Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Điều Huyền Bí Ẩn Kín – Osho
(Những Điều Huyền Bí Tiềm Ẩn)
Chương 5. Chiêm Tinh Học - Khoa Học Về Tính Một Càn Khôn
Nghe hoặc Tải MP3 'Điều Huyền Bí Ẩn Kín' ê
Chiêm tinh học có lẽ
là chủ đề cổ đại nhất và theo một cách nào đó cũng là bị cấm kị nhất. Nó là cổ
đại nhất vì như chúng ta có khả năng nghiên cứu lịch sử nhân loại xa nhất lùi về
sau, chiêm tinh học đã từng hiện hữu trong sự tồn tại. Các mô tả chiêm tinh học
đã được tìm thấy trên xương còn lại từ nền văn minh Sumerian đã tồn tại hai
mươi nhăm nghìn năm trước Jesus. Xương còn lại đã được phát hiện với những câu
khắc chiêm tinh học và với một đại cương về quĩ đạo mặt trăng trên trời.
Nhưng ở Ấn Độ khoa học
này thậm chí còn cổ hơn. Trong Rigveda, có nhắc tới chòm sao nào đó mà chỉ có
thể đã xuất hiện chín mươi nhăm nghìn năm trước. Vì điều này, Lokmanya Tilak đã
kết luận rằng thậm chí Vedas chắc chắn phải cổ đại hơn: chòm sao như Vedas đã
mô tả nó vào khoảnh khắc nào đó chín mươi nhăm nghìn năm trước, cho nên việc
Veda nhắc tới chòm sao đặc biệt đó phải có ít nhất chín mươi nhăm nghìn năm tuổi.
Việc Veda nhắc tới điều
đặc biệt đó không thể được thêm vào ở thời kì về sau. Khác đi, các thế hệ trẻ
hơn chắc đã không có khả năng luận ra chòm sao đã tồn tại nhiều năm trước.
Nhưng bây giờ chúng ta có các phương pháp khoa học mà chúng ta có thể dùng để
khám phá ra các ngôi sao đã ở đâu vào một khoảnh khắc đặc biệt trong quá khứ xa
xôi.
Các luật sâu nhất của
chiêm tinh học đầu tiên đã được khám phá ở Ấn Độ. Thực ra chính là vì chiêm
tinh học mà toán học được sinh ra. Để làm những tính toán chiêm tinh học, đầu
tiên toán học được cần tới.
Chữ số được dùng
trong số học đã được phát minh ra ở Ấn Độ - các con số từ một tới mười đã tồn tại
trong mọi ngôn ngữ thế giới về căn bản có nguồn gốc từ Ấn Độ. Và trên toàn thế
giới hệ thống thập phân đã được chấp nhận: hệ thống thập phân đã được sinh ra ở
Ấn Độ, và nó dần lan rộng ra toàn thế giới. Khi bạn nói "chín-nine"
trong tiếng Anh, nó chỉ là việc sửa đổi của từ tiếng Phạn nav. Khi bạn nói
"tám-eight" trong tiếng Anh, nó chỉ là việc sửa đổi của từ tiếng Phạn
acht. Các con số từ một tới chín, phổ biến trong mọi ngôn ngữ của thế giới, đã
đi vào sự tồn tại chỉ vì ảnh hưởng của chiêm tinh học Ấn Độ.
Tri thức đầu tiên về
sự tồn tại của chiêm tinh học đã là từ nền văn minh Sumerian từ Ấn Độ. Sáu
nghìn năm trước Jesus, người Sumerian đã là người đầu tiên mở cánh cửa của
chiêm tinh học cho thế giới phương Tây. Người Sumerian đã đặt nền móng cho khảo
cứu khoa học về chòm sao. Họ đã xây dựng nên chiếc tháp khổng lồ, cao hơn hai
mươi mốt mét, và từ tháp đó các tu sĩ Sumerian thường quan sát bầu trời hai
mươi tư tiếng một ngày. Siêu hình của người Sumerian đã sớm biết rằng bất kì
cái gì xảy ra cho nhân loại đều bằng cách nào đó chung cuộc được kết nối với
các ngôi sao - chúng là nguồn.
Sáu nghìn năm trước
Jesus, chính cách nhìn ở Sumeria là bất kì khi nào ốm bệnh xuất hiện, bất kì
khi nào dịch bệnh được sinh ra, các ngôi sao bằng cách nào đó được kết nối. Những
ngày này có cơ sở khoa học cho cách nhìn này. Và những người hiểu khoa học về
chiêm tinh học ngày nay nói chính người Sumerian đã bắt đầu lịch sử của nhân loại.
Năm 1920 một nhà khoa
học người Nga, Chijevsky, đã nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc và đã khám
phá ra rằng cứ mỗi mười một năm, những vụ nổ khổng lồ xảy ra trên mặt trời. Cứ
mỗi mười một năm vụ nổ hạt nhân lại xuất hiện trên mặt trời. Chijevsky đã khám
phá ra rằng bất kì khi nào vụ nổ hạt nhân như vậy xuất hiện trên mặt trời, chiến
tranh và cách mạng bắt đầu trên trái đất. Theo ông ấy, trong bẩy trăm năm qua,
bất kì khi nào những hiện tượng như vậy xuất hiện trên mặt trời, đã có bệnh tật
trên trái đất.
Phân tích của
Chijevsky là không thể phủ nhận nổi thế, và vì điều đó đi ngược lại quan điểm
Mác xít, năm 1920 Stalin đã bắt ông ấy và tống vào tù. Chỉ sau cái chết của
Stalin Chijevsky mới có thể được thả ra. Với Stalin, kết luận của Chijevsky phải
đã dường như là rất xa lạ. Theo tư duy của người Mác xít và người cộng sản, bất
kì cuộc cách mạng nào xuất hiện trên trái đất về nền tảng được gây ra bởi khác
biệt kinh tế giữa con người. Nhưng Chijevsky đã tuyên bố rằng nguyên nhân của
cách mạng là trong việc bùng nổ xảy ra trên mặt trời.
Làm sao việc bùng nổ
trên mặt trời có thể có liên quan tới sự tồn tại của nghèo hay giầu trong cuộc
sống của con người? Nếu luận đề của Chijevsky là đúng, thế thì toàn bộ hệ thống
của Mác bị tan thành bụi. Thế thì bạn không thể giải thích cách mạng bằng tham
chiếu tới kinh tế và đấu tranh giai cấp; thế thì duy nhất chiêm tinh học có thể
giải thích cho cách mạng.
Chijevsky đã không thể
bị chứng minh là sai. Tính toán bẩy trăm năm của ông ấy đã có tính khoa học thế,
kết nối mà ông ấy đã thiết lập giữa việc nổ trên mặt trời và hiện tượng trên
trái đất là gần tới mức chứng minh ông ấy sai là khó. Nhưng tống ông ấy tới
Siberia là chuyện đơn giản.
Sau cái chết của
Stalin, Khrushchev đã thả Chijevsky khỏi Siberia. Năm mươi năm có giá trị của đời
người này đã bị mất ở Siberia. Sau việc thả ông ấy, ông ấy không thể sống thêm
hơn bốn tới sáu tháng, nhưng trong vài tháng đó ông ấy đã thu thập chứng cớ nhiều
hơn cho luận điểm của ông ấy. Ông ấy cũng móc nối việc lan rộng của dịch bệnh
trên trái đất với ảnh hưởng của mặt trời.
Mặt trời không phải
là quả bóng lửa tĩnh tại, như chúng ta thường nghĩ, mà thay vì thế là cơ thể dữ
dội, năng động và sống. Mọi khoảnh khắc mặt trời đều đổi tâm trạng của nó. Và
khi mặt trời đổi tâm trạng của nó cho dù chút ít, sự sống trên trái đất run rẩy.
Không cái gì xảy ra trên trái đất mà không có cái gì đó xảy ra trên mặt trời.
Khi có nhật thực, chim trong rừng ngừng bay hai mươi bốn giờ trước đó. Trong
toàn thể thời gian nhật thực toàn trái đất trở nên im lặng. Chim ngừng hót và mọi
con vật trong rừng trở nên bị đè nặng và hoảng sợ, đầy e sợ. Khỉ bỏ cây và trèo
xuống đất. Bản thân chúng dồn vào các nhóm, dường như ngụ ý bảo vệ. Và điều
đáng ngạc nhiên là những con khỉ đó, kẻ bao giờ cũng huyên thuyên và kêu la, trở
nên yên tĩnh vào lúc nhật thực tới mức ngay cả các sadhus và sannyasins trong
thiền cũng không thể sánh được với chúng.
Chijevsky đã giải
thích toàn thể vấn đề này, nhưng tư duy đầu tiên như vậy đã bắt nguồn ở
Sumeria. Từ đó trở đi, một nhà vật lí Thuỵ Sĩ có tên Paracelsus đã khám phá ra
nhiều thông tin hơn. Ông ấy đã làm một khám phá vô song - và khám phá nảy sẽ biến
đổi toàn thể y học, nếu không phải hôm nay thì ngày mai. Mãi cho tới giờ khám
phá này đã không thể được coi là hợp thức vì chiêm tinh học là chủ đề bị bỏ qua
thế - cổ đại nhất, bị bỏ qua nhiều nhất, và đồng thời được kính trọng nhất.
Năm ngoái ở Pháp người
ta đã tính toán rằng bốn mươi nhăm phần trăm mọi người tin rằng chiêm tinh học
là khoa học. Ở Mĩ, năm nghìn nhà chiêm tinh hàng đầu hiện thời đang làm việc cả
đêm lẫn ngày. Họ có nhiều khách hàng tới mức họ không bao giờ có thể kết thúc
công việc của họ một cách thích đáng - người Mĩ trả hàng triệu đô la hàng năm
cho các nhà chiêm tinh. Người ta ước lượng rằng trên toàn thế giới, bẩy mươi
tám phần trăm mọi người tin vào chiêm tinh học. Bẩy mươi tám phần trăm những
người tin vào chiêm tinh học bao gồm một số rất lớn các nhà khoa học, nhà tư tưởng,
và những người thông minh khác.
C.J. Jung đã nói rằng
cánh cửa của đại học đã bị đóng lại với chiêm tinh học trong ba trăm năm, nhưng
trong ba mươi năm sắp tới chiêm tinh học sẽ mở những cánh cửa đó và lại đi vào
trong đại học. Điều đó sẽ là có thể vì những tuyên bố mà chiêm tinh học đã đưa
ra mà mãi cho tới giờ chưa được chứng minh, giờ có thể được chứng minh.
Paracelsus đã cho
sinh thành một khám phá - rằng con người trở nên ốm bệnh chỉ khi mối quan hệ
hài hoà giữa người đó và chòm sao vào lúc sinh của người đó bằng cách nào đó bị
phá vỡ. Về điều này, chút ít giải thích là cần thiết. Nhiều năm trước
Paracelsus, một người Hi Lạp có tên Pythagoras đã cho sinh thành một nguyên tắc
hài hoà hành tinh rất có giá trị. Khi Pythagoras tuyên bố nguyên tắc này ở Hi Lạp,
ông ấy mới trở về từ cuộc hành trình tới Ai Cập và Ấn Độ. Khi ông ấy tới Ấn Độ,
nước này đã được hấp thu mạnh mẽ bởi các ý tưởng của Phật và Mahavira. Sau việc
trở về Hi Lạp của ông ấy, ông ấy đã đưa vào trong tường trình của mình một đề cập
đặc biệt tới các sadhu Phật giáo và Jaina giáo. Ông ấy đã cho những người thấy
Jaina cái tên Jainosophists, và cũng tường trình rằng họ bước đi trần trụi.
Pythagoras tin rằng mọi
ngôi sao, mọi hành tinh và mọi vệ tinh phát ra rung động duy nhất qua chuyển động
của nó khi nó du hành trong không gian. Mọi khoảnh khắc của sao đều cho ra rung
động, và mọi sao có chuyển động riêng của nó. Mọi rung động cùng nhau của sao tạo
ra sự hài hoà âm nhạc mà ông ấy gọi là hài hoà của vũ trụ.
Khi bạn được sinh ra,
giai điệu được tạo ra bởi việc điều chỉnh của các sao vào lúc đó được khắc vào
tâm trí bạn trong trạng thái tươi tắn, phức tạp nhất, và nhạy cảm nhất - trạng
thái sinh. Trong suốt cuộc đời của bạn, điều này sẽ gây ra sức khoẻ tốt hay sức
khoẻ yếu. Khi bạn sống trong hoà điệu với sự hài hoà âm nhạc nguyên thuỷ, cái tồn
tại vào lúc sinh của bạn, thế thì bạn mạnh khoẻ. Và bất kì khi nào việc điều chỉnh
của bạn với sự hài hoà âm nhạc nền tảng này bị phá vỡ, bạn trở nên ốm.
Trong việc này, Paracelsus
đã làm một công trình rất có ý nghĩa. Ông ấy sẽ không kê thuốc cho bất kì bệnh
nhân nào chừng nào ông ấy còn chưa thấy kundali của người đó - sơ đồ sinh chiêm
tinh học của người đó. Và điều đáng ngạc nhiên là sau khi đã xem xét sơ đồ sinh
của bệnh nhân, Paracelsus sẽ chữa cho những bệnh nhân đã tới nhầm các bác sĩ điều
trị khác - các bệnh nhân không thể được chữa khỏi bởi bất kì bác sĩ điều trị
nào khác. Ông ấy thường nói, "Chừng nào tôi chưa biết vị trí của các ngôi
sao vào lúc sinh của người này, không thể nào biết được các nốt của sự hài hoà
bên trong của người đó. Chừng nào tôi chưa biết cách bố trí của sự hài hoà bên
trong của người đó, làm sao người này có thể được chữa mạnh khoẻ?"
Nhưng mạnh khoẻ được
ngụ ý về cái gì? Điều này chúng ta phải cố hiểu. Bình thường, nếu chúng ta hỏi
bác sĩ điều trị định nghĩa về mạnh khoẻ là gì, ông ấy sẽ chỉ nói rằng mạnh khoẻ
là không có ốm bệnh. Nhưng định nghĩa này có tính phủ định. Chính điều không
may là chúng ta phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm yếu. Mạnh khoẻ là điều
khẳng định, trạng thái khẳng định: ốm yếu có tính phủ định. Mạnh khoẻ là tự
nhiên của chúng ta; ốm yếu là tấn công vào tự nhiên. Cho nên điều rất kì lạ là
chúng ta phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm yếu. Định nghĩa chủ dưới dạng
khách - điều này là rất kì lạ.
Mạnh khoẻ cùng tồn tại
với chúng ta; ốm yếu thỉnh thoảng tới. Mạnh khoẻ đồng hành với chúng ta từ việc
sinh; ốm yếu là hiện tượng bề mặt. Nhưng nếu chúng ta hỏi bác sĩ điều trị nghĩa
của mạnh khoẻ là gì, ông ấy chỉ có thể nói rằng mạnh khoẻ hiện diện khi ốm yếu
vắng bóng.
Paracelsus thường nói
rằng diễn giải này là sai - khái niệm về mạnh khoẻ cần được định nghĩa một cách
khẳng định. Nhưng làm sao chúng ta có thể đạt tới định nghĩa khẳng định, việc
diễn giải về khái niệm mạnh khoẻ mà sẽ có tính sáng tạo?
Paracelsus thường
nói, "Chừng nào chúng ta chưa biết trạng thái của sự hài hoà bên trong của
ông, chúng ta nhiều nhất chỉ có thể giải thoát ông khỏi ốm yếu của ông - vì sự
hài hoà bên trong của ông là cội nguồn của mạnh khoẻ của ông. Nhưng khi chúng
ta giải thoát ông khỏi ốm yếu này, ông sẽ lập tức bị ốm yếu khác, vì không cái
gì đã được làm với sự hài hoà bên trong của ông. Sự hài hoà bên trong của ông
phải được hỗ trợ."
Năm trăm năm đã trôi
qua từ thời Paracelsus, và những khám phá của ông ấy đã biến mất trong quên
lãng. Nhưng bây giờ, trong hai mươi năm qua, chiêm tinh học đã lại nổi lên.
Trong thời gian này một khoa học mới đã được sinh ra. Tôi sẽ mô tả khoa học mới
này một chút, và thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu khoa học cổ đại về chiêm tinh
học dễ dàng hơn.
Năm 1950 một khoa học
mới đã được sinh ra có tên là hoá học càn khôn. Người khởi thuỷ của khoa học
này là Georgi Giardi, một trong những người có ý nghĩa nhất của thế kỉ này. Người
này, sau vô số thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, đã chứng minh theo cách khoa
học rằng toàn thể vũ trụ là sự thống nhất hữu cơ - rằng toàn thể vũ trụ là một
thân. Nếu ngón tay của tôi bị đau, thế thì toàn thân tôi bị ảnh hưởng.
"Thân" ngụ ý rằng không chi nào là tách rời, mọi thứ đều được nối với
nhau. Nếu mắt tôi bị đau, thế thì ngón chân cái của tôi cũng trải nghiệm đau
đó. Nếu chân tôi bị đau, thông điệp này đạt tới tim. Nếu tâm trí của tôi ốm,
toàn thân tôi sẽ bị rối loạn. Nếu toàn thân tôi bị phá huỷ, thế thì sẽ khó cho
tâm trí của tôi tìm ra bất kì chỗ nào để hiện hữu. Thân thể là sự thống nhất hữu
cơ: chạm vào một phần và toàn thân rung động; mọi bộ phận đều bị ảnh hưởng.
Hoá học càn khôn nói
rằng toàn thể càn khôn là một thân. Không cái gì trong nó đứng tách rời, mọi thứ
đều được nối với nhau. Cho nên không thành vấn đề một ngôi sao có thể ở xa bao
nhiêu với chúng ta, khi nó thay đổi, nhịp tim đập của chúng ta cũng thay đổi.
Không thành vấn đề mặt trời có thể ở xa bao nhiêu, khi nó trở nên rất rối loạn,
tuần hoàn máu của chúng ta cũng bị rối loạn. Cứ mỗi mười một năm trận bão
nguyên tử lại xuất hiện trên mặt trời. Lần cuối cùng có cơn bão nguyên tử lớn
và sự bùng nổ dữ dội đã diễn ra, một bác sĩ Nhật Bản có tên Tamatto đã làm một
khám phá đáng ngạc nhiên. Bác sĩ này đã làm việc trên máu nữ trong hai mươi
năm. Có một thuộc tính duy nhất cho máu nữ mà không có trong máu nam. Vào thời
gian kinh nguyệt máu đàn bà trở thành loãng, nhưng máu của đàn ông bao giờ cũng
còn là một loại. Máu của đàn bà vào thời gian kinh nguyệt trở nên loãng ra; vào
thời gian mang thai máu của họ cũng trở nên loãng. Đây là một khác biệt căn bản
giữa máu của đàn ông và đàn bà, theo Tamatto. Nhưng khi bão năng lượng nguyên tử
xuất hiện trên mặt trời với sự mãnh liệt lớn, máu của đàn ông cũng trở nên
loãng. Đây đã là hiện tượng rất mới. Trước điều này chưa bao giờ có ghi chép rằng
máu của đàn ông bị ảnh hưởng bởi sự nhiễu loạn trên mặt trời. Và nếu máu có thể
bị ảnh hưởng như vậy, thế thì bất kì cái gì cũng có thể bị ảnh hưởng.
Có một nhà tư tưởng
Mĩ, Frank Brown, người đã từng cố gắng thu xếp các tiện nghi cho du khách vào
không gian. Suốt nửa đời mình, ông ấy đã làm điều đó thành nhiệm vụ của mình để
đảm bảo rằng những người du hành trong không gian sẽ không đối diện với khó
khăn. Vấn đề nghiêm trọng nhất là họ sẽ bị ảnh hưởng thế nào khi họ rời khỏi
trái đất. Không ai biết họ có thể đương đầu với bao nhiêu tia phóng xạ nguyên tử
hay nó có thể ảnh hưởng tới họ thế nào.
Trong hai nghìn năm
sau Aristotle, ở phương Tây người ta đã cho rằng không gian là trống rỗng, rằng
chẳng cái gì có đó: hai trăm dặm cách xa trái đất, bầu khí quyền dừng lại và có
không gian trống rỗng. Nhưng việc nghiên cứu của những người du hành không gian
đã chứng minh khái niệm này là sai. Không gian không trống rỗng, nó rất đầy. Nó
không trống rỗng không chết - nó cực kì sống động.
Chân lí là ở chỗ tầng
rộng hai trăm dặm của bầu khí quyển của trái đất ngăn cản nhiều ảnh hưởng có hại
đạt tới chúng ta. Nhưng trong không gian mọi loại dòng chảy kì lạ đang chảy,
các tác động mà con người có thể không có khả năng trụ lại được.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết điều này, và bạn sẽ cười, nhưng trước khi ông ấy để một người được đi vào
trong không gian, Frank Brown đã đưa khoai tây vào không gian. Chính ý định của
Brown là có rất ít khác biệt bản chất giữa con người và khoai tây. Nếu khoai
tây héo mòn, thế thì người không thể sống sót được; nếu khoai tây sống sót, thế
thì con người cũng có thể sống sót. Khoai tây là một cơ chế rất giỏi chịu đựng,
và con người rất nhạy cảm. Nếu ngay cả khoai tây cũng không thể sống sót được
trong không gian thế thì với con người không có hi vọng sống sót nào. Nếu khoai
tây trở lại sống động, và nếu nó đâm chồi sau khi được gieo trong đất, thế thì
con người có thể được đưa vào không gian. Tuy nhiên, chắc vẫn sẽ còn có e ngại
liên quan tới năng lực sống sót của con người.
Từ thực nghiệm của
mình Brown đã chứng minh thêm một điều nữa - rằng hạt mầm khoai tây nằm trong đất,
hay bất kì hạt mầm nào nằm trong đất, chỉ lớn lên trong mối quan hệ với mặt trời.
Một mình mặt trời đánh thức nó và khuyến khích nó hiện ra. Một mình mặt trời vẫy
gọi mầm cây và xui khiến sự trưởng thành của nó.
Brown cũng đã nghiên
cứu trong lĩnh vực khác. Bộ môn khác này thậm chí bây giờ vẫn chưa được cho cái
tên thích hợp, nhưng hiện thời nó được gọi là di truyền hành tinh. Có từ khác
trong tiếng Anh, horoscope - đọc số tử vi, bắt nguồn từ từ Hi Lạp horoscopos.
Nghĩa của từ horoscopos là: Tôi quan sát những hành tinh đang nổi ra.
Khi đứa trẻ được sinh
ra, vào khoảnh khắc đó nhiều ngôi sao nổi lên khắp đường chân trời của trái đất.
Cũng như mặt trời mọc buổi sáng và lặn vào buổi tối, sao mọc và lặn trong không
gian hai mươi bốn giờ một ngày. Nếu một đứa trẻ được sinh ra vào sáu giờ sáng,
vào lúc đó mặt trời cũng đang mọc. Vào lúc đó một số ngôi sao cũng đang sinh,
và những ngôi sao khác đang tắt. Một số ngôi sao đang lên; một số ngôi sao đang
suy giảm, những ngôi sao khác đang mọc. Đứa trẻ này được sinh ra trong cách bố
trí nào đó của các sao trong không gian.
Mãi cho tới giờ chúng
ta đã hoài nghi - và thậm chí ngày nay nhiều người không biết sâu lắm về chủ đề
này vẫn hoài nghi - rằng trăng và sao có thể có liên quan gì tới con người. Dù
sao ở bất kì chỗ nào, có khác biệt gì mà nó tạo ra cho đứa trẻ nào đó đang được
sinh ra trong làng? Và thế nữa, vào cùng ngày tháng, dưới cùng chòm sao không
chỉ một đứa trẻ mà hàng nghìn đứa trẻ được sinh ra... Trong số những đứa này đứa
thì có thể là tổng thống của nước nào đó, nhưng số còn lại sẽ không là tổng thống.
Trong số những đứa này đứa thì có thể chết sau một trăm năm, và đứa thì chết
sau hai ngày. Trong số những đứa này đứa thì sẽ là thiên tài và đứa sẽ là kẻ ngốc.
Cho nên từ quan điểm nông cạn người ta có thể hỏi làm sao đứa trẻ có thể có
quan hệ với đọc số tử vi chỉ bởi được sinh ra dưới chòm sao nào đó và hình mẫu
hành tinh.
Logic của câu hỏi như
vậy dường như là rõ ràng và trực tiếp: Tại sao các ngôi sao có liên quan tới việc
sinh của riêng một đứa trẻ? Và thế nữa, không chỉ một đứa trẻ được sinh ra; dưới
ngay cùng những ngôi sao đó nhiều đứa được sinh ra mà không giống nhau chút
nào. Từ logic như vậy dường như là việc sinh của con người chẳng có kết nối gì
với các ngôi sao.
Nhưng từ nghiên cứu của
Brown, Picardi, Tamatto và những người khác, chúng ta có thể rút ra một kết luận
lớn. Tất cả những nhà khoa học này đều nói rằng trong khi chúng ta chưa thể
tuyên bố rằng một đứa trẻ là một cá nhân bị ảnh hưởng bởi các ngôi sao, dầu vậy,
bây giờ chúng ta có thể nói chắc chắn rằng sự sống như một toàn thể là bị ảnh
hưởng. Liệu đứa trẻ có bị ảnh hưởng như một cá nhân hay không chúng ta không thể
nói hay biết bây giờ, nhưng sự sống là như một toàn thể. Và nếu sự sống là như
một toàn thể, thế thì khi chúng ta nghiên cứu sự kiện của vấn đề này sâu hơn,
chúng ra sẽ khám phá ra rằng cả cá nhân nữa, cũng bị ảnh hưởng bởi các ngôi
sao.
Một điều nữa phải được
xem xét. Người ta đã từng nghĩ rằng chiêm tinh học là khoa học mà, vì nó bắt
nguồn vào thời kì đầu, đã không thể phát triển. Nhưng theo cái nhìn của tôi,
tình huống chính là điều đối lập. Chiêm tinh học đã là khoa học được phát triển
vô hạn trong nền văn minh cực kì tiên tiến nào đó, nhưng nền văn minh đó đã bị
mất và chỉ những mảnh mẩu không đầy đủ của chiêm tinh học của nó còn lại trong
tay chúng ta.
Chiêm tinh học không
phải là khoa học mới mà cần được phát triển, mà là khoa học đã một thời rất
tiên tiến. Thế rồi nền văn minh đã phát triển nó đã bị mất. Các nền văn minh tới
và đi mọi ngày: những qui tắc cơ bản, những châm ngôn cơ bản và các nguyên tắc
cơ bản của những điều đã được họ phát triển, trở nên bị mất. Ngày nay, khoa học
đang tiến tới điểm mà nó sẽ chấp nhận luận đề rằng sự sống là một toàn thể bị ảnh
hưởng bởi chuyển động của các ngôi sao.
Vào lúc sinh, các điều
kiện của tâm trí của đứa trẻ là đích xác giống như tấm nền ảnh chụp rất nhạy cảm...
Hai hay ba điều cần được nghĩ tới nếu chúng ta muốn hiểu cách sự sống bị ảnh hưởng.
Và chỉ nếu sự sống bị ảnh hưởng mới có thể có khả năng có chiêm tinh học -
không có điều khác.
Chúng ta phải cố hiểu
hiện tượng sinh đôi. Hai kiểu sinh đôi tồn tại. Một kiểu là sinh đôi đồng nhất
- những người được sinh ra từ một trứng. Kiểu kia là những người mà, mặc dầu họ
là sinh đôi, được sinh từ các trứng tách rời; trong bụng mẹ hai trứng trở nên
được thụ tinh, và hai đứa trẻ được sinh ra. Kiểu thứ nhất là hiếm hơn - hai đứa
trẻ từ cùng một trứng. Họ là chủ đề rất có ý nghĩa để nghiên cứu, vì họ được
sinh ra cùng lúc. Do sự cần thiết chúng ta gọi những đứa trẻ được sinh ra từ
các trứng tách rời, là "sinh đôi," nhưng khoảnh khắc sinh của họ
không đích xác như nhau. Điều phải được hiểu là việc sinh là một hiện tượng mơ
hồ. Khía cạnh thứ nhất của sinh là thụ thai - việc sinh thực xảy ra vào ngày mà
phôi thai được thụ thai trong bụng của người mẹ. Đây mới là sinh thực tại. Điều
bạn gọi là sinh thực sự là sinh số hai - khi đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ.
Nếu chúng ta tiến
hành nghiên cứu chiêm tinh đầy đủ - một mình như người Hindu đã làm, và làm rất
thấu đáo - thế thì mối quan tâm thực tại sẽ không bắt đầu khi đứa trẻ được sinh
ra. Mối quan tâm thực tại của chúng ta bắt đầu khi đứa trẻ bắt đầu cuộc hành
trình của nó trong bụng người mẹ, khi phôi thai lấy hình thể - vì đó là việc
sinh thực tại. Cho nên người Hindu cũng đã đi tới cảm thấy rằng nếu một kiểu trẻ
em đặc biệt định lấy việc sinh, nó sẽ được sinh nếu giao hợp và mang thai xuất
hiện dưới sự thu xếp của các hành tinh và chòm sao phù hợp nhất cho kiểu đó.
Bây giờ tôi sẽ giải thích cho bạn chút ít về bối cảnh của điều này, vì nhiều
công việc đã được làm trong khu vực này và nhiều thứ đã trở nên rõ ràng.
Bình thường, khi đứa
trẻ được sinh ra vào sáu giờ sáng, chúng ta nghĩ rằng chòm sao tồn tại vào thời
gian đó ảnh hưởng tới đứa trẻ. Cái nhìn của tôi là khác, khác căn bản. Chỉ vì đứa
trẻ được sinh ra vào sáu giờ sáng, các ngôi sao không tung ảnh hưởng của chúng
lên đứa trẻ. Không. Thay vì thế, đứa trẻ chọn được sinh ra dưới những ngôi sao
mà sẽ ảnh hưởng lên nó như nó muốn được ảnh hưởng. Đây là điều khác biệt triệt
để. Khi đứa trẻ lấy việc sinh, thế thì nó chọn các hành tinh và sao và khoảnh
khắc mà tại đó nó sẽ lấy việc sinh. Và nếu chúng ta vẫn đi sâu hơn, thế thì đứa
trẻ cũng chọn thời gian thụ thai nó.
Mọi hồn đều chọn thời
gian thụ thai riêng của nó - khi nó sẽ chấp nhận bụng mẹ, vào khoảnh khắc nào.
Khoảnh khắc thụ thai không phải là không có ý nghĩa. Điều có ý nghĩa trong đó
chính là vấn đề về cách toàn thể vũ trụ tồn tại vào khoảnh khắc đó và vũ trụ mở
cánh cửa vào khoảnh khắc đó cho loại khả năng nào.
Khi hai đứa trẻ được
thụ thai cùng nhau từ một trứng, thế thì khoảnh khắc thụ thai của chúng là như
nhau và khoảnh khắc sinh của chúng là như nhau. Điều thú vị là cuộc sống của
hai đứa trẻ đã lấy việc sinh từ một trứng là giống nhau tới mức khó mà nói rằng
khoảnh khắc sinh không có ảnh hưởng nào. Chỉ số I.Q. của hai đứa trẻ sinh đôi từ
một trứng là bằng nhau. Và khác biệt li ti mà nảy sinh - những người biết nói rằng
đó là vì thiết bị đo sai số của chúng ta. Ngay cả bây giờ chúng ta vẫn không có
khả năng xây dựng những tiêu chí thích hợp qua đó chúng ta có thể đo một cách định
lượng sự thông minh.
Cho dù hai người sinh
đôi từ cùng một trứng được nuôi dưỡng lớn lên tách rời lẫn nhau, dầu vậy chỉ số
I.Q. của họ không khác nhau. Cho dù một đứa trẻ được nuôi lớn ở Ấn Độ và đứa
kia ở Trung Quốc, và không ai nhận biết về sự tồn tại của người kia, điều này sẽ
vẫn đúng. Các trường hợp đã xuất hiện mà hai người sinh đôi như vậy đã được
nuôi lớn xa nhau cho tới khi họ đạt tới trưởng thành, nhưng I.Q. của họ không
khác biệt. Điều đáng ngạc nhiên là I.Q. có thể được liên kết với tiềm năng của
đứa trẻ vào lúc sinh.
Khi một người sinh
đôi sống ở Trung Quốc chịu cái lạnh, vào lúc đó người sinh đôi kia sống ở Ấn Độ
cũng chịu cái lạnh. Nói chung, người sinh đôi sinh từ một trứng chết trong cùng
năm. Nhiều nhất, có khoảng chênh ba năm giữa các cái chết của họ, và ít nhất,
ba ngày - nhưng không bao giờ nhiều hơn ba năm. Nếu một người sinh đôi đã chết
thế thì chúng ta có thể cho là sau ba ngày hay trong vòng ba năm, người kia sẽ
chết. Thái độ của họ, hành vi của họ, cảm giác của họ, đều tương đương, và dường
như là hai người sống gần như đích xác theo cùng cách. Sự tương tự của họ được
thấy trong nhiều điều khác nữa - từng người hành động như bản sao của người
kia.
Có phải khoảnh khắc
sinh có ảnh hưởng tới mức khoảng sống của họ là có cùng chiều dài, tới mức I.Q.
của họ gần như bằng nhau, tới mức thân thể họ cư xử theo cùng cách, tới mức khi
hai người bị ốm, đó là từ cùng một bệnh, và tới mức khi hai người lại trở nên
khoẻ đó là từ cùng một thuốc không? Khoảnh khắc sinh có thể có ảnh hưởng thế
sao?
Chiêm tinh học đã từng
nói rằng khoảnh khắc sinh thậm chí còn quan trọng hơn điều này. Mãi cho tới giờ
khoa học còn chưa đồng ý với chiêm tinh học, nhưng giờ nó bắt đầu đồng ý như vậy.
Trong lúc đi tới sự đồng ý đang tăng lên này, một số thực nghiệm mới đã có giúp
ích.
Chẳng hạn... Vào lúc
chúng ta phóng một vệ tinh nhân tạo vào không gian, chúng ta biết rằng mạng các
kiểu phóng xạ vô hạn liên tục đổ ra từ vũ trụ và từ các chòm sao, và tràn lan
qua toàn trái đất. Trên trái đất, không cái gì không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng
này. Chúng ta biết rằng đại dương bị ảnh hưởng bởi mặt trăng, nhưng chúng ta đã
không xem xét sự kiện rằng cùng tỉ lệ cân xứng của nước và muối xuất hiện trong
đại dương cũng xuất hiện trong thân thể con người - cùng tỉ lệ. Bốn mươi nhăm
phần trăm thân thể con người bao gồm nước và tỉ lệ muối được chứa trong nước đó
là cùng tỉ lệ như được chứa trong hàng nghìn vịnh. Nếu nước trong đại dương bị ảnh
hưởng bởi trăng, thế thì làm sao nước bên trong thân thể con người vẫn còn
không bị ảnh ưởng được?
Bây giờ, về việc này,
hai hay ba sự kiện nổi lên từ những điều tra gần đây phải được nhớ trong tâm
trí. Chẳng hạn, khi ngày trăng tròn tới, số chứng điên trên thế giới tăng lên.
Và vào ngày cuối cùng của mười bốn ngày tối hơn, số người phát điên là ít nhất.
Khi trăng trở nên sáng hơn tỉ lệ người điên cũng bắt đầu tăng lên. Vào ngày
trăng tròn, số người vào nhà thương điên là lớn nhất; và vào ngày cuối cùng của
thời kì trăng khuyết, số người được cho ra khỏi nhà thương điên là lớn nhất.
Các thống kế bây giờ là sẵn có...
Trong tiếng Anh có từ
lunatic; trong tiếng Hindi có từ chaandmara. Chaand nói tới trăng, cũng như
lunar nói tới trăng trong tiếng Anh. Chaandmara là thuật ngữ rất cổ đại, và từ
lunatic cũng cổ ba nghìn năm rồi. Quãng ba nghìn năm trước, ý nghĩ đã tới với
con người rằng trăng làm cái gì đó với chứng mất trí. Nhưng nếu nó quả làm cái
gì đó với tính mất trí, thế thì làm sao nó có thể tránh ảnh hưởng tới sự lành mạnh?
