Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới
Chương 7. Vấn đề tâm vật trong đạo Phật
Ðạo Phật chủ trương
nhất nguyên hay đa nguyên, duy tâm hay duy vật?
Ðứng ngoài đạo Phật
thì "vọng tưởng" rằng đạo Phật là nhất nguyên, là đa nguyên, là duy
tâm hoặc là duy vật. Nhưng bước vào trong đạo Phật, trong rừng giáo lý – để
quan sát, người ta sẽ thấy một hiện tượng kỳ lạ. Là khi đứng về hướng nầy, người
ta thấy đạo Phật chủ trương nhất nguyên, nhưng khi đứng qua hướng kia, lại thấy
rõ rang đạo Phật chủ trương đa nguyên. Rồi đứng trên miếng đất nầy, người ta
thấy đạo Phật chủ trương duy tâm, nhưng đứng sang miếng đất khác, thì rõ ràng
là đạo Phật chủ trương duy vật.
Quả thật là một sự kỳ
lạ. Kẻ nóng tính nghe như thế sẽ bực mình và sẽ cho đó là một lối chủ trương ba
phải. Nhưng không. Ðứng về phương diện triết học, đạo Phật có những hệ thống lý
thuyết rất phong phú, mà tất cả đều đi đến một sự nhất trí vô cùng hoàn mỹ.
Nhiều người nghe câu
kinh "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" liền chỉ ngay đạo Phật mà
bảo rằng: Ấy đấy, đạo Phật duy tâm rõ ràng, còn chối cãi gì nữa. Thực ra, đạo
Phật có chối cãi đâu. Ðạo Phật chỉ giảng giải rằng chữ Tâm của đạo Phật không
phải như chữ Tâm của thế gian, của triết học. Phật học là một môn Tâm học.
Nhưng tâm ở đây không phải là linh hồn, là tất cả những hiện tượng tâm lý, và "tâm
học" của đạo Phật rất khác xa "tâm lý học" của triết học vậy.
Cũng có kẻ thấy đạo
Phật chủ trương bác bỏ thuyết linh hồn tồn tại độc lập (điểm này có thể làm nhiều
bạn giật mình), không công nhận tạo hóa, thì lại chỉ vào đạo Phật mà bảo rằng: Ấy
đấy, đạo Phật duy vật rõ ràng, còn chối cãi gì nữa. Thực ra, đạo Phật có chối
cãi đâu. Ðạo
Phật chỉ giảng giải rằng
cái mà người ta gọi là linh hồn ấy, đạo Phật gọi là ý và thức, và khi xác thân
tiêu hoại, ý và thức ấy không còn tác dụng nữa, nghĩa là không sinh hoạt như một
hồn ma bóng quế như giới ít học hiểu lầm.
Chủ nghĩa duy vật là
một chủ nghĩa cho rằng thực tại chỉ là vật chất. Vũ trụ, nhân loại và sinh vật
đều là vật chất, nói một cách tinh vi hơn, đều có một nền tảng chung là vật chất.
Cả đến phần tinh ba nhất của loài động vật là tư tưởng, là cảm tình cũng đều do
nền tảng vật chất mà có. Những tư tưởng và tình cảm ấy không thể phát hiện nếu không
có vật chất. Tinh thần cũng là sản phẩm thượng hạng của vật chất, duy có tinh tế
hơn những sản phẩm khác như đường, như mật, như sinh tố, như thần kinh hệ... mà
thôi.
Người chủ trương duy
vật thường lý luận rằng: chỗ nào không có vật chất thì không thể có tinh thần,
do đó tinh thần là do vật chật mà có, tinh thần là một thuộc tính của vật chất.
Ta không cần phải mất
thì giờ để bác bẻ cái quan niệm nông cạn và thiên lệch này trong khi mọi người
đã thấy cái vô lý của nó rồi. Tuy nhiên cũng cần nói rằng duy vật luận chỉ chú
trọng đến phần ngoại giới, xao lãng hẳn phần nội giới phong phú sâu xa mà ở đây
nhà khoa học chỉ có thể rọi vào những tia sáng ngắn ngủi nhất. Mà dù người duy
vật có để ý đến nội giới đi nữa thì vẫn xem nội giới như một đối tượng tầm thường
như bao nhiêu đối tượng vật chất khác, dù nhà duy vật cho nó là "một hình
thức tinh tế nhất của vật chất". Tinh thần tự đối tượng hóa đã là một việc
khó làm, mà tinh thần tự cho mình là thuộc tính của vật chất lại là chuyện khó
nghe. Ðời thuở nào lại có một thứ thuộc tính kỳ quái có thể "biết"
mình là thuộc tính của vật chất!
Còn bảo rằng "chỗ
nào không có vật chất thì không có linh hồn" cũng thật lạ lùng. Làm như
tai mắt người có thể "thấy" được thứ tinh thần tồn tại độc lập vậy.
Tai mắt ta chỉ nhận được sự hiện hữu của tinh thần nhờ những dấu hiệu vật chất.
Tinh thần vẫn hiện hữu, nhưng ta không nhận được sự hiện hữu đó nếu ta không nhờ
một vài dấu hiệu vật chất, cũng như lúc nào cũng có làn sóng điện, và những âm
thanh chở trên các làn sóng điện ấy, nhưng ta chỉ nhận được sự hiện hữu của các
âm thanh được chở trên các làn sóng kia nếu ta có một chiếc máy thu thanh.
Vậy thì nhà duy vật đừng
bắt ta đi tìm tinh thần ở chỗ không có vật chất. Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ
đạo Phật cũng không nhận rằng có thể có cái "hiểu biết" (cái mà thế
gian gọi là cái hồn) tồn tại ngoài xác thân loài động vật. Lát nữa ta sẽ tìm hiểu
điểm này.
Chủ nghĩa duy tâm chủ
trương ngược lại rằng vật chất không phải thực có, vật chất không tồn tại ngoài
ý thức chủ quan của con người. Chỉ có ý thức chủ quan là thực tại, còn bao
nhiêu cái khác đều là sản phẩm của ý thức chủ quan, đều là những biểu tượng của
ý thức, gọi tắt là những "ý tượng". Duy tâm luận chủ trương ngoài tâm
lý của mình không còn gì cả; vũ trụ, thế giới, những người khác và chính tâm ý
của những người khác cũng không thực tại.
Người duy tâm cũng
như những người duy vật cố tình phủ nhận một mặt của sự thực; người duy tâm cố
tình là ngơ không nhận những
ảnh hưởng và những
tác động của vật chất, của sinh lý trên tư tưởng và tâm lý của mình. Những loài
hữu tình sống xung quanh ta cũng có những cảm tình, những tư tưởng, nói tóm lại,
một tâm lý chủ quan của họ. Trong sinh hoạt thường nhật ai mà không nhận rõ
điều đó. Ta không thể chỉ công nhận có sự tồn tại của tâm ý riêng ta.
Ðạo Phật không vướng vào duy tâm, không vướng vào duy vật, nhưng cũng không phải một nhị nguyên thuyết. Duy thức học đạo Phật chủ trương rằng ngũ uẩn tức là toàn thể những hiện tượng vật lý, tâm lý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), đều là những thứ phát hiện của "chủng tử" tiềm lại trong A Lại Gia Thức (Alaya - vinnana) mà thôi.
Những hiện tượng tinh thần hay vật chất (sắc pháp hay tâm pháp) đều là đứng về thế hiển phát. Khi chưa hiển phát, chúng đứng về thế tiềm tàng. Ðứng về thế tiềm tàng, chúng gọi là "chủng tử" (danh từ của duy thức học). Ðứng về thế hiển phát chúng gọi là hiện hành.
Chủng tử sinh hiện
hành, hiện hành trở về chủng tử, chủng tử là hiện hành, hiện hành là chủng tử,
sự phát hiện nầy được tiếp diễn không ngừng. Ðiểm này đòi hỏi chúng ta nhiều kiến
thức về duy tâm học. Ở đây chúng ta chỉ lược qua đại cương. Chủng tử là một thứ
"năng lực" làm bản chất cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý,
nghĩa là cho mọi hiện hành. Mà toàn thể chủng tử nằm gọn trong A Lại Gia Thức,
hoặc nói một cách khác, toàn thể chủng tử là A Lại Gia Thức. Vậy A Lại Gia Thức
là căn bản cho mọi hiện tượng tâm và vật .
Mỗi hiện tượng (tâm
lý hay vật lý cũng vậy) khi tàn hoại thì trở về chủng tử để rồi phát sinh hiện
hành khác. Nói thế cho dễ hiểu, kỳ thực vì mỗi hiện hành sinh diệt trong từng
giây phút, nên hiện hành luôn luôn trở về chủng tử và chủng tử luôn luôn trở về
hiện hành. Sự liên tục mau chóng quá đến nổi ta không nhận ra kịp đó thôi.
Các hiện hành sinh khởi
cách nào? Sinh khởi theo luật tương quan tương duyên (loi d’interdépendance).
Ví dụ: ý thức, lý trí, tình cảm sinh khởi nhờ nương vào các hiện tượng sinh lý
vật lý. Nương vào để được phát sinh mà thôi, chứ không phải các hiện tượng sinh
lý vật lý "sinh ra" các hiện tượng tâm lý. Hiểu như thế, ta không còn
cho tâm sinh lý, hay vật sinh tâm nữa. Chúng nương vào nhau mà tương than tương
thành, và do chủng tử ở A Lại Gia. Chủng tử là "thân nhân duyên"
nghĩa là những nhân chính, còn các hiện tượng giúp chúng phát sinh thì gọi là
"tăng thượng duyên" nghĩa là các điều kiện thuận lợi giúp cho sự phát
sinh ấy.
Nguyên nhân chính của
mọi hiện tượng, như thế, tức là chủng tử. Nhưng gọi là nguyên nhân cũng không
đúng hẳn; phải gọi là bản chất. Vậy chủng tử trong duy thức học được xem như là
một thứ "năng lực" làm nền tảng cho cả hai loại hiện tượng tâm và vật.
Tất cả chủng tử, hiện
hành gom góp chung lại gọi là A Lại Gia.
Sau khi thân xác tiêu
hoại, thiếu điều kiện để "hiện hành", các hiện
tượng tâm lý trở về
tiềm thức nơi A Lại Gia. Như thế, không có một linh hồn tồn tại ngoài thể xác.
Cái tác dụng tinh thần kia, sự hiểu biết phân biệt yêu ghét kia không hiện hành
nữa, thì sao gọi là có linh hồn được. Tuy nhiên A Lại Gia Thức sẽ biến chuyển,
chín muồi, để đem tất cả năng lực chủng tử mà phát hiện ra một thế giới mới, một
hoàn cảnh mới, một sinh mệnh mới.
Nghe nói thế, có người
sẽ cho rằng đạo Phật đã rơi vào duy tâm. Nhưng không, không có một A Lại Gia tồn
tại độc lập. Mà có nhiều A Lại Gia của nhiều chúng sinh. A Lại Gia này tồn nhờ
sự hiện tồn của A Lại Gia khác, và các A Lại Gia khác cũng tồn tại nhờ A Lại
Gia này. Tất cả đều vâng theo luật tương quan tương duyên mầu nhiệm.
Ý thức chủ quan của
ta nằm gọn trong A Lại Gia ta. Thế giới khách quan tồn tại ngoài ý thức ấy,
nhưng không phải chỉ là một thế giới hiện hành của riêng A Lại Gia ta, mà là một
thế giới hiện hành do vô số A Lại Gia cộng đồng kiến tạo. Ðiểm này ta sẽ thấy
rõ ràng trong giáo lý tự biến cộng biến của duy nghiệp luận. Chỉ khi nào A Lại
Gia trong sạch, sáng suốt do công phu tinh luyện mà trở thành Ðại Viên Cảnh Trí,
nó mới tách rời ra khỏi sự cộng đồng ấy và thể nhập về biển Bản Thể vô cùng rộng
lớn thanh tịnh và sáng suốt.
0 Đánh giá