Chương 4. Kundalini Yoga: trở về gốc

Chương 4. Kundalini Yoga: trở về gốc

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Tâm Lí Của Bí Truyền - Osho

Cuộc cách mạng bên trong

Chương 4. Kundalini Yoga: trở về gốc

Kundalini Yoga là gì và làm sao nó có thể giúp cho phương Tây? Tại sao phương pháp của thầy để đánh thức kundalini là hỗn độn thay vì như phương pháp truyền thống, có kiểm soát?

Sự tồn tại là năng lượng, vận động của năng lượng theo nhiều cách thức thế và nhiều hình tướng thế. Khi có liên quan tới sự tồn tại của con người, năng lượng này là năng lượng kundalini. Kundalini là năng lượng được hội tụ của thân thể con người và linh hồn con người.

Năng lượng có thể tồn tại hoặc được biểu lộ hoặc không được biểu lộ. Nó có thể vẫn còn trong hạt mầm, hay nó có thể đi vào hình tướng được biểu lộ. Mọi năng lượng hoặc là trong hạt mầm hoặc trong hình tướng được biểu lộ. Kundalini ngụ ý tiềm năng toàn bộ của bạn, khả năng toàn bộ của bạn. Nhưng nó là hạt mầm; nó là tiềm năng. Các cách thức để đánh thức kundalini là cách thức để làm cho tiềm năng của bạn thành hiện thực.

Cho nên đầu tiên, kundalini không phải là cái gì đó duy nhất. Nó là năng lượng con người duy nhất như vậy. Nhưng bình thường chỉ một phần của nó là vận hành, phần rất nhỏ. Ngay cả phần đó cũng đang không vận hành một cách hài hoà; nó đang trong xung đột. Đó là khổ, phiền não. Nếu năng lượng của bạn có thể vận hành một cách hài hoà thế thì bạn cảm thấy phúc lạc, nhưng nó đang trong xung đột - nếu nó đối kháng với bản thân nó - thế thì bạn cảm thấy khổ. Mọi khổ ngụ ý rằng năng lượng của bạn đang trong xung đột, và mọi hạnh phúc, mọi phúc lạc, ngụ ý rằng năng lượng của bạn là trong hài hoà.

Tại sao toàn thể năng lượng chỉ là tiềm năng, không là hiện thực? Nó không được cần tới khi có liên quan tới sự sống hàng ngày - nó không được yêu cầu. Duy nhất phần trở nên vận hành là được yêu cầu, được thách thức. Sự sống hàng ngày không phải là thách thức cho nó, cho nên chỉ phần rất nhỏ trở nên biểu lộ. Và ngay cả phần nhỏ bé, được biểu lộ này cũng không hài hoà vì sự sống hàng ngày của bạn không được tích hợp.

Nhu cầu của bạn là trong xung đột. Xã hội yêu cầu điều này và bản năng của bạn yêu cầu cái gì đó hoàn toàn trái ngược lại. Yêu cầu xã hội và yêu cầu cá nhân là trong xung đột. Xã hội có các yêu cầu của nó; đạo đức và tôn giáo có yêu cầu của họ. Những xung đột này đã ngăn cản con người là một toàn thể hài hoà. Họ đã làm cho con người thành mảnh mẩu.

Buổi sáng điều này được yêu cầu; buổi trưa cái gì đó khác được yêu cầu. Vợ bạn yêu cầu cái gì đó từ bạn; mẹ bạn yêu cầu cái gì đó hoàn toàn ngược lại. Thế thì cuộc sống hàng ngày trở thành việc đòi hỏi xung đột lên bạn, và phần nhỏ của toàn bộ năng lượng của bạn mà đã trở thành biểu lộ là trong xung đột với bản thân nó.

Cũng có xung đột khác. Phần đã trở nên biểu lộ bao giờ cũng sẽ trong xung đột với phần còn chưa trở nên biểu lộ; thực tại bao giờ cũng sẽ trong xung đột với tiềm năng. Tiềm năng sẽ đẩy bản thân nó được biểu lộ, và thực tại sẽ kìm nén nó.

Dùng thuật ngữ tâm lí, vô thức bao giờ cũng trong xung đột với ý thức. Ý thức sẽ cố gắng chi phối nó, vì ý thức bao giờ cũng bị lâm nguy khi vô thức biểu lộ bản thân nó. Ý thức là dưới sự kiểm soát và tiềm năng, vô thức, là không bị kiểm soát. Bạn có thể kiểm soát ý thức, nhưng với việc bùng nổ của vô thức bạn sẽ trong bất an ninh. Bạn sẽ không có khả năng kiểm soát nó. Đó là nỗi sợ của ý thức. Cho nên đây là xung đột khác, lớn hơn và sâu hơn xung đột thứ nhất: xung đột giữa ý thức và vô thức, giữa năng lượng đã trở nên biểu lộ và năng lượng muốn được biểu lộ.

Hai kiểu xung đột này là lí do tại sao bạn không trong hài hoà. Và nếu bạn không trong hài hoà, năng lượng của bạn sẽ trở thành đối kháng với bạn. Năng lượng cần vận động, và vận động bao giờ cũng từ cái không biểu lộ hướng tới cái biểu lộ, từ hạt mầm hướng tới cây, từ tối hướng tới sáng.

Vận động này là có thể chỉ nếu không có kìm nén. Bằng không vận động này, sự hài hoà, bị phá huỷ và năng lượng của bạn trở thành kẻ thù của bạn. Bạn trở thành ngôi nhà bị chia ra chống lại bản thân nó; bạn trở thành đám đông. Thế thì bạn không là một; bạn là nhiều.

Đây là tình huống tồn tại khi có liên quan tới con người. Nhưng điều này không nên là vậy. Đây là lí do tại sao có cái xấu và khổ. Phúc lạc và cái đẹp chỉ có thể tới khi năng lượng sống của bạn là trong vận động, trong vận động dễ dàng, vận động thảnh thơi - không bị kìm nén, không bị cấm đoán; được tích hợp, không phân mảnh; không trong xung đột với bản thân nó, mà là một và có phối hợp. Khi năng lượng của bạn đi tới sự thống nhất hài hoà này, đó là điều được ngụ ý bởi kundalini. Kundalini chỉ là thuật ngữ kĩ thuật cho năng lượng toàn thể của bạn khi nó trong sự thống nhất, trong vận động, trong hài hoà, không có bất kì xung đột nào; khi nó có tính cộng tác, bổ sung và có phối hợp. Ngay tại đó, có biến đổi - duy nhất và không biết.

Khi năng lượng ở trong xung đột, bạn muốn làm giảm nhẹ chúng. Bạn cảm thấy thoải mái chỉ khi năng lượng xung đột của bạn được xả ra, được tống ra. Nhưng bất kì khi nào bạn tống chúng ra, năng lượng sống của bạn, sức sống của bạn, đi xuống, hay ra ngoài. Chuyển động xuống là chuyển động ra ngoài, và chuyển động lên là chuyển động vào trong. Năng lượng của bạn càng đi lên, chúng càng đi vào trong; chúng càng đi xuống, chúng càng chuyển ra ngoài. Nếu bạn tống các năng lượng xung đột của bạn ra ngoài bạn sẽ cảm thấy được giảm nhẹ, nhưng điều đó cũng giống như ném cuộc sống của bạn đi theo từng miếng và từng mảnh, theo từng lần. Nó là tự tử. Chừng nào năng lượng sống của bạn chưa trở thành một và hài hoà, và việc chảy trở thành vào trong, chúng ta đang tự tử.

Khi bạn đang tống năng lượng ra bạn cảm thấy được giảm nhẹ, nhưng việc giảm nhẹ nhất định là mảnh mẩu vì bạn là nguồn năng lượng thường hằng. Năng lượng tích luỹ lại và bạn sẽ phải loại bỏ nó lần nữa. Điều thường được biết như vui thú chỉ là tống ra các năng lượng xung đột. Vui thú ngụ ý rằng bạn được giản nhẹ gánh nặng. Nó bao giờ cũng có tính phủ định, không bao giờ khẳng định. Nhưng phúc lạc có tính khẳng định. Nó chỉ tới khi năng lượng của bạn được đáp ứng.

Khi năng lượng của bạn không bị tống ra mà có việc nở hoa bên trong, khi bạn trở thành một với chúng và không trong xung đột với chúng, thế thì có chuyển động vào trong. Chuyển động đó là vô tận. Nó trở thành mỗi ngày một sâu hơn, và nó càng đi sâu, nó càng trở nên phúc lạc hơn, cực lạc hơn.

Cho nên năng lượng có thể có hai khả năng. Khả năng thứ nhất chỉ là làm giản nhẹ, tống ra năng lượng mà đã trở thành gánh nặng cho bạn, cái bạn không thể dùng được và với nó bạn đã không thể có tính sáng tạo. Trạng thái này của tâm trí là phản kundalini.

Trạng thái bình thường của con người là phản kundalini. Năng lượng chuyển từ trung tâm ra ngoại vi vì đó là hướng bạn đang đi tới. Kundalini ngụ ý chính cái đối lập. Các lực, năng lượng chuyển từ ngoại vi hướng tới trung tâm.

Chuyển động vào trong, chuyển động hướng theo trung tâm, là phúc lạc, trong khi chuyển động ra ngoài cho cả sướng và khổ. Sẽ có sướng tạm thời và khổ thường hằng. Sướng sẽ chỉ tới trong kẽ hở. Chỉ khi bạn hi vọng, chỉ khi bạn có mong đợi, kẽ hở có đó. Kết quả thực tại bao giờ cũng là khổ.

Sướng là trong mong đợi, trong hi vọng, trong ham muốn, trong mơ mộng. Nó chỉ là điều bạn được làm giảm nhẹ khỏi gánh nặng của bạn; sướng là phủ định toàn bộ. Không có sướng như vậy, nhưng chỉ có việc thiếu vắng tạm thời của khổ. Thiếu vắng đó được coi là sướng.

Bạn thường xuyên tạo ra năng lượng mới. Đó là điều được ngụ ý bởi sống: khả năng liên tục tạo ra lực sống. Khoảnh khắc năng lực này mất đi, bạn chết. Đây là nghịch lí: bạn liên tục tạo ra năng lượng và bạn không biết phải làm gì với nó. Khi nó được tạo ra bạn ném nó đi và khi nó không được tạo ra bạn cảm thấy khổ, ốm yếu.

Khoảnh khắc lực sống không được tạo ra, bạn cảm thấy ốm; nhưng khi nó được tạo ra, bạn lại cảm thấy ốm. Ốm thứ nhất là ốm của yếu, và ốm thứ hai là ốm của năng lượng mà đã trở thành gánh nặng cho bạn. Bạn không có khả năng làm hài hoà nó, làm nó thành có tính sáng tạo, làm nó thành phúc lạc. Bạn đã tạo ra nó và giờ bạn không biết phải làm gì với nó, cho nên bạn chỉ tống nó ra. Thế rồi bạn lại tạo ra thêm năng lượng. Điều này là ngớ ngẩn, nhưng cái ngớ ngẩn này là điều chúng ta thường ngụ ý bởi sự tồn tại con người: thường xuyên tạo ra năng lượng mà thường xuyên trở thành gánh nặng và bạn thường xuyên phải làm giảm nhẹ.

Đó là lí do tại sao dục đã trở thành quan trọng thế, ý nghĩa thế vì nó là một trong những phương tiện lớn nhất để gạt bỏ năng lượng khỏi bản thân bạn. Nếu xã hội trở nên sung túc, bạn có nhiều nguồn hơn qua đó năng lượng có thể được tạo ra. Thế thì bạn trở nên nhiều dục hơn, vì bạn có nhiều căng thẳng hơn để làm giảm nhẹ.

Có việc thường xuyên tạo ra năng lượng và tống ra năng lượng. Nếu người ta đủ thông minh, đủ nhạy cảm, thế thì người ta sẽ cảm thấy cái ngớ ngẩn của nó, toàn thể cái vô nghĩa của nó. Thế thì người ta sẽ cảm thấy tính vô mục đích của sự sống. Bạn chỉ là công cụ để tạo ra năng lượng và tống nó ra sao? Nghĩa của điều này là gì? Nhu cầu tồn tại chút nào này là gì? Chỉ là công cụ trong đó năng lượng được tạo ra và tống ra sao? Cho nên người càng nhạy cảm, người đó càng cảm thấy tính vô nghĩa của sự sống như chúng ta biết nó.

Kundalini ngụ ý đổi tình huống ngớ ngẩn này thành tình huống có nghĩa. Khoa học về kundalini là một trong những khoa học tinh tế nhất. Vật lí học cũng quan tâm tới năng lượng, nhưng với năng lượng vật chất chứ không phải là năng lượng tâm hồn. Yoga liên quan tới năng lượng tâm hồn. Nó là khoa học về siêu hình, về cái có tính siêu việt.

Cũng giống như năng lượng vật chất mà khoa học quan tâm tới, năng lượng tâm hồn này có thể có tính sáng tạo hay phá huỷ. Nếu nó không được dùng, nó trở nên có tính phá huỷ; nếu nó được dùng, nó trở thành có tính sáng tạo. Nhưng nó cũng có thể được dùng một cách không sáng tạo. Cách làm cho nó có tính sáng tạo là trước hết hiểu rằng bạn phải nhận ra không chỉ một phần tiềm năng của bạn. Nếu một phần được nhận ra và phần còn lại, phần lớn tiềm năng của bạn không được nhận ra, đó không phải là tình huống mà có thể có tính sáng tạo.

Cái toàn thể phải được nhận ra; toàn thể tiềm năng của bạn phải được hiện thực hoá. Có những phương pháp để nhận ra tiềm năng, để làm cho nó thành hiện thực, để làm cho nó thức dậy. Nó đang ngủ, giống hệt con rắn. Đó là lí do tại sao nó đã được đặt tên là kundalini: sức mạnh rắn, rắn ngủ.

Nếu bạn đã bao giờ thấy con rắn đang ngủ, nó giống điều đó. Rắn cuộn lại; không có chuyển động chút nào. Nhưng rắn có thể đứng thẳng dậy trên đuôi của nó. Nó đứng lên bởi năng lượng của nó. Đó là lí do tại sao rắn đã được dùng một cách biểu tượng. Năng lượng sống của bạn cũng cuộn lại và ngủ. Nhưng nó có thể trở nên duỗi thẳng ra; nó có thể trở thành thức tỉnh, với tiềm năng đầy đủ của nó được hiện thực hoá. Thế thì bạn sẽ được biến đổi.

Sống và chết chỉ là hai trạng thái của năng lượng. Sống ngụ ý năng lượng vận hành, và chết ngụ ý năng lượng không vận hành. Sống ngụ ý năng lượng thức tỉnh; chết ngụ ý nặng lượng lại mất vào trong ngủ. Cho nên theo kundalini yoga, bạn bình thường chỉ là sống động một phần. Phần năng lượng của bạn đã trở nên được hiện thực hoá là sống của bạn. Phần còn lại là ngủ tới mức dường như nó không có.

Nhưng nó có thể được đánh thức. Có nhiều phương pháp qua đó kundalini yoga cố làm cho tiềm năng này thành hiện thực. Chẳng hạn, pranayama, kiểm soát hơi thở, là một trong những phương pháp để gõ búa vào năng lượng ngủ này. Qua hơi thở, việc gõ búa là có thể vì việc thở là chiếc cầu giữa năng lượng sống của bạn - prana của bạn, cội nguồn sức sống của bạn - và sự tồn tại thực tại của bạn. Nó là chiếc cầu giữa tiềm năng và thực tại.

Khoảnh khắc bạn đổi hệ thống thở của bạn, toàn bộ hệ thống năng lượng của bạn thay đổi. Khi bạn ngủ việc thở của bạn thay đổi. Khi bạn thức việc thở của bạn thay đổi. Khi bạn giận việc thở của bạn là khác; khi bạn đang trong yêu việc thở của bạn là khác; khi bạn trong đam mê dục việc thở của bạn là khác. Trong mọi trạng thái tâm trí, phẩm chất đặc biệt của lực sống có đó, cho nên việc thở của bạn thay đổi.

Khi bạn giận bạn yêu cầu nhiều năng lượng hơn ở ngoại vi. Nếu bạn đang trong nguy hiểm - nếu bạn phải tấn công hay bạn phải phòng thủ bản thân bạn - nhiều năng lượng hơn được cần ở ngoại vi. Năng lượng sẽ đổ xô ra từ trung tâm.

Vì lượng lớn năng lượng bị tống ra khỏi thân thể bạn trong hành động dục, bạn cảm thấy bị cạn kiệt sau đó. Và sau giận nữa, bạn sẽ cảm thấy bị cạn kiệt. Nhưng sau khoảnh khắc yêu, bạn sẽ không cảm thấy bị cạn kiệt. Bạn sẽ cảm thấy tươi tắn. Sau lời cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy tươi tắn. Tại sao mâu thuẫn này xảy ra? Khi bạn ở trong khoảnh khắc yêu, năng lượng không được cần ở ngoại vi vì không có nguy hiểm. Bạn thoải mái, thảnh thơi, cho nên năng lượng chảy vào bên trong. Khi năng lượng chảy vào bên trong, bạn cảm thấy tươi tắn.

Sau việc thở sâu bạn sẽ cảm thấy tươi tắn, vì năng lượng chảy vào trong. Khi năng lượng chảy vào trong bạn cảm thấy được tiếp sức sống, được đáp ứng; bạn cảm thấy mạnh khoẻ hạnh phúc.

Điều nữa cần lưu ý: khi năng lượng đi vào trong, hơi thở của bạn sẽ bắt đầu có phẩm chất khác. Nó sẽ được thảnh thơi, có nhịp điệu, hài hoà. Sẽ có những khoảnh khắc mà bạn sẽ không cảm thấy nó chút nào, mà bạn cảm thấy dường như nó đã dừng lại. Nó trở thành tinh tế thế! Vì năng lượng không được cần tới, hơi thở dừng lại. Trong samadhi, trong cực lạc, người ta cảm thấy rằng hơi thở đã dừng hoàn toàn. Không dòng chảy năng lượng ra ngoài nào được cần, Cho nên hơi thở là không cần thiết.

Qua pranayama năng lượng tiềm năng này bên trong bạn được đánh thức một cách có hệ thống. Nó cũng có thể được động tới qua asanas, các tư thế yoga, vì thân thể bạn được kết nối tại mọi điểm tới nguồn của năng lượng. Cho nên mọi tư thế đều có tác động tương ứng lên nguồn năng lượng.

Tư thế mà Phật đã dùng được gọi là padmasan, tư thế hoa sen. Nó là một trong những tư thế mà trong đó năng lượng được cần tới là ít nhất. Nếu bạn ngồi thẳng, ngồi cân bằng tới mức bạn trở thành một với đất. Không có lực hút hấp dẫn. Và nếu tay và chân bạn ở trong tư thế mà mạch đóng được tạo ra, điện sống sẽ chảy vòng quanh. Tư thế của Phật là tư thế tròn. Năng lượng trở thành đi vòng tròn; nó không bị tống ra.

Năng lượng bao giờ cũng chuyển ra qua ngón tay, bàn tay hay bàn chân. Nhưng qua hình tròn, năng lượng không thể chảy ra được. Đó là lí do tại sao đàn bà nhiều sức kháng cự với ốm hơn đàn ông, và tại sao họ sống lâu hơn. Thân thể là tròn hơn, ít năng lượng chảy ra ngoài.

Đàn bà không bị cạn kiệt thế sau hành động dục vì hình dáng cơ quan dục của họ là tròn và hấp thu. Đàn ông sẽ bị cạn kiệt nhiều hơn. Vì hình dạng cơ quan dục của họ, nhiều năng lượng bị tống ra. Không chỉ năng lượng sinh học, mà cả năng lượng linh hồn nữa.

Mọi lối ra năng lượng đều được nối cùng nhau trong padmasan, cho nên không năng lượng nào có thể chuyển ra ngoài. Cả hai chân bị bắt chéo, tay chạm chân và chân chạm trung tâm dục. Và tư thế này dựng đứng tới mức không có sức hút hấp dẫn. Trong tư thế này, người ta có thể quên thân thể hoàn toàn vì năng lượng sống không chảy ra ngoài. Mắt cũng bị nhắm lại hay ti hí và tròng mắt tĩnh lặng, vì mắt cũng là lối ra lớn cho năng lượng.

Ngay cả trong mơ bạn cũng ném nhiều năng lượng ra qua chuyển động mắt. Thực ra, một cách để biết liệu một người đang mơ hay không là để ngón tay bạn lên mắt người đó. Nếu chúng chuyển động, thế thì người đó đang mơ. Đánh thức người đó, và bạn sẽ thấy người đó đang mơ. Nếu nhãn cầu không chuyển động, thế thì người đó đang trong giấc ngủ say, ngủ không mơ, sushupti. Mọi năng lượng đang đi vào bên trong và không cái gì đi ra ngoài.

Asanas, pranayama - có nhiều phương pháp thế qua đó năng lượng có thể được làm cho chảy vào trong. Khi chúng chảy vào trong chúng trở thành một, vì tại trung tâm không thể có nhiều hơn một. Cho nên càng nhiều năng lượng đi vào trong, hài hoà càng có đó. Xung đột rơi rụng đi. Ở trung tâm không có xung đột. Có sự thống nhất hữu cơ của cái toàn thể. Đó là lí do tại sao phúc lạc được cảm thấy.

Việc khác: asanas và pranayama là những giúp đỡ về thân thể. Chúng là quan trọng, nhưng chúng chỉ là giúp đỡ vật lí. Nếu tâm trí của bạn đang trong xung đột thế thì chúng sẽ không giúp gì mấy, vì thân thể và tâm trí không thực sự là hai thứ. Chúng là hai phần của một thứ. Bạn không là thân thể và tâm trí; bạn là thân/tâm. Bạn là tâm thần/thân thể hay thân thể/ linh hồn. Chúng ta nói về thân thể như một thứ và tâm trí như cái gì đó khác, nhưng thân thể và tâm trí là hai cực của một năng lượng. Thân thể là thô và tâm trí là tinh, nhưng năng lượng là cùng một.

Người ta phải làm việc từ hai cực. Với thân thể có hatha yoga: asanas, pranayama, vân vân; và với tâm trí có raga yoga và các yoga khác mà về căn bản liên quan tới thái độ tâm trí của bạn.

Thân thể và tâm trí là một năng lượng. Chẳng hạn, nếu bạn có thể kiểm soát hơi thở của bạn khi bạn giận, giận sẽ chết. Nếu bạn có thể liên tục thở có nhịp điệu, giận không thể chế ngự bạn. Theo cùng cách, nếu bạn liên tục thở có nhịp điệu, đam mê dục không thể chế ngự được bạn. Nó sẽ có đó, nhưng nó sẽ không trở nên biểu lộ. Không người nào sẽ biết nó có đó. Ngay cả bạn sẽ không có khả năng biết nó. Cho nên dục có thể bị kìm nén; giận có thể bị kìm nén. Qua việc thở có nhịp điệu bạn có thể kìm nén chúng nhiều tới mức bản thân bạn thậm chí sẽ không nhận biết về nó. Nhưng giận hay dục sẽ vẫn còn đó. Thân thể đã kìm nén nó, nhưng nó vẫn còn bên trong, không bị chạm tới.

Người ta phải làm việc với cả thân thể và tâm trí. Thân thể phải được huấn luyện qua phương pháp luận yoga, và tâm trí qua nhận biết. Bạn sẽ cần nhiều nhận biết hơn nếu bạn thực hành yoga vì mọi sự sẽ trở nên tinh tế hơn. Nếu bạn giận, bạn bình thường có thể trở nên nhận biết về nó vì nó thô thế. Nhưng nếu bạn thực hành pranayama, bạn sẽ cần nhiều nhận biết hơn, nhiều nhạy cảm sắc nét hơn để nhận biết về giận, vì bây giờ giận sẽ trở nên tinh tế hơn. Thân thể không hợp tác với nó cho nên sẽ không có việc diễn đạt vật lí của nó chút nào.

Nếu mọi người thực hành các kĩ thuật nhận biết và đồng thời thực hành các phương pháp yoga, họ sẽ biết các lĩnh vực sâu hơn của nhận biết. Bằng không họ sẽ chỉ nhận biết về cái thô. Nếu bạn thay đổi cái thô nhưng không thay đổi cái tinh, bạn sẽ lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Bây giờ xung đột sẽ khẳng định bản thân nó theo cách mới.

Yoga giúp đỡ, nhưng nó chỉ là một phần. Phần kia là điều Phật gọi là lưu tâm. Thực hành yoga để cho thân thể trở nên có nhịp điệu và hợp tác với chuyển động bên trong của bạn, và đồng thời thực hành lưu tâm.

Lưu tâm tới việc thở đi. Trong yoga, bạn phải thay đổi quá trình thở. Trong lưu tâm, bạn phải nhận biết về việc thở như nó vậy. Chỉ là nhận biết về nó. Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về việc thở của bạn, thế thì bạn có thể trở nên nhận biết về quá trình ý nghĩ của bạn; bằng không thì không đâu.

Những người cố trở nên nhận biết về quá trình ý nghĩ của họ một cách trực tiếp, sẽ không có khả năng làm điều đó. Điều đó sẽ rất gian nan, tẻ nhạt. Việc thở là cánh cửa tới tâm trí. Nếu bạn dừng việc thở trong một khoảnh khắc, ý nghĩ của bạn cũng sẽ dừng lại. Khi việc thở dừng lại, quá trình ý nghĩ dừng lại. Nếu suy nghĩ của bạn là hỗn độn, việc thở của bạn sẽ hỗn độn. Việc thở sẽ đồng thời ảnh hưởng tới quá trình suy nghĩ của bạn.

Phật nói về anapanasati: yoga của nhận biết về hơi thở tới và đi. Ông ấy nói, "Bắt đầu từ đây." Và đó là việc bắt đầu đúng. Người ta phải bắt đầu từ việc thở và không bao giờ từ bản thân quá trình ý nghĩ. Khi bạn có thể cảm thấy những chuyển động tinh tế của hơi thở, chỉ thế thì bạn sẽ có khả năng cảm thấy những chuyển động tinh tế của ý nghĩ.

Nhận biết về quá trình ý nghĩ sẽ làm thay đổi phẩm chất của tâm trí; asanas và pranayama sẽ thay đổi phẩm chất của thân thể. Thế thì một khoảnh khắc tới khi thân thể và tâm trí của bạn là một, không có bất kì xung đột chút nào. Khi chúng được đồng bộ, bạn không là thân thể không là tâm trí. Lần đầu tiên, bạn biết bản thân bạn như cái Ngã. Bạn siêu việt.

Bạn có thể siêu việt chỉ khi không có xung đột. Trong khoảnh khắc hài hoà này khi thân thể và tâm trí là một, không có xung đột, bạn siêu việt trên cả hai. Bạn không là cái nào. Bây giờ bạn là hư không theo nghĩa: vô-vật. Bạn đơn giản là tâm thức. Không ý thức về cái gì đó, nhưng chỉ là bản thân nhận biết.

Nhận biết này mà không là nhận biết về bất kì cái gì, tâm thức này mà không có ý thức về bất kì cái gì, là khoảnh khắc của bùng nổ. Tiềm năng của bạn trở thành thực tại. Bạn bùng nổ trong lĩnh vực mới: cái tối thượng. Cái tối thượng này là mối quan tâm của mọi tôn giáo.