Trong phân tích cuối
cùng, kết cấu xây dựng của bộ não và thành phần bên trong của thân thể là như
nhau với mọi người. Vâng, có thể là trăng ảnh hưởng tới người điên tới mức độ
nào đó, và sự lành mạnh tới mức độ ít hơn. Đây đơn giản là khác biệt về lượng.
Nhưng không thể có chuyện rằng lành mạnh vẫn còn hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi
trăng. Nếu điều đó là đúng, thế thì không ai có thể phát điên - vì mọi người
phát điên đã có thời lành mạnh. Trăng trước hết phải làm cái gì đó với những
người lành mạnh.
Giáo sư Brown đã làm
một khảo cứu thú vị. Ông ấy là người hoàn toàn không có đức tin vào chiêm tinh
học. Ông ấy là người không tin gì, và trong những bài viết ban đầu của mình,
ông ấy đã rất chế nhạo chiêm tinh học. Nhưng mặc cho thái độ hoài nghi của
mình, ông ấy đã bắt đầu việc điều tra nào đó. Ông ấy đã tập hợp lại những vấn đề
về kundali, sơ đồ sinh của nhiều vị tướng nổi tiếng, tiến sĩ, và các nghề khác.
Nhưng thế rồi ông ấy bản thân ông ấy gặp khó khăn lớn vì ông ấy khám phá ra rằng
thành viên của những nghề nào đó đã được sinh ra dưới một hành tinh đặc biệt,
dưới cùng chòm sao. Chẳng hạn, trong mọi vị tướng nổi tiếng, ảnh hưởng của sao
Hoả lên đời sống của họ là rất mạnh. Trong cuộc sống của các giáo sư, ảnh hưởng
của sao Hoả hoàn toàn vắng bóng.
Nghiên cứu mà Brown
đã tiến hành với quãng năm mươi nghìn người là tướng lĩnh, làm lộ ra rằng trong
cuộc sống của những người này ảnh hưởng của sao Hoả là rất mạnh. Nói chung, khi
các nhân cách như vậy lấy việc sinh, hành tinh sao Hoả đi lên. Khoảnh khắc của
việc sinh của họ là khoảnh khắc mà sao Hoả bắt đầu mọc lên. Chính cái đối lập với
điều này, không thành vấn đề có bao nhiêu giáo sư trên thế giới, họ không bao
giờ lấy việc sinh vào lúc lên của hành tinh sao Hoả. Nếu điều đó xảy ra chỉ thỉnh
thoảng thôi, bạn có thể cho rằng đó là trùng hợp ngẫu nhiên - nhưng không thể
có hàng trăm nghìn trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên.
Các nhà toán học được
sinh ra dưới chòm sao đặc biệt; các nhà thơ không bao giờ được sinh ra dưới
cùng chòm sao này. Trong một trường hợp thỉnh thoảng có thể có sự trùng hợp,
nhưng khi điều đó xảy ra thường xuyên thế nó không thể là sự trùng hợp ngẫu
nhiên được.
Thực ra có khác biệt
lớn trong hành vi của những người ở các nghề và nghiệp khác nhau - chẳng hạn,
giữa các nhà thơ, nhà toán học, tướng lĩnh và người theo chủ nghĩa hoà bình. Ở
mặt này có thể có người như Bertrand Russell người nói rằng phải có hoàn bình
trên thế giới, và ở mặt khác có người như Nietzsche nói rằng ngày chiến tranh dừng
lại sẽ dừng việc có nghĩa. Giữa họ chỉ có tranh cãi về trí tuệ, hay cũng là
tranh cãi về các sao? Chỉ có khoảng cách trí tuệ giữa họ, hay khoảnh khắc việc
sinh của họ cũng tách rời họ?
Nghiên cứu ngày càng
được tiến hành, người ta càng khám phá ra rằng tài năng của một người được lộ
ra bởi thời gian sinh của người đó. Những người thậm chí biết chút ít về chiêm
tinh học nói rằng điều này xảy ra bởi việc sinh của người đó dưới một chòm sao
đặc biệt. Nhưng tôi muốn nói với bạn rằng người đó chọn chòm sao để dưới đó người
đó sẽ được sinh ra. Tương ứng với điều người đó muốn là vậy - dù khả năng bẩm
sinh của người đó là gì, dù trạng thái của kiếp trước của người đó được lấy
trong tính toàn bộ của nó là gì, dù tâm thức động cơ của người đó là gì - người
đó sẽ được sinh ra dưới chòm sao thích hợp. Mọi đứa trẻ, mọi sự sống mới, đều
nhấn mạnh vào một khoảnh khắc đặc biệt cho việc sinh trước việc đi vào của nó.
Nó muốn được sinh ra vào khoảnh khắc đặc biệt, chỉ ở khoảnh khắc này nó mới muốn
được được thụ thai. Ham muốn của nó và khoảnh khắc đó là tương thuộc.
Như tôi đã nói với bạn,
nước của đại dương là chủ đề cho những ảnh hưởng nào đó. Nhưng mọi sự sống đều
được tạo ra từ nước; không có nước, không sự sống nào là có thể. Cho nên ở Hi Lạp
cổ đại, những người thấy thường nói rằng chỉ từ nước mà sự sống được sinh ra, rằng
nước là sự sống. Các huyền thoại của người Ấn Độ, Trung Quốc và những huyền thoại
khác cũng nói điều này. Ngày nay các nhà khoa học tin vào tiến hoá cũng nói rằng
sự sống được sinh ra trong nước, rằng có lẽ sự sống đầu tiên trên hành tinh này
đã sống trong nước. Đây đã là dạng sống đầu tiên, và thế rồi từ điều này, con
người cuối cùng đã tiến hoá ra.
Nước là yếu tố huyền bí nhất trong mọi thứ. Bất kì ảnh hưởng nào từ các ngôi sao đạt tới con người từ vũ trụ, từ không gian, đều đạt tới con người qua trung gian nước. Một khi đã ảnh hưởng tới nước trong thân thể con người, bất kì bức xạ nào cũng có thể thu được lối vào trong người đó. Nhiều công trình đang được thực hiện với nước, và nhiều điều huyền bí liên quan tới nước đang đi vào sự chú ý của con người.
Điều huyền bí lớn nhất
về nước mà đã đi vào sự chú ý của các nhà khoa học trong mười năm qua là ở chỗ
nước có nhiều tính nhạy cảm. Bất kì ảnh hưởng nào đang diễn ra từ bất kì hướng
nào trong sự sống đầu tiên đều được cảm thấy bởi nước. Nước trong chúng ta là
thứ đầu tiên bị ảnh hưởng. Một khi nước trong chúng ta bị ảnh hưởng, thế thì sẽ
khó cho chúng ta tránh bị ảnh hưởng.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết rằng khi đứa trẻ còn trong bụng mẹ, nó bơi hệt như nó đã ở trong đại
dương. Nước trong đó đứa trẻ bơi trong bụng mẹ có cùng tỉ lệ muối như hiện diện
trong đại dương. Bất kì ảnh hưởng nào đạt tới đứa trẻ từ trong bụng mẹ nó đều
không đạt tới nó một cách trực tiếp; giữa người mẹ và đứa trẻ đang lớn trong bụng
người mẹ không có kết nối trực tiếp. Nước là kẻ trung gian. Bất kì ảnh hưởng
nào đạt tới đứa trẻ từ người mẹ đền thực hiện như vậy qua trung gian của nước;
không có quan hệ trực tiếp. Thế thì trong suốt cuộc đời của chúng ta nước trong
thân thể chúng ta hành xử hệt như nước trong biển.
Cá trong đại dương đã
được nghiên cứu nhiều. Có cá lên bãi biển và đẻ trứng khi sóng triều đại dương
đang rút xuống, khi biển đang rút ra. Cưỡi lên sóng, cá đi lên cát, đẻ trứng,
và trở về với sóng đại dương. Vào thời gian cố định sóng đại dương quay lại. Đến
lúc đó trứng sẽ vỡ ra và cá con sẽ chui ra. Thế rồi sóng tới sẽ đem cá con trở
ra biển cả.
Những nhà khoa học
nghiên cứu cá này đã rất ngạc nhiên, vì cá bao giờ cũng tới đẻ trứng vào giờ
khi sóng triều rút xuống. Nếu chúng mà đẻ trứng khi sóng triều lên thế thì trứng
chắc sẽ bị quét đi trong cơn lụt. Chúng đẻ trứng khi sóng triều rút xuống, và
rút lui trong chút thời gian theo việc lui của sóng. Sóng không tràn lần thứ
hai lên chỗ chúng đẻ trứng, bằng không sóng chắc đã quét sạch trứng đi.
Các nhà khoa học rất
phân vân làm sao những con cá này biết khi nào sóng triều sẽ rút - khi nào thời
gian cho sóng triều rút đi đã tới. Nếu như cho dù một sai lầm hơi chút thôi về
thời gian, trứng chắc đã bị quét đi mất. Nhưng chúng không bao giờ phạm sai lầm
trong hàng trăm nghìn năm. Nếu như chúng mà phạm sai lầm chúng chắc đã biến mất
như một loài. Nhưng chúng không bao giờ phạm bất kì sai lầm nào. Những con cá
này có trang thiết bị gì mà qua đó chúng có thể biết về sóng triều? Chúng có cơ
quan giác quan nào cho chúng biết khi nào sóng triều sẽ rút? Cả trăm nghìn cá sẽ
tụ tập cùng nhau vào một thời điểm trên toàn bộ bãi biển... Phải có mã nào đó,
cơ chế thông tin nào đó trong sở hữu của những con cá này. Cả trăm nghìn con cá
sẽ tới từ hàng nghìn dặn xa xôi để đẻ trứng trên bãi biển đại dương - và tất cả
đều vào cùng lúc.
Những người nghiên cứu
hiện tượng này nói rằng ngoài trăng không thể có nguồn khác. Trăng là nguồn trực
giác của cá, không cái gì khác. Chính là từ trực giác mà cá biết khi nào sóng
triều lui và khi nào sóng triều tiến. Tác động của trăng là cách duy nhất,
chúng không biết về sóng triều.
Có khả năng khác. Điều
đã được phỏng đoán là những con cá này có thể bằng cách nào đó được thông báo bởi
sóng biển. Cho nên các nhà khoa học để chúng vào một chỗ không có sóng biển:
trong nước, trong phòng không đèn. Nhưng kết quả hoá ra là rất bất ngờ. Con cá
đã được bao bọc trong bóng tối, trăng không có trong cái nhìn. Không ánh sáng
nào được thấy chút nào, nhưng khi trăng đạt tới điểm đích xác mà với điều đó
con cá trong đại dương sẽ đi và đẻ trứng trên bờ, tại đích xác cùng khoảnh khắc
đó con cá trong phòng thí nghiệm đẻ trứng. Sự kiện này biểu lộ điều gì? Rằng vấn
đề không phải là ở sóng đại dương.
Ai đó có thể nói rằng
giống cá này chỉ bắt đầu khi loài này nhận được tín hiệu từ nhau, nhưng giả
thuyết này cũng không thể đứng được. Các nhà khoa học đã chứng kiến con cá này
khi chúng bị cô lập lẫn nhau. Họ đã thử quấy rối não của những con cá này theo
đủ mọi cách. Họ đã đặt con cá này và bóng tối trong hai mươi bốn giờ để cho con
cá này không biết khi nào là sáng và khi nào là đêm. Họ đã quan sát những con
cá này sau khi đặt chúng dưới ánh sáng chói trong hai mươi tư giờ để cho con cá
sẽ không biết khi nào đó là ngày. Họ đã quan sát chúng sau khi thiết lập trăng
nhân tạo, và hàng ngày họ làm giảm hay tăng độ chói của nó. Nhưng những con cá
này không thể bị lừa. Khi trăng thực tới điểm đúng, chỉ tại khoảnh khắc đó con
cá này mới đẻ trứng. Dù chúng ở bất kì chỗ nào, chúng sẽ đẻ trứng vào khoảnh khắc
đó.
Một trăm nghìn con
chim hàng năm bay hàng trăm và hàng trăm dặm. Mùa đông sắp tới rồi và tuyết sẽ
sớm rơi, cho nên chim bắt đầu bay đi khỏi khu vực tuyết sẽ rơi. Chúng sẽ dừng lại
ở một chỗ cách xa hàng nghìn dặm. Để đi tới chỗ dừng mùa đông, cần hai tháng.
Những con chim này khởi hành đích xác một tháng trước khi tuyết tới. Vào lúc khởi
hành tuyết còn chưa bắt đầu rơi, nhưng sau đích xác một tháng nó sẽ rơi. Làm
sao những con chim này tính được ngày nào tuyết sẽ rơi? Người dự báo thời tiết
của chúng ta, người có những phòng thí nghiệm tinh vi nhất, không thể dự báo được
thông tin chính xác thế. Tôi đã nghe nói rằng một số người dự báo thời tiết trước
hết đi hỏi nhà chiêm tinh học ngồi ở vệ đường, "Ông nghĩ gì - hôm nay trời
có mưa hay không?"
Những dàn xếp mà con
người đã làm dường như chưa chín chắn. Chim biết một tháng rưỡi hay hai tháng
trước khi tuyết rơi. Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã quan sát rằng ngày
chim bay được cố định cho mọi kiểu chim. Mọi năm ngày này thay đổi, vì không có
ngày cố định để tuyết rơi. Nhưng điều chắc chắn là mọi con chim sẽ bay đi từ một
tháng trước khi tuyết rơi. Nếu tuyết rơi mười ngày muộn hơn năm trước, thế thì
chúng sẽ bay mười ngày muộn hơn. Nếu tuyết rơi mười ngày sớm hơn, chúng sẽ bay
mười ngày sớm hơn. Nếu ngày của việc tuyết rơi đầu tiên là không chắc chắn, thế
thì làm sao những con chim này được thông tin?
Ở Nhật Bản, có một
con chim sẽ bay đi tránh khỏi thị trấn hai mươi bốn giờ trước khi động đất xuất
hiện. Đó chỉ là một con chim thị trấn bình thường - trong mọi thị trấn có nhiều
con trong chúng - nhưng hai mươi bốn giờ trước trận động đất những con chim này
sẽ di cư khỏi thị trấn. Hiện tại, các nhà khoa học không có khả năng dự báo liệu
động đất có tới không, thậm chí không dự báo được trước hai giờ. Hai giờ trước
khi chúng hiện hữu vẫn là không chắc chắn, họ vẫn không chắc được. Chỉ có một
xác suất, một khả năng, rằng động đất có thể xảy ra. Nhưng ở Nhật Bản, mọi người
biết trước hai mươi tư giờ rằng động đất sắp tới. Từ bất kì thị trấn nào những
con chim này bay đi, mọi người của thị trấn đó đều biết rằng giờ chỉ còn thời
gian hai mươi tư tiếng đồng hồ. Con chim này đã đi ẩn cư; không một con nào của
loài chim đó còn lại trong thị trấn. Làm sao con chim này trở nên được thông
tin?
Trong mười năm nay,
các nhà khoa học đã từng nói cái gì đó mới - rằng mọi sinh vật đều có cơ quan
giác quan bên trong để cảm nhận thế giới bên ngoài. Có lẽ con người nữa cũng có
điều đó, nhưng đã đánh mất nó qua việc phụ thuộc vào trí tuệ của mình. Con người
là sinh linh duy nhất sống trong thế giới mà, qua khả năng hiểu biết, đã đánh mất
nhiều thứ mà có thời con người đã có. Qua cùng khả năng hiểu biết sáng tạo con
người cũng đã thu được nhiều thứ mà con người đã không có, nhưng với mất mát lớn.
Điều con người có, con người đã đánh mất, điều con người không có, con người đã
phát minh ra. Nhưng ngay cả các sinh vật nhỏ bé cũng có nguồn cảm nhận bên
trong. Và bây giờ dữ liệu khoa học đang trở thành sẵn có mà chứng minh rằng nguồn
bên trong như vậy là tồn tại. Khám phá này về nguồn bên trong làm cho chúng ta
nhận biết rằng không cái gì sống động trên trái đất này là cô lập hay tách rời.
Mọi thứ được nối với càn khôn. Nếu bất kì cái gì xảy ra ở bất kì chỗ nào, kết
quả của nó sẽ bắt đầu được cảm thấy ở đây.
Tôi đã nói về
Paracelsus... Các nhà vật lí ngày nay cũng đang đi tới kết luận rằng khi các đốm
nổi lên và tăng trưởng trên mặt trời, ốm bệnh trên trái đất tăng lên, và rằng
khi các đốm mặt trời giảm đi, ốm bệnh trên trái đất cũng giảm đi. Chúng ta sẽ
không bao giờ gạt bỏ được bệnh tật trên trái đất khi mà các đốm mặt trời còn
kéo dài. Cứ mỗi mười một năm lại có rối loạn trên mặt trời và những vụ bùng nổ
khổng lồ xảy ra. Khi các vụ nổ và rối loạn xuất hiện trên mặt trời, vào thời
gian đó các cuộc chiến tranh và rối loạn xuất hiện trên trái đất. Chiến tranh xảy
ra trên trái đất tuân theo trình tự mười năm. Dịch bệnh cũng đi theo trình tự
mười hay mười một năm. Cách mạng cũng đi theo xấp xỉ trình tự quãng mười hay mười
một năm.
Một khi bạn có ý tưởng
rằng chúng ta không tách rời hay cô lập mà được nối cùng nhau theo cách có hệ
thống, thế thì sẽ dễ hiểu chiêm tinh học. Đây là lí do tại sao tôi đang giải
thích mọi điều này cho bạn.
Một số người đã nghĩ,
và ngay cả bây giờ vẫn nghĩ, rằng chiêm tinh học là mê tín, đức tin mù quáng. Ở
phạm vi lớn điều này dường như là đúng. Những điều khó tìm được cách giải thích
khoa học cho chúng, với chúng ta dường như đã dựa trên chỉ đức tin mù quáng.
Nhưng chiêm tinh học là rất khoa học. Nghĩa của khoa học là điều tra về mối
quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả. Chiêm tinh học nói rằng bất kì cái gì xảy
ra trên trái đất này đều không phải là không có nguyên nhân. Tuy nhiên, chúng
ta có thể không nhận biết về các nguyên nhân. Chiêm tinh học nói rằng hình dáng
mà tương lai sẽ lấy không thể bị cô lập với quá khứ mà phải được nối với nó: điều
bạn sẽ là trong tương lai sẽ được nối với điều bạn đang là hôm nay; điều bạn đã
là mãi cho tới hôm nay được nối với điều bạn sẽ là vào ngày mai.
Chiêm tinh học là
cách tư duy rất khoa học. Nó nói rằng tương lai sẽ nổi lên chỉ từ quá khứ: hôm
nay của bạn đã nổi lên từ hôm qua của bạn; ngày mai của bạn sẽ nổi lên từ hôm
nay của bạn. Chiêm tinh học cũng nói rằng bất kì cái gì sẽ xảy ra ngày mai theo
cách tinh tế nào đó là hiện diện ngay cả ở hôm nay. Bây giờ cố hiểu một chút về
điều này.
Ba ngày trước khi bị
ám sát, Abraham Lincoln đã mơ rằng ông ấy đã bị sát hại và rằng xác của ông ấy
đã nằm trong một phòng đặc biệt trong Nhà Trắng. Ông ấy thậm chí còn chú ý tới
số phòng của ông ấy. Tại điểm đó giấc ngủ của ông ấy bị phá vỡ, và khi ông ấy
thức dậy, ông ấy đã cười. Ông ấy nói với vợ mình, "Tôi đã mơ rằng tôi bị
sát hại và rằng thân thể tôi đang nằm trong phòng với số như thế như thế, và ở
chái như thế như thế của Nhà Trắng" - ông ấy đã ngủ trong chái đó của Nhà
Trắng. "Em đứng ở phía đầu anh, và những người như thế như thế đứng khắp
xung quanh."
Nó đã là chuyện đùa,
chuyện cười với ông ấy. Lincoln và vợ trở lại ngủ. Ba ngày sau việc ám sát
Lincoln đã xảy ra. Ba ngày sau xác của ông ấy đã nằm trong căn phòng với số đó,
trong chính chỗ đó, và trong trình tự đó mọi người đã đứng quanh xác ông ấy.
Nếu như điều đã xuất
hiện ba ngày sau mà không theo kiểu cách nào đó đã xuất hiện, thế thì làm sao
giấc mơ như vậy có thể đã xảy ra được? Làm sao giấc mơ có thể giống, theo chi
tiết thế, với điều thực tại đã xảy ra? Một thoáng nhìn như vậy được cho trong
mơ chỉ nếu theo một cách nào đó nó đã được gợi ý trong khoảnh khắc hiện tại. Chỉ
thế thì chúng ta có thể có thoáng nhìn về điều sẽ xảy ra trong tương lai.
Nếu chúng ta mở cửa sổ
của hiện tại, thế thì chúng ta sẽ có khả năng thấy rằng tương lai ở ngay bên
ngoài cửa sổ này. Chính luận đề của chiêm tinh học là tương lai đơn giản là dốt
nát của chúng ta - cho nên, nó là "tương lai." Nếu chúng ta mà nhìn,
thế thì tương lai chắc sẽ không là "việc xảy ra" cho chúng ta - chúng
ta chắc sẽ biết nó đã là hiện tại ở đây và bây giờ.
Có bàn tán tới một biến
cố trong đời của Mahavira, qua đó đã có nhiều tranh cãi. Vì tranh cãi này, một
nhóm đệ tử của ông ấy đã rời bỏ ông ấy, trong chính sự hiện diện của ông ấy. Vì
tranh cãi này, năm trăm muni của Mahavira đã tạo ra một nội qui tách rời.
Mahavira thường nói rằng bất kì cái gì đang xảy ra theo một nghĩa nào đó đã xảy
ra rồi: nếu bạn đang bước đi, thế thì theo một nghĩa nào đó bạn đã đi tới đích
đến rồi; nếu bạn đang trở nên già, thế thì theo một nghĩa nào đó bạn đã trở nên
già rồi. Mahavira hay nói rằng bất kì cái gì đang xảy ra, bất kì cái gì đang diễn
ra, đã xuất hiện rồi.
Một đại đệ tử của
Mahavira sống xa khỏi ông ấy trong mùa gió mùa. Ông ta bị ốm, cho nên ông ta đề
nghị một đệ tử cấp dưới, người đang có mặt, trải chiếu cho ông ta. Đệ tử cấp dưới
bắt đầu trải chiếu ra. Anh ta vừa mới mở chiếc chiếu bị cuộn lại, lăn nó ra một
chút thì đại đệ tử này nhớ tới lời nói của Mahavira. Ông ta nói, "Dừng lại!
Mahavira nói rằng cái đang xảy ra đã xảy ra rồi." Chiếu đang trong quá
trình được lăn ra nhưng nó còn chưa được mở hẳn ra. Điều đột nhiên xuất hiện
cho ông ta là Mahavira đã nói một điều rất sai. Chiếu đã được mở một nửa, nhưng
theo nghĩa nào nó đã được mở?
Ông ta để cái chiếu ở
đó. Sau mùa gió ông ta tới Mahavira và nói, "Thầy sai lầm khi thầy nói rằng
cái đang xảy ra đã xảy ra rồi, vì ngay bây giờ, chiếc chiếu đang nằm nửa mở ra.
Nó đã trong quá trình mở, nhưng nó đã chưa được mở. Cho nên tôi phải tới để chứng
minh rằng thầy là sai." Mahavira bảo ông ta rằng ông ta đã không hiểu lời
này. Đệ tử này phải đã có tâm trí rất ngây thơ; bằng không anh ta chắc đã không
tới với câu chuyện như vậy. Mahavira nói, "Ông đã dừng quá trình này rồi.
Nó đã xảy ra nhưng ông đã ngắt nó lại. Cái chiếu mà ông đã ngăn cản việc trải
nó ra đã thực tại hoá bản thân nó trong chính quá trình trải ra. Thực ra, nó đã
được thực tại hoá. Ông chỉ thấy cái chiếu trong quá trình trải ra, nhưng một
quá trình nữa cũng đang diễn ra, và đó là điều đã xảy ra. Cho nên, chiếu của
ông sẽ còn được cuộn lại trong bao lâu? Nó đang trở nên được mở ra, và sẽ mở
ra. Ông quay về đi."
Khi đệ tử này trở về
ông ta đã thấy rằng một người đã mở chiếu ra và đã nằm trên nó, nghỉ ngơi. Người
này đã làm đảo lộn mọi thứ; người này đã phá huỷ toàn thể luận đề của đệ tử
này!
Khi Mahavira thường
nói rằng bất kì cái gì đang xảy ra đã xảy ra rồi, ông ấy nói rằng bất kì cái gì
đang xảy ra đều là hiện tại, bất kì cái gì có thể hiện hữu đều là tương lai.
Chiếc nụ đang đi tới nở hoa ở đây đó đã nở rồi, cho nên nó sẽ nở ra, nó sẽ trở
thành đoá hoa. Ngay bây giờ chiếc nụ đang trong quá trình nở hoa, thế thì nó sẽ
nở hoa. Việc đã nở ra của nó theo một nghĩa nào đó cũng đã xuất hiện ở đâu đó.
Bây giờ chúng ta phải
nhìn vào điều này từ góc độ khác. Sẽ khó chút ít đấy. Chúng ta bao giờ cũng
nhìn từ quan điểm của quá khứ. Nụ đang nở ra, nhưng suy nghĩ của chúng ta nói
chung hướng quá khứ - bị gắn với quá khứ. Chúng ta nói rằng chiếc nụ đang nở
hoa, rằng nó đang trở thành đoá hoa, rằng nụ sẽ trở thành đoá hoa. Nhưng điều đảo
lại có thể là hoàn cảnh. Chẳng hạn, nếu tôi đẩy bạn từ đằng sau, tôi đang làm
cho bạn tiến lên trước. Nhưng cũng có thể là ai đó đang kéo bạn từ phía trước.
Chuyển động có thể ở cả hai hướng. Tôi đẩy bạn từ đằng sau và bạn đi lên trước.
Có thể là ai đó đang kéo bạn từ đằng trước, nhưng không ai đang đẩy bạn từ đằng
sau. Trong trường hợp này nữa bạn sẽ đi lên trước.
Chiêm tinh học nhận
ra sự không đầy đủ của cách nhìn rằng quá khứ cho đà và rằng tương lai xảy ra
như kết quả. Nếu người ta nhìn một hiện tượng trong tính toàn bộ của nó, người
ta thấy rằng quá khứ đang cung cấp đà, nhưng cũng thấy rằng tương lai đang sử dụng
việc kéo, việc hút. Nụ trở thành hoa không phải là mọi điều đang xảy ra. Hoa
đang gọi nụ trở thành hoa; nó đang sử dụng việc kéo. Quá khứ ở đằng sau; tương
lai ở phía trước. Bây giờ, trong khoảnh khắc hiện tại, có nụ. Toàn thể quá khứ
đang đẩy nụ trở thành hoa và toàn thể tương lai đang gọi nụ trở thành hoa.
Dưới sức ép từ cả hai
hướng, quá khứ và tương lai, nụ sẽ trở thành hoa. Nếu như không có tương lai,
thế thì quá khứ bởi bản thân nó chắc đã không có khả năng tạo ra hoa, vì tương
lai phải cung cấp không gian cho nụ trở thành hoa. Trong tương lai một chỗ, một
không gian là cần thiết. Nếu tương lai cung cấp chỗ, chỉ thế thì nụ sẽ có khả
năng thành hoa. Nếu như không có tương lai, thế thì không thành vấn đề quá khứ
có cố gắng nhiều thế nào, không thành vấn đề nó đẩy bạn nhiều thế nào, nó sẽ
trong vô vọng. Không thành vấn đề tôi đẩy bạn từ đằng sau nhiều thế nào, nếu có
bức tường phía trước tôi không thể làm cho bạn tiến lên trước được. Không gian
được cần để đi lên trước. Nếu tôi đẩy bạn và không gian phía trước chấp nhận bạn
với lời mời, "Tới đi! Là khách của tôi," chỉ thế thì việc đẩy của tôi
có ý nghĩa. Với việc đẩy của tôi, không gian trong tương lai được cần tới. Quá
khứ làm công việc; tương lai cho không gian. Đó là cách nhìn của chiêm tinh học
mà nhìn từ quan điểm của một mình quá khứ là không đủ và chỉ có tính khoa học bộ
phận.
Tương lai đang vẫy gọi
mọi lúc, kéo chúng ta mọi lúc. Chúng ta không biết, chúng ta không nhận biết.
Đây là điểm yếu của mắt của chúng ta, đây là chứng cận thị của chúng ta - chúng
ta không thể thấy được rất xa. Về ngày mai không cái gì được lộ ra cho chúng
ta.
Đôi khi nếu bạn nhìn
vào kundali của Krishnamurti, bạn sẽ ngạc nhiên. Nếu Annie Besant hay
Leadbeater mà đã chăm nom tới việc nhìn vào sơ đồ sinh của Krishnamurti thế thì
họ chắc đã thấy rằng làm việc với Krishnamurti là sai vì sơ đồ sinh của ông ấy
rõ ràng chỉ ra rằng với bất kì tổ chức nào mà Krishnamurti thuộc về, ông ấy sẽ
là kẻ phá huỷ nó. Sơ đồ sinh chỉ ra rằng với bất kì tổ chức nào ông ấy thuộc
vào, ông ấy sẽ mang tới việc giải tán nó; với bất kì tổ chức nào ông ấy tham
gia, nó sẽ chết. Nhưng Annie Besant đã không sẵn sàng chấp nhận điều này. Không
ai có thể nghĩ được điều như vậy - nhưng đây là cách nó đã xảy ra.
Phong trào Thông
thiên học đã cố gắng chuẩn bị cho Krishnamurti làm người lãnh đạo của nó. Thông
thiên học đã làm nỗ lực nhân danh Krishnamurti tới mức phong trào này đã chết
mãi mãi. Annie Besant đã tạo ra một tổ chức lớn có tên là Ngôi sao phương Đông,
chỉ dành cho Krishnamurti. Thế rồi một ngày nào đó, sau khi đã gây hứng khởi
cho tổ chức này, Krishnamurti tự tách bản thân mình ra khỏi nó. Annie Besant đã
bỏ cả đời bà ấy để đặt tổ chức này trên chân của nó, và đã phá huỷ bản thân bà ấy
với nó. Nhưng với điều này Krishnamurti không thể bị trách cứ. Ngôi sao mà dưới
ảnh hưởng của nó ông ấy đã được sinh ra rõ ràng đã công bố rằng ông ấy sẽ là lực
phá huỷ và đập phá bên trong bất kì tổ chức nào.
Tương lai không phải
là không chắc chắn hoàn toàn. Tri thức của chúng ta là không chắc chắn; dốt nát
của chúng ta là nặng. Không cái gì của tương lai dường như được để lộ cho chúng
ta. Chúng ta mù; không cái gì của tương lai được để lộ cho chúng ta. Vì không
cái gì dường như được để lộ cho chúng ta, chúng ta nói nó là không chắc chắn.
Nhưng cái gì đó của tương lai được để lộ cho chúng ta - và chiêm tinh học không
đơn thuần là nghiên cứu về điều các ngôi sao và hành tinh nói hay về tính toán
ý nghĩa của chúng. Đây chỉ là một hướng của chiêm tinh học.
Thế rồi có các hướng
khác của việc biết về tương lai nữa. Mọi người có các đường trên lòng bàn tay của
họ, mọi người có các đường trên trán của họ, mọi người có các đường trên lòng
bàn chân của họ - nhưng điều này nữa cũng là bề mặt.
Trong thân thể con
người có các luân xa ẩn kín. Mọi luân xa đều có cảm giác duy nhất riêng của nó.
Mọi luân xa rung động theo cách duy nhất riêng của nó, với tần số riêng của nó,
mọi lúc. Có những cách để kiểm đây là cái gì. Con người đã giấu bên trong chúng
những dấu vết tinh thần hay hạt mầm của quá khứ.
Ron Hubbard đã mang tới
một từ mới, một khoa học mới, cho phương Tây. Với phương Đông nó là cổ đại. Cái
tên của khoa học này là vết thời gian. Hubbard nghĩ rằng trong bất kì hình thể
nào con người đã sống - dù như con người hay con vật, dù như thực vật hay đá...
trong bất kì hình thể nào con người đã sống trong suốt các khoảng sống vô hạn của
mình, toàn thể luồng kí ức vẫn được chứa bên trong người đó. Luồng này có thể
được phơi ra, và con người thậm chí có thể được làm cho trải nghiệm lại những
kí ức đó.
Trong mọi nghiên cứu
của Hubbard, đây là khám phá có giá trị nhất. Về vết thời gian Hubbard đã nói rằng
bên trong con người có các vết tích. Một mặt, chúng ta có kí ức theo đó chúng
ta nhớ lại điều đã xảy ra hôm qua và điều đã xảy ra ngày hôm trước. Đây là kí ức
"làm việc" của chúng ta, đây là kí ức mọi ngày của chúng ta. Cũng như
mọi người chủ cửa hàng hay công nhân văn phòng ghi chép bản ghi hàng ngày, đây
là kí ức làm việc của chúng ta. Nó trở thành vô dụng mọi ngày. Thực ra, nó
không tồn tại - nó không thường hằng chút nào. Đây là kí ức làm việc qua đó
chúng ta làm công việc của mình mọi ngày, và thế rồi mọi ngày chúng ta vứt nó
đi.
Nhưng thậm chí sâu
hơn điều này là kí ức mà không đơn thuần dành cho việc làm cho công việc được
thực hiện - cái là cuộc sống của chúng ta, cái là tổng toàn thể kinh nghiệm của
chúng ta, điều bản chất được tích luỹ về kinh nghiệm của chúng ta trong suốt vô
hạn kiếp sống trên con đường này. Điều này, Hubbard đã gọi là engram (vết tích)
- nó đã trở nên được ăn sâu bên trong chúng ta. Nó nằm trong tính toàn vẹn của
nó, được khoá sâu bên trong, dường như một băng từ được giữ khoá lại trong túi
của bạn. Nó có thể được mở ra, và khi nó được mở ra, nó trở thành điều Mahavira
thường gọi là kí ức loài. Hubbard gọi nó là vết thời gian - nó làm cho bạn có
thể đi lui lại theo thời gian. Khi nó được mở ra, kinh nghiệm này không phải là
bạn nhớ lại; nó không phải dường như bạn nhớ lại, bạn sống lại kinh nghiệm này.
Bây giờ nó không được
mở khoá. Khi vết thời gian được mở khoá, bạn không cảm thấy "Mình đang nhớ"
- không. Bạn sống lại nó. Cố hiểu đi. Nếu vết thời gian của bạn được mở khoá,
điều đó sẽ không khó. Thực ra, không có nó chiêm tinh học là không đầy đủ. Việc
nhận ra sâu nhất của chiêm tinh học là ở chỗ quá khứ của bạn phải được mở khoá
- vì nếu bạn trở nên nhận biết về toàn thể quá khứ của bạn, thế thì bạn sẽ nhận
biết về toàn thể tương lai của bạn, vì tương lai của bạn sẽ nổi ra từ quá khứ của
bạn.
Không biết quá khứ của
bạn, bạn không thể biết tương lai của bạn, vì tương lai của bạn sẽ là con của
quá khứ của bạn, tương lai của bạn sẽ được sinh ra từ quá khứ của bạn. Cho nên
đầu tiên điều cần thiết là toàn thể vết kí ức của bạn phải được phơi ra để xem.
Nếu vết kí ức của bạn được mở khoá - và với điều này có các kĩ thuật và phương
pháp - thế thì nếu bạn nghĩ rằng bạn sẽ nhớ cách bạn đã là đứa trẻ sáu tuổi và
bố bạn đã tát bạn, bạn không đúng. Bạn sẽ không nhớ cách bạn đã vậy khi bạn mới
sáu tuổi, bạn sẽ sống lại điều đó.
Bạn sẽ sống lại biến
cố này. Cũng vậy, vào lúc bạn đang sống lại nó, nếu tôi hỏi, "Tên bạn là
gì?" bạn sẽ đáp "Junior," không phải "William Smith
Junior." Đứa bé sáu tuổi sẽ đáp lại. Bạn sẽ sống lại biến cố này vào thời
gian này; bạn sẽ không nhớ. William Smith Junior không nhớ khi anh ta là sáu tuổi,
không, William Smith Junior đã trở thành sáu tuổi. Bây giờ nó sẽ trả lời
"Junior"; bất kì câu đáp lại nào nó đưa ra sẽ là lời đáp của đứa trẻ
sáu tuổi.
Nếu bạn được mang trở
lại với kiếp quá khứ và bạn nhớ rằng bạn đã là sư tử, thế thì nếu bạn được phép
vẫn còn lại tại điểm này bạn sẽ bắt đầu gầm lên như sư tử. Bạn sẽ không nói như
người. Có thể bạn thậm chí sẽ tấn công ai đó bằng ngón tay và móng. Nếu bạn nhớ
rằng bạn đã là đá và ai đó hỏi bạn một câu hỏi thế thì bạn sẽ vẫn còn hoàn toàn
im lặng. Bạn sẽ không có khả năng nói; bạn sẽ vẫn còn như tảng đá.
Hubbard đã giúp cho
hàng nghìn người. Chẳng hạn một người không thể nói được - Hubbard sẽ nói rằng
người này đã bị chắn lại bởi kí ức thơ ấu nào đó và không thể tiến lên trước được.
Thế rồi ông ấy sẽ đưa anh ta trở lại cùng với vết thời gian của anh ta và phá mở
vết tích của anh ta về thời gian khi anh ta mới sáu tuổi, hay điểm mà tại đó sự
trưởng thành của anh ta trở nên bị chắn lại và anh ta đã không thể tiến lên được.
Khi anh ta quay lại điểm nảy, ảnh hưởng của kí ức thời thơ ấu này sẽ tản mác đi.
Thế rồi người này sẽ quay về lại là ba mươi tuổi. Khác biệt của hai mươi bốn
năm sẽ bị đẩy sang bên. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ hàng nghìn thuốc có thể
không giúp được cho người này nói, nhưng bằng việc đi trở lại theo vết thời
gian và thế rồi trở lại, người đó trở nên có khả năng nói.
Nhiều bệnh tới với bạn
chỉ vì vết thời gian này. Nhiều bệnh khớp vào trong phân loại này - chẳng hạn,
bệnh sốt mùa cỏ khô hay bệnh hen. Với bệnh nhân bị sốt mùa cỏ khô, tồn tại một
ngày tháng cố định: mọi năm vào cùng ngày, vào cùng thời gian, bệnh sốt mùa cỏ
khô của anh ta quay lại. Cho nên không thể có phương thuốc cho bệnh sốt mùa cỏ
khô. Tại sao? - vì sốt mùa cỏ khô thực tại không phải là bệnh thân thể, nó là bệnh
vết thời gian. Đâu đó kí ức đã bị cố định, đâu đó kí ức đã bị chắn lại.
Chẳng hạn, một người
có thể nhớ ngày thứ mười hai của tháng trong mùa mưa. Khi ngày thứ mười hai tới,
người này trở nên sẵn sàng; người này đã sợ điều sẽ xảy ra. Bạn sẽ ngạc nhiên rằng
sốt mùa cỏ khô bây giờ sẽ tấn công anh ta chỉ là cái gì đó anh ta đang sống lại
- nó không thực là sốt mùa cỏ khô chút nào. Anh ta chỉ sống lại điều đã xuất hiện
vào ngày thứ mười hai, năm trước. Nếu bạn cho anh ta bất kì việc điều trị nào
bây giờ, bạn sẽ chỉ để anh ta vào rối loạn. Điều trị là vô dụng vì anh ta không
phải là cùng người đã tồn tại một năm trước và người vào thời gian đó thì có thể
được điều trị. Bạn đang vứt thuốc đi một cách không cần thiết - vì nó đi vào
người đang tồn tại bây giờ, không phải là người đã bị ốm một năm trước. Không
có kết nối giữa hai người, không có quan hệ. Mọi thuốc sẽ thất bại, mọi thuốc sẽ
chỉ làm tăng cơn sốt mùa cỏ khô của anh ta, cho nên anh ta sẽ nói rằng chẳng
cái gì xảy ra. Anh ta lại đang sẵn sàng để lặp lại điều đã xảy ra năm trước.
Bẩy mươi phần trăm
các bệnh của chúng ta đã xảy ra qua vết thời gian - chúng đã bị mắc và giữ chặt
tới mức lặp đi lặp lại chúng ta sống lại chúng.
Chiêm tinh học không
đơn thuần là nghiên cứu về sao, mặc dầu nó có chứa điều đó. Chúng ta sẽ nói về
điều này. Bên cạnh việc nghiên cứu về sao, có những vấn đề khác, những hướng
tách rời mà qua đó chiêm tinh học cố thăm dò tương lai của con người, qua đó nó
có thể nắm bắt tương lai.
Để trở nên nhận biết
về tương lai, cần trở nên nhận biết về quá khứ. Để nhận biết quá khứ, cần đọc
các câu khắc có dấu vết trên thân thể bạn và trên tâm trí bạn. Trên thân thể bạn
có những dấu khắc và trên tâm trí bạn cũng có những dấu khắc. Từ lúc chiêm tinh
học trở nên bị ám ảnh với những dấu khắc này, nó không thể đi rất sâu, vì những
dấu khắc thân thể này là rất bề mặt.
Nếu tâm trí bạn trải
qua thay đổi, thế thì các đường trên lòng bàn tay của bạn sẽ lập tức thay đổi.
Nếu dưới thôi miên bạn được đảm bảo rằng sau mười lăm ngày bạn sẽ chết, và nếu
mọi ngày trong mười lăm ngày này bạn được làm thành vô thức và được đảm bảo
trong trạng thái vô thức của bạn rằng sau mười lăm ngày bạn sẽ chết dù bạn
thích điều đó hay không, thế thì đến ngày thứ mười lăm đường tuổi tác của bạn sẽ
bị gẫy. Kẽ hở sẽ xuất hiện trong đường tuổi tác của bạn; thân thể sẽ chấp nhận
quan niệm rằng chết đang trên đường của nó.
Các đường được ghi vết
trên thân thể là hiện tượng rất bề mặt. Sâu bên trong là tâm trí. Tuy nhiên,
tâm trí mà bạn quen thuộc, không tồn tại sâu bên dưới; nó là ở bề mặt. Sâu bên
dưới có tâm trí mà bạn không biết chút nào. Các trung tâm tồn tại sâu bên trong
một mình thân thể, điều Yoga gọi là luân xa, là hình thể tích luỹ của nhiều kiếp
sống. Người biết có thể, bằng việc đặt tay lên một luân xa đặc biệt, khám phá
ra nó đang hoạt động thế nào. Bằng việc chạm vào bẩy luân xa của bạn, người ta
có thể biết liệu bạn đã bao giờ trải nghiệm chúng hay chưa.
Tôi đã thực nghiệm với
luân xa của hàng trăm người, và tôi đã ngạc nhiên thấy rằng nhiều nhất một hay
hai - và chỉ hiếm khi ba - luân xa đã bắt đầu được kích hoạt; nói chung, chúng
vẫn còn ngủ. Bạn chưa bao giờ dùng chúng, nhưng chúng là quá khứ của bạn. Nếu một
người đã trải nghiệm chúng tới tôi và tôi có thể thấy rằng cả bẩy luân xa của
người đó đang trong chuyển động, thế thì có thể nói rằng đây là lần sinh cuối
cùng của người đó. Thế thì sẽ không có lần sinh tiếp, vì nếu cả bẩy luân xa đều
trong chuyển động, thế thì không có khả năng nào của kiếp sau. Kiếp này sẽ là
niết bàn, kiếp này sẽ là giải thoát.
Nếu bất kì ai tới
Mahavira, mối quan tâm của ông ấy là khám phá xem bao nhiêu luân xa là hoạt động
trong người đó - bao nhiêu công việc phải được làm với người đó, các khả năng của
người đó là gì, khi nào và liệu lao động của người đó sẽ mang lại kết quả hay
không, và người đó sẽ cần bao nhiêu lần sinh nữa.
Chiêm tinh học là nỗ
lực thăm dò tương lai bằng nhiều, nhiều con đường. Trong số những con đường này
- con đường được dùng thông dụng nhất - là nghiên cứu về bao nhiêu hành tinh và
ngôi sao ảnh hưởng tới con người. Với điều này, nhiều bằng chứng khoa học đang
trở thành sẵn có mọi ngày. Chừng này thì đã được quyết định - rằng sự sống bị ảnh
hưởng và không thể tránh được bị ảnh hưởng bởi những thế lực này. Chỉ phần thứ
hai vẫn còn khó xác định - liệu từng người như một cá nhân cũng có bị ảnh hưởng
một cách cá nhân không - liệu ba hay bốn tỉ người trên trái đất này từng người
có bị ảnh hưởng như các cá nhân không. Nhưng họ phải nhận ra rằng điều này là vậy.
Tại sao họ bị lo lắng
thế? Tự nhiên có thể cho từng người một dấu vân tay ở ngón cái là duy nhất của
người đó, điều đó là cá nhân và không được lặp lại. Tự nhiên có thể giữ một tài
khoản tinh tế mà nó trao cho từng người một dấu vân ngón cái là duy nhất của
người đó và dấu vân ngón cái này không bao giờ có thể thuộc về bất kì người nào
khác, không bây giờ không trong tương lai. Nhiều tỉ người có thể đã sống trên
trái đất này, nhiều tỉ người có thể sống trong tương lai trên trái đất này,
nhưng dấu ấn ngón cái sẽ không được lặp lại. Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng
trong trường hợp sinh đôi từ một trứng, điều tôi đã nói tới, ngay cả dấu ấn
ngón cái của họ sẽ khác lẫn nhau.
Nếu tự nhiên có thể
ban tặng nhiều tính cá nhân thế cho từng người liên quan tới một thứ vô giá trị
như ngón cái - một thứ chẳng có giá trị đặc biệt nào và thứ dường như chẳng đáp
ứng cho chủ định đặc biệt nào - nếu tự nhiên thậm chí có thể cho ngón tay cái
tính duy nhất, thế thì sao nó không thể trao cho từng người một cuộc sống duy
nhất và một tâm linh duy nhất? Dường như không có lí do tại sao không. Nhưng
khoa học đi trong chuyển động chậm - và điều đó là tốt! Với khoa học, chuyển động
chậm là tốt. Chừng nào sự kiện này còn chưa được chứng minh đầy đủ, điều không
tốt là tiến lên ngay cả một li. Nhưng các nhà tiên trí có thể lấy cú nhảy. Cái
mà sẽ xảy ra một nghìn hay thậm chí một trăm nghìn năm sau, họ có thể tuyên bố
ngay bây giờ.
Khoa học tiến lên
theo từng lí. Nó chỉ thấy các sự kiện - sự kiện, cái có thể được thực nghiệm.
Việc mơ không hữu dụng cho khoa học - nhưng các nhà tiên trí có thể khám phá ra
chân lí ngay cả trong mơ. Với họ, ngay cả tương lai chỉ là hiện tại được mở rộng
ra.
Chiêm tinh học về căn
bản là việc nghiên cứu về tương lai. Và khoa học về căn bản là điều nghiên cứu
về quá khứ và hiện tại. Khoa học là việc nghiên cứu về hôm nay là cái gì và
nguyên nhân của nó là gì. Chiêm tinh học là nghiên cứu về ngày mai sẽ là cái gì
và hậu quả của nó sẽ là gì. Giữa hai điều này có kẽ hở khổng lồ. Nhưng mọi ngày
khoa học trải nghiệm những điều mới, và các lí thuyết được gắn vào nó, đã không
bao giờ có thể được chứng minh một cách tuyệt đối đúng - chúng chỉ dường như
đúng.
Như tôi đã nói, khoa
học chỉ gần đây mới chấp nhận rằng mọi người được sinh ra với tính cá nhân dựng
sẵn. Trong một thời gian dài nó đã ngần ngại chấp sự hợp thức của ý tưởng này.
Nhưng chiêm tinh học bao giờ cũng nói điều này. Chỉ cố hiểu đi...
Chẳng hạn hạt mầm, hạt
xoài: khi chúng ta gieo hạt xoài ở đó bên trong nó phải có chứa một loại chương
trình dựng sẵn nào đó, phải có bản kế hoạch tổng thể. Nếu điều này mà không có
vậy thì hạt mầm này sẽ bất lực. Nó không nhận lời khuyên từ chuyên viên mà nó
cũng không học ở đại học. Thế thì làm sao cây xoài có thể phát triển ra từ hạt
mầm này? Dầu vậy, nó tạo ra lá cây xoài, nó mang quả xoài. Trong hạt mầm tựa đá
này phải che giấu một chương trình đầy đủ. Nếu không, không có chương trình như
vậy hạt mầm có thể làm được cái gì? Mọi thứ phải hiện diện bên trong nó. Bất kì
cây gì cũng sẽ phải được che giấu bên trong hạt mầm bằng cách nào đó. Điều đó
là không thấy được với chúng ta. Chúng ta có thể chà nát nó và mổ xẻ nó ra, và
dầu vậy điều đó sẽ không là thấy được. Nhưng điều đó phải có đó bằng cách nào
đó, bằng không cây xoan có thể nổi ra từ hạt xoài...!
Dường như là không
bao giờ có sai lầm. Chỉ cây xoài nổi ra; mọi thứ được lặp lại một cách đúng đắn.
Trong hạt mầm tí hon này được lưu giữ mọi thông tin liên quan tới điều hạt mầm
phải làm. Cách nó phải nảy mầm, kiểu lá nào, tạo ra bao nhiêu cành, cây trở
thành lớn thế nào, nó sẽ mọc trong bao lâu, nó sẽ mọc cao thế nào - mọi điều
này phải được giấu kín bên trong hạt mầm. Bao nhiêu quả, ngọt thế nào, liệu
chúng sẽ chín hay không - mọi điều này phải được giấu kín bên trong hạt mầm. Nếu
mọi điều này được giấu kín bên trong hạt xoài, thế thì khi bạn đi vào trong bụng
mẹ bạn sẽ chẳng có gì tiềm tàng trong hạt mầm của bạn sao?
Bây giờ các nhà khoa
học đồng ý rằng ngay cả ở giai đoạn này mầu mắt của bạn phải nằm đó được giấu
kín, rằng chiều cao của thân thể bạn phải nằm đó được giấu kín, rằng khả năng của
mạnh khoẻ và ốm yếu phải nằm đó được giấu kín, và rằng ngay cả chỉ số I.Q. bạn
cũng phải nằm đó được giấu kín - vì không có nó làm sao bạn sẽ phát triển, và bằng
phương tiện nào? Bạn phải có một chương trình được dựng sẵn từ trước. Làm sao
các xương nào đó nối với nhau là tay, xương khác là chân? Xương này sẽ bắt đầu
nhìn, xương khác sẽ bắt đầu nghe. Làm sao mọi điều này là có thể được?
Các nhà khoa học thường
nói rằng điều đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng từ trùng hợp ngẫu nhiên dường
như rất phi khoa học. Trùng hợp ngẫu nhiên ngụ ý tình cờ. Tình cờ mà chân có thể
bắt đầu nhìn và tay thì nghe. Những dường như không có mấy trùng hợp ngẫu
nhiên; mọi thứ dường như là theo trật tự, được thu xếp trước.
Chiêm tinh học nói một
điều khoa học hơn. Nó nói rằng mọi thứ là sẵn có bên trong hạt mầm. Chiêm tinh
học nói rằng nếu chúng ta nghiên cứu hạt mầm, nếu chúng ra có thể khám phá ra
ngôn ngữ của hạt mầm, nếu chúng ta có thể giải mã ngôn ngữ nào - nếu chúng ta
có thể hỏi hạt mầm, "Ý định của bạn là gì?" - thế thì chúng ta sẽ có
khả năng vẽ nên bản kế hoạch tổng thể đầy đủ của con người nữa. Các nhà khoa học
đã bắt đầu vẽ ra bản kế hoạch tổng thể như vậy cho thực vật. Mãi cho tới giờ
chúng ta đã coi chiêm tinh học là mê tín, chuyện của niềm tin mù quáng. Nhưng nếu
khoa học dựng lên được bản kế hoạch tổng thể như vậy, thế thì thực ra nó sẽ trở
thành chiêm tinh học - và khoa học chắc chắn đã bắt đầu vẽ ra bản kế hoạch tổng
thể như vậy.
Chiêm tinh học tuyên
bố rằng nếu bằng ân huệ thiêng liêng chúng ta đi tới biết cái toàn thể, thế thì
tương lai như vậy sẽ không tồn tại chút nào. Nhưng vì chúng ta không biết cái
toàn thể - chỉ biết một mảnh nhỏ - điều chúng ta không biết trở thành
"tương lai." Chúng ta bị buộc phải nói, "Có lẽ nó có thể giống
cái này," vì nhiều thứ là không được biết tới với chúng ta. Nếu cái toàn
thể mà được biết thế thì chúng ta có thể nói, "Nó sẽ giống cái này" -
và điều đó sẽ là đích xác như vậy.
Nếu mọi thứ là tiềm
tàng bên trong hạt mầm người, thế thì đó chỉ là vấn đề nghiên cứu hạt mầm. Điều
tôi đang nói tới về hôm nay dưới hình thể nào đó phải đã tồn tại trong hạt mầm
của tôi như một tiềm năng; bằng không, làm sao tôi có thể nói về mọi điều này?
Nếu một ngày nào đó việc quan sát hạt mầm con người trở thành có thể, thế thì
sau khi quan sát hạt mầm của tôi, bản kế hoạch tổng thể có thể được dựng lên chỉ
ra điều tôi sẽ nói trong cuộc đời này, điều tôi sẽ trở thành, điều tôi sẽ không
trở thành, điều tôi sẽ làm cho bản thân tôi, điều tôi sẽ không làm cho bản thân
tôi, điều sẽ xảy ra. Mọi điều này có thể là dự báo. Sẽ không ngạc nhiên gì khi
ngày mai, nếu không phải hôm nay, chúng ta có năng lực ngó vào trong hạt mầm
con người. Các bước đầu tiên đã được lấy theo hướng này.
Sơ đồ sinh và lá số tử
vi chỉ dành cho việc thăm dò vào trong mọi vấn đề này. Trong hàng nghìn năm
chúng ta đã thử, khi đứa trẻ được sinh ra, tìm xem cái gì sẽ xảy ra cho nó. Nếu
chúng ta có thể thu được ước lượng nào đó, thế thì có lẽ chúng ta có thể làm những
thu xếp nào đó, có lẽ chúng ta có thể làm tăng các cơ hội của đứa trẻ này. Thế
thì bất kì cái gì định xảy ra, chúng ta có thể trở nên chấp nhận nó.
Mulla Nasruddin đã
công bố về chỗ cuối cuộc đời anh ta rằng anh ta bao giờ cũng khổ, nhưng rồi đột
nhiên một ngày nào đó anh ta đã trở nên hạnh phúc. Toàn thể dân làng lấy làm ngạc
nhiên rằng một người bao giờ cũng chán nản, người bao giờ cũng nhìn phía tối của
mọi sự, đột nhiên đã trở nên vui vẻ. Anh ta đã là người bao giờ cũng bi quan,
người bao giờ cũng thường tìm gai.
Một lần có một vụ cây
trồng xuất sắc trong vườn của Nasruddin. Có nhiều táo tới mức cây bị quá tải. Ở
nhà lân cận, một người hỏi liệu bây giờ Nasruddin có thể có bất kì phàn nàn nào
không. Anh ta nói, "Lần này vụ cây trồng là tới mức trời sẽ mưa ra vàng.
Anh nghĩ gì, Nasruddin?"
Nasruddin, trong tiếc
nuối lớn nói, "Mọi thứ đều được, nhưng tôi sẽ kiếm táo mục ở đâu để nuôi
súc vật?" Người này vẫn còn khổ: "Tôi sẽ kiếm đâu ra táo mục để nuôi
súc vật...!" Mọi cây táo đều tốt, không cây nào mục - đây là khó khăn của
anh ta.
Người này một hôm đột
nhiên trở nên hạnh phúc, và do vậy mọi dân làng đều tò mò. Họ hỏi, "Anh hạnh
phúc sao, Nasruddin? Vương quốc trở thành của anh sao?"
Nasruddin nói,
"Tôi đã học cộng tác với điều không tránh khỏi. Sau nhiều năm vật lộn, tôi
đã nhận ra cái gì đó. Bây giờ tôi đã quyết định rằng cái gì phải hiện hữu, phải
hiện hữu. Bây giờ tôi cộng tác với cái không tránh khỏi, cho nên bây giờ không
có lí do gì để là khổ. Bây giờ tôi hạnh phúc."
Chiêm tinh học nghiên
cứu nhiều thứ. Với bất kì cái gì là không tránh khỏi, nó góp một tay cộng tác.
Bất kì cái gì là hiện hữu, nó không vật lộn điên cuồng chống lại. Bất kì cái gì
là không hiện hữu, nó không đòi hỏi, nó không với lấy.
Chiêm tinh học đã là
phương tiện để làm cho con người có tính tôn giáo - Để mang người đó tới tính
như vậy, để mang người đó tới sự chấp nhận tối thượng. Nó có nhiều chiều, nó có
nhiều khía cạnh. Chúng ta sẽ dần dần thảo luận từng chiều. Với hôm nay, chỉ ngần
này thôi - rằng vũ trụ là một thân sống, một đơn vị thống nhất. Trong nó không
cái gì bị cô lập, mọi thứ được nối với nhau. Bất kì cái gì ở xa đều được nối với
cái ở gần - không cái gì là tách rời.
Cho nên không ai hiểu
lầm điều này. Không ai là hòn đảo cô lập, không ai là xa cách. Từng người được
nối với cái toàn thể, và từng người mọi lúc đều ảnh hưởng tới người khác và bị ảnh
hưởng bởi người khác. Ngay cả khi bạn đi qua một tảng đá nằm trên đường, nó đang
tung ra các rung động của nó vào hướng của bạn. Hoa cũng đang tung ra rung động
của chúng. Và bạn không chỉ đi qua, bạn cũng đang tung ra rung động của bạn.
Tôi đã nói rằng chúng
ta bị ảnh hưởng bởi trăng và sao. Tôi cũng muốn nói trăng và sao bị ảnh hưởng bởi
chúng ta, vì ảnh hưởng tới từ cả hai hướng. Bất kì khi nào một người như Phật
được sinh ra trên trái đất, mặt trăng có thể không nhận ra rằng chính vì người
đó mà bão không nảy sinh trên bề mặt của nó - rằng vì Phật, bão đang rút xuống.
Mặt trăng bị ảnh hưởng và mặt trời cũng bị dịch chuyển. Khi các đốm xuất hiện
trên mặt trời và bão nảy sinh, bệnh lan rộng trên khắp trái đất.
Khi một người như Phật
được sinh ra trên trái đất và dòng chảy an bình đang tuôn chảy, và chiếc cột
tâm thức tăng trưởng mạnh, và cái đẹp sâu sắc của thiền di chuyển qua trái đất,
thế nữa bão lan rộng trên toàn thể mặt trời - bão an bình, phúc lạc và tâm thức
- vì tất cả được nối với nhau.
Nhành cỏ tí hon có
tác động lên mặt trời, và mặt trời có tác động của nó lên nhành cỏ. Nhành cỏ
không tí hon tới mức mặt trời có thể nói, "Ta không quan tâm về ông,"
mà mặt trời cũng không lớn tới mức nó có thể nói, "Nhành cỏ này có thể làm
cái gì cho ta?" Sự sống được nối cùng nhau. Ở đây không cái gì là lớn hay
nhỏ; mọi thứ là một thể thống nhất hữu cơ.
Sự sống là một toàn
thể. Nếu bạn có thể cảm nhận tính toàn thể này, chỉ thế thì bạn sẽ hiểu chiêm
tinh học; bằng không bạn sẽ không hiểu. Chiêm tinh học là một mặt của tính tâm
linh, một chiều của tính tâm linh. Nó là khoa học về tính toàn thể, sự thống nhất,
bất nhị.
Xem Tiếp Chương 6 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá