Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 76. Hoa Trái Của Ngày Hôm Nay
Mùa an cư chấm dứt,
các vị khất sĩ và nữ khất sĩ còn chưa kịp lên đường hành hóa thì nghe chiến
tranh bùng nổ giữa hai vương quốc Kosala và Magadha. Đại binh của nước Magadha
đã vượt sông Hằng đi vào xứ Kasi, thuộc lãnh thổ Kosala. Quốc vương Ajatasattu Videhyputta
tự tay thống lãnh binh tướng qua chinh phạt nước Kosala. Tướng lãnh thống suốt
cả voi, ngựa, xe và pháo, đang hướng về phía thành Baranasi, thủ phủ xứ Kasi.
Bên phía vương quốc
Kosala sau khi được thám tử thông báo, cũng đã chuẩn bị quân đội gồm đủ voi, ngựa,
xe và pháp nhắm xứ Kasi tiến tới. Việc binh quá cấp thúc, vua không kịp đến
thông báo và từ giã Bụt, vua nhờ thái tử Jeta tới trình mọi sự với Bụt thay
vua.
Bụt đã từng được
thông báo rằng sau khi nghe tin Ajatasattu mưu sát cha để lên ngôi, quốc vương
Pasenadi đã tỏ ý phản kháng bằng cách lấy lại lãnh thổ của thục ấp vùng
Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng đã tặng cho vua Bimbisara như vật hồi môn của
công chúa Kosaladevi, khi công chúa về nhà chồng. Thục ấp này từ gần bảy mươi
năm nay đã đem lại cho vương quốc Magadha mỗi năm một số tiền thuế trị giá một
trăm ngàn đồng vàng. Vua Ajatasattu không chịu
đựng được hành động phản kháng này cho nên đã cất binh sang đánh.
Đại đức Sariputta
thông báo cho các vị nam nữ khất sĩ ở đâu thì nên hành đạo ngay tại đó, đừng di
chuyển nhiều trong thời buổi chiến tranh. Đại đức cũng xin Bụt ở lại Savatthi
cho đến khi tình hình yên tĩnh.
Hai tháng sau dân
chúng kinh hoàng nghe tin binh tướng Kosala đã thất trận tại Kasi. Vua Pasenadi
và các tướng phải rút tàn binh chạy về kinh đô. Tình hình rất khẩn trương. May
thay, hệ thống phòng thủ tại Savatthi rất là kiên cố. Binh tướng của vua Ajatasattu
đã đuổi theo và công kích ngày đêm mà cũng không hạ được nổi thành.
Sau đó, nhờ kế hoạch
của tướng Bandhula, vua Pasenadi phối hợp được quân trong thành và quân từ các
địa phương kéo tới để mở một cuộc tổng phản công. Lần này vua thắng lớn, vua Ajatasattu
cùng các vị tướng soái dưới quyền đều bị bắt sống. Quân Kosala bắt được trên một
vạn tù binh. Số binh lính còn lại, hoặc chết hoặc bỏ chạy tán loạn, có đến trên
một vạn. Ngoài ra, quân đội Kosala lại chiếm được rất nhiều voi, ngựa, xe và
pháo của bên địch.
Chiến tranh đã kéo
dài hơn sáu tháng, dân chúng Savatthi được lệnh tổ chức và ăn mừng thắng trận. Sau
khi thu xếp công việc triều đình và binh đội, vua Pasenadi đến thăm Bụt tại tu viện Trúc Lâm.
Vua kể cho Bụt nghe
những gian nan của cuộc chiến. Vua nói rằng quốc vương Ajatasattu đã tỏ ý gây hấn;
vua chỉ chiến đấu tự vệ thôi chứ không hề chịu trách nhiệm về việc châm lửa chiến
tranh. Vua trình với Bụt là có lẽ quốc vương Ajatasattu đã nghe lời những vị mưu
thần nhiều quá.
- Bạch Thế Tôn, quốc vương
Magadha dù sao cũng là cháu của trẫm, trẫm không nỡ giết, cũng không nỡ bỏ nó
vào chốn lao tù, xin Bụt chỉ dạy cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại vương, xung
quanh đại vương có biết bao nhiêu người thần tử và bạn hữu trung thành. Đại
vương thắng trận nầy không có gì là lạ, nhưng xung quanh quốc vương Ajatasattu
có nhiều phần tử xấu, và vì vậy vua ấy đã đi lầm đường lạc nẻo. Như Lai xin đề
nghị là đại vương nên lấy lý lẽ để tiếp đãi quốc vương Magadha cho đúng cung
cách của một ông vua đối xử với một ông vua, nhưng đại vương cũng phải có thì
giờ để dạy quốc vương Magadha như dạy một người cháu ruột. Đại vương hãy nhấn mạnh
đến sự cần thiết của những người bạn hữu tốt và những kẻ thần tử trung kiên, và
cuối cùng đại vương có thể đặt tiệc và đưa vua xứ Magadha về nước, nền an binh
của trăm họ tùy thuộc nơi sự khéo léo của đại vương.
Rồi Bụt cho gọi một vị
khất sĩ trẻ tên là Silavat lên và giới thiệu vị này với vua Pasenadi. Khất sĩ
Silavat vốn là một vị thái tử, con vua Bimbisara, em cùng cha nhưng khác mẹ với
vua Ajatasattu. Silavat là một người con trai khá thông tuệ; từ mười sáu tuổi,
chàng đã được theo học với đại đức Moggallana và đã là một người đệ tử tại gia
xuất sắc của đại đức.
Sau cuộc chính biến xảy
ra tại thủ đô Rajagaha, chàng đã xin đại đức cho chàng xuất gia. Sau lễ xuất
gia, khất sĩ Silavat đã được gởi về tu viện Jetavana ở thủ đô Savatthi để tu học.
Đại đức Moggallana nghĩ rằng dù Silavat không có ý tranh dành quyền hành với
vua Ajatasattu, nhưng gởi vị khất sĩ này qua tu học ở nước Kosala vẫn là có an
ninh hơn.
Vua Pasenadi hỏi thăm
đại đức Silavat về tình trạng hoàng gia bên Rajagaha và thầy đã cung kính nói hết
cho vua nghe tất cả những gì thầy tai nghe mắt thấy.
Đại đức cho vua biết
là năm ngoái đã có một người từ thủ đô xứ Magadha tới với sứ mạng ám sát đại đức,
nhưng đại đức đã cải hóa được người ấy và độ cho người ấy được xuất gia. Hiện vị
khất sĩ kia đang được tu học ở một trung tâm không xa thành phố.
Quốc vương Pasenadi
cung kính lạy tạ Bụt và trở về cung điện. Vua Ajatasattu sau đó được trả tự do
và đưa về nước. Lấy tình thương để xóa bỏ hận thù, vua Pasenadi lại đem công
chúa Vajira mà gã cho vua Ajatasattu nữa. Quốc vương Ajatasattu đã là cháu nay
lại trở nên con rể của vua. Vua còn hứa sẽ trả lại thục ấp ở Baranasi mà ngày
xưa thượng hoàng Maha Kosala đã tặng cho xứ Magadha. Quốc vướng sứ Kosala đã
nghe lời Bụt một cách đúng mức. Chiến tranh đã kết thúc, các vị khất sĩ và nữ
khất sĩ lại được phép lên đường hoằng hóa.
Vua Pasenadi truyền
xây dựng một tu viện mới cho giáo đoàn khất sĩ tại ven thủ đô. Tu viện này lấy
tên là Rajakarama.
Bụt ở lại vương quốc
Kosala liên tiếp trong hai năm, an cư mùa mưa tại tu viện Jetava và đi giáo hoá
ở nội địa trong những thời gian còn lại. Thỉnh thoảng có tin tức từ vương quốc
Magadha do các vị khất sĩ du hành đem về cho Bụt. Các vị ấy kể sau khi Bụt rời
vương quốc, đại đức Devadatta không còn được vua Ajatasattu kính nể nữa.
Trong số hơn một trăm
vị khất sĩ còn ở lại với đại đức, tám mươi vị đã bỏ đại đức để trở về với giáo
đoàn của Bụt và đều được đón nhận trở lại tại tu viện Trúc Lâm. Đại đức càng
ngày càng bị cô lập. Gần đây đại đức bị ốm nằm liệt trên núi Gayasisa, không đi
đâu được cả.
Từ ngày chấm dứt chiến
tranh giữa hai nước Kosala và Magadha, vua Ajatasattu cũng không còn gặp gỡ đại
đức Devadatta. Vua cũng không có liên lạc nào giáo đoàn khất sĩ của Bụt. Vua chỉ
thân cận với các vị lãnh đạo của những giáo phái khác.
Tuy vậy giáo đoàn khất
sĩ vẫn được tiếp tục hành đạo một cách yên ổn. Dân chúng cũng như các vị khất
sĩ rất mong ước được Bụt trở về. Núi Linh Thứu và tu viện Trúc Lâm vẫn còn chờ
đợi Bụt. Y sĩ Jivaka cũng rất tha thiết mong Bụt trở về.
Mùa lạnh năm ấy hoàng
hậu Malika băng. Vua Pasenadi buồn quá, tìm tới Bụt để được an ủi. Hoàng hậu là
một người bạn đời rất xứng đáng của vua và đã được vua thương yêu hết lòng.
Hoàng hậu là một người theo Bụt thuần kính, thông minh, sáng suốt, thông hiểu
giáo pháp một cách sâu xa. Ngay trước khi vua được gặp Bụt và tin Bụt, bà đã
khuyên vua hành động cho phù hợp chánh pháp. Có lần vì nằm mộng thấy những điều
quái gỡ, vua Pasenadi nghĩ rằng sẽ có những việc rủi ro xảy đến cho mình. Tin
vào các vị Bà la môn và đạo sĩ ngoại đạo, vua đã cho chuẩn bị tổ chức tế đàn,
sát hại trâu bò để cầu than linh phù hộ. Chính hoàng hậu đã can gián vua, thuyết
phục vua hủy bỏ dự án thiết lập tế đàn. Hoàng hậu còn tham dự và bàn bạc về cả chính
sự và soi sáng cho vua rất nhiều trong lúc vua đi tìm những quyết định có liên
hệ tới vận mạng của đất nước. Hoàng hậu là một trong những nữ đệ tử tại gia xuất
sắc của Bụt. Bà rất ham học hỏi về giáo lý. Bà có thành lập một công viên với một
hàng rào cây tinduka bao quanh, có hội trường để tham cứu về giáo pháp. Bà đã
có mời Bụt và các cao đức tới hội trường này để thuyết pháp và hướng dẫn những
cuộc thảo luận. Công viên này cũng mở cửa cho những vị lãnh đạo các giáo phái
khác.
Đau khổ vì bị mất người
bạn đời đã bốn mươi mấy năm sống chung, vua tìm đến Bụt. Ngồi yên lặng thật lâu
bên Bụt, vua cảm thấy tâm hồn an tịnh trở lại. Vua nghe lời Bụt để thêm thì giờ
vào việc tu tập thiền quán. Bụt nhắc lại lời vua nói trước đây là khi tuổi về
già, mình phải tinh cần sống đúng theo chánh pháp và tạo hạnh phúc cho mọi người.
Bụt khuyên vua tìm cách cải thiện guồng máy tư pháp và kinh tế.
Người nói những hành
phạt như đánh đập, tra tấn, giam cầm và tử hình không phải là biện pháp có hiệu
lực nhất để ngăn chặn trộm cướp. Gặp thời đói kém và loạn lạc, những vụ trộm
cướp và bạo động tự nhiên tăng lên bội phần, vì vậy chánh sách an dân và giúp
dân xây dựng lại kinh tế là chánh sách căn bản.
Những biện pháp cần
làm là cấp thực phẩm, lúa giống và phân bón cho nông dân nghèo để họ có thể
sinh sống và sản xuất, cấp vốn cho nhà buôn, tăng lương bỗng cho công tư chức,
miễn thuế cho dân nghèo, phế bỏ phương pháp đe dọa, bắt buộc và đàn áp người
lao công, cho họ chọn làm những nghề mà họ thật sự ưa thích, tạo cơ hội và
phương tiện cho họ được hành những nghề ấy. Bụt nói chánh sách kinh tế phải là
một chánh sách tự nguyện.
Những lời dạy về
chính trị này, nhờ ngồi bên Bụt, hôm ấy đại đức Ananda đã được nghe. Đại đức đã
trùng tuyên lại những ý này trong kinh Kutadanta.
Một buổi chiều tại tu
viện lộc Mẫu, đại đức Ananda thấy Bụt xoay lưng về phía mặt trời, đại đức không
hiểu tại sao, bởi vì Thế Tôn thường ưa nhìn cảnh mặt trời khuất bóng, đại đức tới
gần và hỏi Bụt.
Bụt nói Bụt đứng như
thế để cho ánh sáng mặt trời sưởi ấm lung người. Đại đức lấy tay xoa lưng Bụt một
hồi lâu cho ấm, rồi đại đức mời Bụt ngồi xuống ghế tre và xoa bóp hai chân cho
Bụt. Vừa xoa bóp, đại đức vừa nói:
- Thế Tôn, con đã được
làm thị giả cho Thế Tôn mười lăm năm nay, con nhớ những năm trước, nước da của
người còn vàng ánh và óng mướt, nay da Thế Tôn đã nhăn và những bắp thịt nơi
chân Thế Tôn đã teo lại rất nhiều, những lóng xương lộ ra rất rõ.
Bụt cười:
- Sống lâu thì già,
có sao đâu Ananda! Mắt và tai của Như Lai cũng không còn được tinh nhuệ như trước.
Ananda! Thầy có nhớ núi Thứu và những khóm tre ở tu viện Trúc Lâm không? Thầy
có muốn về leo lên núi Thứu để nhìn cảnh mặt trời khuất bóng không?
- Lạy Bụt, nếu Bụt muốn
về Linh Thứu, con xin đi theo hầu người.
Mùa nóng năm ấy Bụt
lên đường trở về thủ đô nước Magadha. Người đi thong thả: lộ trình được chia ra
nhiều chặng. Người ghé thăm những trung tâm tu học, dạy dỗ giới xuất gia, thuyết
pháp và nhắc nhở giới tại gia. Người đi qua nội địa các vương quốc Sakya,
Malla, Videha, Vajji, và cuối cùng vượt sông Hằng qua nước Magadha.
Trước khi về thủ đô,
người ghé thăm trung tâm tu học tại Nalanda. Tu viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu
vui như ngày hội khi Bụt về tới. Dân chúng thủ đô và các miền lân cận đổ xô về
thăm Bụt rất đông. Cả một tháng sau khi Bụt về tới, y sĩ Jivaka mới có dịp mời
được Bụt về vườn Xoài của ông. Tại vườn Xoài xanh mát này, y sĩ đã dựng được một
giảng đường lớn đủ chỗ cho Bụt nói chuyện với khoảng một ngàn vị khất sĩ.
Ngồi trước tịnh thất
của người tại vườn Xoài, Bụt nghe Jivaka kể lại những chuyện đã xảy ra trong
triều đình và vương quốc. Ông nói hiện thái hậu Videhi đã tìm lại được nếp sống
an tĩnh. Bà ăn chay, tập thiền, quán niệm về Tam Bảo một cách thường xuyên.
Vua Ajatasattu đang bị
khủng hoảng tâm lý trầm trọng, bị ám ảnh bởi cái chết của thượng hoàng, bị
lương tâm cắn rứt ngày đêm, vua sinh ra mất ngủ. Thần kinh của vua suy nhược;
vua hay mất bình tĩnh và thường nằm mơ thấy những ác mộng, tỉnh dậy mồ hôi tháo
chạy dầm dìa. Y sĩ đã đến chữa trị cho vua gần nửa năm nay, nhưng tâm bệnh của
vua vẫn còn là nguồn gốc của nhiều biến chứng khác.
Vua đã vời những vị đạo
sĩ thuộc các giáo phái tới để tham vấn và chữa trị tâm bệnh cho vua, nhưng
không có vị nào đã giúp được gì. Những vị này thuộc về các giáo phái Makkali
Gosala, Ajita Kosakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nataputta và cả Sanjaya Belatthiputa
nữa. Vị nào cũng muốn làm vừa lòng vua để giáo phái mình được thừa hưởng ân huệ
nhưng không vị nào thành công.
Có một hôm, vua vời
thái hậu vào ăn cơm chung với hoàng hậu và thái tử Udayibhadda. Thái tử
Udayibhadda chưa đầy ba tuổi, nhưng tính tình đã khó khăn và không điềm đạm
chút nào. Vua thương yêu thái tử rất mực, thái tử đòi gì được nấy. Hôm đó thái
tử đòi đem con chó vào bàn ăn chung. Đây là một điều cấm kỵ, nhưng vì chìu con,
vua đã cho phép thái tử đem chó vào. Trong bữa ăn, hơi ngượng với thái hậu, vua
nói:
- Đem chó vào bàn ăn
thật không dễ chịu tí nào.
Thái hậu nói:
- Con thương con của
con, cho nên con để nó đem chó vào ngồi chung, điều này có gì là lạ. Con nhớ
ngày xưa cha con vì thương con mà hút máu mủ trong tay của con không?
- Con không nhớ, xin
thái hậu kể lại cho con nghe.
- Một hôm, ngón tay
trỏ của con bị đau và sưng vù lên. Một cái nhọt đã mọc ngay dưới móng tay, làm
nhức nhối khiến con khóc suốt ngày đêm. Không có đêm nào con ngủ được, cha và mẹ
của con cũng không tài nào nhắm mắt. Cha con ẵm con để lên đầu gối, ngậm ngón
tay đau của con trong miệng để chuyền hơi ấm qua, một mặt để con đỡ đau, một mặt
để cái nhọt nhờ sức ấm mà cương mủ sớm. Như thế trong suốt bốn ngày đêm, khi
cái nhọt đã cương mủ, và mủ đã chín, cha con mới bắt đầu mút cho mủ thoát ra khỏi
ngón tay. Nhờ vậy mà con lành bệnh, cha con mút hết mủ và máu độc rồi, nhưng
không dám rút tay con ra sợ con bị rát. Cha con cứ giữ mủ và máu trong miệng
như thế cho đến khi không chịu nổi thì cha con nuốt máu và mủ cho con đỡ rát. Mẹ
nói như vậy để con biết ngày xưa cha con thương con như thế nào. Bây giờ con
thương của con, cho nó đem chó vào bàn ăn, điều đó mẹ hiểu, mẹ có trách gì con
đâu.
Nghe thái hậu kể, vua
ôm đầu chạy vào cung, bỏ cả bữa ăn. Từ đó tâm bệnh càng ngày càng nặng. Jivata
tới chữa trị cho vua, nghe vua kể đủ mọi thứ chuyện, kể cả chuyện tham vấn với
các vị Bà la môn và đạo sĩ, nhưng Jivaka vẫn không nói gì. Vua hỏi:
- Jivaka, tại sao anh
không nói gì hết?
Jivaka tâu:
- Tôi chỉ muốn nói với
bệ hạ một điều mà thôi, tôi nghĩ chỉ có sa môn Gotama mới giúp được bệ hạ cởi bỏ
được những khổ đau ẩn ức trong tâm. Bệ hạ nên tìm tới Bụt để được người chỉ dạy.
Vua im lặng, một lát
sau, vua nói:
- Trẫm sợ sa môn
Gotama còn thù ghét trẫm.
- Bệ hạ đừng nói thế,
sa môn Gotama không hề thù ghét ai cả, Bụt là thầy của thượng hoàng, và cũng là
người bạn thân thiết nhất của thượng hoàng, bệ hạ tới với Bụt thì cũng như tới
với thượng hoàng vậy. Bệ hạ tới với Bụt để tìm lại sự an ổn trong tâm hồn và
cũng là để hàn gắn lại những gì đã đổ vỡ trong quá khứ, tài y khoa của tôi
không bằng được một phần triệu tài chữa trị của Bụt, Bụt không phải là một ông
thầy thuốc mà là vua của những ông thầy thuốc. Có người đã gọi Bụt là y vương.
Sau cuộc đàm đạo đó,
vua đã chấp nhận việc đi thăm Bụt. Y sĩ Jivaka xin Bụt nghỉ ngơi trên núi ít
tháng và đi thăm hỏi các trung tâm tu học trong vùng. Y sĩ mong ước sẽ được thỉnh
Bụt về vườn Xoài an trú một tháng trong mùa nóng.
Chính trong vườn Xoài
của ông mà y sĩ Jivaka đã sắp đặt cuộc gặp gỡ giữa vua và Bụt. Lần đầu vua ngự
giá tới Bụt là vào một đêm trăng. Vua cùng đi với hoàng gia và các cung phi mỹ
nữ, có quân lính đi hộ tống. Đi gần tới chỗ Bụt, bỗng nhiên vua phát ra sợ hãi,
tóc gáy dựng ngược, vua cảm thấy cảnh tượng an tĩnh quá, Jivaka đã nói Bụt ở chung
với gần một ngàn vị khất sĩ, vậy mà tại sao khung cảnh quá im lặng như thế này?
Vua sợ bị người ta lừa vua tới để đánh úp. Vua hỏi Jivaka có phải là y sĩ đang
lừa vua đi vào chỗ hiểm địa của kẻ thù không? Jivaka cười ngất. Ông chỉ cho vua
một ngôi nhà có cửa sổ tròn, từ đó có ánh sáng phát ra. Ông nói: Bụt hiện đang
ngồi trong giảng đường với các vị khất sĩ.
Vua xuống voi, đi với
Jivaka và những người hộ vệ, đuốc thắp sang trưng, vào tới cổng giảng đường,
Jivaka chỉ cho vua thấy một người đang ngồi trên pháp tòa, dựa lưng vào cột nhà
chính giữa, trước mặt tòa các vị khất sĩ đang trang nghiêm ngồi. Jivaka nói: Bụt
là người ngồi chính giữa đó.
Vua rất làm cảm phục.
Gần một ngàn người ngồi mà im lặng không có một tiếng động nào, cảnh tượng
trang nghiêm quá đổi. Ngày xưa vua đã từng thấy Bụt trong cung, nhưng đã có bao
giờ vua tới tu viện để gặp Bụt và nghe thuyết pháp đâu?
Bụt mời vua và hoàng
gia ngồi. Thái hậu Videhi cũng có mặt đêm ấy. Vua lên tiếng hỏi Bụt:
- Trẫm chỉ được nghe
Thế Tôn giảng đạo có một lần ở hoàng cung hồi trẫm còn nhỏ. Thế Tôn, hôm nay trẫm
muốn hỏi Thế Tôn câu hỏi này: tu hành không biết có kết quả gì không mà trẫm thấy
hàng ngàn, hàng chục ngàn, có khi cả hàng vạn người bỏ nhà đi tu như thế?
Bụt hỏi vua đã hỏi ai
câu ấy chưa. Vua trả lời là vua đã hỏi nhiều vị chức sắc lớn trong các giáo
phái, nhưng chưa có câu trả lời nào làm vua vừa ý cả, kể cả câu trả lời của đại
đức Devadatta. Bụt nói:
- Đại vương, hôm nay Như
Lai sẽ nói cho đại vương nghe về những hoa trái của sự tu học trong đạo pháp
này, những hoa trái có thể thấy được trong hiện tại và những hoa trái sẽ hái gặt được trong tương lai. Đại vương sẽ không cần
đi vào các ngõ ngách của lý luận: đại vương chỉ cần nhận xét cho tinh tường thì
đã có thể thấy được những hoa trái ấy của sự tu học, rõ rang như thấy trái xoài
để trên một bàn tay.
Đại vương, ví dụ một
người nọ đang làm tôi tớ cho người ta, thức khuya dậy sớm hầu hạ và làm theo mệnh
lệnh của chủ, một hôm bỗng có tư tưởng như sau: "Chủ là người, mình cũng
là người, tại sao mình phải đày đọa mình như thế này?" Nghĩ như thế, người
ấy từ bỏ thân phận tôi đòi, xin được xuất gia tu đạo, đi vào chánh pháp, sống
theo nếp sống phạm hạnh, tinh cần, tỉnh thức, ăn ngày một bữa, tập thiền hành,
thiền tọa, đi đứng trang nghiêm, trở nên một vị khất sĩ có uy nghi, có dung hạnh,
có đạo đức. Đại vương nghĩ sao? Biết được vị khất sĩ ấy ngày xưa vốn là thân phận
tôi đòi, đại vương có gọi người ấy tới và nói: "Này người kia, hãy lại
đây, hãy làm nô bộc cho ta, hãy thức khuya, dậy sớm và thi hành mọi mệnh lệnh của
ta" hay không?
Vua nói:
- Thế Tôn, trẫm sẽ
không làm như vậy, sẽ không nói như vậy, trái lại trẫm sẽ cung kính làm lễ người
ấy, mời người ấy xuống để cúng dường, và sẽ ra lệnh bảo vệ cho người ấy đúng
theo luật pháp?
Bụt nói:
- Đại vương, đó là
hoa trái đầu tiên mà người sa môn khất sĩ gặt hái, người ấy thoát được sự kỳ thị
giai cấp, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giàu nghèo, và khôi phục được phẩm cách của
một con người.
Vua nói:
- Hay lắm, Thế Tôn!
Xin người dạy thêm.
Bụt nói:
- Đại vương, nhân phẩm
tuy vậy chỉ là những hoa trái đầu. Vị khất sĩ nhờ hành trì hai trăm mươi giới
mà được an trú trong một trạng thái vô ưu và thanh tịnh. Những người không giữ giới
có thể phạm vào các tội lỗi như giết người, trộm cắp, tà dâm, dối gạt, say sưa
và tự đưa mình tới những hình phạt đớn đau về thân thể cũng như về tâm thần.
Vị sa môn khất sĩ
không những hành trì năm giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm,
không dối gạt, không say sưa, mà còn hành trì trên hai trăm giới khác, vì vậy vị
ấy sống trong một trạng thái thật an ninh, thật nhẹ nhõm, trạng thái mà những
người không giữ giới không thể nào có được. Giới luật ngăn ngừa không để cho ta
rơi rớt vào lỗi lầm, đem lại cho ta một trạng thái an ninh và nhẹ nhõm. Đó là một
loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.
Vua nói:
- Hay lắm! Thế Tôn,
Xin người dạy tiếp cho!
Bụt nói:
- Đại vương, vị sa
môn khất sĩ không có gì ngoài ra ba chiếc áo ca sa và một chiếc bình bát. Người
ấy không gây thù oán, không sợ ai ban đêm tới hành thích mình. Vị ấy có thể ngủ
một mình trong rừng, dưới một gốc cây, thanh thản, vô ưu, lặng lẽ. Không sợ hãi
là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt
hái ngay trong thời gian hiện tại.
Vua rùng mình, rồi
vua nói:
- Hay lắm, Thế Tôn!
Xin người dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại vương, vị sa
môn khất sĩ sống đơn giản tới mức tối đa, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bình bát một
chiếc nhưng cơm ngàn nhà, không nghĩ đến chuyện làm giàu, không chạy theo danh
vọng, không tích trữ, không tom góp, sống đúng theo phép tri túc, và không chạy
theo một tham vọng hay một ước muốn nào. Sự thảnh thơi là một niềm hạnh phúc lớn.
Đó là cũng là một loại hoa trái của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong giờ
phút hiện tại.
Vua nói:
- Hay lắm, Thế Tôn!
Kính xin người dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại vương! Nếu đại
vương biết quán niệm hơi thở, biết thực tập thiền quán thì đại vương mới có được
ý niệm về hạnh phúc của người tu. Hạnh phúc đó là thiền duyệt. Vị sa môn khất
sĩ biết giữ gìn sáu căn của cảm giác, biết đối trị lại năm loại trở lực của tâm
ý là tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ; trong
khi sử dụng phép quán
niệm hơi thở để thực tập thiền quán, vị ấy làm phát sinh những trạng thái hỷ và
lạc trong thân tâm mình để nuôi dưỡng thân tâm và đi tới trên con đường ngộ đạo,
những cảm giác dễ chịu do ngũ dục đem đến không thể nào bì kịp với thứ hỷ lạc
do thiền định thực hiện. Hỷ và lạc này thấm nhuần thân tâm, trị lành tất cả những
âu lo, sầu khổ, thất vọng, đưa người hành giả tiếp xúc với những gì mầu nhiệm
nhất của thực tại. Đại vương, đây là một loại hoa trái quan trọng của sự tu học,
loại hoa trái này cũng có thể gặt hái được ngay trong giờ phút hiện tại.
Vua nói:
- Hay lắm, Thế Tôn!
Xin người cứ dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại vương! Vị sa
môn khất sĩ nhờ an trú tinh cần trong giới luật và chánh niệm mà có định tâm, lấy
định tâm ấy mà quán chiếu vạn pháp trên thế gian. Nhờ quán chiếu mà vị sa môn
khất sĩ thấy được tính cách vô thường và vô ngã của vạn pháp. Nhờ thấy được tự
tính vô thường và vô ngã của vạn pháp nên vị sa môn khất sĩ không bị tham đắm
vào bất cứ pháp nào, và không bị bất cứ pháp nào trói buộc. Vị sa môn khất sĩ
nhờ đó cắt đứt được những sợi dây phiền não thường trói buộc con người, đó là
những sợi dây tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ
kiến và giới cấm thủ kiến. Cắt đứt được những sợi dây phiền não ấy rồi, vị sa
môn khất sĩ đạt tới trạng thái giải thoát, thảnh thơi. Đại vương! Giải thoát là
một hạnh phúc lớn một loại hoa trái lớn nhất của sự tu học. Đại vương! Trong số
những vị khất sĩ ngồi ngay trong thính chúng đây, có vị đã chứng đắc được thứ
hoa trái đó. Hoa trái này, đại vương, cũng có thể gặt hái được ngay trong kiếp
hiện tại.
Vua nói:
- Hay lắm, Thế Tôn!
Xin người tiếp tục dạy dỗ cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại vương! Vị sa
môn khất sĩ nhờ quán chiếu về tự tính của vạn pháp thấy sâu vào trong tự tính ấy
và biết rằng các pháp là không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không
thêm, không bớt, không một, không nhiều, không đến, không đi. Vị sa môn khất sĩ
do đó đạt được cái thấy thanh tịnh, không phân biệt, nhìn vạn pháp trong thế
gian bằng con mắt tuyệt đối bình tĩnh, không sợ hãi, không lo lắng, cỡi trên
sóng sinh tử mà đi vào cuộc đời để cứu độ cho chúng sanh, chỉ bày cho chúng
sanh con đường chánh pháp để chúng sanh cũng được nếm hương vị của giải thoát,
của vô ưu và của hỷ lạc.
Đại vương! Được giúp
đỡ người khác, được dắt dẫn người khác ra khỏi vũng lầy của tham vọng, hận thù
và si mê, đó là một niềm vui lớn. Niềm vui này là một loại hoa trái rất đẹp đẽ
của sự tu học, có thể thực hiện ít ra là một phần nào đó trong hiện tại và sẽ
tiếp tục được thực hiện trong tương lai.
Đại vương! Các vị khất sĩ trong những tiếp xúc hàng ngày với dân chúng, có nhiệm vụ hướng dẫn dân chúng đi trên con đường đạo đức và giải thoát. Đại vương! Các vị khất sĩ tuy không làm chánh trị nhưng cũng đóng góp vào công trình xây dựng an lạc và đạo đức cho xã hội. Hoa trái của sự tu học không phải là để riêng cho người sa môn tu sĩ hưởng thụ mà là gia tài của cả quốc gia và nhân loại.
Vua đứng dậy, chắp
hai tay lại một cách cung kính, vua bạch:
- Vi diệu thay, Thế
Tôn! Bằng những lời đơn giản, Thế Tôn đã soi sáng cho trẫm đã giúp trẫm thấy được
giá trị chân thật của chánh pháp. Thế Tôn đã dựng lại những gì đã ngã xuống,
phơi bày ra những gì đã bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem ánh
sáng rọi vào nơi tối tăm. Xin Thế Tôn nhận cho con làm đệ tử của người, cũng
như ngày xưa Thế Tôn đã nhận phụ hoàng và mẫu hậu con làm đệ tử của Thế Tôn, và
vua lạy xuống.
Bụt mỉm cười, chấp nhận
lời thỉnh cầu của vua. Người bảo đại đức Sariputta dạy cho vua và hoàng hậu đọc
ba lời quay về nương tựa. Lễ quy y xong, vua nói:
- Bây giờ trời đã
khuya, chúng con xin phép Thế Tôn để trở về cung an nghỉ. Sáng mai chúng con sẽ
phải có buổi chầu rất sớm.
Bụt dạy:
- Đại vương hãy làm
những gì đại vương nghĩ là phải làm.
Tuy buổi gặp gỡ này
giữa vua và Bụt không phải là một buổi gặp gỡ riêng tư, và Bụt giảng kinh Sa
môn quả không phải chỉ để cho vua nghe mà cũng là để cho tất cả các vị khất sĩ
có mặt đêm ấy. Sau buổi đó, bệnh tình của vua đã thuyên giảm đi quá nửa. Đêm ấy
vua nằm mơ thấy thượng hoàng nhìn vua mỉm cười, vua có cảm tưởng đã nối lại được
một cái gì đã gãy, dựng lên được một cái gì đã ngã xuống.
Buổi gặp gỡ đã làm đẹp
lòng vua mà cũng làm đẹp lòng dân chúng. Sau lần gặp gỡ đó, vua thường đến thăm
Bụt mà không cần qua sự sắp đặt của y sĩ Jivaka nữa. Vua cũng không đem theo
voi ngựa và binh sĩ hộ tống. Vua cũng đã trèo những bậc đá để lên núi Linh Thứu
như vua Bimbisara ngày xưa.
Trong những buổi gặp
gỡ riêng với Bụt, vua đã có dịp thố lộ tâm tình và sám hối với Bụt về những tội
lỗi của vua trong quá khứ. Bụt đối với vua ngọt ngào như đối với một đứa con của
người. Bụt khuyên vua nên dùng người có đạo đức trong giới quần thần và cố vấn.
Cuối mùa an cư năm ấy, y sĩ Jivaka xin Bụt được
xuất gia. Ông được Bụt ban cho pháp danh là Vimala Kondanna.
0 Đánh giá