Có nhiều cách thế để đạt tới điều tối thượng này. Người ta có thể nói về kundalini hay không; điều đó là không quan trọng. Kundalini chỉ là lời. Bạn có thể dùng lời khác. Nhưng điều có ý nghĩa bởi lời ‘kundalini' nhất định có đó theo cách nào đó này khác như dòng chảy năng lượng vào trong.

Dòng chảy vào trong này là cách mạng duy nhất, tự do duy nhất. Bằng không bạn sẽ liên tục tạo ra nhiều địa ngục hơn, vì bạn càng đi ra ngoài, bạn càng xa với bản thân bạn hơn. Và bạn càng xa với bản thân bạn, bạn càng ốm và bệnh.

Kundalini là nguồn gốc của mọi sự sống, nhưng bạn bị cắt đứt khỏi nó theo nhiều cách thế. Thế thì bạn trở thành người ngoài với bản thân bạn và bạn không biết cách quay về nhà. Việc quay về này là khoa học của yoga. Khi có liên quan tới biến đổi con người, kundalini yoga là khoa học tinh tế nhất.

Bạn đã hỏi tại sao các phương pháp truyền thống là hệ thống và phương pháp của tôi là hỗn độn. Các phương pháp truyền thống là hệ thống vì những người thời đầu đã là khác, những người mà các phương pháp đó đã được phát triển ra. Con người hiện đại là hiện tượng rất mới. Không phương pháp truyền thống nào có thể được dùng đích xác như nó tồn tại, vì con người hiện đại không bao giờ đã tồn tại trước đây. Cho nên theo một cách nào đó, mọi phương pháp truyền thống đã trở thành không liên quan.

Chẳng hạn, thân thể đã thay đổi nhiều thế. Bây giờ nó không tự nhiên như nó đã vậy vào những ngày Patanjali đã phát triển hệ thống yoga của ông ấy. Nó là tuyệt đối khác. Nó bị nhiễm thuốc tới mức không phương pháp truyền thống nào có thể giúp đỡ.

Trong quá khứ, thuốc đã không được phép với người hatha yoga, tuyệt đối không được phép, vì những thay đổi hoá chất sẽ không chỉ làm cho các phương pháp thành khó, mà còn có hại. Nhưng toàn thể bầu không khí bây giờ là nhân tạo: không khí, nước, xã hội, điều kiện sống. Không cái gì là tự nhiên. Bạn được sinh ra trong điều nhân tạo; bạn phát triển trong nó. Các phương pháp truyền thống như vậy sẽ chứng tỏ là có hại ngày nay. Chúng sẽ phải được thay đổi tương ứng với tình huống hiện đại.

Điều khác: phẩm chất của tâm trí về căn bản đã thay đổi. Vào thời của Patanjali, trung tâm nhân cách con người đã không ở não; nó đã ở tim. Và trước đó, nó thậm chí không ở tim. Nó còn ở thấp hơn, gần rốn. Hatha yoga đã phát triển các phương pháp mà là hữu dụng, có nghĩa, cho người có trung tâm nhân cách ở rốn. Thế rồi trung tâm này đã trở thành tim. Chỉ thế thì bhakti yoga có thể được dùng. Bhakti yoga đã phát triển trong thời trung cổ vì đó là khi trung tâm nhân cách đã đổi từ rốn tới tim.

Phương pháp phải thay đổi tương ứng theo người mà nó được áp dụng. Bây giờ, ngay cả bhakti yoga cũng không liên quan. Trung tâm đã đi thậm chí còn xa hơn với rốn. Bây giờ, trung tâm là não. Đó là lí do tại sao các chỉ dạy như của Krishnamurti có sức hấp dẫn. Không phương pháp nào được cần, không kĩ thuật nào được cần - duy nhất việc hiểu. Nhưng nếu nó chỉ là việc hiểu lời, chỉ trí tuệ, không cái gì thay đổi, không cái gì được biến đổi. Nó lại trở thành việc tích luỹ tri thức.

Tôi dùng các phương pháp hỗn độn thay vì phương pháp có hệ thống vì phương pháp hỗn độn là rất giúp đỡ trong việc đẩy trung tâm xuống dưới não. Trung tâm không thể bị đẩy xuống qua bất kì phương pháp có hệ thống nào vì việc hệ thống hoá là công việc trí não. Qua phương pháp có hệ thống, não sẽ được làm mạnh thêm; nhiều năng lượng sẽ được thêm cho nó.

Qua phương pháp hỗn độn, não bị triệt tiêu. Nó chẳng có gì để làm. Phương pháp này là hỗn độn tới mức trung tâm tự động bị đẩy từ não sang tim. Nếu bạn làm phương pháp Thiền Động của tôi một cách mạnh mẽ, không hệ thống, hỗn độn, trung tâm của bạn chuyển tới tim. Thế rồi có việc tẩy rửa. Việc tẩy rửa được cần vì tim của bạn bị kìm nén thế, do não của bạn. Não của bạn đã tiếp quản con người bạn nhiều tới mức nó chi phối bạn. Không có chỗ cho tim, cho nên các khao khát của tim bị kìm nén. Bạn chưa bao giờ cười một cách toàn tâm, chưa bao giờ sống một cách toàn tâm, chưa bao giờ làm bất kì cái gì một cách toàn tâm. Não bao giờ cũng bước vào để hệ thống hoá, để làm mọi thứ thành toán học, và tim bị kìm nén.

Cho nên thứ nhất, phương pháp hỗn độn được cần để đẩy trung tâm của ý thức khỏi não hướng tới tim. Thế rồi tẩy rửa được cần để làm nhẹ gánh cho tim, để tống ra những kìm nén, để làm tim mở ra. Nếu tim trở nên nhẹ và không nặng gánh, thế thì trung tâm của ý thức được đẩy xuống còn thấp hơn; nó tới rốn. Rốn là nguồn sinh lực, nguồn mầm mà từ đó mọi thứ khác tới: thân thể và tâm trí và mọi thứ.

Tôi dùng phương pháp hỗn độn này rất có cân nhắc. Phương pháp luận hệ thống sẽ không giúp đỡ bây giờ, vì não sẽ dùng nó như công cụ riêng của nó. Việc tụng bhajan cũng không thể giúp đỡ bây giờ, vì tim bị nặng gánh tới mức nó không thể nở hoa thành việc tụng thực. Việc tụng chỉ có thể là lối thoát cho nó; lời cầu nguyện chỉ có thể là lối thoát. Tim không thể nở hoa thành lời cầu nguyện vì nó bị nặng gánh thế với những kìm nén. Tôi đã không thấy một người nào có thể đi sâu vào lời cầu nguyện đích thực. Lời cầu nguyện là không thể được vì bản thân yêu đã trở thành không thể được.

Ý thức phải được đẩy xuống tới nguồn, tới gốc. Chỉ thế thì mới có khả năng của biến đổi. Cho nên tôi dùng các phương pháp hỗn động để đẩy ý thức xuống khỏi bộ não.

Bất kì khi nào bạn ở trong hỗn độn, não dừng làm việc. Chẳng hạn, nếu bạn đang lái xe và đột nhiên ai đó chạy ở phía trước bạn, bạn phản ứng bất thần tới mức nó không thể là công việc của não. Não cần thời gian. Nó nghĩ về cái gì làm và cái gì không làm. Cho nên bất kì khi nào có khả năng của tai nạn và bạn nhấn phanh, bạn cảm thấy một cảm giác gần rốn của bạn, dường như đó đã là bụng bạn đang phản ứng. Ý thức của bạn bị đẩy xuống rốn vì tai nạn này. Nếu tai nạn có thể được tính toán trước, não chắc đã có khả năng giải quyết nó; nhưng khi bạn ở trong tai nạn, cái gì đó không biết xảy ra. Thế thì bạn để ý rằng ý thức đã chuyển tới rốn.

Nếu bạn hỏi một sư Thiền Nhật Bản, "Ông nghĩ từ đâu?" ông ta sẽ để tay vào bụng. Khi người phương Tây tới tiếp xúc với các sư Nhật Bản lần đầu tiên, họ không thể hiểu được. "Vô nghĩa làm sao! Làm sao bạn có thể nghĩ từ bụng được?" Nhưng việc đáp lại của Thiền là có nghĩa. Ý thức có thể dùng bất kì trung tâm nào của thân thể, và trung tâm gần nhất với cội nguồn là rốn. Não là xa nhất khỏi cội nguồn, cho nên năng lượng sống chuyển ra ngoài, trung tâm của ý thức sẽ trở thành não. Và nếu năng lượng sống chuyển vào trong, chung cuộc rốn sẽ trở thành trung tâm.

Phương pháp hỗn độn được cần để đẩy ý thức tới rễ của nó, vì chỉ từ rễ mà biến đổi là có thể. Bằng không bạn sẽ liên tục diễn đạt bằng lời và sẽ không có biến đổi. Chỉ biết cái gì là đúng là không đủ. Bạn phải biến đổi rễ; bằng không bạn sẽ không thay đổi.

Khi một người biết điều đúng và không thể làm được bất kì cái gì về nó, người đó trở nên căng thẳng gấp đôi. Người đó hiểu, nhưng người đó không thể làm được bất kì cái gì. Việc hiểu là có nghĩa chỉ khi nó đi tới rốn, từ rễ. Nếu bạn hiểu từ não, nó không phải là biến đổi.

Điều tối thượng không thể được biết qua não, vì khi bạn đang vận hành qua não bạn ở trong xung đột với rễ, từ chỗ bạn đã tới. Toàn thể vấn đề của bạn là ở chỗ bạn đã chuyển đi xa khỏi rốn. Bạn đã tới từ rốn và bạn sẽ chết qua nó. Người ta phải quay lại rễ. Nhưng quay lại là khó khăn, gian nan.

Kundalini yoga có liên quan tới năng lượng sống và luồng đi vào trong của nó. Nó có liên quan tới các kĩ thuật mang thân thể và tâm trí tới điểm mà siêu việt là có thể. Thế thì, mọi thứ được thay đổi. Thân thể là khác; tâm trí là khác; việc sống là khác. Nó chỉ là sự sống.

Xe bò kéo là hữu dụng, nhưng nó không còn được cần tới. Bây giờ bạn lái xe hơi, cho nên bạn không thể dùng kĩ thuật đã được dùng với xe bò kéo. Nó đã hữu dụng với xe bò kéo, nhưng nó là không liên quan với xe hơi.

Các phương pháp truyền thống có hấp dẫn vì chúng là cổ đại thế và nhiều người thế đã đạt tới qua chúng trong quá khứ. Chúng có thể đã trở thành không liên quan với chúng ta, nhưng chúng đã không phải là không liên quan với Phật, Mahavira, Patanjali hay Krishna. Chúng đã là có nghĩa, giúp ích. Các phương pháp cổ có thể là vô nghĩa bây giờ, nhưng vì Phật đã đạt tới qua chúng, chúng có hấp dẫn. Những người truyền thống cảm thấy: "Nếu Phật đã đạt tới qua những phương pháp này, tại sao mình không thể đạt tới được?" Nhưng chúng ta ở trong tình huống khác hoàn toàn bây giờ. Toàn thể bầu không khí, toàn thể trí quyển, đã thay đổi. Mọi phương pháp đều là gắn bó hữu cơ với một tình huống đặc biệt, với một tâm trí đặc biệt, với một người đặc biệt.

Cực đoan đối lập là cực đoan của Krishnamurti. Ông ấy phủ nhận mọi phương pháp. Nhưng làm điều đó, ông ấy phải phủ nhận Phật. Nó là mặt kia của cùng một đồng tiền. Nếu bạn phủ nhận phương pháp thế thì bạn phải phủ nhận Phật, và nếu bạn không phủ nhận Phật thế thì bạn không thể phủ nhận phương pháp của ông ấy.

Đây là những cực đoan. Cực đoan bao giờ cũng sai. Bạn không thể phủ nhận tính giả thông qua lấy vị trí cực đoan kia với nó, vì cực đoan đối lập sẽ vẫn là tính giả. Chân lí bao giờ cũng nằm đích xác ở giữa. Cho nên với tôi, sự kiện rằng các phương pháp cũ không có tác dụng ngụ ý rằng không phương pháp nào là hữu dụng. Nó chỉ có nghĩa rằng bản thân các phương pháp phải thay đổi.

Ngay cả vô phương pháp cũng là phương pháp. Có thể rằng với ai đó duy nhất vô phương pháp sẽ là phương pháp. Phương pháp bao giờ cũng là đúng khi liên quan tới một người đặc biệt; nó không bao giờ là chung chung. Khi chân lí được nói chung chung, chúng trở thành sai. Cho nên bất kì khi nào bất kì cái gì được dùng hay bất kì cái gì được nói, nó bao giờ cũng được nói cho một người đặc biệt: cho sự chú ý của người đó, cho tâm trí của người đó, cho người đó và không cho người khác.

Điều này nữa đã trở thành khó khăn bây giờ. Vào thời xưa bao giờ cũng có mối quan hệ một-một giữa thầy giáo và đệ tử. Nó đã là quan hệ cá nhân và trao đổi cá nhân.

Ngày nay nó bao giờ cũng mang tính vô nhân. Người ta phải nói cho đám đông, cho nên người ta phải nói chung chung. Nhưng chân lí được nói chung chung trở thành giả. Cái gì đó có nghĩa chỉ đối với cá nhân đặc biệt.

Tôi đối diện với khó khăn này hàng ngày. Nếu bạn tới tôi và hỏi tôi cái gì đó, tôi trả lời bạn và không trả lời cho người nào khác. Lần khác ai đó khác hỏi tôi cái gì đó, và tôi trả lời người đó chứ không ai khác. Hai câu trả lời này thậm chí có thể mâu thuẫn, vì hai người đã hỏi có thể là mâu thuẫn nhau. Cho nên nếu tôi định giúp bạn, tôi phải nói riêng cho bạn. Và nếu tôi nói riêng cho từng cá nhân, tôi sẽ phải nói nhiều điều xung đột.

Bất kì người nào đã từng nói chung chung có thể là nhất quán, nhưng thế thì chân lí trở thành giả, vì mọi phát biểu là thực thì nhất định được nói cho một người đặc biệt. Tất nhiên, chân lí là vĩnh hằng - nó không bao giờ mới, không bao giờ cũ - nhưng chân lí là việc nhận ra, là mục đích. Phương tiện bao giờ cũng có liên quan hay không liên quan tới người đặc biệt, tới tâm trí đặc biệt, tới thái độ đặc biệt.

Như tôi thấy tình huống này, con người hiện đại đã thay đổi nhiều tới mức người đó cần phương pháp mới, kĩ thuật mới. Các phương pháp hỗn độn sẽ giúp tâm trí hiện đại vì tâm trí hiện đại, bản thân nó, là hỗn độn. Hỗn độn này, tính nổi dậy này trong con người hiện đại, thực ra, là việc nổi dậy của các thứ khác: của thân thể chống lại tâm trí và chống lại các kìm nén của nó. Nếu chúng ta nói về nó theo thuật ngữ yoga chúng ta có thể nói rằng nó là việc nổi dậy của trung tâm tim và trung tâm rốn chống lại não.

Những trung tâm này chống lại não vì não đã chiếm độc quyền toàn thể lãnh thổ của hồn con người. Điều này không thể được dung thứ thêm nữa. Đó là lí do tại sao các đại học đã trở thành các trung tâm nổi dậy. Điều đó không là ngẫu nhiên. Nếu toàn thể xã hội được coi như thân thể hữu cơ, thế thì đại học là cái đầu, bộ não.

Vì tính nổi dậy của tâm trí hiện đại, nó nhất định khoan dung với các phương pháp chùng lỏng và hỗn độn. Thiền Động sẽ giúp để chuyển trung tâm của ý thức xa khỏi não. Thế thì người dùng nó sẽ không bao giờ có tính nổi dậy, vì nguyên nhân của nổi dậy trở nên được đáp ứng. Người đó sẽ thoải mái.

Cho nên với tôi, thiền không chỉ là cứu giúp cho cá nhân, biến đổi cho cá nhân; nó cũng có thể cung cấp cơ sở cho biến đổi của toàn xã hội, của con người như vậy. Con người sẽ không phải tự tử, hay con người sẽ phải biến đổi năng lượng của mình.

Xem Chương 5Quay về Mục Lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post