Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Điều Huyền Bí Ẩn Kín – Osho
(Những Điều Huyền Bí Tiềm Ẩn)
Chương 4. Quyền Năng Biến Đổi Của Tôn Thờ Tượng, Mật Chú, Âm Nhạc Và Múa
Nghe hoặc Tải MP3 'Điều Huyền Bí Ẩn Kín' ê
Ts. Frank Rudolf đã
dành cả đời mình với một số bộ lạc nguyên thuỷ ở Amazon để làm nghiên cứu về một
hiện tượng rất kì lạ. Tôi muốn kể cho bạn về điều đó để cho bạn có thể hiểu dễ
dàng hơn việc tôn thờ tượng được ngụ ý về cái gì. Phần lớn các cộng đồng nguyên
thuỷ đã biết trong một thời gian dài về một quá trình đặc biệt. Rudolf đã
nghiên cứu điều này và đã đạt tới những kết luận đáng ngạc nhiên.
Những bộ lạc nguyên
thuỷ nào đó tin rằng có thể làm cho một người bị một bệnh đặc biệt qua một tượng
đất sét giống với ai đó, cái đại diện cho người đó. Họ tin rằng ngay cả chết
cũng có thể được mang tới theo cách này. Trong ba mươi năm Ts. Rudolf đã cố tìm
ra làm sao có thể truyền được bệnh và chết qua một hình đại diện bằng đất sét của
ai đó. Rudolf đã tiếp cận chủ đề này một cách nghi ngại và khoa học, và hàng
trăm lần ông ấy thực tại đã thấy bằng chính mắt mình bệnh và chết được truyền
đi, cho dù người này ở xa cả nghìn dặm.
Nghiên cứu lâu dài của
ông ấy đã thuyết phục ông ấy về tính đúng đắn của những việc xảy ra như vậy. Đã
có ba điều mà ông ấy đã đi tới biết sau việc thực nghiệm lên bản thân ông ấy. Đầu
tiên, không nhất thiết tượng đất sét phải đích xác giống như người mà bệnh hay
chết được cầu viện tới. Thậm chí khó cho nhà điêu khắc chuyên gia làm ra tượng
đất sét đích xác giống như một người đặc biệt, nhưng điều đó là không cần thiết;
điều quan trọng là thiết lập về mặt tinh thần hình và hình thể của người này
trên hình đại diện bằng đất. Và có phương pháp để làm điều này... Nếu người làm
tượng nhắm mắt lại và nhớ tới người kia và về mặt tinh thần áp đặt ý chí của
mình lên bức tượng, bức tượng sẽ trở thành có tính biểu tượng và hoạt động.
Tôi đã nói cho bạn về
dấu son đỏ và về con mắt thứ ba, cái ở giữa hai lông mày, đã được tìm ra qua
khoa học Yoga, cái có quyền năng lớn được lưu giữ trong nó - nó là trung tâm
truyền phát lớn. Nếu bạn bảo con trai bạn hay người phục vụ làm cái gì đó, và bạn
cảm thấy họ có thể từ chối, bạn có thể làm một thực nghiệm nhỏ. Nếu bạn tập
trung năng lượng của bạn vào trung tâm ở giữa hai mắt và bảo họ điều bạn muốn họ
làm, chín trong số mười lần họ sẽ làm điều đó. Nhưng nếu bạn yêu cầu họ mà
không có việc tập trung năng lượng của bạn theo cách đó, chín trong mười lần họ
sẽ không làm. Bất kì ý tưởng hay ý nghĩ nào được truyền bằng năng lượng được tập
trung giữa hai con mắt đều chuyển nhanh chóng và mang cùng nó quyền năng lớn.
Nếu bạn tập trung vào
hình ảnh của một người với năng lượng của luân xa agya, và nếu ý nghĩ đó được
hướng vào bức tượng, nó không còn là đất sét đơn thuần. Khối lượng đất sét đó
trở nên được tích năng lượng bởi ý chí tập trung của bạn. Nếu bạn truyền về mặt
tinh thần một bệnh nào đó vào trong bức tượng đó trong một phút, người mà tượng
đất sét đại diện cho sẽ bị bệnh đó. Dù người đó ở xa thế nào với bạn, người đó
sẽ bị ảnh hưởng; người đó thậm chí có thể chết.
Rudolf đã viết rằng
điều dường như không thể tin được thực tại đã xảy ra trong thực nghiệm của ông ấy.
Trước chính mắt mình ông ấy đã thấy một số người bộ lạc thúc ép một cái cây,
qua bản sao bằng đất của nó, phải khô và héo đi. Cây này, mà đã từng sum sê,
xanh tươi và mạnh khoẻ, đã héo đi, và lá của nó trở nên khô. Mặc cho việc được
tưới nước, trong vòng một tháng cây này trở nên bị bệnh và chết. Điều đã xảy ra
cho cây xảy ra cho người.
Tôi đang nói về những
phát hiện này của Rudolf vì việc tôn thờ tượng là thực nghiệm tương tự nhưng
trên qui mô lớn. Nếu chúng ta có thể truyền bệnh hay chết cho một người, không
có lí do gì tại sao chúng ta không thể thiết lập hay tái lập mối quan hệ với những
người đã chết. Có thể là chúng ta lấy cú nhảy từ tượng vào cái có mặt khắp nơi
và không biểu lộ.
Toàn thể cơ sở của việc
tôn thờ tượng là mối quan hệ giữa tâm trí của bạn và tâm trí càn khôn. Điều được
cần chỉ là chiếc cầu giữa hai điều này, và chiếc cầu đó có thể được làm ra. Tượng
là nỗ lực để tạo ra chiếc cầu đó. Chỉ cái gì đó mà là biểu lộ, như hình thể của
tượng, có thể trở thành chiếc cầu - vì bạn không thể thiết lập móc nối trực tiếp
với cái vô hình thể.
Dù người ta có thể
nói nhiều đến đâu về cái vô hình thể và không biểu lộ, điều đó đơn thuần là nói
và không truyền đạt bất kì cái gì cho bạn. Bất kì kinh nghiệm nào tâm trí bạn
có đều toàn là kinh nghiệm về hình và thể nào đó; bạn không có kinh nghiệm về
cái vô hình, và lời không thể truyền đạt được bất kì cái gì về cái đã không được
trải nghiệm. Bạn sẽ liên tục nói về cái vô hình và liên tục sống với cái có
hình thể. Cho nên nếu bạn muốn thiết lập quan hệ với cái vô hình thể, bạn phải
làm cái gì đó mà một phía có hình thể và phía kia là vô hình thể. Đó là bí mật
của tượng.
Để tôi giải thích điều
này theo cách khác. Từ phía của mình, chúng ta cần chiếc cầu có hình thể sờ thấy
được, nhưng nó cũng có phần vô hình thể: tại đầu của chúng ta nó là biểu lộ, và
tại đầu xa hơn, khi nó tiến gần tới điều thiêng liêng, nó trở thành không biểu
lộ. Nếu tượng này vẫn còn chỉ là tượng, nó không thể hành động như chiếc cầu; nếu
nó là tuyệt đối vô hình thể, thế nữa nó không thể là chiếc cầu. Tượng này phải
phục vụ cho hai chủ định: nó phải là thấy được bên phía chúng ta và tan biến
trong cái vô hình thể ở phía bên kia.
Nếu tôi bảo bạn rằng
thuật ngữ "tôn thờ tượng" là sai, bạn sẽ ngạc nhiên; nhưng thực tại
điều đó là tuyệt đối sai. Nó là sai vì với người biết cách tôn thờ, tượng không
còn là tượng. Và người chỉ thấy tượng thì không biết tôn thờ là gì hay làm sao
tôn thờ. Chúng ta dùng hai từ; một từ là tượng và từ kia là tôn thờ. Hai khái
niệm này không thể được trải nghiệm bởi cùng một người đồng thời. Từ tượng là
dành cho những người chưa bao giờ tôn thờ, và từ tôn thờ thuộc về những người
chưa bao giờ nhìn tượng.
Nói khác đi, chúng ta
ta có thể nói rằng tôn thờ là nghệ thuật làm cho tượng biến mất. Nó là nghệ thuật
bỏ dần cái biểu lộ và đi vào trong cái vô biểu lộ. Hình thể biểu lộ dần dần tan
biến trong cái vô biểu lộ, và khi tôn thờ làm sâu sắc hơn chỉ cái vô biểu lộ
còn lại. Cho nên "tôn thờ tượng" là tự mâu thuẫn. Do đó ai đó, người
đang tôn thờ bị khó xử là tượng ở đâu, và người đã không tôn thờ chút nào tự hỏi
tượng đá có thể làm được gì. Hai kiểu người này có các kiểu kinh nghiệm khác
nhau - và ở giữa họ không có nền tảng chung.
Khi bạn đi tới đền bạn
chỉ thấy tượng, vì bạn không có khả năng thấy bản thân việc tôn thờ. Trong đền
một Meera có thể được thấy bị thu hút toàn bộ trong việc tôn thờ của cô ấy. Với
cô ấy không có tượng. Ngay khi việc tôn thờ thực sâu sắc lên, tượng tan biến.
Chúng ta thấy tượng vì chúng ta không biết tôn thờ là gì. Khi càng ngày càng ít
có tôn thờ trên thế giới này, chúng ta ngày càng thấy nhiều tượng hơn. Khi có
nhiều tượng, việc tôn thờ biến mất đi là tốt. Trong trường hợp đó, tượng sẽ phải
bị kéo xuống, vì chúng sẽ hữu dụng gì nữa? Chúng là không liên quan.
Bình thường, chúng ta
nghĩ rằng con người càng nguyên thuỷ, người đó càng có thể là người tôn thờ tượng,
và rằng khi con người trở nên thông minh hơn, người đó sẽ bỏ tượng. Nhưng điều
này là không đúng. Trong thực tại, việc tôn thờ có khoa học riêng của nó, và
chúng ta càng trở nên dốt nát về điều đó, nó dường như càng huyền bí hơn với
chúng ta.
Liên quan tới điều
này sẽ là có ích để nói cho bạn thêm một điều nữa. Niềm tin của chúng ta rằng
con người đã làm tiến bộ theo mọi hướng, rằng con người đã tiến hoá đầy đủ, là
tuyệt đối sai. Cuộc sống của con người là bao la tới mức nếu con người làm tiến
bộ lớn theo hướng này, con người không nhận ra mình còn tụt lại ở đằng sau bao
xa theo hướng khác. Nếu khoa học đã làm tiến bộ lớn, chúng ta đã tụt xa lại sau
trong vấn đề tôn giáo. Bất kì khi nào tôn giáo nở hoa, khoa học tụt lại sau.
Khi chúng ta trưởng thành trong chiều hướng này, các chiều hướng khác hoàn toàn
bị quên đi.
Ở châu Âu năm 1880
hang động Altamira đã được khám phá ra. Trong những hang động đó có những bức
tranh mầu được nói là đã được vẽ từ hai mươi nghìn năm trước. Nhưng mầu của những
bức tranh này có vẻ tươi tắn dường như chúng đã được vẽ hôm qua. Vì điều này,
Don Marcellano, người khám phá ra những hang động này, đã bị phê phán khắp châu
Âu. Mọi người nghĩ rằng ông ấy đã sửa những bức tranh này. Mọi nghệ sĩ thấy những
bức tranh này đều nói Marcellano đã cố lừa công chúng, rằng những mầu tươi tắn
như vậy không thể là cổ đại được.
Điều họ đã nói là
đúng, theo một cách nào đó, vì các bức tranh của Van Gogh, mà thậm chí chưa được
một trăm năm tuổi, đã phai mầu; những bức tranh mà Picasso đã vẽ trong thời
thanh niên của ông ấy đã trở nên già như bản thân ông ấy. Mầu sắc được dùng những
ngày này bởi các nghệ sĩ trên toàn thế giới không kéo dài được quá một trăm
năm; chúng nhất định phai mầu trong vòng một thế kỉ.
Nhưng khi nghiên cứu
về các hang động mà Marcellano đã tìm ra được hoàn thành, nó đã được chứng minh
bên ngoài mọi hoài nghi rằng các hang động đã nhiều hơn hai mươi nghìn năm tuổi.
Đây là điều huyền bí lớn, vì những người đã vẽ những mầu đó dường như đã biết
nhiều về mầu sắc hơn chúng ta biết ở hiện tại. Chúng ta có thể có khả năng lên
tới mặt trăng, nhưng chúng ta không có khả năng làm ra các mầu mà có thể vẫn
còn tươi tắn và kéo dài lâu hơn một trăm năm. Nhưng người đã làm ra những mầu
này từ hai mươi nghìn năm trước đã biết về khoa học mầu sắc nhiều hơn chúng ta
biết.
Các xác ướp Ai Cập đã
mười nghìn năm tuổi. Chúng là những xác chết của con người, nhưng chúng đã được
bảo tồn tốt thế - dường như họ mới chết hôm qua. Chúng ta đã không có khả năng
khám phá ra các chất bảo tồn hoá học mà có thể đã được dùng. Làm sao những thân
thể này có thể đã được bảo vệ trong mười nghìn năm? - không có hư hỏng chút
nào. Nhưng chúng ta đã không có khả năng thiết lập những hoá chất nào đã được
dùng để bảo tồn chúng.
Những tảng đá khổng lồ
trên đỉnh kim tự tháp không thể đã được đặt lên đó bởi bất kì cần trục nào mà
chúng ta có thể có ngày nay. Việc đặt chúng lên đó dường như ở ngoài sức mạnh của
con người, nhưng không thể nào có chuyện người thời đó có cần trục. Họ phải đã
biết kĩ thuật nào đó, điều chúng ta thậm chí không thể đoán được, để nâng những
tảng đá đó lên.
Chân lí của sự sống
là đa chiều. Cùng công việc có thể được làm bằng nhiều phương pháp khác nhau và
nhiều kĩ thuật khác nhau. Sự sống là bao la tới mức khi chúng ta bắt đầu làm việc
theo chiều này, chúng ta quên tất cả các chiều khác.
Tượng đã được tạo ra
bởi những người đã phát triển rất cao. Điều này đáng nghĩ tới. Và tượng là chiếc
cầu kết nối chúng ta với lực càn khôn bao quanh chúng ta, cho nên những người
đã phát triển tượng đã làm chiếc cầu cho việc hiểu điều huyền bí tối thượng của
sự sống.
Chúng ta nói rằng
chúng ta đã khám phá ra điện. Chắc chắn chúng ta tiên tiến và văn minh hơn các
cộng đồng trước đây mà họ chẳng biết gì về điện. Chúng ta đã khám phá ra sóng
radio, và chúng ta có thể gửi thông báo từ nước này sang nước khác trong vòng một
giây, cho nên chúng ta dứt khoát tiên tiến hơn những người phụ thuộc và sức mạnh
của tiếng nói riêng của họ để liên lạc, chỉ vào trăm năm trước, bằng việc hét
to.
Nhưng khi so sánh với
những người có khả năng làm ra chiếc cầu để tiếp xúc với nguồn sống tối thượng,
chúng ta chỉ là trẻ con. Điện của chúng ta, radio của chúng ta và những khám
phá tương tự chỉ là trò chơi. Nghệ thuật được kết nối với điều bí ẩn tối thượng
của sự sống đã được khám phá ra bởi những người đã làm việc rất cần mẫn theo một
chiều hướng đó.
Như tôi đã nói với bạn
trước đây, một mặt của tượng đối diện với con người, và cửa sổ mở ra từ hình thể
đó hướng tới cái vô hình thể. Cửa sổ của nhà phải có hình và dạng, cũng như
ngôi nhà có hình và dạng; cửa sổ không thể là vô hình dạng được. Nhưng khi bạn
mở cửa sổ và nhìn vào bầu trời, bạn đi vào cái vô hình thể. Nếu tôi nói với ai
đó chưa bao giờ mở cửa sổ của người đó để xem bầu trời rằng bằng việc mở cửa sổ
của nhà tôi, tôi có khả năng thấy cái vô hình thể, người đó sẽ nói tôi điên.
Làm sao người ta có thể thấy cái vô hạn từ cửa sổ nhỏ? - nhiều nhất bất kì cái
gì bạn có thể thấy từ cửa sổ chỉ có thể là lớn như bản thân cửa sổ. Anh ta hoàn
toàn logic, và nếu anh ta chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời qua cửa sổ sẽ khó mà
thuyết phục anh ta rằng cho dù một cửa sổ nhỏ cũng có thể mở ra cái vô hạn. Cửa
sổ không thể đặt giới hạn lên cái mà nó mở ra, tượng cũng không thể đặt giới hạn
lên cái vô hình thể.
Những người nghĩ tượng
là chướng ngại trong việc hiểu cái vô hiển lộ phạm phải sai lầm lớn. Và những
người nghĩ rằng bằng việc đập vỡ cửa sổ bầu trời có thể bị đập vỡ là điên! Bằng
việc phá huỷ tượng, cái vô hiển lộ không thể bị quấy rối. Nhưng những người
không biết nghệ thuật và giả kim thuật của tôn thờ có thể nghĩ tới việc phá huỷ
tượng.
Tôn thờ là vấn đề riêng
từng người, có tính chủ thể, ở bên trong tới mức nó không thể được diễn đạt hay
trưng ra. Bất kì cái gì bên trong và riêng từng người trong cuộc sống đều không
thể được trưng ra. Nếu tim tôi bị cắt mở ra bạn sẽ không thể thấy được yêu ở
trong nó; mà bạn cũng không thấy được giận, ghét, tha thứ hay từ bi. Bạn sẽ chỉ
thấy một loại bơm cho việc tuần hoàn máu. Nếu sau khi đặt tôi lên bàn mổ và
nghiên cứu tim tôi, bác sĩ giải phẫu xác nhận rằng tôi chưa bao giờ trải nghiệm
bất kì yêu hay ghét nào, tôi không có cách nào để chứng minh ông ấy sai. Bác sĩ
giải phẫu có xác nhận được lời tuyên bố của tôi rằng tôi đã yêu không? Ông ấy
có thể nói rằng tôi đang bị ảo tưởng. Nhưng nếu tôi hỏi bác sĩ liệu ông ấy có bất
kì kinh nghiệm nào về yêu hay ghét không, nếu ông ấy là logic và chân thực, ông
ấy sẽ nói rằng ông ấy cũng có những ảo tưởng như vậy; bằng không, tim được thấy
trên bàn mổ chỉ là vật thể như cái bơm để tuần hoàn máu và không có cái gì như
tim cảm thấy yêu hay ghét.
Nếu mắt bạn được mổ
ra và khám nghiệm, nó sẽ không thể nào chứng minh được rằng chúng đã thấy các
giấc mơ. Làm sao bạn có thể biết được từ mắt vẫn đang mở trên bàn mổ rằng ban
đêm, khi được nhắm lại, nó đã thấy nhiều mơ? Tất cả chúng ta đều mơ, nhưng
chúng tồn tại ở đâu? Mơ có thể là không thực, nhưng sự tồn tại của chúng không
thể bị phủ nhận. Dù mơ có thể không thực thế nào, nó đã xảy ra ở đâu đó bên
trong. Nếu nó là giấc mơ kinh hoàng, khi bạn thức dậy tim bạn đập nhanh hơn;
cho dù nó đã là không thực, nếu bạn khóc trong giấc mơ, khi bạn thức mắt bạn sẽ
ướt. Cái gì đó đã xảy ra bên trong nhưng bên ngoài, con mắt vật lí, không để lộ
bất kì điều gì: bất kì cái gì là bên trong, có tính chủ thể và tiếng riêng cá
nhân đều không thể được nhìn thấy từ bên ngoài.
Tượng có thể được
nhìn thấy - như tim hay mắt có thể được nhìn thấy. Nhưng việc tôn thờ không thể
được nhìn thấy. Tôn thờ giống như yêu hay mơ; do đó khi bạn đi qua đền, bạn có
thể thấy tượng nhưng không thấy tôn thờ. Cho nên nếu bạn thấy Meera múa trước
tượng, bạn sẽ nghĩ cô ấy bị điên, một cách tự nhiên, vì việc tôn thờ của cô ấy
không thể được thấy. Cô ấy dường như chỉ đang múa trước tảng đá!
Khi Ramakrishna được
chỉ định là tu sĩ ở đền Dakshineshwar ở Calcutta, sau vài ngày mọi người bắt đầu
phàn nàn về ông ấy. Người ta nói rằng trước khi cúng dường hoa cho thần,
Ramakrishna trước hết đã ngửi chúng, rằng trước khi cúng dường cho thần thức
ăn, đích thân ông ấy đã nếm nó! Điều này bị coi là báng bổ.
Ramakrishna đã được
triệu tới trước uỷ ban đền và bị yêu cầu giải thích. Ông ấy nói rằng bất kì khi
nào mẹ ông ấy cho ông ấy ăn, đầu tiên bà ấy sẽ thử thức ăn để quyết định liện
nó có đủ vị ngon cho ông ấy không, bà ấy sẽ quyết định trước hết liệu có đáng
cho ông ấy không; cho nên ông ấy đã làm cùng cách này với thần. Làm sao ông ấy
có thể cúng dường thức ăn mà bản thân ông ấy đã không thấy ngon? Làm sao ông ấy
có thể cúng dường hoa mà ông ấy đã không ngửi? Uỷ ban nói rằng điều này đi ngược
lại các qui tắc của tôn thờ.
Ramakrishna hỏi,
"Có thể có bất kì qui tắc nào cho tôn thờ sao? Có thể có bất kì qui tắc
nào cho yêu sao?" Nơi có qui chế, tôn thờ chết. Nơi có qui chế, yêu chết.
Yêu là việc trút ra tình cảm bên trong, cái rất có tính cá thể và cá nhân. Có
chân lí phổ quát trong đó điều này có thể được nhận ra. Khi hai ngườu yêu nhau,
mặc dầu họ cả hai đang yêu, họ yêu theo cách cá nhân riêng của họ. Cái biểu lộ
có thể là khác toàn bộ, nhưng có sự tương tự của kinh nghiệm. Trong cả hai người
này, trong yêu của họ, cùng một hồn cư ngụ.
Tôi đã nói cho bạn rằng
mặc dù tượng có thể được nhìn thấy, tôn thờ không thể được nhìn thấy, nhưng dầu
vậy chúng ta đã làm ra từ, "tôn thờ tượng," điều là tuyệt đối sai.
Tôn thờ là phương pháp phá huỷ tượng. Đầu tiên người sùng kính làm ra tượng và
thế rồi người đó làm cho nó biến mất. Theo nghĩa trần tục người đó làm ra tượng,
và theo nghĩa tâm linh người đó phá huỷ nó. Người đó làm ra nó từ bùn và thế rồi
để nó tan biến trong sự tồn tại tối thượng.
Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn về một khía cạnh nữa... Ở nước này trong hàng nghìn năm chúng ta đã làm tượng và thế rồi nhấn chìm chúng vào nước. Nhiều người cảm thấy điều đó là kì lạ và họ đã hỏi tôi tại sao những tượng đẹp được làm ra về nữ thần Kali và thế rồi sau vài ngày bị ném vào nước. Tại sao thần Ganesha được trang điểm kiểu lễ hội và được tôn thờ yêu mến trong vài ngày, và thế rồi bị nhấn chìm vào trong nước? - hoặc bị ném xuống biển hay sông hay hồ. Điều này là điên! Nhưng có quan niệm hay đằng sau việc nhấn chìm này.
Bí mật thực của tôn
thờ là trong việc làm ra tượng và thế rồi để nó biến mất... tạo hình và thể cho
tượng và thế rồi để nó tan biến trong cái vô hình thể. Nó là biểu tượng - nghệ
thuật làm tượng của nữ thần Kali, tôn thờ nó, và thế rồi nhấn chìm nó vào trong
nước. Nhưng chúng ta không tôn thờ theo cách đúng: chúng ta đã làm ra tượng, đã
trang điểm cho nó đẹp và chăm sóc nó, thế rồi chúng ta ngần ngại buông bỏ nó bằng
việc nhấn chìm nó. Nếu chúng ta mà thực sự tôn thờ, tôn thờ theo nghĩa sâu nhất,
thế thì tượng sẽ phải biến mất bên trong chúng ta, được kết tinh bên trong
chúng ta, lâu trước khi chúng ta để nó biến mất trong nước. Nếu việc tôn thờ thực
mà xảy ra thế thì chắc đã không cần nhấn chìm tượng chút nào, nó có thể đã còn
lại ở chỗ nó đã ở nhưng tim của người tôn thờ đã được chìm vào trong sự tồn tại,
trong điều thiêng liêng. Thế thì, nếu chúng ta đi nhấn chìm tượng, điều đó chắc
đã giống như vứt đi hộp đựng đã dùng; nó đã làm xong công việc của nó.
Nhưng tượng mà chúng
ta nhấn chìm là hộp đựng đã nạp đầy - vô dụng và vẫn sống. Chúng ta chỉ nạp hộp
đựng và chúng ta phải lập tức vứt nó đi, để cho một cách tự nhiên chúng ta bất
hạnh về nó. Trong những thời đầu, trong hai mươi mốt ngày tôn thờ, hộp đựng bị
đốt cháy, nó đã phục vụ chủ định của nó; trong thời gian đó việc nhấn chìn hay
biến mất của tượng đã xảy ra.
Tôn thờ là nhấn chìm.
Bạn bắt đầu cuộc hành
trình của bạn từ tượng, cái ở trước bạn. Tôn thờ là quá trình qua đó bạn tiến
lên. Khi bạn đi lên trước tượng bị bỏ lại đằng sau, và chỉ tôn thờ còn lại. Nếu
bạn dừng lại ở tượng bạn không biết tôn thờ là gì. Bất kì ai liên tục tôn thờ
đã nhận ra tượng, đã biết rễ của tôn thờ và chủ định thực của tượng.
Trong tôn thờ, các
nguyên lí nền tảng tham gia vào đằng sau tượng là gì? Thứ nhất, để nhảy vào
trong chân lí tối thượng đó, cái mà bạn đang tìm kiếm, bạn cần mảnh đất vững chắc
nào đó, bàn nhảy. Chân lí tối thượng không cần bất kì mảnh đất vững chắc nào,
nhưng bạn cần một chỗ để từ đó khởi hành, từ đó bạn có thể lấy cú nhảy. Bạn đã
khởi hành để nhảy vào biển, và biển là vô hạn; bạn sẽ cần một bờ hay đường bờ
biển để từ đó bạn có thể lấy cú nhảy. Một khi bạn nhảy bạn bao giờ cũng sẽ là từ
bờ, nhưng bạn sẽ không quay lưng lại để cám ơn bờ biển mà từ đó bạn đã nhảy vào
trong cái vô hạn đó sao?
Điều này dường như là
không thể được. Bạn có thể nhảy từ hình thể sang vô hình thể không? Hình thể sẽ
chỉ đưa bạn sang hình thể khác. Nếu bạn hỏi Krishnamurti ông ấy sẽ nói điều đó
là không thể được. Làm sao bạn có thể nhảy từ hình thể vào vô hình thể được?
Làm sao bạn có thể nhảy từ lời vào vô lời?
Mọi cú nhảy đều từ
hình thể sang vô hình thể, vì theo nghĩa sâu hơn, hình thể là đối lập của vô
hình thể. Hình thể là một phần của vô hình thể, và là phần không phân chia được.
Nó có thể dường như tách rời chúng ta - vì cái nhìn giới hạn của chúng ta. Thực
ra hình thể và vô hình thể là không phân chia được.
Khi chúng ta đứng
trên bãi biển và nhìn ra biển, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta là tách rời, và
rằng bờ này và bờ đối lập, xa xuyên qua biển, cũng là tách rời. Nhưng nếu chúng
ta đi sâu bên dưới nước, chúng ta sẽ thấy rằng bờ này và bờ đối lập được nối ở
đáy biển.
Nếu chúng ta nghĩ
theo ngôn ngữ của các nhà khoa học, có một sự kiện rất thú vị. Khắp đáy biển có
nhiều bùn hay cát: nếu chúng ta đào vào trong biển chúng ta sẽ thấy cát; nếu
chúng ta đào vào trong đất chúng ta sẽ thấy nước. Nếu chúng ta diễn đạt điều đó
theo thuật ngữ khoa học, chúng ta có thể nói rằng trong biển có nhiều nước và
ít bùn, và trên đất có nhiều bùn và ít nước. Khác biệt chỉ trong tỉ lệ của
chúng, theo mức độ, nhưng chúng thực tại không tách rời; mọi thứ là một và được
thống nhất.
Bất kì cái gì chúng
ta mô tả như là có hình thể đều được thống nhất với cái vô hình thể, và vô hình
thể cũng được thống nhất với hình thể. Chúng ta đang đứng trong hình thể; quan
niệm về tượng chấp nhận sự kiện rằng chúng ta đang đứng trong hình thể. Đó là
tình huống, đó là nơi chúng ta hiện hữu, và chúng ta chỉ có thể bắt đầu cuộc
hành trình của mình từ nơi chúng ta hiện hữu, không từ nơi chúng ta phải đạt tới.
Nhiều triết lí bắt đầu từ nơi chúng ta phải hiện hữu chung cuộc, nhưng làm sao
có thể bắt đầu cuộc hành trình từ nơi chúng ta không hiện hữu? Cuộc hành trình
phải bắt đầu từ chỗ chúng ta đang hiện hữu.
Chúng ta đang ở đâu?
Chúng ta đang sống trong hình thể. Mọi kinh nghiệm của chúng ta đều thuộc về
hình thể, về cái biểu lộ. Chúng ta đã không biết bất kì cái gì mà không là biểu
lộ, cái không có hình thể. Nếu chúng ta yêu, chúng ta đã yêu hình thể; nếu
chúng ta ghét, chúng ta đã ghét hình thể. Chúng ta bị hấp dẫn bởi hình thể và
chúng ta bị hấp dẫn tới hình thể; chúng ta đã tập luyện tách ra khỏi hình thể.
Bạn và thù của chúng ta toàn ở trong hình thể. Bất kì cái gì chúng ta làm đều
được làm bằng hình thể.
Khái niệm tượng chấp
nhận sự kiện này, cho nên nếu chúng ta phải khởi hành cuộc hành trình của mình
tới cái vô hình thể, chúng ta sẽ phải cho cái vô hình thể một hình thể nào đó.
Tất nhiên, hình thể đó sẽ tương ứng với tưởng tượng của chúng ta.
Người này trải nghiệm
cái vô hình thể trong Mahavira, ai đó khác trong Krishna, và người khác lại
trong Jesus. Bất kì người nào đã thấy cái vô hình thể trong Jesus bằng việc
nhìn vào trong mắt ông ấy, đều tìm thấy cánh cửa qua đó cái vô hình thể có thể
được thấy. Bất kì người nào cầm tay Jesus đều thấy rằng nó không còn là tay của
ông ấy và trở thành tay của cái vô hạn. Bất kì ai nghe các lời của Jesus và cảm
rung động tim của ông ấy, đều không đáp ứng với lời mà với cái ở bên ngoài những
lời đó, đều thấy rất dễ nhảy vào trong cái vô hạn qua việc tôn thờ ảnh của
Jesus.
Ai đó thấy cái vô
hình thể trong Krishna; ai đó thấy nó trong Phật và ai đó khác thấy trong
Mahavira. Nhưng nhớ rằng đầu tiên chúng ta sẽ chỉ có khả năng thấy cái vô hình
thể, cái vô hạn qua hình thể nào đó. Vô hình thể thuần khiết không thể được thấy
trực tiếp bởi bất kì người nào. Chúng ta không có năng lực cũng không có sự
thích hợp để nhìn nó một cách trực tiếp; cái vô hình thể phải tới với chúng ta
được gắn trong hình thể.
Đây là nghĩa của hoá
thân - rằng cái vô hạn đã thừa nhận một hình và thể, rằng cái vô hạn đã chọn để
biểu thị bạn là một hình thể sờ mó được. Điều đó dường như tự mâu thuẫn, nhưng
đây là điều hoá thân ngụ ý. Hoá thân là một loại ban công từ đó bạn có thể thấy
bầu trời bao la. Hoá thân là một thoáng nhìn về cái vô hình thể - bạn không thể
có tiếp xúc trực tiếp với cái vô hình thể, sự tồn tại của nó sẽ ở trong hình thể
nào đó. Và một khi điều này xảy ra, kinh nghiệm này có thể dễ dàng được lặp đi
lặp lại qua hình thể đó.
Bất kì ai đã thấy Phật
sẽ thấy ông ấy vươn dậy, sống động từ tranh hay ảnh của ông ấy. Với bất kì người
nào yêu Phật, tượng của ông ấy sẽ dần dần biến mất và việc hiện hữu sống của phật
sẽ được cảm thấy ở đó. Phật, Mahavira, Krishna hay Christ - tất cả họ đều để lại
đằng sau các phương pháp tiếp xúc. Qua những phương pháp đó những người sùng
kính họ có thể thiết lập tiếp xúc với họ. Cho nên hình thể của tượng là việc thu
xếp rất đặc biệt.
Nghệ thuật và khoa học
của việc làm tượng bao gồm nhiều quan niệm và tính toán. Nếu những điều này được
nhớ khi làm tượng, thế thì tượng đó có thể dẫn bạn đi sâu hơn vào trong thiền.
Trong kết nối này điều tốt là nhớ được hai hay ba thứ...
Nếu bạn đã thấy nhiều
tượng của Phật, bạn sẽ quan sát rằng chúng đại diện cho trạng thái nào đó của
tâm trí hơn là cá nhân đặc biệt. Nếu bạn nhìn sâu vào tượng của Phật, trong vài
khoảnh khắc bạn sẽ cảm thấy rằng từ bi lớn đang trút lên bạn từ khắp xung
quanh. Tay giơ lên của Phật, mắt nửa nhắm của ông ấy, mặt được điêu khắc cân đối
của ông ấy, việc diễn đạt duyên dáng của ông ấy, cách ngồi tinh tế của ông ấy -
tất cả đều trong một nghĩa sâu hơn nào đó được ngụ ý khơi gợi từ bi trong bạn.
Ai đó đã hỏi một nghệ
sĩ lớn người Pháp tại sao ông ấy vẽ. Ông ấy nói, "Tôi vẽ tranh chỉ để tìm
ra hình thể nào có thể đưa lên vải vẽ cho cảm xúc nào đó, cảm giác nào đó của
tim tôi. Trong nỗ lực của tôi đễ diễn đạt cảm giác đó, bức ảnh lộ ra." Nếu
ai đó thiền về bức tranh đó, người đó có thể trải nghiệm cùng cảm xúc như đã hiện
diện trong tim của hoạ sĩ này.
Khi bạn xem tranh, bạn
chỉ thấy hình thể; bạn không nhận ra rằng hồn của nghệ sĩ đang đi vào trong bạn.
Những đường chéo trên vải vẽ không chỉ là đường của hình thể đó. Nếu bạn tập
trung vào chúng, bức tranh với các đường chéo sẽ nổi lên bên trong bạn nữa...
vì điều tự nhiên của tâm trí là nó rung động trong bạn với sự vang vọng tương tự
với rung động mà nó thấy bên ngoài nó.
Bạn có lẽ không biết
rằng niềm vui mà bạn cảm thấy khi bạn nhìn đoá hoa không phải là chừng nấy vì bản
thân đoá hoa mà vì sự đối xứng của các cánh của nó, cái cũng được gây ra bên
trong bạn. Khi bạn bị hấp dẫn tới mặt đẹp của ai đó, điều đó không phải vì cái
đẹp của người đó mà vì nó tương ứng với hình ảnh bên trong của bạn về cái đẹp.
Nó tạo ra cộng hưởng về cái đẹp trong bạn điều làm cho bạn cảm thấy rằng cái gì
đó bên trong bạn cũng được làm đẹp lên. Theo cách tương tự, sự hiện diện của bộ
mặt xấu làm cho bạn cảm thấy không thoải mái. Kinh nghiệm về niềm vui trong sự
hiện diện của ai đó, người là đẹp vì luồng chảy của cái đẹp mà nó mang vào
trong, làm cho bạn cũng đẹp hơn. Xấu nghĩa là cái gì đó thiếu cân xứng, thô thiển,
phi đối xứng và cong queo; và điều này gợi ra trong chúng ta cảm giác về không
hài hoà, kinh tởm, mất trật tự và lo lắng.
Nijinsky, vũ công ba
lê nổi tiếng người Nga, đã tự tử. Khi mọi người tới nhà ông ấy để điều tra, họ
đi ra trong vòng mười hay mười lăm phút với cảm giác lo lắng. Họ nói rằng cảm
thấy không thoải mái khi đi vào nhà ông ấy, rằng nếu bất kì ai ở trong nhà này
lâu như Nijinsky đã ở, họ chắc sẽ tự tử. Cái gì có đó về nhà của ông ấy mà lại
khó chịu thế? Ông ấy đã vẽ khắp các bức tường và trần nhà bằng mầu đỏ và đen -
trong hai năm ngôi nhà đã giống điều này. Không ngạc nhiên gì rằng ông ấy đã
phát điên và rằng ông ấy đã tự tử. Những người đi vào trong nhà ông ấy đều nói
rằng nếu bất kì người nào mà ở trong ngôi nhà đó trong hai năm họ chắc cũng sẽ
phát điên và tự tử. Nijinsky phải đã là người rất dũng cảm - ông ấy đã tạo ra
quanh bản thân ông ấy một tình huống rất hỗn loạn.
Bất kì cái gì bạn thấy
đều tạo ra tiếng vọng của nó bên trong bạn, và theo nghĩa sâu nào đó bạn trở
thành giống cái bạn thấy. Mọi tượng của Phật đều được làm để phản xạ từ bi vì
đó là thông điệp bên trong của ông ấy. Phật đã nói nếu bạn có từ bi bạn có mọi
thứ. Từ bi ngụ ý cái gì? Nó không ngụ ý yêu. Yêu tới và đi nhưng từ bi là yêu
mà, một khi nó tới, không bao giờ đi. Trong yêu có ham muốn tinh vi để có được
cái gì đó từ người khác. Trong từ bi có nhận biết rằng không ai có bất kì cái
gì để cho; mọi người là nghèo tới mức không có gì để họ có thể cho, và đó là lí
do tại sao có từ bi. Không có kết án trong từ bi. Trong trạng thái này không có
ham muốn ngay cả để cho, nhưng mọi cánh cửa của tim trở nên rộng mở và cái gì
đó tự phát bắt đầu được phân phối.
Phật nói với các đệ tử
của ông ấy, "Khi các ông thiền, tôn thờ hay cầu nguyện, nhớ lập tức phân
phát bất kì an bình nào các ông nhận được. Đừng giữ nó cho các ông dù một khoảnh
khắc - ta gọi các ông là phi tôn giáo nến các ông làm như vậy. Khi các ông đầy
niềm vui sau thiền, lập tức cầu nguyện với sinh linh tối cao để cho niềm vui đó
được phân phát cho những người cần nó. Mở các cánh cửa của tim các ông và để niềm
vui tuôn chảy hướng tới tất cả những người cần nó - như nước chảy xuống
núi." Từ bi lớn này được Phật mô tả là giải thoát tối thượng. Cho nên mọi
tượng của Phật đã được làm theo cách mà trong sự hiện diện của chúng người tôn
thờ sẽ cảm thấy cảm ứng và rung động của từ bi bên trong bản thân người đó.
Làm sao bạn có thể
tôn thờ Phật? Nếu bạn muốn tôn thờ Phật, trung tâm tôn thờ sẽ là tim. Nếu bạn
không biết điều này bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu được tượng Phật, vì
chính chủ định của nó là để tạo ra từ bi trong bạn. Trung tâm của từ bi là tim,
cho nên khi tôn thờ Phật, trung tâm của chú ý phải đặt vào đó - một đầu - tim của
ông ấy, và ở đầu kia, tim riêng của chúng ta. Bạn sẽ phải cảm thấy cả hai tim
trong một nhịp điệu. Thế thì một khoảnh khắc sẽ tới khi bạn cảm thấy sợi chỉ nối
tim bạn với cái ở bên trong tượng của Phật. Bạn sẽ không chỉ cảm thấy điều đó,
mà bạn sẽ cảm thấy mạch đập của tim của tượng. Khi điều đó xảy ra bạn sẽ biết rằng
Sự sống đã được truyền cho nó; bằng không, không có sự sống trong nó và việc
tôn thờ là vô nghĩa.
Tim của tượng có thể
được thấy là đang đập: nếu bạn đã thiền đúng về việc đập của tim bạn và đồng thời
của tim Phật, mối quan hệ sẽ được thiết lập giữa hai tim này. Thế thì tim của bạn
đang đập cùng tim của Phật, cũng như bạn thấy mặt của bạn được phản xạ trong
gương.
Bạn đã bao giờ quan
sát trong gương việc đập của tim bạn chưa? Bạn sẽ nói gương là gương, nó nhất định
phản xạ mọi chuyển động. Tượng cũng là gương theo nghĩa sâu, theo nghĩa tôn
giáo sâu hơn. Cho nên tim bạn và tim của tượng sẽ đập. Chừng nào điều này chưa
xảy ra, việc tôn thờ không thể bắt đầu vì tượng vẫn chỉ là bằng đá và không được
thánh hoá; sự sống đã không được gợi lên trong nó.
Nếu bạn muốn thiền
trên tượng của Phật, trung tâm phải là tim. Nếu bạn muốn thiền trên tượng của
Mahavira, có trung tâm khác; với Jesus, trung tâm thứ ba và với Krishna, trung
tâm thứ tư... Mọi tượng được làm ra với một trung tâm khác làm cơ sở. Cho dù xã
hội có thể đã từng tôn thờ tượng nào đó trong hàng nghìn năm, nó có thể không
nhận biết về trung tâm của tượng, và nếu trung tâm này không được biết tới, bạn
không thể thiết lập kết nối với tượng. Bạn có thể cúng dường hoa và hương, bạn
có thể cúi lạy nó - nhưng bạn sẽ phải làm tất cả điều đó trước một tảng đá đơn
thuần. Nhớ, tảng đá phải được biến đổi thành thượng đế! Phần đó sẽ không được
làm bởi nhà điêu khắc, nó sẽ phải được bạn làm. Nhà điêu khắc sẽ chỉ cho nó
hình thể: ai sẽ đổ sự sống vào trong nó? Sự sống phải được thiết lập trong nó bởi
người sùng kính. Không có điều đó, nó chỉ là tảng đá. Việc tôn thờ chỉ bắt đầu
sau khi sự sống đã được trao cho tượng.
Tôn thờ là gì? Một
khi bạn có khả năng gợi lên sự sống trong tượng, bạn đang tôn thờ thần thực, sống.
Cố hiểu điều này cho sâu vào: ngay khi cái gì đó trở thành sống động, hình thể
và vô hình thể trở thành một... vì thân thể là hình thể, và sự sống ở trong nó
là vô hình thể. Sự sống không có hình thể.
Nếu người nào đó của
tôi chặt tay tôi, sự sống của tôi không bị chặt. Nếu tôi bị thôi miên hay bị
gây mê và tay tôi bị chặt đi, tôi sẽ không cảm thấy đau nào. Toàn thể não của
tôi có thể bị bỏ đi mà không có việc trở nên nhận biết của tôi về việc mổ
này... vì sự sống như vậy không có hình hay thể. Dù có sự sống hay không, có gặp
gỡ của hình thể và vô hình thể.
Vật chất có hình thể,
tâm thức không có. Chừng nào tượng chỉ là tảng đá, chỉ có hình và thể; nhưng
ngay khi người sùng kính cầu gọi sự sống trong nó, nó trở nên sống động. Nhớ,
người tôn thờ mà không thể đem tim mình cho đập trong tượng, sẽ không có khả
năng có tim của điều tối thượng đập bên trong người đó. Người đó còn chưa là
người sùng kính thực. Ngay khi người đó có khả năng làm cho tim mình đập bên
trong tượng, tượng được mang sự sống, và thế thì cánh cửa tới cái vô hạn mở ra.
Ở đầu này tượng có hình thể; ở đầu kia nó là vô hình thể. Du hành qua cánh cửa
này là tôn thờ.
Tôn thờ là cuộc hành
trình tới vô hình thể qua hình thể.
Có bẩy bước để tôn thờ,
nhưng bước đầu tiên và nền tảng là hiểu rằng mọi cá nhân đều lấy mình làm trung
tâm. Toàn thể cách sống của chúng ta là tới mức "tôi đây," là trung
tâm của toàn thế giới. "Trăng và sao mọc lên vì tôi, chim bay để cho tôi
vui, và mặt trời nữa đang đem ánh sáng cho tôi: toàn thế giới quay quanh tôi,
tôi là trung tâm của toàn thế giới." Một người như vậy không thể biết tới
tôn thờ. Người đó cảm thấy rằng tôi đó là ở trung tâm và phần còn lại của thế
giới là chu vi của người đó. Trong tôn thờ, bạn thấy cái đối lập: luật nền tảng
của tôn thờ là "Tôi ở trên chu vi, trung tâm ở đâu đó khác." Triết lí
cơ bản của người phi tôn giáo là ở chỗ người đó là trung tâm và phần còn lại của
thế giới là ngoại vi. Ngay cả Thượng đế có tồn tại, ngài là ở chu vi.
"Ngài là vì tôi. Nếu tôi ốm, ngài phải chữa cho tôi. Nếu con trai tôi thất
nghiệp, ngài phải cho nó việc làm. Nếu tôi bị khó khăn, Thượng đế phải chạy tới
giúp tôi..." Kiểu hữu thần này còn tệ hơn vô thần. Người như vậy không hiểu
người đó đang nói gì.
Nghĩa đúng của tôn thờ,
nghĩa đúng của lời cầu nguyện, của việc có tính tôn giáo là hiểu rằng bạn ở
trên ngoại vi và cái vô hạn ở trung tâm. Ngay khi tim của tượng là sống động và
đập, ngay khi người ta trải nghiệm rằng tượng là sống động, tính vô hình thể đã
đi vào trong nó. Cho nên qui tắc cơ bản cho tôn thờ là việc cảm, "Tôi ở
ngoại vi - tôi sẽ múa cho ngài, hát cho ngài, sống cho ngài và thở cho ngài. Bất
kì cái gì xảy ra sẽ là vì ngài, trung tâm."
Một triết gia lớn nổi
danh có thời đã ở cùng Ramakrishna. Ông ta hỏi Ramakrishna ông này còn bị ám ảnh
bởi tượng bao lâu - đó là lúc ông ấy bắt đầu cuộc hành trình của mình tới cái
vô hình thể. Ramakrishna đáp rằng ông ấy đã sẵn sàng bắt đầu cuộc hành trình của
mình; ông ấy bao giờ cũng sẵn sàng học bất kì cái gì từ bất kì ai, ông ấy bao
giờ cũng sẵn sàng học từ bất kì người nào muốn dạy. Nhưng ông ấy yêu cầu
Totapuri đợi cho tới khi ông ấy được phép từ mẹ của ông ấy.
"Mẹ nào vậy?'
Totapuri hỏi.
Ramakrishna đáp,
"Mẹ tôi, nữ thần Kali."
Totapuri nói,
"Đó đích xác là điều tôi đang nói! Ông sẽ còn bị mắc kẹt với tượng đá của
Kali trong bao lâu? Ông muốn hỏi tượng đá đó sao?"
Ramakrishna đáp,
"Không có cách nào ngoài việc hỏi bà ấy. Từ khoảnh khắc tôi bắt đầu tôn thờ
bà ấy, bà ấy đã trở thành trung tâm và tôi đã chuyển ra chu vi. Vì tôi không
có, bà ấy phải được hỏi xin phép. Bất kì cái gì tôi làm đều vì bà ấy. Không có
phép của bà ấy, ngay cả chứng ngộ cũng là vô nghĩa; và nếu bà ấy ra lệnh cho
tôi xuống địa ngục, tôi sẵn sàng. Nhưng không hỏi bà ấy, không cái gì có thể được
làm."
Totapuri đã không thể
hiểu được điều này. Nếu Ramakrishna mà phải hỏi xin phép Kali để thôi tôn thờ
bà ấy, làm sao bà ấy có thể ban cho điều đó? Chúng ta có xin phép người mà
chúng ta muốn từ bỏ không? Phép có cần để từ bỏ cái gì đó không?
Vào lúc này,
Ramakrishna đã đi tới đền. Totapuri đi theo ông ấy. Ông ta thấy nước mắt chảy
ra từ mắt của Ramakrishna: ông ấy đang cầu xin Kali lặp đi lặp lại để cho phép
ông ấy dừng tôn thờ bà ấy. Ông ấy bảo với bà ấy rằng Totapuri đang đợi ông ấy...
Thế rồi đột nhiên ông ấy đã trở nên vui sướng và bắt đầu nhảy múa. Totapuri,
đang đứng đằng sau ông ấy, hỏi cái gì đã xảy ra.
Ramakrishna nói,
"Bà ấy đã cho phép rồi! Giờ tôi sẵn sàng học từ ông!"
Nghĩa của việc có ai
đó là trung tâm của bạn là ở chỗ cuộc sống của bạn giờ là cuộc sống được buông
xuôi.
Việc tôn thờ nghĩa là
cuộc sống được buông xuôi.
Việc tôn thờ người tối
cao ngụ ý sống như người tối cao muốn. Ngồi và đứng, ăn và uống, nói và vẫn còn
im lặng cũng là dành cho người tối cao.
Ngay khi người ta có
cái vô hạn ở trung tâm, dòng chảy huyền bí bắt đầu tuôn chảy, một loại mở rộng
bắt đầu.
Như nó vậy, chúng ta
đã co bản thân chúng ta lại. Khi hạt mầm vỡ ra, nó bắt đầu là cây. Chúng ta đã
co bản thân chúng ta lại trong cái "tôi" của chúng ta: khi cái
"tôi" đó vỡ ra, chồi non nhú ra và việc mở rộng bắt đầu. Những chồi
này có thể mở rộng nhiều thế để bao gồm toàn thế giới.
Tôn giáo là đầy những
điều huyền bí lớn lao. Người cố cứu bản thân mình, thì chết; trong khi người giữ
cho người tối cao ở trung tâm và bản thân người đó ở chu vi, thì sống. Chúng ta
không hiểu cách điều như vậy có thể xảy ra vì từ chính việc sinh của mình,
chúng ta đã tin bản thân chúng ta là trung tâm của thế giới.
Phật thường gợi ý cho
các đệ tử của ông ấy dành vài ngày ở nơi hoả táng. Họ cần làm điều đó trong ba
tháng trước khi họ có thể được khai tâm thành khất sĩ. Họ sẽ nói rằng họ phải tới
để học từ người đó, không từ việc hoả thiêu. Nhưng Phật nhấn mạnh và nói,
"Sau ba tháng ở chỗ thiêu, cái 'tôi' của các ông sẽ trở nên bị buông xuôi
và sẽ dễ dàng để dạy các ông hơn. Hàng ngày, trong ba tháng, các ông sẽ thấy
các xác chết được đem đi thiêu: ít nhất một ngày trong ba tháng này các ông sẽ
bắt đầu nghĩ rằng thế giới này không chỉ tồn tại cho các ông. Khi các ông đã
không có ở đây, thế giới đã tồn tại. Người này, người có thân thể mà các ông
đang quan sát được thiêu đi, cũng đã nghĩ chỉ những khoảnh khắc trước cái chết
của người đó rằng thế giới đã tồn tại cho người đó. Thế giới thậm chí không biết
rằng người này không còn nữa. Biển không để ý rằng một con sóng đã tan biến.
"Cho nên các ông
cứ liên tục quan sát đi, và khi các ông nhận ra rằng thế giới không tồn tại cho
các ông, tới với ta; thế thì thiền thực có thể bắt đầu. Chừng nào các ông còn ở
trung tâm, không có khả năng nào của tôn thờ thực, của lời cầu nguyện hay thiền;
chỉ có ảo tưởng sâu sắc. Tôn thờ sẽ bắt đầu khi ảo tưởng đó tan biến. Tôn thời
bắt đầu khi cái 'tôi' bị bỏ đi và cái 'người' là có ý nghĩa."
Nhớ lấy, đầu tiên người
sùng kính làm cho tượng biến mất và mở cánh cửa tới cái vô hình thể. Thế rồi
người đó làm cho bản thân mình biến mất và tôn thờ bắt đầu. Ngay khi cánh cửa tới
cái vô hình thể mở ra qua tượng, sự tan biến của cái ngã của người ta trở nên dễ
dàng hơn. Ngay khi người sùng kính nhận ra rằng tượng đá có thể biến mất để trở
thành cánh cửa tới cái vô hình thể, người đó đã nhận ra rằng người đó nữa cũng
có thể trở thành cánh cửa tới cái vô hình thể; rằng nếu người đó có thể quên
cái ngã của người đó, cú nhảy sâu hơn trở thành có thể.
Có thể có phân biệt
giữa hai hình thể, nhưng không phải là như vậy khi có liên quan tới cái vô hình
thể, vì cái vô hình thể là một. Khi tượng đã trở thành vô hình thể và người
sùng kính đã trở thành vô hình thể, thế thì không có gì giống như
"hai." Con số không có giá trị trong quan hệ với cái vô hình thể.
Hình thể và con số chỉ là cột chống và có những phương pháp để làm ra những cột
chống hữu dụng. Về việc này có vài điều cần được hiểu...
Người Sufi đã coi nhảy
múa như tôn thờ có tầm quan trọng lớn. Những người sùng kính như Meera và
Chaitanya cũng đã gắn giá trị lớn cho nhảy múa - nó có vài phẩm chất mà đã dẫn
nhiều trường phái sùng kính tới chọn nó như phương pháp.
Hiệu quả đầu tiên của
nhảy múa là ở chỗ trong khi nhảy múa bạn trải nghiệm rằng bạn không là thân thể.
Vì chuyển động nhanh của nhảy múa bạn cảm thấy rằng bạn và thân thể bạn là tách
biệt. Trong thực tại có điều chỉnh giữa thân thể của bạn và tâm thức của bạn.
Đó là điều chỉnh được sắp xếp tốt: trong công việc hàng ngày của bạn, điều chỉnh
đó vẫn còn không bị động chạm tới.
Gurdjieff hay nói rằng
nếu có nhiều đá cuội trong bình chứa, và bạn lắc mạnh bình, việc sắp xếp của
các thứ bên trong sẽ bị làm rối. Viên đá đã nằm ở đáy bình sẽ lên đỉnh, viên đá
nằm ở giữa sẽ chuyển sang bên, và viên ở trên đỉnh sẽ thành ở giữa: toàn thể việc
sắp xếp bên trong bình sẽ trở thành lộn ngược. Nếu viên đá này thường ở chỗ nào
đó trong quan hệ với các viên đá khác, và nó trở nên bị đồng nhất với vị trí
đó, bản ngã của nó sẽ bị phá huỷ. Viên đá sẽ cảm thấy, "Mình không còn nữa,"
rằng đó chỉ là việc sắp xếp, và sắp xếp đó không còn nữa.
Cho nên những người
Sufi, Meera và Chaitanya, đã làm ra cách sử dụng sâu sắc về nhảy múa. Nhảy múa
của người Dervish là rất sâu: trong nó, thân thể của người múa quay tít nhanh
và với tính toàn bộ tới mức mọi tế bào và thớ thịt của thân thể người đó đều
rung động. Việc này phá vỡ mối quan hệ giữa thân thể và tâm thức, và đột nhiên
người múa nhận ra rằng người đó là tách rời khỏi thân thể của mình.
Cho nên dùng nhảy múa
cho tôn thờ là rất có giá trị.
Có hai giáo phái Ki
tô giáo, một trong đó được biết là giáo phái Quakers và giáo phái kia là
Shakers. Người Quakers, ngay cả ngày nay, rất có ảnh hưởng. Cái tên của các
giáo phái này là rất có ý nghĩa. Trong tôn thờ của họ, người Shakers rung lắc
thân thể mạnh tới mức mọi thần kinh và thớ thịt của thân thể đều rung động mạnh
thế, người Shaker vã mồ hôi như tắm. Tại điểm đó người đó sẽ trải nghiệm rằng
tâm thức người đó là tách rời khỏi thân thể của người đó. Thế thì tâm thức đó
đi vào trong tôn thờ.
Cái tên Quaker là có
nghĩa - thân thể họ run lên rất mạnh khi họ tôn thờ. Trong động đất, đất rung động
nhiều tới mức mọi thứ rơi xuống vỡ ra; người Quakers cũng run nhiều tới mức kết
nối của thân thể họ với tâm thức bị phá vỡ. Kiểu chuyển động này, nhảy múa và
bài ca sùng kính, tất cả đã được dùng để tạo ra kẽ hở giữ thân thể và tâm thức.
Về việc này chúng ta
hãy hiểu một chút về khoa học âm thanh. Khoa học tin rằng đơn vị tối thượng của
mọi vật chất là điện. Các hiền nhân phương Đông tin rằng đơn vị tối thượng của
vật chất không phải là điện mà là âm thanh. Vật lí hiện đại tin rằng chung cuộc
mọi vật chất đều được tạo ra từ điện, trong khi hiền nhân phương đông nói rằng
âm thanh là đơn vị cơ bản của mọi vật chất. Dù chân lí có thể là bất kì cái gì,
điều cần được hiểu là ở chỗ có mối quan hệ gần gũi giữa điện và âm thanh. Có thể
là các phát biểu của nhà khoa học và của hiền nhân cả hai đều đồng thời đúng. Nếu
không phải hôm nay, ngày mai thực tại của yếu tố tối thượng sẽ được biết: một
hình thể của yếu tố đó là âm thành, và hình thể khác là điện. Yếu tố đó là gì
thì phải được khám phá ra. Tìm kiếm từ khía cạnh tôn giáo, hiền nhân đạt tới
tri thức rằng âm thanh là cái tối thượng; tìm kiếm từ khía cạnh vật chất nhà
khoa học đã được đưa tới điện. Nhớ, hiền nhân đã đi tìm bên trong bản thân ông ấy,
không bên trong vật chất: bên trong cái ngã riêng của bạn, kinh nghiệm tối thượng
về sự tồn tại của bạn là kinh nghiệm về âm thanh. Cứ khi nhận biết về bản thân
bạn, sẽ có nhận biết về âm thanh. Bạn càng đi sâu hơn vào trong bản thân bạn,
âm thanh sẽ càng ít nghe thấy được hơn, cho tới khi nó trở thành trống rỗng.
Chính im lặng đó có âm thanh riêng của nó, "âm thanh vô âm," điều các
hiền nhân Ấn Độ đã mô tả là anahat nada. Anahat nada đó là âm thanh tối thượng:
kinh nghiệm cuối cùng của tâm thức con người, trước khi nó đi vào cái vô hình
thể, là âm thanh này. Vì kinh nghiệm này, các hiền nhân Ấn Độ nói rằng âm thanh
này là yếu tố tối thượng.
Nhà khoa học phân chia
và chia nhỏ nữa vật chất thành các cấu phần nhỏ nhất của nó, và ngay trước khi
nó biến mất vào cái vô hình thể, nó được thấy như điện tử. Thế rồi vật chất
hoàn toàn bị mất đi và cái vô hình thể xuất hiện, cái còn lại là điện.
Điều phải được nghĩ tới
là liệu cái nhỏ nhất, phần tối thượng của tâm thức, có tới trước phần nhỏ nhất
của vật chất không. Chắc chắn là tâm thức đó là tinh tế hơn vật chất, do đó phần
tối thượng của tâm thức phải tồn tại trước vật chất đó. Cho nên các hiền nhân Ấn
Độ đã giữ cái nhìn rằng âm thanh là tinh tế hơn điện, rằng nó tới trước điện,
và là nguồn tối thượng của mọi thứ.
Âm nhạc, bài ca, lời
cầu nguyện và việc tụng tất cả đều là việc dùng âm thanh. Mọi âm thanh đều tạo
ra một trạng thái đặc biệt bên trong bạn; không âm thanh nào không tạo ra.
Các nhà khoa học đang
thực nghiệm với âm thanh bây giờ biết rằng nếu các nhạc cụ đặc biệt được chơi
trước thực vật nó sẽ mọc hoa sớm hơn một tháng so với bình thường nó vậy. Nếu
nhạc cụ đặ biêt được chơi trước bò cái, chúng sẽ cho nhiều sữa gấp đôi. Nếu nhạc
cụ sai, hay âm nhạc sai được chơi, chúng có thể không cho sữa chút nào.
Âm thanh thực sự đạt
tới bên trong bạn và điểm vào tâm thức của bạn. Cổ của bạn có thể bị chặt bằng
kiếm, nhưng với kiếm âm thanh, tâm trí của bạn có thể bị chặt. Lưỡi của âm
thanh sắc hơn, và nó ngắt tâm trí bạn khỏi những bận tâm đa dạng. Cho nên các
thực nghiệm với lưỡi âm thanh đã được tiến hành trong đó âm thanh được dùng để
cắt bỏ tâm trí của thiền nhân hay người sùng kính, để người đó có thể bắt đầu
cuộc hành trình tới cái vô hạn. Mọi tôn giáo đều đã dùng những âm thanh đặc biệt
và đã thực nghiệm với chúng để lau sạch và làm thuần khiết tâm trí.
Mới đây ai đó từ Nhật
Bản tới tôi. Trong hai năm qua anh ấy đã từng làm tập luyện theo phái Thiền Tào
Động. Trong tập luyện này, âm thanh "Mu... mu" được tạo ra trong phần
lớn thời gian thức của anh ấy; ngoại trừ khi anh ấy nghỉ và ăn, âm thanh này
liên tục được thốt ra. Anh ấy thức dậy lúc ba giờ sáng, tắm, và bắt đầu lặp lại
"Mu... mu." Anh ấy làm điều này trong ba ngày, và ý nghĩ của anh trở
nên ngày càng ít đi. Âm thanh "Mu... mu" liên tục ngân vang; một loại
bão được tạo ra bên trong; nó trở thành giống như chiếc kiếm và chặt phăng đi mọi
suy nghĩ.
Sau bẩy ngày anh ấy
không cần tạo ra âm thanh này nữa: nó trở thành tự động và lan toả khắp thân thể
anh ấy. Bất kì cái gì anh ấy có thể đang làm - ngồi hay bước... bất kì cái gì -
bên trong anh ấy có việc lặp lại im lặng của "Mu... mu" liên tục. Mọi
tế bào và mọi thớ thịt rung động trong nhịp của nó. Khó ăn, vì âm thanh của
"Mu..." liên tục diễn ra. Sau bẩy ngày ngủ thành khó nữa vì mồm anh ấy
liên tục lặp lại "Mu... mu." Trong bất kì giấc ngủ nào anh ấy đều có
âm thanh này đi ngày càng sâu hơn.
Sau hai mươi mốt ngày
anh ấy bắt đầu hét và gầm lên âm thanh "Mu... mu" như sư tử. Mắt anh ấy,
mặt anh ấy và hành vi của anh ấy thay đổi. Thầy của anh ấy liên tục thúc giục
anh ấy tiếp tục. Một khi anh ấy bắt đầu gầm lên, việc ăn, uống và ngủ của anh ấy
bị bỏ đi. Trong tuần thứ tư anh ấy trở thành như người điên - trạng thái mà anh
ấy không có nhận biết về bất kì cái gì ngoại trừ âm thanh, "Mu...
mu." Nếu bạn hỏi tên anh ấy, anh ấy sẽ đáp lại, "Mu." Anh ấy mất
mọi nhận biết về thân thể anh ấy, duy nhất chỉ có nhận biết về
"Mu..." còn lại. Anh ấy không biết anh ấy là ai. Tại giai đoạn này
anh ấy phải quan sát và canh chừng - anh ấy có thể làm bất kì cái gì, anh ấy có
thể đi bất kì nơi nào.
Trong giai đoạn cuối,
anh ấy gầm với toàn bộ sức mạnh của anh ấy. Cứ dường như vết thương nào đó đã mở
ra hay vong linh đã sở hữu anh ấy. Và thế rồi mọi thứ lắng lại; con sóng khổng
lồ của đại dương đã lấy bước nhảy cuối cùng và đổ sụp tan tành. Cao trào đã đi
qua và mọi thứ bên trong anh ấy đã tung ra rải rác.
Anh ấy đổ sụp và vẫn
còn vô ý thức, không có bất kì chuyển động nào, yên tĩnh và an bình trong một tới
ba tuần. Khi anh ấy trở về ý thức, anh ấy không còn là cùng người cũ; anh ấy là
người mới. Người cũ đã chết: bây giờ không cái gì là cũ - giận, ham muốn, tham
của anh ấy - có thể được dõi vết. Sự liên tục với quá khứ của anh ấy bị phá vỡ.
Với thực nghiệm này về "Mu," với sự bùng nổ lớn này của âm thanh,
toàn thể tâm thức của anh ấy được biến đổi.
"Aum" là âm
thanh tương tự. Mọi tôn giáo đều có âm thanh riêng của họ mà được dùng trong
tôn thờ. Khi tôn thờ đi sâu, tác động của những âm thanh này biến đổi người
sùng kính. Bài ca sùng kính và chơi nhạc cụ là cơ bản cho biến đổi, và đó là lí
do tại sao việc lặp lại là có ý nghĩa. Nếu bạn hát một bài hát hôm nay, bài
khác ngày mai và bài thứ ba vào ngày kia, sẽ không có kết quả. Phải có việc gõ
búa liên tục vào cùng một trung tâm đặc biệt.
Nếu bạn gõ búa vào cọc
lều ở những chỗ khác nhau, nó sẽ không bao giờ đi vào trong đất. Nếu bạn đào
sáu mươi phân ở chỗ này, sáu mươi phân ở chỗ khác và sáu mươi phân ở chỗ khác nữa,
bạn sẽ không bao giờ có khả năng đào giếng. Tương tự, đổi trung tâm và vị trí
không đem lại kết quả. Để đào giếng, việc đào phải được làm chỉ ở một chỗ. Đó
là lí do tại sao việc lặp lại đã từng được nhấn mạnh tới - nhiều tới mức trong
cả một tháng bạn phải lặp lại "Mu..." hay "Aum," hay một
dòng bài ca, lặp đi lặp lại, theo cùng nhịp điệu. Nhưng có nguy hiểm rằng việc
lặp lại trở thành máy móc, dường như nó chỉ là một việc để được làm, và thế thì
nó sẽ là vô dụng.
Việc lặp lại phải là
vấn đề sống chết, dường như bạn đánh cược mọi thứ vào nó một cách toàn bộ. Mọi
sợi tóc, mọi tế bào, mọi thớ thịt của thân thể đều tham gia; mọi thần kinh, mọi
xương, mọi thịt và cơ trở nên được tham gia... mọi giọt máu phải gọi to lên.
Khi toàn thể sự tồn tại của bạn trở thành âm thanh đó, sẽ có kết quả. Người
sùng kính phải lặp lại chỉ một lời, hay một dòng bài hát, trong nhiều năm liền,
với một lí do đặc biệt: bạn gõ búa vào một điểm lặp đi lặp lại để cho cánh cửa
có thể vỡ mở ra - và nó thế thật!
Cho nên âm thanh, nhảy
múa và âm nhạc tất cả đã được dùng trong tôn thờ.
Những điều này tất cả
đã được làm trước tượng - để điều này được ghi nhớ, vì việc nhảy múa như vậy là
chuyện khác. Nhiều người nhảy múa nhưng họ không trở nên chứng ngộ. Nếu họ nhảy
múa vì nhảy múa, điều đó chẳng có quan hệ gì với cái vô hạn. Cho nên mọi thứ phải
được làm trong quan hệ với cái vô hạn và do đó ở trước tượng mà đã được làm
thành sống động. Tượng đó sẽ liên tục nhắc nhở bạn rằng nhảy múa không phải là
vì nhảy múa. Việc nhảy múa là ở ngoại vi; trung tâm là tượng, trung tâm là ở
trong người tối cao. Mọi thứ là trong việc chuẩn bị cho cú nhảy vào trong điều
tối thượng. Bằng không có vũ công, nhạc sĩ, ca sĩ, toàn những người siêu phàm
trong nghệ thuật của họ - ngay cả người sùng kính cũng có thể hát rất hay.
Nhưng điều này không liên quan chút nào; người sùng kính không quan tâm tới âm
nhạc hay bài ca, chủ định của người đó là khác. Toàn thể nỗ lực của người đó là
để trở nên được tràn ngập tới mức người đó có thể tan biến và mất bản thân người
đó một cách hoàn toàn tới mức dòng chảy bên trong tiếp quản và để người đó nổi
trong cái vô hạn. Người đó phải trở thành chu vi, với người tối cao ở trung
tâm. Người đó phải tạo ra sự linh động tới mức người đó có thể vẫn còn nổi, và
tuôn chảy.
Thông thường bạn sẽ
thấy người sùng kính với nước mắt chảy dài trên má. Người đó không khóc từ bất
hạnh mà từ vui.
Nước mắt chảy ra khi
mọi thứ bên trong đã trở thành linh động, lỏng - hoặc từ khổ hoặc từ vui tràn
ngập.
Mãi cho tới giờ các
nhà khoa học vẫn không có khả năng giải thích chủ định của nước mắt. Tốt nhất,
họ đã khám phá ra rằng nước mắt được ngụ ý để lau sạch mắt khỏi bụi. Tuyến nước
mắt chỉ được ngụ ý để lau sạch mắt. Nhưng tại sao nước mắt chảy ra khi người ta
đau, khi người ta bất hạnh hay khi người ta vui quá mức? Bụi có rơi vào mắt vào
những thời điểm đó không, và không gì khác?
Bất kì khi nào có sự
tràn ngập, khi có đau hoặc vui thú cực kì, nước mắt bắt đầu chảy. Các tuyến nước
mắt mở ra, và nước mắt chảy ra. Những người sùng kính cũng khóc, nhưng việc
khóc của họ có phẩm chất khác. Người không là người sùng kính sẽ không có khả
năng hiểu điều đó. Cái gì xảy ra cho người sùng kính mà làm cho người đó khóc?
Bạn có thể nghĩ rằng người đó phải gặp khó khăn nào đó và vì chúng người đó
khóc, với tay khoanh lại. Nhưng người khóc vì những khó khăn của mình vẫn có bản
thân người đó là trung tâm. Người đó vẫn không là người sùng kính; người đó
không biết tôn thờ là gì.
Nhưng có những khoảnh
khắc mà mọi sự đông cứng và cứng nhắc đã đông đặc bên trong chúng ta bắt đầu lỏng
dần ra, và nhận biết về việc xảy ra đó làm cho nước mắt rơi. Những nước mắt đó
trong lòng biết ơn và cám ơn hướng tới cái tối cao. Chúng ta không có gì ngoài
nước mắt để dành cho ân huệ đó, cái đang chảy tới chúng ta. Chúng ta cảm thấy
chúng ta không xứng đáng với bất kì cái gì chúng ta đã nhận được và rằng chúng
ta không thể kìm lại niềm vui đang giáng lên chúng ta. Chúng ta chưa bao giờ mơ
về cảm giác như vậy - và chúng ta chẳng có gì để bày tỏ lòng biết ơn của chúng
ta. Không lời nào không bất kì cái gì khác có thể diễn tả nó một cách thích hợp.
Trong những khoảnh khắc
như vậy mắt khóc theo cách khác. Mắt của người sùng kính khóc khác với mắt của
người yêu. Người yêu cũng khóc, nhưng việc khóc đó có phẩm chất khác. Nước mắt
của người yêu đầy những ham muốn, đòi hỏi nhỏ bé, nhưng trong nước mắt của người
sùng kính không có đòi hỏi. Mắt của người đó khóc không vì lí do nào - người đó
đơn giản bất lực. Cho dù người đó muốn nói lời cám ơn, lời không tới từ mồm người
đó, và khi mồm không thể nói được, mắt bắt đầu nói theo cách riêng của chúng.
Sự hoàn hảo, sự đầy đủ
của tôn thờ, là trong nước mắt của họ, trong sự linh động của nước mắt và việc
chảy ra của chúng.
Tượng đã được dùng
theo nhiều cách khác nhau để diễn đạt cực lạc. Những người nói chống lại tượng
không biết tôn thờ ngụ ý gì. Bất kì cái gì đều có thể được nói bởi ai đó không
biết; mọi người rất dốt nát và không biết bất kì cái gì. Họ chấp nhận bất kì
cái gì họ nghe thấy - đặc biệt là điều phủ định. Chính một luật là tâm trí dễ
dàng chấp nhận cái có tính phủ định vì nó không phải nhận bất kì phiền phức nào
để chứng minh điều đó.
Nếu ai đó nói,
"Không có Thượng đế," người đó không phải chứng minh bất kì cái gì.
Nhưng bất kì ai nói, "Có Thượng đế," đều phải chứng minh điều đó. Cho
nên tâm trí dễ dàng chấp nhận cái có tính phủ định, nhưng trước khi nó chấp nhận
bất kì cái gì có tính khẳng định, nó làm ra các điều kiện; bằng không nó sẽ phải
nhận phiền phức để chứng minh điều đó.
Tôn thờ có tính khẳng
định, tượng có tính khẳng định. Trong việc phủ nhận cái gì đó, chẳng có gì để mất.
Turgenev đã viết một
câu chuyện nhỏ... Trong một thị trấn nào đó có một người rất thông minh, và rất
có ảnh hưởng nữa. Và trong cùng thị trấn này một người ngu toàn tập, kẻ ngốc sống.
Một hôm người ngốc đi tới người thông minh và hỏi xin chỉ cách nào đó để trở
thành thông minh. Người thông minh hỏi người ngốc liệu anh ta có muốn là thông
minh hay dường như là thông minh không, vì trở thành thông minh là một quá
trình dài, nhưng có vẻ thông minh là dễ dàng. Người ngốc đáp lại rằng anh ta muốn
được chỉ cho cách dễ hơn - rằng sẽ là đủ nếu anh ta có vẻ là thông minh, anh ta
không muốn bận tâm về việc trở thành thông minh.
Người thông mình bình
luận rằng trong việc trở thành thông minh có khả năng phạm sai lầm, nhưng trông
có vẻ là thông minh thì không thể nào có sai lầm được. Thế là người ngốc trở
nên nóng vội và yêu cầu rằng thủ đoạn đó được tiết lộ ra ngay không có bất kì
chậm trễ nào. Người thông minh thì thào cái gì đó vào tai anh ta - và từ hôm đó
trở đi người ngốc dần trở nên nổi tiếng là thông minh trong toàn thị trấn.
Mọi người trong thị
trấn bắt đầu bàn tán: Làm sao mà người ngu nào đột nhiên đã trở thành thông
minh? Người thông minh đã nói cho anh ta cái gì?
Người đó đã đơn giản
nói cho người ngu là lập tức phủ định mọi phát biểu mà anh ta nghe thấy. Nếu bất
kì người nào nói, "Có cái gì đó với việc tôn thờ tượng," người ngốc
phải lập tức đáp lại rằng chẳng có gì đâu. Người ngốc hỏi người thông minh,
"Tôi có nên nói những điều như vậy ngay cả khi tôi không biết bất kì cái
gì về chủ đề đó không?"
Người thông minh nói,
"Ông không phải bận tâm về việc biết bất kì cái gì chút nào - cứ phủ định
bất kì cái gì được nói. Nếu ai đó bảo ông rằng các công trình Kalidas là tuyệt
vời, cứ nói nó là toàn là rác rưởi! Bảo họ chứng minh rằng chúng là vậy đi! Nếu
bất kì người nào nói rằng âm nhạc của Beethoven là siêu phàm, nói rằng ngay cả ở
địa ngục âm nhạc như thế cũng được chơi! Và yêu cầu người này chứng minh âm nhạc
siêu phàm giống cái gì. Cứ phủ nhận mọi thứ, và nếu bất kì người nào đối lập
ông, thách thức họ chứng minh tuyên bố của họ."
Trong vòng hai tuần
người ngốc đã trở thành nổi tiếng trong toàn thị trấn về thông minh của anh ta.
Mọi người bắt đầu nói rằng anh ta là rất rất sâu sắc và khó phán xét hay hiểu.
Nếu ai đó nói rằng thơ của Shakespeare là hay, anh ta sẽ đáp lại rằng nó chỉ là
thứ rác rưởi - bất kì đứa trẻ học trò nào cũng có thể viết ra những bài thơ như
vậy. Thế thì người này sẽ cảm thấy dao động vì thực khó để chứng minh điều người
đó nói.
Thế kỉ này, theo một
cách nào đó, là thế kỉ của nhiều kiểu ngu xuẩn. Và nền tảng cho cái ngu xuẩn của
chúng ta là việc phủ định. Trong suốt một thế kỉ chúng ta đã từng phủ nhận hết
điều này tới điều khác. Khi người khác không có khả năng chứng minh, họ cũng
gia nhập vào việc phủ định. Nhưng nhớ sự sống càng nhiều tính phủ định, nó càng
trở nên có ý nghĩa hơn.
Không chân lí nào có
thể được biết tới mà không có tính khẳng định.
Sự sống càng có tính
phủ định, mặc dầu nó sẽ dường như thông minh hơn ở bên ngoài, bên trong nó sẽ
là ngu xuẩn hơn. Sự sống càng có tính phủ định, sẽ càng ít có khả năng cho chân
lí, niềm vui và cái đẹp xuyên thấu vào nó, vì mọi kinh nghiệm nâng cao chỉ xảy
ra cho tâm trí khẳng định. Mọi kinh nghiệm có giá trị có thể có được chỉ bởi
tâm trí khẳng định.
Bất kì khi nào ai đó
nói "không," cái gì đó bên trong tâm trí của người đó bị đóng lại. Bạn
đã bao giờ nghĩ về tác động của lời chưa? Nếu bạn nhốt bản thân bạn trong phòng
và nói to "không," bạn sẽ thấy rằng toàn thể tim bạn co lại và trở
nên bị đóng. Nếu bạn nói to "có," bạn sẽ thấy rằng tim bạn mở đôi
cánh của nó ra và bay vào trong bầu trời. Lời không chỉ được sinh ra: việc thốt
ra chúng tạo ra biến cố song song nào đó. Trong nói "không," cái gì
đó co lại bên trong bạn, và trong việc nói "có," cái gì đó mở ra bên
trong bạn.
Ai đó đã hỏi St
Augustine, "Tôn thờ của ông là gì? Lời cầu nguyện của ông là gì?"
St. Augustine đáp,
"Có, có và có, thưa Trời! Ngần này là tôn thờ của tôi."
Ông ấy có thể đã
không hiểu điều ông ấy đã nói, nhưng bất kì người nào nói có với cuộc sống của
mình trong tính toàn bộ của nó đều là người hữu thần. Hữu thần không có nghĩa
chỉ nói có với sự tồn tại của Thượng đế, nó là năng lực nói có. Người vô thần
không chỉ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, người vô thần chỉ có năng lực nói
không. Người như vậy sẽ liên tục co lại và rút lại và chung cuộc sẽ suy tàn.
Nhưng nói có làm cho người ta mở ra và mở rộng nhiều tới mức người đó hội nhập
với cái vô hạn.
Tôn thờ tượng là
phương pháp rất khẳng định. Nhưng bạn phải thiền và đi sâu vào trong tượng, vào
trong tôn thờ tới mức bạn đi tới biết rằng không có tượng, chỉ có tôn thừa. Tượng
chỉ là việc bắt đầu.
Đúng là tôn thờ là về
tượng, nhưng theo nghĩa sâu hơn bạn sẽ thấy rằng nó là biến đổi riêng của bạn.
Tượng chỉ là cái cớ, và cái cớ đó làm việc biến đổi bản thân người ta thành dễ
dàng.
Ts. Rudolf, người tôi
đã nói tới trước đây, đã phát triển một nguyên lí quan trọng, mà sẽ là hữu dụng
cho bạn để biết tới. Bất kì khi nào ý nghĩ nào đó nảy sinh trong tâm trí bạn,
nó phải đi qua dây thần kinh và cơ, qua toàn thể cơ chế của thân thể. Chẳng hạn,
nếu trong tâm trí tôi ý nghĩ đã nảy sinh để yêu bạn và để cầm tay bạn trong tay
tôi, lập tức ý nghĩ đó bắt đầu chuyển đi - đi từ não và cơ chế thân thể cho tới
khi nó đạt tới đầu ngón tay tôi.
Rudolf nói rằng khi một
ý nghĩ được sinh ra, nó có sức mạnh của một trăm đơn vị; đến lúc nó đạt tới đầu
ngón tay, chỉ một đơn vị còn lại. Chín mươi chín đơn vị được dùng trong việc
truyền, trong việc dịch ý nghĩ đó thành hành động. Mọi ý nghĩ đều trở nên không
sống vào lúc chúng đạt tới bề mặt bên ngoài của thân thể. Đó là lí do tại sao
nhiều hạnh phúc thực tại được trải nghiệm về ý nghĩ về cầm tay người yêu của bạn
hơn là việc trải nghiệm nó. Vào khoảnh khắc trải nghiệm bạn cảm thấy trải nghiệm
đó đã không thoả mãn như bạn đã mong đợi. Cái gì đã xảy ra? Tại sao việc hoàn
thành ý nghĩ đó lại kém đáp ứng hơn bản thân ý nghĩ này?
Khi ai đó nghĩ về làm
tình, người đó cảm thấy hân hoan, nhưng sau khi làm tình người đó bị bỏ lại với
cảm giác chán nản. Người đó cảm thấy nó không lớn thế chút nào. Tại sao? Khi ý
nghĩ được quan niệm nó có tiềm năng của một trăm đơn vị, nhưng đến lúc nó đạt tới
ngoại vi, nó đã bị thu lại thành một đơn vị. Đôi khi tiềm năng này là số không
hay thậm chí số âm. Nếu thân thể ốm, năng lượng bị mất đi khi ý nghĩ đi qua,
tiêu thụ mọi sức mạnh và biến nó thành phủ định. Cho nên nếu bạn ốm, bạn có thể
đã mong đợi cảm thấy hạnh phúc khi bạn cầm tay người yêu của bạn, nhưng thay vì
thế, đến lúc ý nghĩ đã đi tới tay của bạn, cầm tay cô ấy làm cho bạn bất hạnh.
Kinh nghiệm này trở thành phủ định. Rudolf nói rằng nếu điều này là đúng, thế
thì con người sẽ không bao giờ trở nên hạnh phúc.
Không có cách nào để
ý nghĩ của người ta có thể nhảy thẳng vào tâm trí của người khác sao? Tôn giáo
nói có đấy. Rudolf cũng đã xác nhận điều này qua hàng trăm thực nghiệm - rằng ý
nghĩ của tôi có thể lấy cú nhảy vào tâm trí người khác, không dùng trung gian của
thân thể vật lí của tôi. Để làm như vậy, tôi dừng ý nghĩ của tôi ở trung tâm
con mắt thứ ba bằng việc nhắm mắt lại, và làm cho nó nhảy thẳng vào con mắt thứ
ba của bạn. Toàn thể hệ thống viễn cảm này tuỳ thuộc vào nghệ thuật này.
Rudolf đã biểu diễn
điều này bằng việc truyền ý nghĩ đi một nghìn dặm. Ở Nga, Howard, và nhiều người
khác trong các thực nghiệp của các nước khác, đã cho bằng chứng về viễn cảm.
Trong thực nghiệm này, bạn tập trung ý nghĩ của bạn vào con mắt thứ ba của bạn,
dường như ý nghĩ của bạn đã trở thành mặt trời nhỏ quay nhanh trong tâm trí bạn.
Mặt trời nhỏ đó trở nên được hội tụ và có năng lực cao. Ý nghĩ này không được
phép lan rộng tới phần còn lại của thân thể, điều sẽ cho phép việc mất năng lượng;
năng lượng này phải tích luỹ tại một điểm, nơi nó vẫn còn được hội tụ như một
tia sáng mạnh. Ngay khi bạn cảm thấy rằng nó không thể trở nên được hội tụ hơn,
được tập trung hơn - đó là khoảnh khắc cho ý nghĩ này nhảy. Tại đích xác khoảnh
khắc đó bạn phải phóng chiếu ý nghĩ này vào trong tâm trí của người khác. Dù
người này có thể ở xa bao nhiêu, người này phải ở trong trường tưởng tượng của
bạn, và bạn cần tưởng tượng rằng ý nghĩ này đã đi vào trong tâm trí của người
kia qua con mắt thứ ba của người đó. Một khi điều này xảy ra, ý nghĩ này được
truyền đi.
Viễn cảm là nghệ thuật
phóng chiếu ý nghĩ vào ai đó khác mà không có bất kì trung gian vật lí nào. Con
mắt thứ ba đã được thiền theo nhiều cách với các chủ định tôn giáo. Nó có thể
được dùng cho liên lạc với tâm trí càn khôn cũng như với tâm trí con người. Chẳng
hạn, bạn đang ngồi trước tượng của Mahavira... Tâm thức của Mahavira đã trở
thành một với cái vô hạn, nhưng nếu bạn tập trung toàn bộ năng lượng của bạn
vào trung tâm con mắt thứ ba và phóng chiếu nó vào trong đầu của tượng, ý nghĩ
của bạn sẽ được truyền tới tâm thức của Mahavira. Theo cách này nhiều người đã
tới sau Mahavira được giúp đỡ. Với những người như vậy, Phật, Mahavira và
Christ không là chết mà vẫn sống ở đây và bây giờ. Với họ có liên lạc trực tiếp.
Thực nghiệm này có thể
được dùng để lấy cú nhảy vào trong cái vô hạn. Nhưng làm sao bạn sẽ tìm được
con mắt thứ ba của cái vô hạn? Bạn sẽ phóng chiếu năng lượng ý nghĩ của bạn tới
đâu? Bạn sẽ làm nó nhảy đi đâu?
Sẽ dễ dàng hơn nếu
liên lạc qua trung gian một bức tượng. Việc phóng chiếu thẳng tia ý nghĩ vào
trong cái vô hạn là khó. Điều đó có thể được làm, nhưng với điều đó có một kĩ
thuật khác. Tôn giáo mà không dùng tượng đã dùng kĩ thuật đó, nhưng nó rất khó.
Cho nên những tôn giáo đó mà ban đầu đã không dùng tượng thường cuối cùng đã đi
vòng để dùng chúng.
Đạo Hồi đã không dùng
tượng, nhưng nhà thờ Hồi giáo đã trở thành tượng. Và các mồ của các thánh Hồi
giáo được tôn thờ. Ngay cả ngày nay, trong bất kì phần nào của thế giới, khi
người Mô ha mét giáo nói lời cầu nguyện của mình, người đó quay mặt sang hướng
của Kaaba. Những người biết, họ đã dùng Kaaba để phóng chiếu các ý nghĩ của họ.
Những người không hiểu bí mật này vẫn còn chỉ đứng đối diện với hướng về Kaaba
trong khi họ cầu nguyện.
Không có khác biệt gì
dù bạn phóng chiếu lên Kaaba hay lên tượng. Không có khác biệt gì liệu chân của
tượng hay tảng đá Kaaba được hôn: nó là một và cùng một điều. Không có ảnh chụp
của Mohammed, không có tượng của Mohammed, nhưng điều đó tạo ra khác biệt gì?
Cái gì đó khác đã được làm. Không tượng hay ảnh nào của Mohammed đã bao giờ được
làm ra, nhưng người sùng kính đặt hoa lên mồ của các thánh nhân Hồi giáo. Không
thể nào tìm ra cái thay thế mạnh tương đương cho Mohammed.
Cho nên nếu Krishna
chỉ dẫn cho người sùng kính của ông ấy cúi lạy dưới chân ảnh ông ấy, ông ấy đã
nhìn xa trong việc hiểu các vấn đề của họ. Krishna đã biết rằng rất khó cho con
người né tránh việc dùng tượng; lấy cú nhảy thẳng vào trong cái vô hạn là khó tới
mức chỉ một trong mười người có thể thành công. Thế thì cái gì sẽ xảy ra cho những
người còn lại? Nếu tượng của Krishna mà không sẵn có, họ có thể dùng bất kì tượng
nào, điều sẽ rất bình thường.
Hiệu quả của việc cấm
dùng tượng của Mohammed là gì? Nếu một thầy tu Hồi giáo nào đó chết trong thị
trấn nào đó, người Hồi giáo tụ tập quanh mồ của ông ấy. Người Hồi giáo không chịu
trách nhiệm, chính bản tính bên trong của con người mới chịu trách nhiệm. Tôi cảm
thấy rằng điều tượng của Mohammed có thể đã làm thì không thể được làm bởi mộ của
thầy tu Hồi giáo. Mặc dầu Mohammed là đúng khi nói không có nhu cầu về tượng,
điều đó là đúng chỉ cho một người trong cả triệu người. Và với người như vậy
không có gì để được đạt tới. Người đó không cần tượng, cũng không cần Kaaba
không cần Koran hay Gita; người đó không cần đạo Hồi, không cần Krishna hay Phật.
Với người đó, mọi thứ là không cần thiết - người đó có thể đạt thẳng tới. Nhưng
về những người khác thì sao?
Với phần còn lại, mọi
điều đó là được cần, và khi cái gì đó được cần, tốt hơn cả là có cái tốt nhất.
Điều đó là tốt hơn, thay vì tôn thờ mộ của thầy tu hay tượng của người đức hạnh
nào đó, là có tượng của một Phật, một Krishna, một Mohammed hay một Mahavira. Khi
bạn phải du hành bằng đường biển, đi bằng thuyền nhỏ, được làm một cách bộ phận
là nguy hiểm; tốt hơn cả là đi trong con tầu lớn hay tầu hơi nước. Khi con đường
của Phật là sẵn có, thật ngu xuẩn mà phụ thuộc vào bùa hộ mạng do thầy tu nào
đó làm ra, hay phụ thuộc vào nấm mồ của người mà phúc lành của người đó có thể
đã giúp cho ai đó khỏi bệnh. Nhưng nếu tượng của Phật không có sẵn, vì nhu cầu
bên trong của con người, người đó sẽ tìm cái thay thế.
Về bề mặt dường như
những người đã bác bỏ tượng đã nói cái gì đó lớn lao. Nhưng những người ủng hộ
tôn thờ tượng có kinh nghiệm của hàng nghìn năm, và họ biết từ trải nghiệm rằng
người ta sẽ cần tượng. Phần lớn mọi người đều có giới hạn trong việc họ không
thể đạt tới cái vô hạn một cách trực tiếp. Đó là lí do tại sao tốt hơn cả là
cung cấp cái tốt nhất của các phe còn lại ở giữa.
Đã không có xã hội
nào trên trái đất mà không có tượng. Không nhóm người nào ở bất kì góc nào của
thế giới đã tồn tại mà không có tượng dưới dạng này hay dạng khác. Điều này chỉ
ra rằng tượng đáp ứng cho nhu cầu cố hữu nào đó, không chỉ cho cá nhân mà cho
toàn thể nhân loại. Chính là chỉ trong thế kỉ này hay hai trăm năm qua mà quan
niệm về tượng đã bị đập tan. Một số người tranh cãi rằng tượng là gánh nặng vô nghĩa,
chỉ là đá, và chúng phải bị phế bỏ đi. Nhưng nếu đầu tiên nghĩa đằng sau việc
tôn thờ tượng được hiểu đúng, tôi nghĩ rằng bất kì người thông minh nào sẽ
không muốn phế bỏ tượng. Nhưng nếu ý nghĩ khoa học đằng sau việc tôn thờ tượng
mà không được hiểu, thế thì tượng sẽ phải bị phế bỏ đi; chúng không thể được giữ
lại. Chúng có lẽ sẽ tự bản thân chúng rơi rụng đi.
Ngày nay mọi người
tôn thờ tượng mà không hiểu biết và cúi lạy trước chúng mà không biết bất kì
cái gì. Tim họ không tham gia, đó chỉ là nghi thức còn lại. Những người như vậy
sẽ chỉ là nguyên nhân của việc phá huỷ tượng - vì mặc dù họ thường ngày đi tôn
thờ tượng, không có biến đổi trong cuộc sống của họ và do vậy việc tôn thờ tượng
dường như vô tích sự.
Một người tôn thờ tượng
trong bốn mươi năm - và không cái gì xảy ra cho anh ta... Và anh ta lôi cả con
trai của mình tới đền thờ nữa. Khi đứa con hỏi bố nó rằng nếu bố đã không thu
được bất kì cái gì trong bốn mươi năm tôn thờ, tại sao nó bị buộc phải đi tới đền,
không có câu trả lời. Nếu cái gì đó đã xảy ra trong người bố, câu hỏi này chắc
đã không nảy sinh. Có một chuyện ngụ ngôn nhỏ của Aesop... Trong một khu rừng,
một con sư tử hỏi mọi con vật mà nó bắt gặp là liệu nó có phải là vua của rừng
đó hay không. Nó hỏi gấu, và gấu nói, "Ông dứt khoát là vua!" Thế rồi
nó hỏi báo, có ngần ngại đôi chút nhưng thế rồi báo nói có, sư tử là vua. Thế rồi
sư tử hỏi voi. Voi lập tức cuộn sư tử trong vòi và ném nó đi khoảng cách xa.
Khi đang rơi xuống, sư tử nói với voi, "Ôi, đại sinh linh! Nếu ông không
biết câu trả lời ông có thể đơn giản nói vậy. Ông không cần ném tôi đi - tôi chắc
sẽ đi theo kiểu riêng của tôi!" Nhưng con voi đủ mạnh để nâng và ném sư tử
đi không cần câu trả lời nào. Không cần phải nói ai là vua.
Người tôn thờ tượng
chắc không phải đưa ra bất kì câu trả lời nào nếu người đó đã biết tôn thờ là
gì. Cuộc sống của người đó sẽ là câu trả lời. Mắt người đó, cách người đó ngồi
và đứng, chắc đã trở thành lời đáp. Nhưng những người không biết tôn thờ là gì
và vẫn liên tục tôn thờ, chịu trách nhiệm cho việc phế bỏ tượng. Họ không biết
tôn thờ là gì, nhưng tượng đã còn lại trong tay họ.
Chính bởi vì điều này
mà tôi đã nói với bạn về tôn thờ - để cho bạn có thể hiểu rằng tượng là phương
pháp được ngụ ý cho biến đổi bên trong, toàn bộ. Tượng chỉ là cái cớ.
Điều đó giống như
treo áo choàng của bạn lên móc áo. Chủ định của móc chỉ để treo áo choàng: nếu
như không có móc, áo choàng chắc đã được treo ở cửa ra vào hay ghế. Nó phải được
treo ở đâu đó. Nhưng một khi áo được treo rồi, bạn không thể thấy được móc, và
do vậy bạn không hỏi bất kì câu hỏi nào về nó.
Tượng chỉ là cái móc
- tôn thờ là chủ định chính.
Nhưng trong khi tôn
thờ tượng bạn không thể thấy được việc tôn thờ: bạn không thể thấy được chiếc
áo choàng, bạn chỉ thấy cái móc. Bạn cảm thấy cái móc đã làm hỏng tường - tại
sao giữ nó?
Bạn không biết bất kì
cái gì về tôn thờ. Chỉ tượng còn lại, hoàn toàn bất lực và thất bại. Nó có thể
không sống sót - duy nhất lực sống của tôn thờ có thể giữ được nó. Đó là lí do
tại sao tôi đã nói với bạn về tôn thờ.
Xem Tiếp Chương 5 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá