Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Thiết Lập Tịnh Độ
Kinh A Di Đà Thiền Giải
Chương 13. Gạn Đục Khơi Trong
Trong kinh A Di Đà, đức
Thế Tôn nói: ‘‘Xá Lợi Phất, trong khi tôi đang ca ngợi công đức không thể nghĩ
bàn của chư Bụt thì chư Bụt cũng xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của tôi’.’
Ở đây, ta thấy các đức
Như Lai luôn luôn yểm trợ nhau, liên đới yểm trợ nhau trên con đường hoằng hóa.
Công đức không thể nghĩ bàn tức là đối với những thực hiện của một bậc giác ngộ,
ta không thể dung tư tưởng mà hiểu thấu được, không thể dùng ngôn từ mà diễn tả
được. Không thể nghĩ bàn, tiếng Hán là ‘‘bất khả tư nghị’’. Tư có nghĩa là
nghĩ, nghị có nghĩa là bàn luận.
‘‘Bụt Thích Ca Mâu Ni
thật là hiếm có. Ngay trong cõi Ta bà đầy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp trược, phiền
não trược, chúng sanh trược, kiến trược và mạn trược mà ngài có thể chứng đắc
được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng sanh những
pháp môn mà bất kỳ ở đâu, mới nghe qua người ta cũng rất khó mà phát sinh niềm
tin.’’
Có những pháp môn khi
thuyết ra thì được người ta tin ngay nhưng cũng có những pháp môn khi thuyết ra
người ta thấy rất khó tin. Pháp môn Tịnh độ chủ trương có một cõi ở Tây phương
tên là ‘‘cõi Cực Lạc’’ và một vị Bụt tên A Di Đà đang thuyết pháp và trong cõi
đó có vô lượng vô số người đang sinh hoạt với nhau một cách rất là hạnh phúc,
là một pháp môn khó tin. Nhưng giáo lý Tịnh độ không phải là giáo lý khó tin
duy nhất. Nhiều giáo lý khác của đức Thích Ca, kể cả những giáo lý căn bản,
cũng rất khó tin. Ví dụ giáo lý vô ngã. Tất cả mọi người đang tin rằng họ có một
cái ngã. Vậy mà đức Thế Tôn nói rằng làm gì có cái ngã đó. Giáo lý vô ngã đi
ngược lại với nhận thức thông thường của cả một xã hội. Niềm tin của Ấn Độ giáo
lúc bấy giờ là thần ngã. Không những dân Ấn Độ giáo mới tin thần ngã mà mỗi chúng
sinh đều có ý niệm về ngã, khi sinh ra đã có sẵn ý niệm về ngã, cho nên ta mới
gọi đó là câu sanh ngã chấp, nghĩa là ý niệm về ngã ấy đã sinh ra cùng với thân
thể của ta. Đức Thích Ca Mâu Ni nói rằng không có một cái ngã đích thực. Vì vậy,
giáo lý vô ngã ngay từ đó là một giáo lý khó tin. Giáo lý về ‘‘không’’ cũng vậy.
Bông hoa này, cái bàn này và con người này đều được diễn bày là ‘‘không’’. Điều
đó cũng khó tin. Mỗi pháp đều có hình tướng mà đức Thế Tôn lại nói rằng thực tại
là vô tướng, điều đó cũng là điều khó tin. Giáo lý ‘‘vô tác’’ cũng vậy, cũng là
một giáo lý khó tin. Vô tác có nghĩa là ta khỏi phải đeo đuổi theo một dự án
nào hết, khỏi phải thực hiện gì hết, tất cả đều đã được thành tựu rồi.
Cho nên không phải chỉ
có giáo lý Tịnh độ mới khó tin mà cả những giáo lý căn bản do đức Thế Tôn thuyết
ra đều là khó tin cả. Nếu không chịu quán chiếu sâu sắc thì làm sao ta có được
niềm tin. Niềm tin có được là nhờ sự quán chiếu sâu sắc. Mới nghe qua mà tin liền
thì chuyện đó khó mà xẩy ra, nên ta mới gọi giáo lý này là giáo lý khó tin.
Chư Bụt trong mười
phương đã khen ngợi đức Thích Ca Mâu Ni trong hai điểm:
Điểm thứ nhất: Ở ngay
trong hoàn cảnh khó khăn này mà thành Phật được và giáo hóa được.
Điểm thứ hai: Những
giáo lý rất khó tin mà đức Thích Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết được và thuyết phục
được con người tin theo.
‘‘Xá Lợi Phất, thầy
nên hiểu cho rằng, cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới quả
vị giác ngộ vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất khó
tin như pháp môn này, đó là việc làm quả là cực kỳ khó khăn.’’
Chúng ta thấy được đức
Thích Ca Mâu Ni là một con người, một mình một ngựa đi trong chiến trận đầy dẫy
bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nghi ngờ. Ngài đã một mình đánh phá và tiêu diệt
được bao nhiêu chướng ngại của mê tín, của huyền đàm để đưa ra những chân lý mà
lúc ban đầu thuyết ra, người ta thấy khó mà có thể tin được. Vậy mà đức Thế Tôn
đã thành công.
Đoạn kinh trên cũng
nói tới năm loại ô nhiễm và năm loại ô nhiễm đó được gọi là năm loại ô trược.
‘‘Trược’’ tiếng Bắc gọi là ‘‘trọc’’ có nghĩa vẩn đục, không trong sáng. Năm yếu
tố ấy làm khổ. Năm yếu tố vẩn đục ấy là:
Kiếp trược: Kiếp có
nghĩa là một khoảng thời gian, khoảng thời gian ấy có thể là năm mươi năm, bảy
mươi năm hay một trăm năm... Khi ngắn thì gọi là tiểu kiếp, khi vừa vừa gọi là
trung kiếp và khi dài gọi là đại kiếp.
Sở dĩ thời gian đó gọi
là vẩn đục tại vì nó quá ngắn ngủi, nó đầy dẫy vô thường, nó không có sự ổn định
và vững chãi. Vì vậy chúng ta khó mà có được hạnh phúc. Thời gian quá ngắn ngủi,
sống trong cuộc đời, chúng ta không đủ không gian và thời gian để thực hiện những
ước muốn thâm sâu của mình. Chúng ta có thể có ảo tưởng rằng chúng ta có rất
nhiều thời gian và không gian để thực hiện những ước muốn của chúng ta, nhưng
thực sự thì cuộc sống rất vô thường, rất bấp bênh, không có sự ổn định, tai nạn
hay xẩy ra tới tấp và chận đứng đà tiến triển của chúng ta. Chúng làm cho quá
trình thực hiện lý tưởng của ta bị chận đứng lại nên gọi là kiếp trược. Tình trạng
chính trị không có sự ổn định, xã hội nhiều tai nạn, tật bệnh và nghèo đói, khó
cho xã hội tiến triển, đó gọi là kiếp trược.
Ngược lại với kiếp
trược là sự ổn định mà chúng ta đạt được do thiền quán. Sống trong thế giới vẩn
đục mà đức Thích Ca đã thành công. Ở thế giới Cực Lạc, người ta vượt khỏi kiếp
trược và thiết lập được ổn định trong đời sống hàng ngày. Ở đó không có tai nạn
xẩy ra. Vì vậy đặc tính đầu tiên mà mọi người trong cõi Cực Lạc phải thực hiện,
đó là sự ‘‘ổn định’’. Sự ổn định giúp cho người tu tập thành công viên mãn đối
với công trình giải thoát và giác ngộ.
Nhìn vào một Tăng
thân có tu học, ta thấy rằng trong Tăng thân có nhiều yếu tố ổn định. Có người
chỉ mới thọ trì năm giới, giới Tiếp Hiện tại gia hay giới Bồ tát tại gia. Họ sẽ
trở về với gia đình họ, với khung cảnh hàng ngày của họ để sống và để thực tập.
Họ biết rằng hoàn cảnh địa phương không được ổn định như ở trong Tăng thân.
Trong hoàn cảnh đó, họ
thực tập không được đều đặn và việc thực tập thường bị cắt đứt bởi những biến cố
của xã hội. Cái đó gọi là kiếp trược. Nhưng khi ta có điều kiện ở lại với Tăng
thân một năm, hai năm, ba năm hay mười năm, ta thấy rằng Tăng thân có yếu tố ổn
định nhiều hơn trong thế giới bình thường ở ngoài đời. Vì vậy tăng than rất gần
với cõi Cực Lạc.
Tăng thân có yếu tố ổn
định. Tăng thân hiến tặng cho chúng ta thời gian và sự tiếp nối để chúng ta thực
tập. Vì vậy quay về nương tựa Tăng là để hưởng được yếu tố đầu tiên của Tịnh Độ,
đó là sự vững chãi, sự liên tục, sự ổn định của thời thế và của tình thế.
Một bên là đục, một
bên là trong, một bên là trược, một bên thanh. Đối với danh từ ngũ trược, ta có
danh từ ngũ thanh. Ở Tịnh Độ có ngũ thanh thì Ta bà có ngũ trược. Sống trong thế
gian, ta bị lôi kéo bởi năm thứ vẩn đục nhưng sống trong Tăng thân, ta có thể
thấy được năm sự trong sáng. Ở đây, sự trong sáng đầu tiên là sự ổn định.
Người nào đã từng rời
Tăng thân là đã tự mình đánh mất sự ổn định nơi tự thân mình. Là người xuất gia
hay người tại gia cũng vậy, khi chúng ta đã đánh mất Tăng thân, trở về với
khung cảnh hệ lụy của ta ngày trước, thì ta thấy rằng ta đã đánh mất một cái gì
rất quý báu trong tự thân, đó là sự ổn định.
Yếu tố vẩn đục thứ
hai là kiến trược. Kiến tức là những cái thấy sai lầm, nói đủ là tà kiến. Ví dụ
như sự vật là vô thường mà ta cho là thường còn. Người thương của ta có thể
ngày mai không còn nữa, thế mà ta nghĩ rằng, họ sẽ có mặt với ta suốt đời, hàng
ngàn năm. Thân này không phải là ngã của ta, mà ta cứ cho đó là cái ngã của ta.
Những cái thấy như vậy được gọi là tà kiến.
Tà kiến lại có năm loại
căn bản:
Thân kiến: Cho rằng
ta là thân này, ta đồng nhất ta với thân này. Nếu có cái nhìn như vậy, thì ta
đau khổ lắm. Nhất là khi sắp chết, ta rụng rời, lo sợ. Ta cứ nghĩ rằng khi thân
thể ta tan rã, thì mọi sự nghiệp sẽ cùng với thân thể ta tan rã luôn. Từ có ta
trở thành không, điều này làm cho ta sợ hãi. Sợ hãi hư vô. Thân kiến là cái thấy
dại dột như vậy đó. Chính vì thế ta phải giúp cho người đang hấp hối thấy rõ dược
rằng thân này không phải là họ.
‘‘Thân này không phải là
tôi
Tôi không bị kẹt vào thân ấy
Tôi là sự sống thênh thang
Tôi chưa bao giờ từng sanh
Mà cũng chưa bao giờ từng diệt.’’
Điều này, trong đời sống
hàng ngày, ta phải tập quán chiếu để thấy cho được, có như vậy thì trong phút
giây lâm chung, ta mới buông bỏ thân này một cách dễ dàng.
Biên kiến: Vướng vào
một bên, một thái cực. Bên này là một bên, và kia là một bên, đó là những cặp đối
nghịch với nhau, như có - không, thường - đoạn, một - nhiều, tới - lui. Tin vào
ý niệm ‘‘một’’ là một biên kiến, tin vào ý niệm ‘‘nhiều’’ là một biên kiến
khác. Kẹt vào bên này cũng là biên kiến, kẹt vào bên kia cũng là biên kiến. Tin
rằng có sanh cũng là biên kiến, tin rằng có diệt cũng là biên kiến. Kẹt vào những
cặp đối nghịch nhau là biên kiến.
Ví dụ trên một dòng
sông có một khúc củi đang trôi. Có thể khúc củi sẽ bị kẹt vào bờ này hay bờ bên
kia và không trôi ra được biển cả. Tin rằng ta là một cái gì thường hằng, niềm
tin ấy là một biên kiến. Tin rằng sau khi chết ta hoàn toàn đoạn diệt, đó cũng
là một biên kiến khác.
Tà kiến: Những cái thấy
đảo ngược. Ví dụ khổ đau mà ta cho là hạnh phúc, hệ lụy mà tin là tự do, trắng
mà ta nghĩ là đen, ác mà ta cho là thiện...
Ta phải quán chiếu sâu
sắc các hiện tượng vẩn đục ở cõi Ta bà để trong ta có thể sinh khởi hai chất liệu
- Yếm và Hân. Yếm là chán, Hân là thích. Chán là chán những gì vẩn đục ở nơi
cõi Ta bà và Thích là thích sự yên vui, thanh thoát ở cõi Tịnh Độ. Chán là chán
cái tâm trạng chạy theo danh lợi, tài sắc. Vì chúng đưa lại quá nhiều khổ đau, nên
bây giờ ta quyết định buông bỏ chúng.
‘‘Tôi không còn muốn
cái đó, tôi chán cái đó lắm rồi.’’ Đối với cái đó, lòng tôi lạnh như tro tàn.
Cái đó gọi là yếm. Trong khi đó, trong ta tự nhiên có một cái ước muốn mới: ước
muốn xa lìa cái cảnh hệ lụy chán chường này để đi tìm tới một khung cảnh có sự
an toàn, có sự thương yêu, có sự an lạc, để mà thực tập. Khung cảnh ấy là Tăng
thân. Ta sẽ đóng góp phần ta cho Tăng thân ấy. Khi tới đó, ta tới với bản nguyện,
nghĩa là ta biết ta tới đó để đóng góp phần của ta vào với Tịnh Độ và Tăng thân
chứ không phải tới chỉ để hưởng thụ. Cũng như Sư em Chân Uy Nghiêm ở tu viện Rừng
Phong. Trước khi xuất gia, Sư em có đọc sách, đọc kinh và Sư em đã đọc được lời
nguyện của đức Địa Tạng. Đức Địa Tạng nói: ‘‘Địa ngục mà chưa trống không, thì
tôi vẫn phải còn làm việc và chưa muốn thành Phật.’’ Khi đọc câu đó, Sư em đã
thấy rung động trong trái tim. Sư em nói rằng: ‘‘Con cảm động quá và con muốn
giúp Ngài một tay (I am so moved, and I want to give him a helping hand). Khi
nói lên như vậy, Sư em đã bắt đầu phát khởi năng lượng của bản nguyện ấy rồi.
Ta tới với Tịnh Độ không phải chỉ là để hưởng thụ mà còn để giúp Bụt A Di Đà một
tay nữa. Tới với Tăng thân cũng vậy, không phải ta chỉ được thừa hưởng sự an
toàn của Tăng thân mà còn để giúp Tăng thân một tay. Đến với bản nguyện là
trong ta đã có đức A Di Đà. Đức A Di Đà có ngay trong lòng ta. Và chừng nào ta
còn niềm tin, chừng nào ước nguyện ta còn mạnh thì chừng đó ta vẫn còn là ta và
ta sẽ không tự đánh mất ta trong những trạng huống hệ lụy và khổ đau nữa. Dù
mình đang đứng trong hoàn cảnh hệ lụy hoặc đau khổ, nhưng nếu có tín và nguyện
thì mình đã có diều kiện để thoát ra. Tại vì trong ta, năng lượng của tín, của
hạnh và của nguyện đã bắt đầu có mặt. Tịnh Độ không phải chỉ là Tịnh Độ của Đức
Bụt A Di Đà. Đức Thế Tôn nào cũng muốn thành lập Tịnh Độ. Bất cứ một vị Bồ tát
nào, dù lớn hay nhỏ, cũng đều muốn thành lập Tịnh Độ. Nếu ở Tây Phương có cõi Cực
Lạc (Sukhāvatī), thì ở cõi Đông Phương lại có cõi Diệu Hỷ (Abhirata)... Ở cõi
Diệu Hỷ ấy có đức Bụt A Súc Bệ (Bất Động). Đó là đức Thế Tôn của sự vững chãi (Aksobhya).
Cõi của Ngài là cõi Diệu Hỷ, trong đó có nhiều niềm vui.
Ở cõi Diệu Hỷ không
có ai bị giận hờn đốt cháy, nên cõi đó là một cõi rất mát mẻ. Các kinh đầu của
hệ Bát Nhã có đề cập đến danh hiệu của Đức Bụt A Súc Bệ. Kinh Pháp Hoa cũng như
kinh Bảo Tích đều có nói tên của Ngài. A Súc là một vị Đạo sư đang giảng dạy ở
phương Đông.
Ngài ngồi trên một
bông sen. Tay trái Ngài nâng chéo áo, tay phải Ngài sờ xuống chấm vào mặt đất
trong tư thế địa xúc. Có rất nhiều cõi Tịnh Độ, nhưng vì một nguyên do nào đó
mà chúng sanh ở cõi Ta bà thường hướng về Tịnh Độ của Bụt A Di Đà. Vì những điều
kiện để được sinh sang cõi Tịnh Độ của Bụt A Di Đà hết sức đơn giản. Còn muốn
sanh sang Tịnh Độ Diệu Hỷ của Bụt A Súc Bệ thì phải cố gắng nhiều hơn một chút.
Bản tánh của chúng ta ở cõi Ta Bà là làm biếng. Cho nên cõi Tịnh Độ của đức Bụt
A Di Đà được ta chọn lựa nhiều hơn và Ngài biết phần lớn chúng ta là những người
hay sợ hãi khó khăn.
Tịnh Độ cũng có thể có mặt trong hình thức một Tăng thân. Tăng thân có mặt khắp nơi, do đó nếu chú ý một tý là ta có thể tìm ra địa chỉ của một Tăng thân và khi ta tới được với Tăng thân ấy rồi thì tức khắc ta được hưởng khung cảnh an ninh và hoàn cảnh thuận lợi cho sự tu học của nó. Nếu muốn biết đó có phải là một Tịnh Độ đích thật hay không thì ta có thể căn cứ trên tiêu chuẩn thanh và trược. Ở đâu mà có quá nhiều chất liệu vẩn đục, thì ở đó chỉ có Ta Bà mà không có Tịnh Độ.
Và ở đâu chất liệu vẩn
đục rất ít mà chất liệu của sự trong sáng như là ổn định, trí tuệ, an lạc, tình
thương, bình đẳng và đại nguyện có nhiều thì ta biết đó là Tịnh Độ. Ta có thể
tham dự và cọng tác để xây dựng thêm cho Tịnh Độ ấy. Tín và Nguyện là hai nguồn
năng lượng có khả năng làm cho ta bớt khổ ngay trong giờ phút hiện tại. Trong
trạng thái chán chường và tuyệt vọng của cõi Ta Bà, ta đau khổ rất nhiều.
Nhưng đứng trong cõi
Ta Bà mà có năng lượng của Tín và Nguyện, thì ta cảm thấy nhẹ nhàng ra và sẽ hết
khổ. Tín và Nguyện là năng lượng đưa ta tới Tịnh Độ, đưa ta tới với Tăng thân
mà ta cần nương tựa. Thứ ba là năng lượng Hành. Hành hay là Hạnh. Hành là thực tập,
là cái biểu hiện cụ thể. Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta chỉ hành trước khi
đi về Tịnh Độ và về Tịnh Độ rồi thì khỏi cần hành.
Nghĩ như vậy là ngược
lại với lời kinh dạy. Chúng ta đã đọc kinh A Di Đà và thấy rất rõ rằng ở tại
cõi Tịnh Độ, ngày nào dân chúng cũng thực tập niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và
thực tập Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo phần. Các chi tiết
này cho ta thấy rằng tới Tịnh Độ rồi ta cũng phải thực tập, nếu không thực tập
thì mất Tịnh Độ. Vì vậy mỗi bước chân phải đi trong chánh niệm, mỗi hơi thở phải
thở trong chánh niệm, mỗi buổi ăn phải ăn trong chánh niệm thì Tịnh Độ mới tiếp
tục hiện tiền. Cũng như trong khi hành xử, nếu ta đánh mất chánh niệm là ta
đánh mất Tịnh Độ. Xây dựng Tịnh Độ không phải là tổ chức cho giỏi, mà chủ yếu
là sống cho có chánh niệm.
Tịnh Độ là vấn đề
hành trì. Hành thì ‘‘bất lao đàn chỉ đáo Tây phương’’, nghĩa là không cần một
tích tắc nào cũng vẫn tới Tây phương được. Nếu thiết lập được thân tâm trong
giây phút hiện tại, an trú được trong chánh niệm, thì mình có được Tăng thân,
có được Tịnh Độ ngay tại chỗ. Và cách sống hằng ngày của mình là tự đặt mình
trong Tịnh Độ và duy trì Tịnh Độ, đừng để cho Tịnh Độ biến mất. Chữ hành ở đây
có nghĩa như vậy. Hành là action, là practice.
Hành làm cho Tịnh Độ
được biểu hiện và được duy trì. Năng lượng của tín và của nguyện đủ để giúp cho
ta không chìm đắm vào biển khổ sông mê. Năng lượng của hành có khả năng duy trì
cõi Tịnh Độ. Nó có khả năng gìn giữ mình trong cõi Tịnh Độ để cho mình đừng đánh
mất Tịnh Độ. Hành ở đây có thể là sự niệm Bụt thường xuyên. Mà niệm Bụt là gì?
Niệm Bụt là duy trì sự tỉnh thức. Bụt là tỉnh thức, là chánh niệm, và vì vậy niệm
Bụt là duy trì tỉnh thức và chánh niệm. Thực tập chánh niệm cũng là niệm Bụt.
Niệm Bụt cũng là thực tập chánh niệm. Thực tập chánh niệm có công năng làm hiển
lộ Tịnh Độ và xây dựng Tăng thân trong mỗi bước chân của mình. Nó có công năng
duy trì Tịnh Độ cho chính mình. Tịnh Độ không phải là chỉ có mặt cho bây giờ mà
Tịnh Độ còn có mặt cho tương lai nữa. Nếu giờ phút này là Tịnh Độ, thì giờ phút
kế cũng sẽ là Tịnh Độ. Thành ra mỗi bước chân, mỗi hơi thở và mỗi cử chỉ trong
đời sống hằng ngày của ta đều có khả năng phát hiện và duy trì Tịnh Độ.
Cái vô thường mà cho
là cái thường, cái thường mà cho là cái vô thường, khổ mà cho là lạc, lạc mà
cho là khổ, cái không phải ngã mà cho là ngã, cái ngã mà cho là không ngã, cái
an tịnh mà cho là không an tịnh, cái không phải an tịnh mà cho là an tịnh,
v.v... Những cái thấy ngược như vậy gọi là tà kiến.
Thứ tư là Kiến thủ kiến:
kẹt vào một ý tưởng, một quan điểm. Chữ ‘‘thủ’’ ở đây có nghĩa là bám víu, là kẹt
vào. Chữ ‘‘kiến’’ ở đây là kiến thức, ý niệm, nhận thức. Khi ta có một nhận thức
rồi thì ta có khuynh hướng cho nhận thức đó là chân lý tuyệt đối. Kẹt vào cái
đó và không buông nó ra được nữa thì gọi là kiến thủ kiến. Ví dụ anh học được cách
làm đậu hủ và anh nghĩ rằng cách làm đậu hủ của anh là duy nhất hoặc hay nhất trên
thế giới. Anh không thấy có nhiều người làm đậu hủ hay hơn và đậu hủ của họ
ngon hơn. Đó là kiến thủ. Hay là mình được nghe một ý thức hệ hoặc một giáo điều
nào đó rồi mình cho đó là chân lý tuyệt đối và mình nói người nào không theo
cái ấy là người đó đi lầm đường, người đó không có trí tuệ. Bị kẹt vào trong ý
thức hệ đó, mình cho tất cả nhận thức khác, các lý thuyết khác là sai lầm và
mình trở thành cuồng tín. Cái đó gọi là kiến thủ kiến. Kiến thủ là bị kẹt vào
trong một kiến thức, kẹt vào trong một nhận thức. Mình học được một pháp tu,
mình nói phương pháp tu của mình là nhất, không có phương pháp nào hay hơn và
mình không chịu mở lòng ra để học hỏi thêm. Đó là kiến thủ kiến. Hoặc mình nghĩ
rằng mình sẽ có hạnh phúc lớn nếu mình nắm được cái này, nắm được cái kia, có
cái bằng cấp này, có cái chức vụ kia, làm chủ được cái chùa này hay làm hội trưởng
được cái hội kia. Và khi không đạt được những cái đó thì mình đau khổ suốt đời.
Cái đó cũng là kiến, và kẹt vào ý niệm đó là mình sẽ không bao giờ có hạnh phúc.
Nếu buông bỏ được những cái kiến đó thì mình sẽ được tự do, mình sẽ có những
cái thấy sâu sắc hơn. Có nhiều người đau khổ từ năm này sang năm khác là vì họ đang
bị kẹt vào những ý niệm và những cái thấy của họ. Ví dụ mình tin chắc rằng có một
người đang ghét mình, muốn trả thù mình, muốn tiêu diệt mình. Có ý niệm ấy thì
họ khổ suốt đời. Trong kinh Bách Dụ, đức Thích Ca có kể một câu chuyện rất hay
về kiến thủ kiến.
Có một nhà buôn trong
khi đi vắng, ăn cướp vào đốt làng và bắt cóc đứa con bốn tuổi của ông đi. Khi
trở về, ông thấy nhà mình cháy tan và bên trong nhà lại có tử thi của một em bé
cháy đen. Trong tâm trạng hoảng hốt đó, ông tin rằng em bé cháy thành than đó
là con của mình. Ông ta đau khổ vô cùng. Ông ta làm lễ hỏa thiêu thân xác em bé.
Thương con quá, ông ta giữ tro trong một cái túi bằng gấm và mang theo bên
mình. Suốt ngày, ăn cơm, làm việc, đi ngủ, ông đều ôm theo cái túi tro của đứa
con. Một hôm, đứa con thoát khỏi tay bọn ăn cướp và tìm được về làng. Về tới
nhà mới của ông ta, nó gõ cửa vào lúc hai giờ khuya. Lúc đó ông ta còn đang ôm
cái túi tro, tin tưởng rằng đứa con mình đã chết và nước mắt đang chảy ròng
ròng.
Nghe tiếng gõ cửa,
ông hỏi: Ai đấy? Đứa bé nói: Con đây, con là con của ba đây. Ông ta nổi giận la
lên: Con của tao đã chết rồi. Mày là đứa nào mà quá nửa đêm còn tới đây để phá
phách chòng ghẹo? Và cuối cùng đứa bé phải bỏ đi. Đây là một câu chuyện rất
hay. Đức Thế Tôn muốn dạy rằng có nhiều khi ta ôm ấp một tri kiến sai lầm mà
tin tưởng đó là chân lý, cho đến nỗi khi tự thân chân lý tới gõ cửa mà ta cũng
không chịu mở. Thường thường người ta đi tìm chân lý. Ở đây, đích thân chân lý
tới gõ cửa mà mình vẫn không mở. Cái đó gọi là kiến thủ kiến.
Thứ năm là Giới cấm
thủ kiến. Giới đây là những kiêng cử, những cấm kỵ, những hình thức nghi lễ, những
giáo điều hoặc những tín điều mà mình bị kẹt vào. Ví dụ mình tin rằng con bò là
vật linh thiêng và mình không dám động tới nó. Hoặc tin rằng ông táo hay bình
vôi là những vật thiêng liêng. Hoặc mình tin rằng tổ tiên mình là cây cau, mình
không dám động tới cây cau. Xứ nào, dân tộc nào cũng có những niềm tin phát
sinh do sự tưởng tượng hay do sự sợ hãi của con người xứ đó. Nghi lễ được đặt
ra là để nhắm tới bảo vệ và làm cho mình an tâm. Nhưng rút cuộc mình bị kẹt vào
trong nghi lễ. Giới cấm thủ kiến là sự bị kẹt vào các hình thức nghi lễ, giáo
điều và tín điều không phù hợp và không có lợi ích gì cho việc thực tập chuyển
hóa.
Phiền não trược là những
thứ làm cho tâm ta bị vẩn đục như tham lam, sân hận, si mê, hiếu danh, kiêu mạn...
Ở cõi Cực Lạc, không có những thứ phiền não ấy, hoặc có rất ít. Trong Tăng thân
cũng vậy, nhờ có sự tu tập nên những thứ phiền não làm vẩn đục tâm mình ít phát
hiện hơn ở ngoài thế gian.
Chúng sanh trược tức
là những lỗi lầm tội ác của chúng sinh như bất hiếu, không chịu giữ giới, ganh
tỵ lẫn nhau, không hành xử bình đẳng, phân chia thành từng giai cấp để bóc lột
lẫn nhau, cấu xé lẫn nhau. Trong xã hội, người ta chia ra nhau thành nhiều giai
cấp, giai cấp này bóc lột giai cấp khác, giai cấp này đè nén giai cấp khác. Họ sống
không có lý tưởng, họ làm khổ nhau. Ở cõi Tịnh Độ không có chúng sanh trược, vì
ở Tịnh Độ có Bụt, và ta được sống chung với các bậc thượng thiện nhân và các vị
bồ tát nhất sinh bổ xứ. Các chất vẩn đục và nhơ bẩn không còn lại bao nhiêu, do
đó không còn chúng sanh trược. Nhìn vào Tăng thân, ta thấy rằng chất vẩn đục
trong Tăng thân tương đối ít hơn ở những tổ chức ngoài đời nhiều và sự tu học hằng
ngày của chúng ta là để cho sự vẩn đục này tiếp tục giảm bớt. Hạnh phúc của
chúng ta là ở chỗ đó. Nhờ sự thực tập mà các chất vẩn đục của chúng sanh trược
nơi ta mỗi ngày mỗi được chuyển hóa và tiêu diệt.
Cuối cùng là mạng trược.
Mạng trược ở đây tức là sự đi vòng quanh, là sự chìm đắm ở trong sanh tử luân hồi.
Ở cõi Ta bà, người ta ít có một hướng đi cao thượng. Người ta chỉ đi vòng quanh
để tìm kiếm danh lợi. Người ta sống không có mục đích nào khác, ngoài năm dục.
Người ta sanh ra rồi
chết đi, chết đi rồi sanh ra trở lại là chỉ để đi vòng quanh và theo đuổi danh
lợi mà thôi. Chính điều đó là sự vẩn đục ở cõi Ta Bà. Còn ở Tịnh Độ thì mọi người
đều có một hướng đi và đều hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếp
sống của con người nơi cõi Tịnh Độ có một mục đích và một lý tưởng. Lý tưởng đó
được chia sẻ với các vị bồ tát nhất sanh bổ xứ, với các bậc thượng thiện nhân
chung sống với mình. Vì vậy, cõi Tịnh Độ là một cõi trong sáng. Ở trong Tăng
thân cũng vậy, mình không đi vòng quanh, mình biết rằng mình gia nhập tăng thân
là để chấm dứt sự đi vòng quanh.
Mình tham dự vào một
con đường hướng thượng và nhắm tới sự giải thoát và giác ngộ, cứu giúp cho những
loài chúng sanh đang chìm đắm. Vì thế, trong một Tăng thân thanh tịnh, không có
những chất liệu đục ngầu, gọi là cái đi tìm danh lợi theo mạng trược. Vậy muốn sanh
về cõi Tịnh Độ, chúng ta cần phải gạn lọc, cần phải làm cho những chất liệu đục
ngầu kia lắng lại và làm cho những chất liệu trong sáng phát hiện. Chúng ta biết
rằng cái đục có thể hàm chứa đựng cái thanh trong lòng nó, và nếu chúng ta biết
cách thì chúng ta có thể biến đục thành trong, gạn đục khơi trong. Có một ly nước
đục trên sa mạc khô cháy mà liệng ly nước đục đó đi thì làm sao có ly nước
trong để uống. Vì vậy, ta phải giữ ly nước đục đó và từ ly nước đục đó làm cho
nó trong lại. Cũng như thế, ngũ thanh nằm trong ngũ trược và Tịnh Độ nằm ngay
trong Ta Bà. Ta Bà là Tịnh Độ. Như hoa nằm trong rác, nếu chúng ta biết cách quản
lý rác thì ta có thể chế tác ra được hoa, điều này rất rõ. Đức Thích Ca là một
bậc có khả năng chuyển rác thành hoa, vì vậy cho nên ở trong cuộc đời ngũ trược
mà ngài đã tạo dựng được Phật Độ.
Nếu ta gọi yếu tố kiếp
trược là thuộc tính của cõi Ta bà, thì ở cõi Tịnh Độ thuộc tính kiếp trược này
đã được chuyển hóa thành yếu tố ổn định hay thanh tịnh, gọi là ‘‘chúng biển lớn
thanh tịnh’’ (thanh tịnh đại hải chúng). Yếu tố kiến trược là sự vẩn đục của nhận
thức, là một thuộc tính của cõi Ta bà. Ở cõi Tịnh Độ thuộc tính kiến trược này
đã được chuyển hóa thành yếu tố Chánh kiến hay Trí tuệ. Nó đã được chuyển hóa
thành biển hội liên trì (liên trì hải hội). Nghĩa là chúng hội của những hồ sen
trên biển cả bình lặng, xanh tươi và trong mát. Cái vẩn đục kia đã được chuyển
hóa thành chất liệu ‘‘vô lượng quang’’, nghĩa là ánh sáng vô lượng. Yếu tố phiền
não trược, tức là tâm hồn dơ bẩn, là một thuộc tính của cõi Ta Bà. Ở cõi Tịnh Độ,
thuộc tính phiền não trược này đã được chuyển hóa thành tâm bồ đề tức là tâm
tính giác ngộ. Tâm tính giác ngộ là tâm tính hạnh phúc, an lạc, không còn hờn
giận, tham lam, ganh tỵ, ích kỷ, tuyệt vọng. Yếu tố chúng sanh trược tức là sự
vẩn đục trong đời sống của chúng sanh, là một thuộc tính khác của cõi Ta bà, đã
được chuyển hóa ở đây thành ‘‘tự tánh thanh tịnh bình đẳng’’, do đó ở cõi Tịnh
Độ không còn có sự kỳ thị giữa loài này với loài khác, không còn sự kỳ thị giữa
người này với người khác, không còn sự phân biệt về giới tính mà chỉ có Từ bi.
Yếu tố mạng trược, tức là sự vẩn đục về thọ mạng, nghĩa là sinh mạng đi vòng
quanh trong sinh tử, là một thuộc tính của cõi Ta bà. Nay ở cõi Tịnh Độ thuộc
tính mạng trược này đã được chuyển hóa thành ‘‘thọ mạng vô lượng’’, nghĩa là thọ
mạng vượt ra ngoài không gian, trạm nhiên, tự tại và giải thoát. Nó được biểu
hiện từ đại nguyện chứ không phải do nghiệp duyên. Do đó, sanh về Tịnh Độ là do
ta có lý tưởng của bản nguyện. Không những trong kiếp này mà trong vô lượng kiếp
về sau, ta vẫn được tiếp tục đi trên con đường của lý tưởng bản nguyện ấy để tu
tập và hành đạo.
Cái khác của Ta Bà và
Tịnh Độ là một bên có năm sự vẩn đục và một bên có năm sự thanh trong.
Xem Tiếp Chương 14 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá