Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Trái Tim Của Hiểu Biết
Kinh Tinh Yếu Bát Nhã do Thầy Nhất Hạnh giảng
tại chùa Pháp Hoa, Adelaide Úc,
ngày 23-11-1986.
Lưu Hoằng Nguyện thu thanh và chép ra,
Lư Thị Hồng sắp chữ.
Chương 5. Qua, Qua Bên Kia Rồi, Tỉnh Thức Rồi!
Câu chuyện đó, tôi viết
để làm bài tựa cho một cuốn sách của một vị linh mục dòng Tên, xuất bản bên Mỹ,
tựa là A Book of Psalms. Linh mục Daniel Berrigan là một người từng tranh đấu rất nhiều cho công bằng xã hội, cho hoà bình.
Tôi nghĩ rằng hay hơn hết là mình nên để độc giả bên đó biết được một chút giáo
lý bất nhị của đạo Bụt, để họ biết rằng khi nào mình còn chia hai phe chánh tà,
thì thế giới vẫn còn loạn lạc, đau khổ. Ở các nhà thờ Tây phương, người ta thường
gây cảm tưởng rằng chúng ta là dân của Thượng đế, rằng tất cả chúng ta đều làm
đúng hết. Còn kẻ thù của chúng ta ở bên Nga, bên Tàu, bên những nước không thân
thiện với chúng ta, họ đều là tà ma hết. Chia ra như vậy để chúng ta rất sung
sướng được đứng về phe chánh và những người kia không đứng về phe chúng ta, tức
đang đứng về phe tà ma.
Quan niệm này có thể
gây chiến tranh, gây sự kỳ thị trên thế giới lâu nay. Trong những phim làm cho
con nít Tây phương, vai bên phía chánh có nét mặt rất Tây phương, và nhiều khi
nét mặt của những người bên phe tà lại có vẻ Á Đông. Đó là một hiểm hoạ kỳ thị
rất lớn mà ta phải suy xét.
Cơ Đốc Giáo hiện đang
được thực tập tại các nước Tây phương là một thứ Cơ Đốc Giáo đã bị Tây phương
hoá rất nhiều, theo kiểu suy nghĩ Tây phương. Nếu chúng ta không khéo thì Phật
giáo cũng sẽ được nhận thức qua lối suy tư của người Tây phương, rồi Phật giáo
cũng sẽ biến hình, méo mó. Chúng ta phải thực tập Tâm Kinh Bát Nhã thật kỹ lưỡng
để vượt thoát khuynh hướng lưỡng nguyên của tư tưởng Tây phương.
Nguyên tắc của chúng
ta là nguyên tắc bất nhị (không phải là hai). Hôm trước chúng ta đã học phương
pháp đối trị với thân và tâm. Thân và tâm của chúng ta là một, chứ không phải
là hai. Những cảm thọ như giận, hờn, buồn, chán v.v. không phải là tà ma mà
chính là chúng ta. Chúng ta phải đối trị những cảm thọ đó với tất cả sự ưu ái
và với thái độ bất bạo động, ta mới có thể đạt tới sự an lạc.
KHÔNG TRÍ CŨNG KHÔNG
ĐẮC VÌ KHÔNG CÓ SỞ ĐẮC
Tại sao vậy?
Sở đắc là kết quả
chúng ta đạt được từ bên ngoài. Đạo Bụt nói rằng trong một hạt bụi đã có đầy đủ
tất cả trí tuệ của vũ trụ vạn hữu. Trong con người đã có đầy đủ Phật tâm, do đó
cái trí tuệ mà ta muốn đạt tới, ta không phải tìm cầu ở bên ngoài, vì trong
chúng ta nó đã có sẵn. Trong tự tâm chúng ta đã có sẵn một đức Bụt. Mỗi khi ngồi
thiền hoặc nghe tiếng chuông, chúng ta thực tập tỉnh thức, thì tự nhiên trong
chúng ta được dựng nên một thiên đường rất nghiêm trang, và đức Bụt ở trong ta
tự nhiên sáng chói hào quang.
Vấn đề là không phải
đi tìm những cái ở ngoài ta, mà là làm sáng rỡ đức Bụt cùng sự giác ngộ đã sẵn
có trong ta. Bởi thế nên gọi là không đắc vì không có sở đắc.
KHI MỘT VỊ BỒ TÁT
NƯƠNG DIỆU PHÁP TRÍ ĐỘ (BÁT NHÃ BA LA MẬT) THÌ TÂM KHÔNG CHƯỚNG NGẠI, VÌ TÂM
KHÔNG CHƯỚNG NGẠI NÊN KHÔNG CÓ SỢ HÃI, XA LÌA MỌI MỘNG TƯỞNG, XA LÌA MỌI ĐIÊN ĐẢO,
ĐẠT NIẾT BÀN TUYỆT ĐỐI.
Mộng tưởng điên đảo
là những tri giác sai lầm của chúng ta. Chúng tạo ra những sợ hãi và căm thù mà
chúng ta đã là nạn nhân trong bấy lâu nay. Hồi nãy tôi có nói về đám mây. Khi
đám mây biết rằng nó không sinh cũng không diệt, thì khi thời cơ tới, nó có thể
an nhiên biến thành mưa. Và khi biến thành mưa, đám mây sẽ cười thích thú mà
rơi xuống trên cây cỏ, trên ruộng đồng, để làm tròn nhiệm vụ nước mưa của mình.
Những đợt sóng trên
biển cả cũng là do mưa mà thành.
Đứng về phương diện
sóng, ta thấy có sự sinh, sự diệt của làn sóng trên biển. Nhưng nếu những làn
sóng đó quán chiếu trong tự thân mình, chúng sẽ biết rằng chúng là nước. Đứng về
phương diện hiện tượng thì sóng là sóng. Đứng về phương diện bản thể thì sóng
là nước. Nếu sóng thấy được mình là nước, sóng sẽ không sợ hãi sinh tử nữa, vì
tuy sóng có bắt đầu và có chấm dứt nhưng nước không có bắt đầu cũng không có chấm
dứt. Nếu một làn sóng khi đổ xuống. Nếu làn sóng biết mình là nước nó sẽ mỉm cười
vì nó biết mình sẽ trở nên một làn sóng khác. Đã là nước, thì nào còn có lên có
xuống, có to có nhỏ. Bởi vậy đợt sóng chỉ đạt được giải thoát khi đợt sóng biết
mình là nước.
Một chiếc lá cây cũng
vậy.
Nhưng nếu biết quán
chiếu theo Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa, tờ lá sẽ thấy rằng trong suốt
mùa thu và mùa hạ, nó đã làm việc hết sức mình để nuôi dưỡng cây. Chúng ta thường
nghĩ lá là con cháu của cây, ít khi ta nghĩ rằng lá cũng là mẹ của cây. Sự thực
lá cũng là mẹ của cây, vì chất nhựa do các rễ cây hút từ dưới đất lên, chưa thể
dùng để nuôi cây được: đó chỉ là nước lã thêm các chất khoáng mà thôi. Cây đưa
nhựa thô lên, phân phát cho các tờ lá. Mỗi tờ lá có nhiệm vụ biến nhựa thô
thành nhựa luyện, nhựa này có thể nuôi cây được. Những chiếc lá nho nhỏ là những
nhà máy dùng ánh sáng mặt trời và các chất khí trong không khí biến nhựa thô
thành nhựa luyện. Màu xanh của lá cũng do mặt trời và những chất khí làm ra.
Khi luyện xong nhựa, lá trả chất nhựa này vào thân cây để nuôi dưỡng cây, do đó
ta có thể nói rằng lá còn làm mẹ của cây nữa chứ không phải là con của cây mà
thôi.
Tờ lá có thể quán chiếu
rằng sự sống của nó chủ yếu là ở trong cây, chứ không phải là chỉ ở trong lá.
Lá chỉ là một phần của cây, và lá đồng nhất nó với cây. Tờ lá vàng nhìn lại bản
thân và biết rằng trong giai đoạn này nó chỉ là một phần của cây mà thôi. Những
chất bổ nó tạo ra bây giờ đang nằm trong cây. Nếu lá nhận thức ra rằng nó là cây,
đồng nhất nó với cây, cũng như đợt sóng đồng nhất với nước, thì chiếc lá đó sẽ
không còn sợ hãi, sẽ thấy được sự bất sinh bất diệt của nó khi nó rơi xuống đất.
Nó sẽ rơi xuống, một cách rất thanh thản, vừa rơi vừa múa và biết rằng nó tiếp
tục làm công việc nuôi dưỡng thân cây. Nó sẽ biến thành đất mùn để lại bón cho
cây và sẽ trở lại cây. Như vậy, nó thấy được sự bất sinh bất diệt của chính nó.
Ta cũng vậy. Chúng ta
sợ hãi vì chúng ta thấy sự sinh diệt qua nhận thức sai lạc của chúng ta: vì vọng
tưởng của chúng ta về sinh diệt, nên ta mới sợ.
Nếu ta quán chiếu được
tự thể của mình, biết rằng mình là bản thể của sự sống, chỉ chuyển biến chứ
không có sinh diệt, tất ta vượt thoát khỏi sự sợ hãi về sinh diệt. Và chúng ta
sẽ bằng lòng với bất cứ hình thức nào mà mình sẽ tiếp nhận sau này.
Tôi thấy ở Việt Nam
có rất nhiều ông cụ và bà cụ chuẩn bị cho cái chết của họ một cách vui vẻ. Cụ bảo
con cháu đi mua cho cụ một chiếc áo quan bằng gỗ thật tốt. Rồi cụ sung sướng đi
theo con cháu tới lựa gỗ, ủy thác cho thợ mộc làm những đường viền trên quan
tài. Ngày rước áo quan về nhà, cụ vui vẻ ghê lắm, bảo đặt nó ngày trong phòng
mình, ngày ngày ra vào vuốt ve thích thú. Và cụ không ngại gì chui vô nằm thử
xem có vừa hay không. Nhưng phần lớn chúng ta thì không làm được như vậy, chúng
ta sợ lắm.
Khi một người đàn ông
trở thành ông nội hay ông ngoại rồi, ông ta thấy rằng những chất liệu của mình
đã truyền cho các thế hệ cháu con. Khi thấy những đứa trẻ chạy chơi trong nắng
sớm ngoài bãi cỏ, ông thấy ông là những đứa trẻ đó. Rồi ông mỉm cười sung sướng,
thấy rằng mình đã lên đường đi luân hồi trong con và trong cháu.
Cũng như cây chuối,
ban đầu chỉ có hai lá, với cái lá thứ ba còn cuộn tròn lại. Những chiếc lá đầu
làm việc hết sức, chúng dồn tất cả năng lượng để nuôi những lá khác lớn lên, và
chúng luân hồi vào những lá mới. Rồi những lá mới lại làm việc để cho những lá
mới khác vươn lên nữa. Khi các lá chuối đầu tiên bắt đầu vàng héo chúng rất
sung sướng. Tất cả những gì đã làm được để gởi về tương lai thì chúng đã làm rồi,
và chính chúng cũng đang đi về tương lai. Còn đây chẳng qua chỉ là cái dư, cái
bã của đời sống mà thôi, nên chúng rũ xuống với một niềm tin.
Chúng ta cũng vậy.
Khi hạt bắp đâm chồi
thành cây bắp, thì tất cả công phu của nó là lấy những chất bổ trong tự thân
mình để nuôi cho cây đi lên. Hạt bắp đó sẽ đi đến sự tàn hoại. Nếu nó không tàn
hoại thì làm sao đưa được cây bắp đi lên. Vì vậy, hạt bắp thấy nó đang đi lên.
Cái đang tàn hoại này chẳng qua chỉ là cái bã. Hạt bắp thoát khỏi sự sinh tử,
nó thấy nó đã lên đường và sẽ trở thành một trái bắp có rất nhiều hạt.
Sự quán chiếu đó, ta
có thể thực hiện được. Nếu không học Bát Nhã Tâm Kinh, không học quán chiếu
theo đạo Bụt, ta không thấy được sự diễn biến của các hiện tượng trong vũ trụ.
Quán được như vậy ta sẽ thoát ra khỏi sinh tử, ta sẽ có một nụ cười, sẽ vượt ra
cái mà ta gọi là sự sợ hãi.
Sự sợ hãi là gánh nặng
đè trĩu lên kiếp người chúng ta từ lúc sơ sinh đến khi nhắm mắt. Đức Quán Thế
Âm hiến tặng chúng ta kinh này với mục đích giúp chúng ta vượt thoát sự sợ hãi,
sự sợ hãi sinh tử. Quán về nhân duyên sinh, ta có thể vượt thoát mọi khổ đau của
sự sống.
CHƯ BỤT TRONG BA ĐỜI
Y DIỆU PHÁP TRÍ ĐỘ (BÁT NHÃ BA LA MẬT).
NÊN ĐẮC VÔ THƯỢNG
GIÁC
Các đức Bụt thành đạo
cũng chỉ nhờ phương pháp quán sát này mà thôi, chứ không nhờ phương pháp nào nữa.
VẬY NÊN PHẢI BIẾT RẰNG
BÁT NHÃ BA LA MẬT LÀ LINH CHÚ ĐẠI THẦN, LÀ LINH CHÚ ĐẠI MINH, LÀ LINH CHÚ VÔ
THƯỢNG, LÀ LINH CHÚ TUYỆT ĐỈNH, LÀ CHÂN LÝ BẤT VỌNG CÓ NĂNG LỰC TIÊU TRỪ TẤT CẢ
MỌI KHỔ NẠN.
Vì Quán Thế Âm thấy
được tự tánh của năm uẩn đều không, nên Ngài thoát khỏi mọi khổ nạn. Ngài nói
kinh này là một linh chú, một chú có đại thần lực (đại thần), có ánh sáng (đại
minh), một linh chú vô thượng tuyệt đỉnh, tức không có linh chú nào cao hơn.
Đây cũng là chân lý bất vọng có năng lực tiêu trừ tất cả mọi khổ nạn.
CHO NÊN TÔI MUỐN THUYẾT
CÂU THẦN CHÚ TRÍ ĐỘ BÁT NHÃ BA LA MẬT.
Sau khi Ngài nói với
Xá Lợi Phất như vậy rồi, Ngài bảo sẽ đọc ra một câu linh chú.
Chú, tiếng Phạn là
Dharani, có nghĩa một câu nói thoát ra trong trạng thái hết sức vững chãi.
Thân, tâm và ngôn ngữ hoà hợp lại trong một định lực thật lớn, một câu nói có
thể thay đổi được hoàn cảnh thì gọi là linh chú.
Trong gia đình, mỗi
khi người cha ngồi lại trầm tư, suy nghĩ, im lặng trong ba bốn giờ, rồi kêu các
con lại và nói lên một câu. Câu nói đó phải là một câu quan trọng.
Câu linh chú quan trọng
hơn, vì Đức Bồ Tát vừa ở trong định ra, Ngài đã quán sát năm uẩn, Ngài vừa mới
giác ngộ, thân tâm Ngài đang ở trong trạng thái định tĩnh rất lớn. Và ở trong
trạng thái đó, Ngài đã nói ra câu linh chú có năng lực chuyển biến được tâm hồn
chúng ta.
Cũng như trong trường
hợp hai người trẻ thương nhau. Người con gái cứ đợi ngày này qua ngày khác câu
nói của chàng trai để xác định tình yêu của chàng.
Câu nói chỉ có ba tiếng
thôi, nhưng đợi hoài chưa thấy anh ta nói. Anh chàng cẩn thận lắm, vì anh vốn
là người rất đứng đắn, là người có trách nhiệm, anh phải xét nghiệm lại trái
tim mình trước khi nói.
Nói ra ba tiếng đó là
đóng đinh vào cột, nên anh đâu có thể dễ nói được, đâu phải bất cứ ở chỗ nào, bất
cứ trong lúc nào anh cũng nói được. Anh phải xét nghiệm và để cho tình yêu chín
muồi mới nói. Dưới một cây hoa bằng lăng, vào một buổi sáng chủ nhật đẹp trời,
lúc hai người đang ngồi im lặng, tự nhiên anh mở miệng nói ba tiếng mầu nhiệm
kia. Không phải chỉ nói với miệng mà anh ta nói với tất cả tâm hồn, với tất cả
con người anh. Thân, khẩu, ý hợp nhất lại. Khi nghe ba chữ đó, cô nàng run lên.
Đó là một câu nói rất gần với một câu linh chú.
Khi một vị Bồ Tát an
trú ở trong định nói ra một câu như vậy, thì câu nói có năng lực làm chúng ta
chuyển đổi tâm trạng. Nhưng chúng ta có nghe được như cô gái đó không, chúng ta
có chuẩn bị để nghe câu chú đó không?
Câu chú đó là:
GATE, GATE, PARAGATE,
PARASAMGATE, BODHI
SVAHA
Nghe câu chú đó, có
thể chúng ta nghe như những con trâu đang ăn cỏ mà nghe đàn vĩ cầm. Câu ấy sẽ
không gây ảnh hưởng nào trên ta hết vì ta chưa chuẩn bị. Ta phải tập Thiền, tập
thở, tập cười, tập định lực, ngồi yên lặng, thiết lập sự thông cảm với Đức Quán
Âm. Có sự thông cảm sâu xa rồi, thì câu chú được đọc lên, tâm hồn sẽ chuyển đổi.
Gate: có nghĩa là qua rồi.
Paragate: qua bên kia rồi.
Parasamgate: tất cả vượt qua bên kia rồi.
Bodhi: tỉnh thức
Svaha: tiếng reo gọi vui mừng có năng lực thúc đẩy, tương đương với tiếng chào mừng hoặc hò dô ta của mình vậy.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Bây giờ, để cảm ơn
Ngài, chúng ta nên cùng tụng bài Bát Nhã Tâm Kinh để chấm dứt. Chúng ta nên tụng
với tất cả tâm hồn chúng ta, đừng tụng như là hát một bản nhạc, tụng tới đâu ta
phải thấy, phải hiểu tới đó mới được.
KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm
sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức diệu pháp Trí Độ)
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy
xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
“Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì
không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là
không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
“Xá Lợi Tử, nghe đây:
Thể mọi pháp đều
không
Không sanh cũng không
diệt
Không nhơ cũng không
sạch
Không thêm cũng không
bớt.
Cho nên trong tánh
không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành,
thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu
căn)
Không có sắc, thanh,
hương
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
(Từ nhãn đến ý thức)
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt,
đạo
Không trí cũng không
đắc
“Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng
ngại
Vì tâm không chướng
ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt niết bàn tuyệt đối.
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng
giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú tối thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
GATE
GATE
PARAGATE
PARASAMGATE,
BODHISVAHA.
Kinh Tinh Yếu Bát Nhã do Thầy Nhất Hạnh giảng
tại chùa Pháp Hoa, Adelaide Úc,
ngày 23-11-1986.
Lưu Hoằng Nguyện thu thanh và chép ra
Lư Thị Hồng sắp chữ.
Kết Thúc Quyển "Trái Tim Của Hiểu Biết" - Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá