đầu tiên? Và nếu ngài đã tới thế thì ngài đã làm gì?

Krishna đã hứa, và người Hindu vẫn còn tin rằng ông ấy sẽ tới. Lời hứa của ông ấy là: "Khi có nguy hiểm, khi nhân loại sẽ trong đau đớn và phiền não và lo âu, khi có chủ nghĩa vô thần lan rộng trên thế giới, khi các thánh nhân sẽ bị tra tấn... bất kì khi nào sẽ có những khủng hoảng thế trong tôn giáo, ta sẽ tới." Nhưng tôi đã từng hỏi cái gọi là các thánh nhân Hindu, "Lần cuối ông ấy tới, ông ấy đã làm gì? Và tại sao các ông đợi ông ấy? Lần cuối cùng ông ấy đã không chứng minh được cái gì. Cho dù ông ấy tới, ông ấy sẽ không làm bất kì cái gì. Và ông ấy đã tới bao nhiêu lần rồi?"

Người Hindu tin rằng ông ấy đã tới hai mươi ba lần; lần thứ hai mươi tư ông ấy phải tới. Nhưng hai mươi ba lần ông ấy đã là thất bại. Điều đó là đủ chứng cớ: lần thứ hai mươi bốn sẽ không thành công.

Và các nhà tiên tri của người Do Thái đã làm gì? Và các nhà tiên tri như Jesus hay Mohammed đã làm gì cho Ki tô giáo hay cho Mô ha mét giáo? Họ đã tạo ra tâm lí con người xấu xa, thần kinh. Họ đã không giúp cho tiến hoá của tâm thức.

Cho nên Phật là một phân loại khác hoàn toàn. Ông ấy không tới từ bất kì giả thuyết đi xuống nào. Ông ấy không đặc biệt. Ông ấy chỉ là người bình thường như bạn và tôi, nhưng ông ấy bắt đầu tăng trưởng tiềm năng của ông ấy đi lên. Ông ấy chạm vào chính các ngôi sao, Ông ấy mọc rễ trong đất, đi tới khả năng sâu nhất. Ông ấy đứng thẳng đứng, bỏ bình diện ngang của tâm thức cái thuộc về con vật. Ông ấy thực sự là người nổi dậy, người nổi dậy đích thực.

Một cách tự nhiên, mọi lời đã tới từ ông ấy có nghĩa vô cùng, vì ông ấy không chấp nhận bất kì dối trá nào, bất kì an ủi nào. Và ông ấy không cho bất kì lời dối trá nào cho mọi người hay bất kì lời an ủi nào. Ông ấy đơn giản nói điều là kinh nghiệm của ông ấy, và rằng nó có thể cũng là kinh nghiệm của bạn nữa.

Phật đã tạo ra một thế giới khác toàn bộ, và đi theo ông ấy, hết thầy nọ tới thầy kia... nhưng chắc chắn họ vẫn còn là dòng chảy rất mảnh. Phật thuộc vào những người rất thông minh. Nó không dành cho người tầm thường, nó không dành cho những người trì trệ, nó không dành cho đám đông.

Nhưng nếu người thông minh của thế giới vươn lên trong phật tính, họ sẽ giúp cho toàn thể nhân loại ít nhất để thấy cái gì là có thể cho con người, cái gì đang ẩn trong chúng ta. Và nếu hàng nghìn người có thể mang nó tới nở hoa, tại sao chúng ta không thể?

Mọi phật trở thành chứng cứ, luận cứ cho cái toàn thể của nhân loại. Ông ấy vươn lên mức của sự tồn tại về tâm linh, và từng vị phật liên tục nâng cao mức của nhân loại mà không có việc biết của bạn. Bạn bây giờ gần phật hơn bạn đã gần phật sau hai mươi nhăm thế kỉ khi Phật còn sống.

Phần lớn trong các bạn phải đã từng ở quanh ông ấy. Phần lớn trong các bạn phải đã từng ở quanh các chư phật khác, vì bạn không mới với thế giới. Bạn bao giờ cũng đã từng ở đây, nhưng bạn không bao giờ xoay xở mãi cho tới giờ để đi một cách mãnh liệt nhất có thể. Do đó nhấn mạnh của tôi: Đừng bỏ lỡ cơ hội này.

Bạn phải quyết định - bạn phải rất có tính quyết định: "Mình phải mang tiềm năng của mình tới việc nở hoa tối thượng của nó. Mình phải trở thành việc mở hội, lễ hội. Mình phải đóng góp cho cái đẹp và chân lí và tính thiêng liêng của sự tồn tại."

Ba Tiêu viết:

Xuân sớm

núi vô danh quì sâu

trong màn sương mỏng của tĩnh lặng buổi sáng.

Đây là mọi phát biểu của thiền nhân, và Ba Tiêu là thiền sư lớn và đồng thời là một trong những nhà thơ haiku vĩ đại nhất.

"Xuân sớm" - chỉ quán tưởng. "Xuân sớm" - nó vừa mới tơi tươi tắn. Cây đã từng đợi nó, đất đã từng đợi nó. Những người có khả năng thẩm mĩ nào đó - hoạ sĩ, nhà thơ, nhạc sĩ, vũ công, nhà điêu khắc - họ đã từng chờ đợi nó. Nó đã tới. Xuân sớm - niềm vui thế tới đi theo cùng nó, tươi tắn thế khắp xung quanh. Hương thơm thế của hoa.

"Núi vô danh quì sâu trong màn sương mỏng của tĩnh lặng buổi sáng." Ngay cả núi cũng cảm thấy làn gió xuân, "quì sâu trong màn sương mỏng của tĩnh lặng buổi sáng." Không chỉ tôi đang quì xuống trong lòng biết ơn của tôi với sự tồn tại, với mùa xuân tươi tắn này, nhưng một lần nữa, núi cũng quì sâu - là biết ơn như tôi vậy.

Xuân sớm

núi vô danh quì sâu

trong màn sương mỏng của tĩnh lặng buổi sáng.

Những giờ nhỏ bé đó trước khi mặt trời mọc, khi đêm chỉ đang chuyển và mặt trời chưa tới trên đường chân trời, là an bình nhất. Và các thiền nhân đã thấy rằng đó là thời gian tốt nhất để thiền - đặc biệt ở phương Đông, khi những khoảnh khắc đó là mát mẻ nhất trong ngày.

Có lẽ điều đó có thể không đúng ở phương Tây; trời có thể quá lạnh. Có lẽ với phương Tây thời gian tốt nhất sẽ là nửa đêm. Nó cũng là tốt cho phương Đông, nhưng sáng sớm khi hoa đang nở để đón chào mặt trời, và chim đang vỗ cánh sẵn sàng hót tiếng hót và múa trong không trung...

Và tĩnh lặng đó... Đêm qua rồi, gần qua rồi, và sáng còn chưa sinh ra. Khoảnh khắc ở giữa đó đã được cho cái tên đặc biệt ở phương Đông, sandhya. Sandhya nghĩa là khoảnh giữa ngày và đêm. Cho nên nó tới hai lần - vào buổi sáng và vào buổi tối, khi mặt trời đã lặn và đêm còn chưa tới. Cho nên hai thời gian này được gọi là sandhya, các khoảng.

Trong những khoảnh này bạn có thể thiền sâu sắc hơn bất kì thời gian nào khác. Nó chỉ là kinh nghiệm tồn tại của hàng nghìn thiền nhân.

Ba Tiêu đang diễn đạt kinh nghiệm riêng của ông ấy trong bài haiku này.

Câu hỏi của Maneesha:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Paul Tillich, nhà thượng đế học Tin Lành, đã khẳng định rằng "Thượng đế bằng cách nào đó sẽ vẫn còn ở xa xôi đâu đó và 'ngoài kia,' trừ phi có việc thay đổi hoàn toàn trong đó mọi tham chiếu tới cái cao và cái bên ngoài được dịch thành thuật ngữ của chiều sâu. Chiều sâu vô hạn và không vét cạn này và nền tảng của mọi sinh linh là Thượng đế. Chiều sâu đó là điều từ 'Thượng đế' ngụ ý. Người biết về chiều sâu biết về Thượng đế."

Xin thầy bình luận?

Maneesha, Paul Tillich và mọi nhà tân thượng đế học đang cố vất vả nhất để bằng cách nào đó cứu Thượng đế, và không có cách nào cứu ngài, ngài đã chết rồi!

Bây giờ ông ấy đang cho ý tưởng khác: đem Thượng đế từ đằng kia bên ngoài mây để ngài sâu xuống dưới. Nhưng khác biệt là gì? Sâu bên dưới ở đâu? - ở Mĩ sao? Vì từ chỗ này, nếu bạn liên tục đào, bạn sẽ ngạc nhiên mà thấy, Trời! mọi người Mĩ đang bước đi lộn ngược xuống. Họ có đang làm shirshasan, đứng trên đầu không? Vì từ đây bạn sẽ đạt tới đích xác trong nước Mĩ - cách ngắn nhất. Mọi người đang bay một cách không cần thiết... chỉ đào một cái hố! Và từ cả hai phía nó có thể được bắt đầu - từ Mĩ hướng tới Ấn Độ, và từ Ấn Độ hướng tới Mĩ. Và gặp giữ sẽ xảy ra ngay ở giữa.

Nhưng khi có liên quan tới Mĩ, Ấn Độ sẽ là chiều sâu. Khi có liên quan tới Ấn Độ, Mĩ sẽ là chiều sâu. Bạn sẽ đặt Thượng đế ở đâu? Trong chiều sâu sao? Họ đang chỉ cố những điều ngớ ngẩn để cứu cái tên Thượng đế, bởi vì điều nguy hiểm là ở chỗ Thượng đế đang trở nên ngày càng là giả thuyết không thể chứng minh được.

Cho nên đổi chỗ của ngài đi. Lấy ngài ra khỏi mây, lấy ngài khỏi đó ở cõi bên kia, và đặt ngài ở đó trong chiều sâu.

Nhưng bạn không thể cứu được ngài. Ngài chết ở đó trong cõi bên kia, và ngài sẽ chết trong nấm mồ của ngài trong chiều sâu. Bạn chỉ đang đào mồ. Paul Tillich chỉ là người đào mồ và không gì khác.

Và bạn có thể thấy rõ ràng điều ông ấy đang nói, "Thượng đế bằng cách nào đó sẽ vẫn còn ở đâu đó xa xôi và 'ngoài kia', trừ phi có việc thay đổi hoàn toàn..." Nhưng dầu vậy khoảng cách này sẽ vẫn là như cũ.

Đầu tiên ngài đã ở bên ngoài trong các đám mây; bây giờ ngài sẽ ở sâu bên trong trái đất. Thực ra, đi vào trong mây là dễ, đi vào bên trong đất là sẽ là khó hơn. Và bạn không biết cái gì ở bên trong trái đất, các núi lửa... Nó toàn là nóng và tan chảy. Bạn càng đi sâu vào, bạn sẽ đi tới một điểm mà mọi thứ đều tan chảy. Lửa, vẫn sống động, cái tới qua núi lửa. Bạn có thể thấy nó. Bạn đang đặt Thượng đế vào đó sao? Tôi thích chỗ đó. Đó sẽ là dàn thiêu của ngài.

"Chiều sâu vô hạn và không vét cạn này và nền tảng của mọi sinh linh là Thượng đế." Nhưng ông ấy sẽ bám lấy từ 'Thượng đế'. Không có thay đổi, chỉ chỗ đã được thay đổi. Thượng đế vẫn như cũ - ngài đã chuyển nhà. "Chiều sâu đó là điều từ 'Thượng đế' ngụ ý." Ban đầu ngài đã là chiều cao, giờ ngài là chiều sâu, nhưng ngài hiện hữu.

"Những người biết về chiều sâu biết về Thượng đế" - được đấy!

Những người đã biết tới chiều sâu hay chiều cao là những người đã tuyên bố không có Thượng đế. Chỉ có một phẩm chất, hương thơm, cái bạn không thể bắt giữ được, nhưng bạn có thể cảm thấy được tràn ngập bởi nó. Nhưng nó không phải là Thượng đế, nó là chính hương vị của bản thân sự tồn tại. Nó là chính sự sống.

Tại sao tạo ra giả thuyết không cần thiết? Là khoa học chút đi. Trong khoa học điều là sự kiện được chấp nhận là không giả thuyết không cần thiết nào phải được chấp nhận. làm vài giả thuyết có thể thôi, vì mọi giả thuyết tạo ra những vấn đề mới và chẳng giải quyết cái gì - và đặc biệt những giả thuyết không được chứng minh, điều trong nhiều thế kỉ con người đã từng cố chứng minh và đã thất bại. Mọi nhà thượng đế học đã thất bại! Không nhà thượng đế học nào đã từng có khả năng cho bất kì chứng cớ nào về Thượng đế.

Họ đang cố làm, Maneesha, cái gì đó không thể được. Thượng đế chết rồi, và điều tốt và lớn lao là Thượng đế chết, vì điều đó mang tới tự do và chân giá trị cho sự sống, cho sự tồn tại. Nó phá huỷ cảnh nô lệ tâm linh của chúng ta, nó cho chúng ta tự hào lớn rằng chúng ta là sự tồn tại và không ai ở trên chúng ta.

Một trong những nhà huyền bí Baul, Chandidas, đã làm một phát biểu hay: Sabar upar manus satya, tahar upar nahi. Ông ấy là nhà huyền bí Bengal; phát biểu này trong tiếng Bengali. Sabar upar manus satya - trên tất cả là chân lí của con người. Tahar upar nahi - và bên ngoài điều đó không có gì cả.

Đây là điều tôi gọi là chân giá trị của con người, của sự sống, của sự tồn tại. Tại sao kéo lê không cần thiết nhân loại vào trong cảnh nô lệ? Paul Tillich, và tất cả những người đang cố cứu Thượng đế, những nhà tân thượng đế học của Ki tô giáo, sẽ thất bại, vì mọi điều họ có thể làm là cho những từ mới, nghĩa mới, tham chiếu mới, địa chỉ mới. Nhưng khi bạn đạt tới, bạn sẽ chẳng thấy gì. Ông ấy không có ở bên ngoài kia, ông ấy cũng không có trong chiều sâu đâu đó ẩn nấp.

Thượng đế không tồn tại và chưa bao giờ hiện hữu trong sự tồn tại.

Sự sống tồn tại.

Mở hội sự sống đi.

Hân hoan sự sống.

Để sự sống là tự do của bạn, tự hào của bạn, điệu múa của bạn, mở hội của bạn.

Đây là đúng lúc cho Sardar Gurudayal Singh. Bật đèn lên!

Bà cô già Crumbum, Nhân chứng Jehovah, đang đi một vòng từ nhà nọ sang nhà kia thu tiền để gửi cho người truyền giáo ở nước ngoài. Bà gõ cửa nhà Hamish MacTavish, người Scotland, và khi Hamish mở cửa bà ấy bắt đầu bài nói.

"Ngợi ca Chúa, thưa ngài!" Bà cô Crumbum ngân nga. "Chúng tôi đang làm kế hoạch gửi hai mươi Nhân chứng Jehovah tới các nước châu Phi. Xin mở lòng hào hiệp cho việc phụng sự truyền giáo của chúng tôi ở hải ngoại!"

"Tuyệt đối không!" Hamish đáp. "Tôi bác bỏ toàn bộ những sứ mệnh nước ngoài đó."

"Nhưng thưa ngài!" Bà cô Crumbum kêu lên. "Kinh sách ra lệnh chúng ta nuôi dưỡng người đói!"

"Được, điều đó thì được," Hamish nói, "nhưng chắc chắn chúng ta có thể nuôi họ về cái gì đó rẻ hơn người truyền giáo?"

Linh mục mới trong làng, Cha trẻ Fever, đi tới thăm hộ Sidebottom. Cho nên mẹ của bé Sally cho nó vài chỉ dẫn.

"Nếu linh mục mới hỏi con về tên con," bà Sidebottom nói, "nói Sally-Jane. Và nếu ông ấy hỏi con bao nhiêu tuổi, nói con bẩy tuổi. Và nếu ông ấy hỏi ai đã làm ra con, nói, 'Thượng đế đã làm ra con!' Con có thể nhớ được tất cả điều đó không?"

"Con nghĩ vậy," Sally nói.

Vài phút sau đó, Cha trẻ Fever tới, đặt mũ và Kinh thánh xuống, và bước tới bé Sally. Ông ta vỗ nhẹ lên đầu cô bé và nói, "Cha là Cha Fever, linh mục mới của con. Và tên con là gì, bé gái?"

"Sally-Jane," Sally đáp.

"Và con bao nhiêu tuổi, Sally-Jane?" linh mục hỏi.

"Bẩy tuổi ạ," Sally đáp.

"Nào, điều đó là tốt," Fever nói. "Và con có biết ai đã làm ra con không, Sally-Jane?"

Bé Sally ngần ngừ một chút, và thế rồi nói, "Cứt! Mẹ đã bảo con, nhưng con đã quên mất tên thằng cha đó rồi!"

Một tối muộn trên hòn đảo nhỏ Hi Lạp Crete, bà già Lilypopolis đang khóc trong chiếc khăn tay đen, than vãn về cái chết gần đây của bà bạn già Acreepolis.

"Ôi!" bà già Lilypopolis than vãn với giám mục Kretin đang cầm tay bà ấy, "Thượng đế sao bất công thế! Ngài đang gõ cửa chúng tôi các bà già từng người một. Tôi phải nói, thưa giám mục Kretin, rằng đức tin của tôi vào Đức mẹ đồng trinh được ân huệ đang bắt đầu lung lay."

"Đừng lo nghĩ con ta," giám mục Kretin an ủi, một cách thiếu kiên nhẫn. "Con mới chỉ chín mươi bẩy tuổi, con vẫn có nhiều sự sống trong con. Cứ cầu nguyện Thượng đế Toàn năng và mọi thứ sẽ tốt đẹp."

Nhưng qua vài ngày tiếp bà già Lilypopolis thấy phiêu diêu bay bổng. Bà ấy bắt đầu nhìn quanh tìm cái gì đó khác để làm mạnh cho đức tin của mình. Một đêm bà ấy đi lang thang quanh phố của làng và thấy bản thân mình ở trong nhà ngưới đoán vận may Bà Goggle.

"Tôi đã từng là người Ki tô giáo đức mẹ đồng trinh được ân huệ cả đời tôi," bà già Lilypopolis nói, "và bà là người tâm linh và không tin vào tôn giáo nào - nhưng tôi đã tới bà vì tôi đã mất đức tin vào giám mục Kretin. Tôi tới bà trong hi vọng nhận được câu trả lời cho một câu hỏi."

Bà Goggle gật đầu và nhắm mắt lại, sa vào trong cơn mê sâu.

"Tiến lên," bà ấy nói trong giọng tâm linh, "nói cho tôi câu hỏi của bà."

"Tôi muốn biết," bà già Lilypopolis nói, "khi tôi chết, tôi sẽ lên cõi trời không - tôi ngụ ý cõi trời Ki tô giáo - để được tái hợp với bạn tôi, bà Souvlaki, bà Theocrapolis và bà Acreepolis, trong vinh quang của thiên đường vĩnh hằng?"

Sau một thời gian trong cơn mê sâu, bà Goggle mở mắt ra và nói, "Tôi đã hỏi những người linh thiêng liệu và có lên cõi trời không," bà Goggle rền rĩ. "Và câu trả lời là... câu trả lời của họ là..."

Và bà đoán vận may già cọ ngón cái và ngón trỏ dưới mũi của bà già Hi Lạp.

"Ôi, vâng!" bà già Lilypopolis kêu lên, lần mò trong ví tiền và lôi ra một nắm tiền. Bà ấy để nó lên bàn và thế rồi bà Goggle tiếp tục.

"Thế này, có tin tốt và tin xấu. Trước hết tin tốt... Vâng, bà Lilypopolis, vì bà đã là người tốt như vậy, bà sẽ được đưa tới thiên đường bởi các thiên thần cõi trời - tới Ngai Vàng trên trời. Và ở đó bà sẽ vẫn còn ở vĩnh hằng với mọi người đồng trinh được ân huệ, ngồi quì gối với Thượng đế."

"Ồ!" bà già Lilypopolis kêu lên, "Ô, tôi hoàn toàn bị tràn ngập!"

"Đợi đã!" bà Goggle tiếp tục. "Và tin xấu là..."

"Nhưng, bà Goggle ơi!" bà già này ngắt lời. "Sau tin tuyệt vời thế, tin nào có thể là xấu được?"

"Thế này," bà Goggle nói, "bà sẽ đi tới đó đêm nay!"

Nivedano...

(Tiếng trống)

Im lặng...

Nhắm mắt lại... và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.

Đây là khoảnh khắc đúng để đi vào trong thế giới bên trong của bạn. Bạn phải đạt tới ngay dưới rốn của bạn, đích xác 6 cm bên dưới, bên trong.

Thu lấy năng lượng của bạn và toàn bộ tâm thức, và xô vào với sự khẩn thiết dường như đây sẽ là khoảnh khắc cuối của bạn trên trái đất. Chỉ những người có sự khẩn thiết và mãnh liệt như vậy mới đạt tới trung tâm sự sống của họ.

Mỗi lúc một nhanh hơn...

Mỗi lúc một sâu hơn...

Khi bạn tới gần hơn trung tâm của bạn, im lặng lớn giáng lên bạn hệt như làn mưa nhẹ rơi xuống. Bạn có thể cảm thấy cái mát mẻ.

Gần hơn chút ít, và bạn thấy sự bùng nổ ánh sáng. Thế giới bên trong của bạn trở nên chói sáng.

Sâu hơn chút ít, và hoa của phúc lạc, hoa của cực lạc đột nhiên bắt đầu trút lên bạn. Sự tồn tại đang hân hoan trong cuộc hành trình bên trong của bạn. Đây là cuộc hành hương tâm linh duy nhất.

Chỉ thêm một bước nữa và bạn đang đứng ở chính trung tâm của con người bạn.

Đây là trạng thái của Phật Gautam, không gian của mọi chư phật. Tại khoảnh khắc này bạn không còn nữa, chỉ vị phật hiện hữu. Và vị phật chỉ có một phẩm chất: việc chứng kiến.

Chứng kiến rằng bạn không là thân thể.

Chứng kiến rằng bạn không là tâm trí.

Và chứng kiến rằng bạn chỉ là nhân chứng.

Việc chứng kiến thuần khiết này mở ra mọi cánh cửa bị đóng với sự tồn tại và sự sống, với bài ca và điệu múa, với việc mở hội tối thượng của việc trở thành một với càn khôn.

Để làm cho việc chứng kiến này sâu hơn,

Nivedano...

(Tiếng trống)

Thảnh thơi... nhưng liên tục chứng kiến.

Đó là chính là vĩnh hằng của bạn – vô thuỷ, vô chung... vô hạn, không cạn, linh thiêng.

Đây là mặt nguyên bản của bạn. Chúng ta ở phương Đông đã biểu tượng hoá mặt của Phật Gautam là mặt nguyên bản của mọi người - đó là biểu tượng duy nhất.

Nhận ra nó đi!

Và hân hoan trong việc nhận ra nó.

Tại khoảnh khắc này bạn là người được may mắn nhất trên trái đất. Mọi người quan tâm tới điều tầm thường, bạn đang cố thám hiểm chính trung tâm của sự sống và sự tồn tại.

Khác hơn điều này, không có tính tôn giáo.

Khác hơn điều này, không có tính tâm linh.

Và kinh nghiệm này là tuyệt đối cá nhân, nó chẳng liên quan gì tới tập thể, với xã hội, với tôn giáo có tổ chức.

Và từ việc mở ra này, bạn có thể thấy không có Thượng đế, chỉ có tính Thượng đế bao quanh bạn - tất cả bao quanh vô giới hạn.

Chiều cao là vô hạn.

Chiều sâu là vô hạn, nhưng bạn không thấy bất kì Thượng đế nào ở bất kì đâu. Ngược lại, bạn bắt đầu tan chảy và biến mất.

Thính phòng Phật Gautam đã trở thành đại dương tâm thức. Mười nghìn chư phật đã nối với nhau trong một tâm thức.

Đây là chân lí của bạn, và đây là cái đẹp của chân lí, và đây là tính thiêng liêng của chân lí.

Người biết trung tâm này và việc mở ra này vào trong sự tồn tại, biết tất cả.

Thu lấy thật nhiều hoa như bạn có thể, về thanh thản, về bình thản, về im lặng, về an bình, về cực lạc, về say sưa thiêng liêng. Bạn phải mang mọi nước cam lồ này của sự sống từ trung tâm tới bề mặt cuộc sống hàng ngày của bạn. Bạn phải bắt đầu sống như vị phật, với cùng duyên dáng, với cùng cái đẹp, với cùng chân lí, với cùng tính đích thực, với cùng tính nguyên bản.

Việc mở ra này và kinh nghiệm về nó sẽ mang tới cho bạn chân giá trị mà không là bản ngã, sự tự hào không là bản ngã, nhưng đơn giản là niềm vui, đơn giản là việc nhớ lại rằng bạn có tính tồn tại, không ngẫu nhiên. Do đó, có khả năng của mở hội.

Người ngẫu nhiên sống trong phiền não, trong lo âu, trong tội lỗi.

Người có tính tồn tại sống trong mở hội, trong yêu, trong duyên sáng, trong biết ơn.

Đừng quên thuyết phục vị phật tới cùng bạn.

Đây là ba bước của chứng ngộ.

Bước thứ nhất, phật tới đằng sau bạn như cái bóng. Nhưng cái bóng là chói sáng, nó có hơi ấm vô cùng, và nó bao quanh bạn bằng hương thơm mới, hương thơm của cõi bên kia.

Bước tiếp, bước thứ hai, bạn trở thành cái bóng, phật tới phía trước bạn. Cái bóng của bạn liên tục trở nên mối lúc một mảnh dần khi phật trở nên mỗi lúc một vững chãi hơn và có tính tồn tại hơn.

Một khoảnh khắc tới và bước thứ ba xảy ra theo cách riêng của nó: cái bóng của bạn đã biến mất, bạn không còn nữa; chỉ vị phật hiện hữu, chỉ sự sống hiện hữu, chỉ sự tồn tại hiện hữu. Do đó có mở hội.

Nivedano...

(Tiếng trống)

Quay lại... nhưng tới với mọi vinh quanh và huy hoàng của vị phật, với mọi duyên dáng và im lặng và an bình.

Ngồi xuống chỉ trong vài giây để nhắc nhở bản thân bạn về con đường vàng mà bạn đã đi theo, và chiều sâu bạn đã đạt tới bên trong bản thân bạn, và mọi kinh nghiệm này. Và cảm thấy sự hiện diện của phật đằng sau bạn.

Ngày không còn xa khi bước đầu tiên sẽ biến thành bước thứ hai, và bước thứ hai sẽ biến thành bước thứ ba. Bạn sẽ không còn nữa. Và khi bạn không còn nữa có điệu vũ, có bài ca, có mở hội sự sống.

Tôi mở hội bản thân tôi, và tôi dạy bạn không gì khác hơn mở hội.

Tính tôn giáo đã rơi vào bàn tay sai, và họ đã làm cho toàn thế giới buồn và khổ. Tôi muốn thế giới được rót đầy bằng tiếng cười, bằng niềm vui, bằng tính hội hè.

Toàn thể sự sống, từ khoảnh khắc tới khoảnh khắc phải được sống như việc mở hội. Đó là sự sống tôn giáo duy nhất. Bạn có mọi tiềm năng và mọi cơ hội.

Chỉ vô nỗ lực thảnh thơi chút ít tan chảy vào trong đại dương bao quanh bạn - và điệu vũ bắt đầu. Và điệu vũ không bao giờ kết thúc.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Xem tiếp Chương 7 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post