Chương 4. Tự ý thức - Tự vô thức

Chương 4. Tự ý thức - Tự vô thức

Price:

Read more

Osho - Mặt trời tâm thức
Chương 4. Tự ý thức - Tự vô thức
19 tháng mười 1970, buổi tối tại Poorna, Ấn Độ.

Các bạn yêu quý của tôi,
Tôi đã nói với bạn trong một câu kinh rằng, cuộc sống là năng lượng và có hai khía cạnh của năng lượng - tồn tại và không tồn tại. Sau đó tôi nói với bạn trong kinh khác rằng tồn tại cũng có hai khía cạnh - vô thức và ý thức. Bây giờ câu kinh thứ bảy... ý thức cũng có hai khía cạnh - tự ý thức và tự vô thức; ý thức là nhận biết bản thể mình và vô thức là không nhận biết bản thể mình.
Nếu chúng ta nghĩ cuộc đời như là cái cây lớn thì năng lượng sống của cây là một. Sau đó cây chia thành hai nhánh: tồn tại và không tồn tại. Chúng ta đã bỏ quên không tồn tại, chúng ta không bàn luận về nó, bởi vì nó không liên quan đến Yoga. Vậy thì tồn tại cũng chia thành hai nhánh: ý thức và vô thức. Chúng ta cũng bỏ vô thức lại, không bàn luận về nó bởi vì nó cũng không liên quan đến Yoga. Ý thức cũng chia thành hai nhánh; tự ý thức và tự vô thức. Việc hiểu sự khác nhau giữa hai vấn đề trong câu kinh thứ bảy này là điều vô cùng quan trọng. Những gì tôi đã nói đến bây giờ là sự chuẩn bị để hiểu câu kinh thứ bảy mà tôi sẽ nói với các bạn trong ngày hôm nay. Từ câu này mà quá trình của phương pháp rèn luyện Yoga bắt đầu. Do vậy mà hiểu đúng câu kinh thứ bảy này là rất hữu ích.
Có những loài cây, những loài chim, những động vật; tất cả chúng đều có ý thức nhưng chúng không nhận biết về ý thức của chúng. Chúng là ý thức và vô thức. Chúng có cuộc sống, cuộc sống có đó, ý thức có đó, nhưng chúng không nhận biết thực tại chúng. Thế rồi con người cũng có đó, anh ta cũng tương tự như thú vật, chim muông và cây cối nhưng anh ta nhận biết được thực tại của mình. Thêm một khía cạnh mới vào ý thức của anh ta, rằng anh ta cũng là tự ý thức. Anh ta cũng còn biết rằng anh ta có ý thức. Chỉ riêng việc có ý thức không đủ để trở thành con người. Điều kiện để trở thành con người đó là khả năng nhận biết rằng con người là có ý thức. Đây là sự khác nhau duy nhất giữa con người và thú vật. Con vật cũng có ý thức nhưng chúng không nhận biết được ý thức của chúng.
Nếu bạn cố nhớ về quá khứ của mình, bạn sẽ chỉ có khả năng nhớ cho đến lứa tuổi lên bốn hoặc lên năm. Trước đó mọi thứ đều mờ mịt đối với bạn. Không có gì được nhớ lại trước bốn tuổi. Chắc chắn là bạn tồn tại đến bốn tuổi, nhưng có vẻ như bạn không tự ý thức. Đây là lý do tại sao trẻ nhỏ và thú vật có vẻ như có cùng tính hồn nhiên. Không có sự căng thẳng nào cả. Tính hồn nhiên được nhìn thấy ở trẻ nhỏ, ở chim muông, ở cây cối. Có lẽ cho đến lúc bốn tuổi, chúng ta cũng chưa ý thức được chúng ta là ai.
Thế rồi, hàng ngày chúng ta ngủ từ bảy đến tám tiếng trong vô thức. Nếu con người sống sáu mươi năm thì họ đã ngủ mất hai mươi năm. Cho nên hai mươi năm sống trong vô thức; đó là những năm bạn là vô thức. Bạn đã ngủ quá nhiều lần, nhưng bạn có thể kể lại bằng cách nào giấc ngủ xuất hiện, khi nào nó xuất hiện, và đó là gì không? bạn không thể kể lại. Bạn càng thức khuya thì giấc ngủ càng không xuất hiện và khi nó xuất hiện thì bạn đã là vô thức. Giấc ngủ luôn tìm thấy bạn vô thức. Bạn vô thức cho đến thời điểm giấc ngủ rời bạn. Buổi sáng, khi giấc ngủ rời bạn thì cũng là lúc ý thức xuất hiện.
Khi bạn nói, “Tôi đã ngủ tám tiếng trong dêm”, điều đó không có nghĩa rằng bạn nhận biết bạn đã ngủ tám tiếng. Điều đó chỉ có nghĩa, có khoảng trống tám tiếng giữa thời điểm cuối cùng khi bạn đang thức và thời điểm khi bạn thức dậy vào buổi sáng. Đây là cách làm thế nào bạn biết, nếu không trong giấc ngủ bạn lại quay trở lại thế giới của thú vật và cây cối. Trong khoảng thời gian còn lại của ngày, khi bạn nghĩ mình hoàn toàn ý thức, thế mà chỉ thỉnh thoảng bạn mới hoàn toàn ý thức. Vào một ngày, bạn đứng và quan sát mọi người đi trên đường - bạn sẽ cảm thấy rất nhiều trong số họ đang đi bộ trong mơ ngủ. Một người nào đó đang nói chuyện với một người nào đó khác không có mặt ở đó, một người nào đó đang làm cử chỉ bằng tay, một người nào đó đang liếm môi. Họ đang nói với ai? Có vẻ như không có ai ở đó. Có phải họ đang thức? có vẻ như không có ai ở đó. Thế rồi câu chuyện này sẽ tiếp tục với ai? Nếu bạn có thể tự quan sát, bạn sẽ nhận ra toàn bộ thời gian mà bạn không nhận biết. Chỉ thỉnh thoảng nhận biết mới xuất hiện. Giả sử một người nào đó chĩa dao vào ngực bạn, tại thời điểm đó trong bạn có sự tự nhận biết. Trong những thời điểm đó, bạn hoàn toàn nhận biết, ngược lại sẽ là không nhận biết.
Chúng ta cố gắng hiểu thông qua một vài ví dụ. Có những cái mái của hai ngôi nhà. Nếu một tấm ván được đặt dọc theo mái của cả hai ngôi nhà và bạn được yêu cầu đi qua nó, có lẽ không ai trong các bạn sẽ sẵn sàng bước trên nó. Nếu cũng tấm ván đó đặt dưới đất thì tất cả các bạn - già, trẻ, gái, trai đều có thể bước trên nó và óc lẽ không có ai bị ngã. Tấm ván là như nhau, các bạn vẫn như vậy, vậy thì tại sao bạn lại từ chối bước trên nó khi nó được đặt dọc trên mái nhà? Và có rất nhiều người có thể đi trên nó khi nó được đặt dưới đất và không có ai bị ngã, bây giờ đâu là khả năng để ngã khỏi nó? Nhưng không phải như vậy, khó khăn thực sự là gì? Khó khăn là ở chỗ khác. Khó khăn là ở chỗ, khi bạn bước trên nó trên mặt đất thì không cần thiết phải nhận biết. Bạn có thể bước trong vô thức. Nhưng bước trên mái nhà thì bạn sẽ phải nhận biết. Chúng ta biết, nếu chúng ta không nhận biết thì việc sợ bị ngã có thể làm chúng ta thiệt mạng. Trên mặt đất, chúng ta sẽ không bị thiệt mạng, thậm chí chúng ta bị ngã.
Thỉnh thoảng sự nhận biết xuất hiện trong những thời điểm hiểm nghèo; thời gian còn lại chúng ta trong mơ ngủ. Khi cái chết đến gần thì sự nhận biết xuất hiện. Bình thường chúng ta không nhận biết. Đó là lý do tại sao chúng ta không muốn thay đổi thói quen của mình, bởi vì con người phải trở nên nhận biết nếu thói quen thay đổi. Thói quen cũ không cần sự nhận biết của bạn.
Hãy nhìn vào con người, làm cách nào anh ta có thể lấy bao thuốc lá ra khỏi túi của mình, đặt điếu thuốc lên môi và châm lửa bằng que diêm. Nếu bạn quan sát với sự chú ý, bạn sẽ nhận ra rằng anh ta hoàn toàn không nhận biết, anh ta thực hiện toàn bộ công việc đó gần như là trong trạng thái mơ ngủ. Anh ta không có ý thức về việc lấy bao thuốc lá ra khỏi túi, khi anh ta châm lửa, khi anh ta bắt đầu nuốt khói vào và nhả khói ra.
Nếu thế giới hoàn toàn nhận biết thì việc tìm ra con người ngu ngốc như vậy là điều khó khăn, những người đang hút khói thuốc vào và thở khói thuốc ra hàng giờ. Và nếu bạn xin người nào đó một điếu thuốc lá thì người đó sẽ nói rằng, tôi không quá điên khùng đến nỗi phải hít thở khói thuốc lá như vậy. Không chỉ họ đang hít thở khói thuốc lá; toàn bộ thế giới đang chống lại họ, giải thích rằng hút thuốc là có hại, là nguyên nhân của bệnh tật, điều đó làm cho cuộc đời ngắn lại. Nhưng họ là vô thức, tai của họ không thể nghe được điều đó.
Gần đây nước Mỹ đã quyết định rằng, trên mỗi bao thuốc lá nên ghi dòng chữ in hoa: “Thuốc lá có hại cho sức khỏe”. Những người bán thuốc lá, những ông chủ công ty, nhà máy đều lớn tiếng kêu lên rằng họ sẽ bị mất hàng tỷ đô la. Khi tôi đọc tất cả điều này, tôi nói, những người sản xuất thuốc lá không biết rằng con người là vô thức. Họ nghĩ, họ sẽ đọc sự cảnh cáo bằng chữ đỏ này trong bao nhiêu ngày? Và điều tương tự đã xảy ra. Trong sáu tháng, lượng bán ra giảm xuống, nhưng sau sáu tháng, lượng bán ra quay trở lại bình thường như trước kia. Sự cảnh báo được viết bằng chữ đỏ trên vỏ bao... nhưng người đọc phải đọc sự cảnh báo đó. Một người nào đó đọc một hoặc hai lần nhưng sau đó lại rơi vào quên lãng. Khi mua bao thuốc, sự cảnh báo vẫn trên vỏ bao nhưng không ai đọc nó. Lượng bán ra đã trở lại bình thường.
Nếu một cái gì đó được viết bằng mực đỏ rằng đó là thuốc độc, uống nó là điều nguy hiểm, thế thì một người nào đó sẽ uống với ý thức cảnh giác chăng? Điều đó là rất khó. Rõ ràng rằng mọi thứ là tồi tệ. Bao nhiêu lần bạn đã quyết định, bây giờ bạn sẽ không bị sự tức giận khống chế! Bạn đã quyết định bao nhiêu lần? Bao nhiêu lần bạn đã không có khả năng thực hiện điều đó? Thậm chí một lần cũng không được thực hiện, bởi vì nếu vậy thì hẳn là không cần quyết định lại nữa.
Tôi đã từng là khách của một gia đình. Ông già trong ngôi nhà đã nói với tôi, ông ta đã ba lần thề sống độc thân. Tôi đã rất ngạc nhiên. Làm cách nào ông ta có thể thề sống độc thân ba lần? Tôi hỏi ông ta tại sao không thề lần thứ tư. Ông già nói, “Bằng việc thực hiện điều đó ba lần, tôi đã rút được kinh nghiệm, đó là điều không thể, do vậy mà tôi không thề lần thứ tư”. Điều đó đã không được thực hiện trong lần thứ ba.
Hàng ngày bạn tức giận, hàng ngày bạn thề nguyện, và thế rồi vào ngày tiếp theo, điều gì sẽ xảy ra khi sự tức giận xuất hiện? thậm chí sẽ không còn lại dấu vết của sự thề nguyện, bởi vì không có dấu vết của sự thề nguyện, bởi vì không có dấu vết của chính nơi bạn như là bạn. Người đã thề nguyện là người mơ ngủ. Vào buổi tối, một người lên giường đi ngủ với quyết tâm rằng anh ta sẽ phải dậy vào bốn giờ sáng hôm sau. Chuông báo thức reo vào buổi sáng, anh ta quay lên giường và nói, “Mặc kệ. Mình sẽ thực hiện điều đó từ ngày mai”. Cũng con người đó thức dậy vào lúc bảy giờ và hỏi, “Làm thế nào mà điều đó xảy ra? Mình chắc chắn đã thề là dậy vào lúc bốn giờ sáng”. Nhưng con người đã thề là con người mơ ngủ. Vào lúc bảy giờ sáng, anh ta có thể lại thề, nhưng vào bốn giờ sáng ngày tiếp theo anh ta lại bỏ lỡ. Toàn bộ cuộc đời của chúng ta đã trôi qua trong tình trạng mơ ngủ như vậy. Nếu chúng ta nhìn vào những hành động của mình, chúng ta hẳn không thể nói rằng chúng ta đã thực hiện chúng, bởi vì nếu chúng ta là người thực hiện, nhiều trong số những hành động đó đã không có khả năng được thực hiện.
Tất cả các tòa án trên thế giới biết hàng trăm tội phạm đã trình bày ở tòa án, “Tôi đã không phạm tội giết người này”, hoặc “Tôi không ăn cắp”. Nhưng quan tòa coi đó là lời nói dối, tòa án coi đó như là sự nói dối bởi vì có những người chứng kiến, có những bằng chứng rằng tội ác đã xảy ra. Nhưng tôi nói với bạn rằng những tội phạm đó không nói dối. Khi họ ăn cắp, ở thời điểm đó họ không có ý thức. Khi họ giết người, họ không có ý thức. Phạm tội giết người một cách tỉnh táo là điều rất khó khăn. Ăn cắp một cách tỉnh táo là điều rất khó khăn. Theo tôi và theo Yoga thì tội ác là hành động là nó phải là vô thức. Tội ác có nghĩa là hành động không thể được thực hiện mà không có sự vô thức. Khi bạn vô thức vậy thì chỉ khi đó bạn mới có thể phạm tội. Đó là điều kiện bắt buộc.
Do vậy, khi chúng ta nói với một người nào đó rằng anh ta đã hành động như con thú, điều đó không có nghĩa những con thú đã thực hiện những điều tương tự. Không con thú nào hành động như con người. Không, hành động như con thú có ý nghĩa rất khác. Điều đó có nghĩa chỉ khi những con thú là tự vô thức, khi chúng không nhận biết chính chúng, tương tự, con người cũng không nhận biết chính mình. Đó là điều mà trong hoàn cảnh này, câu ‘hành động như con thú’ được sử dụng. Nếu không, không có con chú nào đã hành động như Hitler, hoặc không có con rắn nào đã cư xử như Genghis Khan. Có bất kỳ con thú nào đã làm những điều xấu xa như là con thú, được gọi là con người, đã làm không? Không, không con thú nào đã làm như vậy. ‘Như con thú’ có nghĩa là một điều - rằng con người đang làm một cái gì đó bởi tính hay quên; rằng anh ta là vô thức. Đó là lý do tại sao tòa án không thể kết án trẻ em dưới bảy tuổi như là tội phạm, bởi vì chúng ta cho rằng trẻ em không có ý thức. Nhưng liệu tòa có thể bảo đảm rằng ông già bảy mươi tuổi trở nên có ý thức? Không, thậm chí ông già bảy mươi tuổi không trở nên có ý thức, chúng ta chỉ mạo muội rằng ông ta đã trở nên có ý thức. Bởi vì khi chúng ta quan sát hành động của ông già bảy mươi tuổi, chúng ta đã biết rằng ông ta cũng bước đi trong mơ ngủ, trong trạng thái vô thức. Trong cuộc đời của bảy mươi năm, nếu một người nào đó có ý thức thậm chí trong bảy phút thì đó cũng là một con số cao rồi. Thậm chí bảy phút cũng là quá nhiều rồi. Nếu trong bảy mươi năm của cuộc đời, thậm chí chỉ một vài khoảnh khắc thức tỉnh cũng đủ để biến người đó thành Maharvira, Đức Phật, Krishna. Nhưng thậm chí không có nổi một khoảnh khắc đó. Chúng ta tiếp tục sống trong vô thức.
Nhưng tôi đã nói với bạn rằng, ‘con người’ chỉ bắt đầu vào ngày khi mà tự nhận thức bắt đầu. Cho nên, chúng ta chỉ là tiềm năng để trở thành con người, chúng ta không là con người; chúng ta chỉ là những cơ hội để trở thành con người, chúng ta không phải là con người. Đó chỉ là khả năng trong dạng hạt mầm rằng chúng ta có thể trở thành tự ý thức, nhưng chúng ta đã không trở thành. Điều này đã luôn là khó khăn của chúng ta, rằng nếu có một người như Đức Phật hoặc Maharvira thì làm cách nào chúng ta gọi họ là ‘con người’ - chúng ta gọi là Bhagwan[1]. Toàn bộ lý do để gọi họ là Bhagwan là vì chúng ta gự gọi chúng ta là con người, trong khi chúng ta không phải là con người theo đúng nghĩa. Cho nên bây giờ phải đặt những con người này ở đâu? Nếu chúng ta gọi họ là con người, chúng ta sẽ phải đặt họ cùng với chúng ta. Vì vậy chúng ta đã tìm ra tiêu chuẩn đánh giá mới: Bhagwan. Hẳn là hay hơn nếu chúng ta gọi họ là con người và gọi chúng ta là người cấp thấp. Chúng ta đang trên lộ trình trở thành con người, chúng ta chưa trở thành con người. Điều đó sẽ là đúng - và đây là sự thật. Nhưng thậm chí trong cuộc sống của chúng ta, đôi khi chúng ta trở nên ý thức trong một vài thời điểm. Những thời điểm một mình là những thời điểm phúc lạc trong cuộc đời của chúng ta, bởi vì chúng cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về bản thể của chúng ta; giống như tia nhấp nháy của ánh sáng.
Yoga chia ý thức thành hai phần: tự ý thức và tự vô thức. Những người vô thức đối với quan điểm có linh hồn là tự vô thức, đúng như vậy, nhưng thậm chí chúng ta, những người tự ý thức là những con thú bằng nhiều cách - là cây cối, là những tảng đá bằng nhiều cách. Một tỷ lệ nhỏ chúng ta phải trở thành con người; một phần rất nhỏ. Điều đó giống như việc đặt tảng băng vào nước và chỉ có một phần mười ló ra khỏi nước, chín phần vẫn còn ngập trong nước. Chúng ta giống như vậy. Chín phần của chúng ta chìm ở dưới đáy, trong bóng tối. Chỉ có một phần nhỏ nổi trên bề mặt và trở thành con người.
Do vậy, con người có sự lo lắng khủng khiếp. Thú vật không lo lắng. Không con vật nào phạm tội tự sát. Cái ngày mà bất kỳ con vật nào tự sát thì cũng là lúc biết rõ rằng loài đó sẽ không còn là thú vật nữa, nó đã bắt đầu trở thành con người. Không con vật nào tự sát. Sự đau khổ cùng cực cũng không làm cho việc tự sát trở thành cần thiết. Không con vật nào cười trừ con người. Nếu trên đường bạn tình cờ nhìn thấy con trâu đang cười thì bạn sẽ không bao giờ bỏ qua con đường đó nữa.
Không có con vật nào cười. Tại sao lại như vậy? Không có con vật nào quá bất hạnh đến nỗi nó cần phải cười để quên đi nỗi bất hạnh. Cười là sự dàn xếp để quên đi nỗi bất hạnh.
Đó là lý do tại sao trên thế giới, nỗi bất hạnh đang tăng lên, nhiều kiểu tiêu khiển giải trí được tạo ra. Rạp chiếu phim, truyền hình, phát thanh, khiêu vũ, ca hát. Khi tất cả điều đó kết thúc, con người nói, hãy mang thêm cái gì đó đến, bởi vì bấy giờ anh ta quá buồn chán. Hiện nay, năm mươi phần trăm năng lượng của toàn bộ thế giới được sử dụng chỉ để tạo ra các phương tiện giải trí, tiêu khiển cho con người. Trong thời đại ngày nay, những người có khả năng cung cấp giải trí cho con người đã trở thành quan trọng nhất - giống như các nghệ sĩ. Không có lý do nào khác cho việc trở thành quan trọng ngọa trừ thỉnh thoảng họ có khả năng cung cáp trò giải trí cho bạn. Bạn quá đau khổ đến nỗi, nếu một người nào đó có thể cung cấp cho bạn một vài trò giải trí, thế thì anh ta sẽ trở thành quan trọng.
Không con vật nào cười, bởi vì con vật không quá đau khổ đến mức nó cần phải cười. Cười là van an toàn - giống như bất kỳ hệ thống nồi hơi nào cũng được lắp thêm van an toàn, nếu hơi nước vượt quá mức cho phép thì van sẽ xả bớt hơi ra. Nếu không thì cuộc sống xung quanh ta sẽ trở nên nguy hiểm. Cho nên, cười là van an toàn của con người. Khi có rắc rối bên trong, cười là biện pháp để xả rắc rối đó. Đây là lý do tại sao không con vật nào cười, bởi vì không có quá nhiều căng thẳng, bởi vì không có quá nhiều đau khổ, không có quá nhiều lo lắng.
Nỗi khổ đau của con người là gì?
Nỗi khổ đau của con người là ở chỗ, một phần của anh ta đã trở nên tự ý thức và phần còn lại vẫn trong vô thức. Khó khăn của anh ta cũng tương tự như là của Narsimhavatar, hóa thân Hindu người-sư tử của vị thần nửa người, nửa vật. Khó khăn là hóa thân người-sư tử có thể gặp phải cũng tương tự như khó khăn mà tất cả chúng ta đang gặp phải. Mọi người hỏi tôi, làm cách nào mà hóa thân nửa người-sư tử lại là điều có thể. Tôi nói với họ rằng tất cả loài người là hóa thân của người-sư tử. Và nếu như sự phân chia là nửa người, nửa sư tử thì cũng sẽ có một vài dạng cân bằng hẳn đã xuất hiện. Nhưng phần rất nhỏ của cái đầu - không phải là toàn bộ cái đầu - đã trở thành con người; phần khác vẫn còn là thú vật. Toàn bộ cuộc sống là thú vật, là vô thức, chỉ một góc nhỏ của trí tuệ đã trở nên ý thức. Nó giống như là một vùng rộng lớn như bóng tối, và chỉ có một ngọn đèn nhỏ đang cháy trong góc, xung quanh nó chúng ta đang trải qua những cuộc đời của mình. Ngọn đèn nhỏ đó cũng không cháy mãi, nó bị dập tắt trong lúc ngủ. Nếu ngọn đèn của một người nào đó không tắt, vậy thì anh ta sẽ dập tắt nó bằng việc uống rượu hoặc bằng hàng nghìn lẻ một cách say xỉn khác. Đây là lý do con người cảm thấy thư giãn trong việc uống rượu, bởi vì phần đã gây ra một chút khó chịu đã trở thành con người, và phần đó cũng đã bị ném trở lại bên dưới con người. Giống như toàn bộ tảng băng bị ngâm trong nước. Bây giờ bạn đã trở lại thế giới của thú vật - bây giờ không còn gì để lo lắng. Đây là lý do tại sao giấc ngủ mang đến cho bạn sự thư giãn; trong giấc ngủ bạn ngập chìm một trăm phần trăm. Chính vì vậy mà bạn cảm thấy tươi trẻ vào mỗi buổi sáng khi thức dậy. Bạn vừa quay trở về từ thế giới của thú vật, ở đó không có nỗi đau khổ, không có khó khăn. Bây giờ thế giới của con người lại bắt đầu. Điều này liên tục lặp lại trong hai mươi bốn giờ.
Cho nên, khi tôi nói con người là tự ý thức, tất cả điều đó tôi ngụ ý rằng, có khả năng của việc trở nên tự ý thức. Với con người, phần nhỏ đã trở nên tự ý thức. Yoga nói, nếu con người trở nên tự ý thức một cách toàn bộ thì anh ta sẽ đạt tới thiền định. Nếu tất cả các góc tối của anh ta tràn đầy ánh sáng thì con người đó đạt tới samadhi, đạt tới chứng ngộ.
Tự nhận biết sẽ xuất hiện chỉ khi toàn bộ ngôi nhà của cuộc đời bạn trở nên tràn đầy ánh sáng. Cái bấc nhỏ của ngọn đèn sẽ không đủ, toàn bộ căn nhà cần ánh sáng của mặt trời sao cho mọi ngóc ngách của nó trở nên tràn đầy ánh sáng. Nếu không bạn sẽ luôn luôn bị vỡ thành hai phần. Phần tràn đầy ánh sáng sẽ quyết định rằng nó sẽ không dẫn bất kỳ con rắn nào vào trong ngôi nhà, nhưng sẽ làm gì với những phần tối mà những con rắn đang sống ở đó rồi? sớm hay muộn, khi những con rắn xuất hiện dưới ánh sáng ngọn đèn, bạn sẽ hét to lên rằng lời thề nguyện của bạn đã bị phá vỡ. Lời thề nguyện của bạn, không cho phép bất kỳ con rắn nào vào nhà, đã bị phá vỡ.
Khi bạn thề rằng bây giờ bạn sẽ không tức giận nữa, bạn đang thề với phần nhỏ được rọi sáng. Bạn không bận tâm về chín phần đang còn trong bóng tối, đang chìm ngập trong bóng đêm, nơi mà sự tức giận đang tích tụ, đang sẵn sàng. Khi bạn thực hiện lời thề, thậm chí ở thời điểm đó trong vài góc tối bên tỏng bạn, sự tức giận đang tích tụ, và toàn bộ phần bên trong của bạn phải cảm thấy ngạc nhiên về lời thề của bạn. Điều đó giống như người đưa tin ngồi bên ngoài ngôi nhà, anh ta không biết tí gì về ngôi nhà đó, nhưng lại là người liên tục đưa ra những quyết định về toàn bộ ngôi nhà. Anh ta không có khái niệm về tất cả những gì đang diễn ra bên trong. Trong những phần tối, tất cả mọi sự chuẩn bị vẫn đang diễn ra. Bạn đã thề về việc sống độc thân nhưng trung tâm dục của bạn đang chìm trong bóng tối, không có tia trí tuệ nào của bạn đạt tới chúng. Cho nên bạn phải quyết định trong góc của đầu bạn rằng, bạn đang thề sống độc thân nhưng trung tâm dục của bạn không biết tí gì về lời thề này, chúng vẫn tiếp tục công việc của mình. Dục sẽ nảy sinh từ đó và nó sẽ tràn ngập toàn bộ trí thông minh của bạn, bởi vì nó mạnh hơn gấp chín lần. Thế rồi bạn sẽ khóc và kêu la, lại thề lần nữa nhưng sẽ không bao giờ hiểu rằng lời thề là vô dụng. Vấn đề thực sự không phải là bạn thề với phần nhỏ, vấn đề thực sự là bạn trải rộng phần nhỏ này sao cho toàn bộ bản thể bạn trở nên ý thức. Vậy thì bạn sẽ không cần phải thề nữa.
Chính vì vậy mà tôi nói với bạn rằng Yoga không yêu cầu bất kỳ ai thực hiện lời thề. Ngoại trừ những con người dần độn và ngu ngốc, không có ai đã thực hiện lời thề trên thế gian này. Không có ý nghĩa gì trong việc thề. Kết quả thực sự là một cái gì đó khác. Kết quả thực sự là, nếu toàn bộ thực tại bạn trở nên được rọi sáng, vậy thì bạn sẽ không cần phải thề. Nhưng chúng ta vẫn liên tục thề! Bạn thề để chống lại ai? Bạn thề để chống lại những phần tối của chính bạn, và bạn không bao giờ có đường vào những phần tối đó. Bạn không thể đạt tới đó. Tất cả quyết định của bạn vẫn giữ nguyên trong góc của sọ bạn. Thậm chí toàn bộ sọ bạn cũng không được rọi sáng.
Bây giờ các nhà khoa học đồng ý với cách nhìn của Yoga rằng không phải toàn bộ óc của con người là ý thức tỉnh táo. Bây giờ khoa học ủng hộ điều đó. Chính vì vậy mà tôi đang lặp lại rằng Yoga là khoa học, bởi vì ngày nay khoa học tiếp tục khám phá nhiều hơn, nhiều kinh nghiệm và nhiều sự sáng suốt của Yoga tiếp tục được chứng minh. Bây giờ các nhà khoa học cũng nói rằng một nửa bộ óc của con người đang nằm trong bất động; không có sự hoạt động của nửa đó, nó vẫn không được sử dụng. Điều này không phải là cho tất cả - điều này chỉ đúng với những người làm việc bằng trí óc nhiều nhất. Những người ít làm việc bằng trí óc thì ba phần tư bộ óc của họ không được sử dụng, chỉ có một phần tư là được sử dụng. Thậm chí con người tài năng nhất cũng chỉ sử dụng một nửa bộ óc; một nửa khác vẫn giữ nguyên không sử dụng. Đối với người trưởng thành, thậm chí một nửa bộ óc không được sử dụng, chỉ một phần của một nửa là được sử dụng. Và một phần tư hoặc một nửa này cũng không được sử dụng với khả năng đầy đủ nhất của nó. Thậm chí con người tài năng nhất cũng chỉ sử dụng mười lăm phần trăm khả năng của mình, tám mươi lăm phần trăm còn lại không được sử dụng. Nhưng hãy để một nửa đó lại, tôi không nói về nửa đó. Đối với phần hoạt động thì chỉ mười lăm phần trăm là được sử dụng.
Bây giờ các dữ liệu khoa học, các bằng chứng khoa học, các nghiên cứu khoa học, tất cả đều phù hợp với thực tế rằng, chỉ một phần nhỏ trí óc của con người là hoạt động. Nói chung về phần này, sau tuổi mười tám cũng trở nên im lặng, không còn làm việc. Do vậy, bạn có trí thông minh mạnh mẽ nhất chỉ khi bạn phát triển cho đến tuổi mười tám. Cho nên không cần thiết phải bị ảnh hưởng bởi ảo ảnh rằng khi bạn tám mươi tuổi bạn có thể thông minh hơn. Có rất ít người phát triển tí thông minh của mình sau tuổi mười tám. Hầu hết con người liên tục tích lũy kinh nghiệm thông qua trí tuệ mà họ đã phát triển cho đến tuổi mười tám. Chỉ có sự góp nhặt kinh nghiệm là phát triển mà không phải là trí thông minh. Con người tiếp tục trải nghiệm thông qua sự giới hạn của trí thông minh mạnh mẽ đó. Cho nên người già tám mươi tuổi có rất nhiều kinh nghiệm, nhưng trí thông minh thì vẫn giữ nguyên như khi mười tám tuổi.
Trong cuộc chiến tranh thế giới gần đây nhất, có một kinh nghiệm ngạc nhiên xảy ra ở Mỹ. Có thể nói nước Mỹ có nền giáo dục tốt nhất, một đất nước phát triển nhất trên trái đất và nó sử dụng trí thông minh nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Trong cuộc chiến tranh thế giới gần đây nhất, có một điều lạ lùng là họ đã chuẩn bị tuyển mộ những người lính sau khi đo trí thông minh của họ. Kết quả nhận được từ việc tuyển hàng trăm nghìn người lính là không có ai trong những người lính đó có tuổi trí tuệ quá mười ba. Tuổi trí tuệ trung bình của họ là mười ba - cứ như là mọi thứ đã dừng đối với họ ở tuổi mười ba. Yoga đã nói về điều này từ rất lâu rằng toàn bộ trí tuệ của con người không được rọi sáng. Nếu như trí tuệ hoàn hảo của con người được rọi sáng thì những điều kỳ diệu bắt đầu xuất hiện, cái mà bạn gọi là năng lực siêu phàm. Yoga gọi chúng là những chức năng của những phần của trí tuệ không hoạt động - không có gì hơn thế nữa.
Cũng về những vấn đề này, hiện nay những bằng chứng khoa học trở nên có giá trị. Ở Mỹ có một người tên là Ted Cerio. Một số phần của trí óc hoạt động của ông ta nói chung là không hoạt động. Hiện nay có những dụng cụ dùng để điều tra phần nào của trí óc đang hoạt động. Những phần khác nhau của trí óc hoạt động vì những vấn đề khác nhau. Khi bạn đọc, một phần trí óc hoạt động; khi bạn khóc, phần khác hoạt động. Khi bạn cười, phần khác nữa hoạt động. Tương tự, có những phần khác nhau hoạt động khi bạn hát, hoặc khi bạn chơi đàn veena, hoặc khi bạn yêu. Thậm chí tới mức, khi bạn nói tiếng Hindu thì phần khác hoạt động, khi bạn nói tiếng Marathin thì lại phần khác hoạt động, và phần khác nữa hoạt động khi bạn nói tiếng Anh. Có hàng trăm nghìn trung tâm trong bộ óc mà chúng hoạt động cho những công việc khác nhau.
Cho nên một số phần trí óc đang hoạt động của Ted Cerio nói chung là không hoạt động. Nếu ông ta nhắm mắt ở Mỹ và được hỏi những gì đang xảy ra ở đây, ở Poona ở dưới nền đất của nhà máy Sanghavi tối nay, ông ta sẽ tiếp tục ngồi với đôi mắt nhắm trong vài khoảng thời gian mười lăm phút, sau đó ông ta sẽ mở mắt - ông ta sẽ không nói, ông ta sẽ chỉ mở mắt mình và camera sẽ chụp ảnh đôi mắt của ông ta, bức ảnh của sự tập trung này sẽ được lưu lại trong camera. Bây giờ, nếu điều này được mô tả trong một vài cuốn sách hai nghìn năm tuổi thì chúng ta hẳn sẽ nói đó là điều tầm phào. Nhưng con người này vẫn đang còn sống và tất cả các trường đại học đã khám cho ông ta, ông ta trình diễn từ nơi này đến nơi khác. Chỉ có một sự khác biệt giữa những bức ảnh chụp ở đây và bức khác chụp từ mắt của ông ta, đó là một bản sao mờ nhạt, tất cả chỉ có vậy. Sự khác biệt sẽ không nhiều hơn thế - chỉ là một bản sao mờ nhạt không đáng kể, chỉ có vậy thôi. Mắt của ông ta chụp được ảnh của chúng ta mặc dù chúng ta đang ngồi ở khoảng cách xa như vậy. Cho nên nếu Mahabharata nói rằng Sanjaya đưa ra bài tường thuật về cuộc đấu của Dhritrashtra mù ở Kurnkshathra cách xa hàng trăm dặm thì cũng có vẻ như không có vấn đề gì. Mắt có thể nhìn rất xa. Mắt có vẻ nhìn bất kỳ khoảng cách nào, nhưng để có được khả năng đó thì một vài vùng khác của trí óc cần phải được soi sáng.
Có một trường hợp ở nước Nga. Fyadov là nhà khoa học Nga. Từ nước Mỹ ra thì nước Nga là nước vô thần và cho đến tận bây giờ, họ không sẵn sàng chấp nhận linh hồn hoặc Thượng đế, nhưng Fyadov đã làm một thử nghiệm vĩ đại bằng cách gửi thông điệp điện tín xa hàng nghìn dặm - không thông qua bất kỳ dụng cụ nào mà chỉ thông qua ý nghĩ. Ngồi ở Matxcơva với đôi mắt nhắm, ông ta đã gửi thông điệp tới Tiflis. Ngồi ở Matcơva, ông ta nghĩ thông điệp và nó sẽ được nhận ở Tiflis.
Vào một ngày, thử nghiệm được thực hiện ở Tiflis. Trong ngôi vườn ở Tiflis, người đàn ông đến và ngồi ở ghế số 10. Người đàn ông này không biết gì, ông ta là du khách; mệt mỏi, ông ta ngồi xuống để nghỉ ngơi đôi chút vào buổi trưa. Ông ta không biết gì về thử nghiệm. Mọi người nấp sau những bụi cây rậm rạp, họ thông báo với Fyadov bằng vô tuyến rằng có người đàn ông đang ngồi ở ghế số 10. Họ nói, “Nếu ông có thể làm cho người đó ngủ trong năm phút bằng việc gửi thông điệp thì chúng tôi sẽ bị thuyết phục”. Bấy giờ Fyadov đang ngồi ở Matxcơva, ông ta giữ ý nghĩ trong tâm trí mình năm phút rằng, người đàn ông ngồi ở ghế số 10 nên ngủ. Trong vòng năm phút, người đàn ông đó rơi vào giấc ngủ sâu và bắt đầu ngáy. Một cách tự nhiên, những người bạn đang nấp này nghĩ rằng có thể ông ta mệt mỏi và kiệt sức, có thể chính ông ta buồn ngủ. Điều trùng hợp ngẫu nhiên là có thể. Cho nên họ gửi thông điệp ngược lại rằng người đó đang ngủ, nhưng nếu ông có thể đánh thức người đàn ông đó trong thời gian đúng bảy phút, lú đó họ mới bị thuyết phục. Chính xác sau bảy phút, người đàn ông đó thức giấc. Ông ta nhìn quanh cứ như có một người nào đó gọi ông ta. Họ ra khỏi bụi cây và hỏi người đàn ông, “Ông đang tìm ai?” người đàn ông trả lời, “Một người nào đó liên tục nói với tôi, “Dậy ngay, dậy ngay, bây giờ không nghĩ thế. Chính xác sau bảy phút, ông phải thức dậy”. Bấy giờ ai nói điều đó? Không có ai ở đó cả. Người đàn ông ngồi ở Matxcơva cách xa hàng nghìn dặm.
Nếu trí óc trở nên tràn đầy thức tỉnh thì con người trở thành người khám phá những năng lực vĩ đại. Có hàng trăm tiềm năng khác trong trí óc con người. Yoga thường gọi chúng là: siddhis, năng lực tâm linh. Chúng ta có thể cho chúng bất kỳ tên nào thì cũng không có khác biệt gì. Toàn bộ bộ não của chúng ta vẫn còn chưa thức tỉnh. Chúng ta nhìn có vẻ buồn chán và vô dụng; cũng chỉ bởi vì chúng ta còn trong mơ ngủ. Sự thao thức này vẫn còn giữ nguyên trong cuộc sống của chúng ta, đó là sự thao thức về việc không có khả năng sử dụng toàn bộ sự giàu có của chúng ta. Yoga nói, tất cả trung tâm của trí óc có thể hoạt động, và bộ óc ẩn chứa trong hộp sọ không phải là toàn bộ cá tính của bạn. Chính xác là, trí óc lớn đang ẩn chứa bên trong linh hồn. Thông tin quan trọng về nó đã ngừng đến với chúng ta. Tình cờ có cái nhìn thoáng qua về tình thương yêu trong cuộc đời của một người nào đó, thế rồi anh ta nhớ đến những trung tâm mà linh hồn có, nếu không sẽ không có sự hồi tưởng. Tình yêu tiếp tục biến mất khỏi cuộc đời của chúng ta ngày này qua ngày khác. Trong tình yêu, chúng ta đã đưa ra nhiều điều giả tạo mà nó liên tục lưu thông trong cuộc sống. Thậm chí, nếu toàn bộ bộ óc phát triển thì linh hồn cũng óc bộ óc của riêng mình, nó vẫn được giữ nguyên hoàn toàn, bởi vì toàn bộ sự giáo dục của chúng ta chỉ cho trí óc. Cho nên một phần rất nhỏ của bộ não phát triển, nhưng đối với linh hồn thì không có sự giáo dục nào, nó chưa bao giờ phát triển. Nó vẫn giữ nguyên không phát triển và con người trở nên tràn đầy căng thẳng bên trong. Thậm chí linh hồn và trí óc không cùng nhau tạo thành toàn bộ con người; con người có nhiều trung tâm hơn. Yoga chia con người thành bảy trung tâm. Nó nói rằng con người có tiềm năng phát triển cá nhân mình ở bảy mức độ khác nhau. Có những mức độ chung, đó là phép chia chung, thậm chí cũng có thể có nhiều phép chia hơn.
Đức Phật đã tạo ra chín phép chia. Người là một trong những nhà yogi vĩ đại nhất trên trái đất này. Patanjali đã tạo ra bảy phép chia. Một người nào đó có thể tạo ra nhiều phép chia hơn, bởi vì có hàng trăm trung tâm trong con người và mỗi trong chúng có khả năng của chính chúng. Nếu toàn bộ những khả năng này biểu lộ hoàn toàn và con người trở nên thức tỉnh, thế rồi trong trạng thái đó nếu người đó tuyên bố, AHAM BRAMASMI “ta là Brahma”, vậy thì không có sự cường điệu nào trong tuyên bố của người đó. Nhưng khi đặt những quyển sách gần ngọn đèn dầu hỏa trong những ngôi nhà, mọi người đã nhặt ra được những câu kinh từ Brahma, đã tìm ra những tuyên bố vĩ đại từ Upanishads và nói: “Aham Brahmasmi!”
Dầu hỏa không làm được điều đó và kinh đọc với ngọn đèn bên ngoài không thể có bất kỳ hữu ích nào. Khi ngọn đèn bên trong bùng cháy, ánh sáng bên trong rọi sáng tất cả bảy trung tâm thì kinh được tuyên bố vào thời điểm đó, kinh Vêđa được trải nghiệm ở thời điểm đó không phải là kinh Vêđa được viết trong bất kỳ cuốn sách nào, và sự tuyên bố Aham Bramasmi xuất hiện trong thời điểm đó không phải là một cái gì đó xuất hiện từ bất kỳ kinh nào. Đó là một cái gì đó nảy sinh từ toàn bộ bản thể của chính con người.
Cho nên, Yoga coi con người như là kinh và trong người đó còn rất nhiều chương chưa đọc - không biết, không quen, những chương mà chúng ta chưa bao giờ tiếp cận bằng ánh sáng, và những thứ mà chúng ta còn chưa có khái niệm. Giống như hoàng đế đang ngủ trong lâu đài của mình, ông ta có thể đã quên hết những kho báu, sự giàu có của mình, và có thể đang mơ rằng mình đã trở thành kẻ ăn mày trên đường phố, và thậm chí không có ai cho một đồng piasa nào. Ông ta đang khóc, đang chịu đựng đau khổ, đang rên rỉ. Chúng ta cũng gần như trong trạng thái như vậy của vị hoàng đế, không biết tất cả sự giàu có của mình. Nếu một người nào đó nói với chúng ta như vậy, chúng ta không thể tin. Làm cách nào chúng ta tin chúng ta có nhiều kho báu như vậy? Không, không! nếu một người nào đó hỏi hoàng đế trong giấc mơ của mình, “Làm cách nào ngài trở thành kẻ ăn mày? Ngài là hoàng đế cơ mà!” Vị hoàng đế đó sẽ nói, “Đừng tiếu lâm, hãy cho ta một đồng piasa và đó là điều có ý nghĩa với ta”.
Điều kiện của chúng ta chính xác như vậy.
Yoga nói rằng có sự trải rộng của những kho báu vô hạn trong chúng ta, nhưng tất cả những kho báu đó sẽ trở thành có thể chỉ bằng việc trở nên tự ý thức. Ngoài điều đó ra thì không còn con đường nào khác.
Bây giờ hãy để chúng ta hiểu điều này. Tất cả trung tâm thực tại của chúng ta bị đánh thức, trở nên năng động thông qua ý thức. Càng nhiều ý thức đến với chúng thì chúng càng trở nên năng động hơn. Bất kỳ phần nào của ý thức tập trung thì phần đó sẽ trở nên năng động. Trẻ nhỏ không nhận biết về trung tâm dục bởi vì nó không trở nên năng động. Sau mười bốn tuổi, bản năng đánh thức trung tâm đó, thế rồi con người bắt đầu trở nên nhận biết nó. Khi con người bắt đầu trở nên nhận biết nó thì trung tâm đó bắt đầu trở nên hoạt động. Điều đó được thực hiện bởi tạo hóa. Cho nên, nếu bản năng không đánh thức trung tâm dục của bạn, bạn sẽ không bao giờ biết có một cái gì đó giống như dục bên trong cá nhân mình. Trung tâm vẫn giữ nguyên im lìm, bạn sẽ không chú ý đến nó. Làm cách nào bạn chú ý! Nhưng tạo hóa phải thực hiện công việc từ trung tâm đó trong suốt cả cuộc đời, do vậy nó đánh thức trung tâm đó bằng chính khả năng của nó, không để lại gì cho bạn. Nó cũng đánh thức trong thú vật, trong cây cối, trong tất cả các dạng sống, nó đánh thức bằng chính bản thân nó.
Xã hội đánh thức trung tâm trí óc thông qua giáo dục, thông qua giảng giải, bởi vì nếu không như vậy thì việc sống cuộc đời bình thường sẽ rất khó khăn. Cho nên dạy toán, địa lý - xã hội dạy nhiều đến mức làm cho cuộc sống tiếp tục dễ dàng hơn. Xã hội làm cho một số trung tâm trí óc của bạn hoạt động, bản năng làm cho trung tâm dục của bạn hoạt động. Tất cả các trung tâm khác vẫn giữ nguyên trạng thái ngủ im lìm, chúng chưa bao giờ hoạt động. Không ai cần đến chúng. Xã hội không những không cần chúng, đúng hơn là xã hội không thích những trung tâm cụ thể nào đó trở nên hoạt động. Ví dụ, nếu tình yêu của một người nào đó trở nên rất sống động thì xã hội sẽ không thích điều đó. Xã hội sẽ muốn trung tâm tình yêu không trở nên sống động. Gia đình cũng sẽ muốn như vậy. Người vợ không muốn trung tâm tình yêu của người chồng trở nên sống động; người chồng cũng không muốn trung tâm tình yêu của người vợ trở nên sống động. Người mẹ cũng muốn điều này, người cha cũng muốn điều này. Có lý do vì điều đó. Nếu trung tâm tình yêu trở nên hoàn toàn sống động, vậy thì những rào cản giữa những người được yêu và những người không được yêu bắt đầu bị bỏ rơi. Thế rồi người mẹ không thể nói, “Chỉ yêu mình mẹ”. Nếu trung tâm tình yêu trở nên sống động thì đứa trẻ sẽ bắt đầu yêu mọi người. Vậy thì sự ghen tuông của người mẹ sẽ ngăn cản nó. Người vợ sẽ không thích nếu người chồng bắt đầu tìm kiếm tình yêu ở một người nào đó khác - sự ghen tuông của người vợ sẽ ngăn cản người chồng. Toàn bộ xã hội sẽ tập trung ngăn cản trung tâm tình yêu ngay từ lúc nó bắt đầu hoạt động, bởi vì trung tâm tình yêu có thể trở nên nguy hiểm. Cho nên, xã hội sẽ ngăn chặn, sẽ cắt đứt. Có những trung tâm khác mà xã hội có chút nới lỏng với chúng, ví dụ như người đàn ông tên Ted Cerio... nếu có rất nhiều người giống như vậy trên khắp thế giới thì xã hội sẽ làm ra những luật lệ để chống lại họ.
Gần đây có một vấn đề như vậy đã xảy ra. Có một người đàn ông tên là Tony ở Indonesia. Một trong những sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ này đang xuất hiện trong cuộc đời của Tony ở Indonesia, châu Á. Nhưng toàn bộ xã hội, tòa án, luật, tất cả đều chống lại ông ta. Tony đã thực hiện một trong những thử nghiệm sâu sắc nhất - đó là phẫu thuật tâm linh. Tâm trí mọi người không thể nắm bắt những phương pháp. Tony thực hiện phẫu thuật mà không có bất kỳ dụng cụ nào. Ví dụ, bạn có ruột thừa trong bụng mình, ông ta sẽ cho hai tay trần trụi của mình vào bụng bạn, với mắt nhắm, ông ta cầu nguyện thần thánh và cả hai tay của ông ta sẽ chui vào bụng bạn. Da sẽ bị đứt mà không có bất kỳ dụng cụ nào, cả hai tay của ông ta sẽ chui vào bụng bạn. Điều này đã diễn ra trước mặt hàng tá các nhà khoa học y khoa, các bác sĩ và các nhà phẫu thuật. Sự kiện này được quay phim và chiếu lại trên khắp thế giới.
Tay của ông ta sẽ chạm vào bên trong, mắt của ông ta vẫn nhắm, ông ta sẽ cầm được ruột thừa trong bụng bạn, tách nó ra và lấy ra ngoài. Ông ta sẽ di chuyển cả hai tay về phía dạ dày và da của bạn sẽ liền lại. Sau hai ngày, thậm chí sẽ không nhìn thấy dấu hiệu da bị cắt. Hiện nay người đàn ông đó nên được coi trọng, nhưng chính quyền Indonesia đã đưa đơn kiện chống lại ông ta, hiệp hội y khoa đã đệ đơn lên tòa Tối cao rằng người đàn ông này không có chứng chỉ hành nghề phẫu thuật - làm cách nào ông ta được phép để phẫu thuật?
Có giới hạn nào không đối với sự điên khùng của con người? Bởi vì ông ta không có chứng chỉ của bất kỳ trường y khoa nào, không trình độ về phẫu thuật, họ nói, làm cách nào ông ta có thể được phép phẫu thuật? Tòa án buộc phải đưa ra phán quyết chống lại ông ta, bởi vì luật luôn luôn là mù quáng. Chính quyền đã cấm người đàn ông đó thực hiện phẫu thuật ở bất kỳ nơi đâu. Ông ta có một nhóm bạn bè gồm hai mươi lăm người. Họ đều là những người thực hành cầu nguyện và là thiền nhân. Khi họ được hỏi, họ không có khả năng giải thích bất kỳ điều gì - họ nói rằng họ không biết bất kỳ điều gì: “Chúng tôi đặt mình trong bàn tay của các đấng linh thiêng, thế rồi bất kỳ điều gì các Ngài bảo chúng tôi làm thì chúng tôi làm điều đó; nhưng chúng tôi không làm gì”. Nhưng nếu con người này được phép phẫu thuật thì điều gì sẽ xảy ra với ngành y, điều gì sẽ xảy ra với ngành phẫu thuật? Họ buộc phải tạo ra rắc rối cho người đàn ông đó. Họ buộc phải chụp mũ người đàn ông đó là bịp bợm; ông ta là một người nghèo nàn, một người đàn ông giản dị. Bị quấy rầy bởi những phiền nhiễu của họ nhưng ông ta lại chấm dứt một cách dễ dàng, ông ta nói, “Tôi sẽ không làm bất kỳ điều gì - tôi sẽ xin được tha thứ”.
Trong thế giới này, rất nhiều lần, rất nhiều điều kỳ diệu đã xảy ra và chúng ta đã ngăn cản chúng. Chúng ta luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng để những điều như vậy không xảy ra, bởi vì, chính những điều như vậy mà toàn bộ nền tảng của chúng ta, toàn bộ thể chế của chúng ta sẽ gặp rắc rối. Chúng buộc phải gặp rắc rối vì những gì sẽ xảy ra với tất cả chúng. Trong ánh sáng của những sự kiện đó, những gì mà chúng ta gọi là triển vọng khoa học cũng trở thành tầm thường và vô nghĩa, bởi vì những sự kiện đó đã mang lại những điều quá mới mẻ. Chúng ta bắt đầu chống lại những người như Ted Cireo hoặc Tony, bởi vì chúng ta nói rằng những sự kiện đó sẽ làm đảo lộn tất cả chúng ta?? Bởi vì Ted Cireo có thể nhìn thấy nhiều thứ trong một ngôi nhà khác, cho nên nếu không là hôm nay thì ngày mai chúng ta sẽ lo lắng. Ông ta còn có thể nhìn thấy két sắt của chúng ta. Chúng ta sẽ tập trung ngăn cản điều đó. Xã hội đã cố tình ngăn chặn những thành tựu vô giá của Yoga. Một cách tự nhiên, bất kỳ điều gì bị ngăn chặn, bị cấm đoán thì nó hoàn toàn ngừng tự biểu lộ, bởi vì chúng ta ngăn chặn những cơ hội và hoàn cảnh để nó biểu lộ.
Ngay trước mặt tôi, một sự kiện xảy ra và tôi cảm thấy quá ngạc nhiên! Một người bạn thường đến chỗ tôi để thiền. Con trai của ông ta học tiếng Hindu ở lớp ba cũng thường đến với cha mình. Nó hỏi tôi, một đứa trẻ có thể ngồi gần tôi được không. Tôi nói với nó điều đó là hoàn toàn có thể - điều đó là rất tốt. Người bạn đó đang thiền và cậu bé ngồi bên cạnh cũng bắt đầu thiền. Người cha có thể không thiền sâu nhưng cậu bé thì lại vào thiền rất sâu. Ông ta được đề nghị trở lại sau bốn ngày nhưng ông ta đã không làm như vậy, ông ta đến sau mười lăm ngày trong trạng thái rất bối rối, ông ta hỏi tôi, “Ông đã làm gì với đứa bé? Xin ông hãy thay đổi nó lại như cũ, chúng tôi không muốn nó vào thiền”. Tôi hỏi ông ta điều gì đã xảy ra. Ông ta nói rất nhiều điều kỳ lạ đã bắt đầu xuất hiện. Để đứa trẻ trong nhà, ông ta và vợ đã khóa cửa bên ngoài và bảo đứa trẻ chơi ở trong nhà. Họ nói với nó là họ chỉ đi thăm người hàng xóm. Khi họ quay về, đứa trẻ đang dứng ở bên cửa sổ và nói, “Cha mẹ đã nói dối con. Cha mẹ vừa đi xem phim về. Cha mẹ vừa đi xem buổi nhạc kịch buổi chiều”. Họ đã đi xem nhạc kịch ở rạp nhưng họ đã lừa đứa trẻ. Họ vô cùng ngạc nhiên. Họ hỏi, “Làm sao con biết?” đứa trẻ nói, “Khi con ở nhà một mình và không có gì để chơi, con ngồi xuống để thiền và nhìn thấy cả hai cha mẹ trong rạp chiếu phim”. Cho nên họ nói, “Chúng tôi không muốn những điều như vậy phát triển trong đứa trẻ. Chúng tôi không muốn nó học thiền, điều đó sẽ gây ra rắc rối”. Đây là tâm trí bất lương của người cha.
Cảm nhận kỳ lạ nhưng nó là như vậy. Nếu trong nhà bạn cũng có đứa trẻ nhìn thấy những điều như vậy, bạn cũng sẽ nói, “Đủ rồi. Dừng tất cả những điều đó lại”. Bởi vì bạn nói với đứa trẻ không được hút thuốc và bạn thì lại hút. Ngày mai đứa trẻ buộc phải nói, “Cha đang nói điều gì vậy? Cha bảo con không đến rạp phim còn cha thì lại đến đó”. Ngày mai đứa trẻ chắc chắn sẽ nói, “Cha đang nói điều gì? Cha đã làm mọi thứ mà cha lại cấm con”. Cho nên bạn sẽ không cho phép tài năng phát triển ở trẻ nhỏ. Chính vì vậy mà toàn bộ loài người đang cùng nhau âm mưu chống lại sự phát triển của Yoga, những điều mà chúng ta không nhận biết. Chúng ta cố ngăn chặn tất cả những điều đó, toàn bộ xã hội ngăn chặn và sẽ không tạo ra bất kỳ cơ hội nào để nó phát triển...
 Hãy nghĩ một chút xíu, nếu tất cả các trường đại học, các trường cao đẳng, các trường phổ thông bị đóng cửa thì bao nhiêu người trên thế giới biết đến toán học? nếu toàn bộ ngành giáo dục và dạy học ngừng trong hai nghìn năm, vậy thì sau đó con người sẽ bắt đầu nghi ngờ rằng, có thể có rất nhiều trí thông minh trong con người đến mức họ có thể bay như máy bay - có quá nhiều trí thông minh đến mức họ có thể vươn tới mặt trăng! Mọi người sẽ nói, “Làm thế nào mà điều đó là có thể?” thậm chí chế tạo một cái xe trâu cũng là điều khó khăn - chế tạo một cái máy bay là một điều quá xa lạ. Thực tế là, ngày nay việc con người lên đến mặt trăng là kết quả giáo dục trí óc trong mười hay hai mươi nghìn năm qua. Nếu chúng ta đã lao động trong mười Nếu chúng ta đã lao động trong mười hay hai mươi nghìn năm với những trung tâm được nhắc đến bởi Yoga, thế thì không thể tưởng tượng con người có thể vươn tới đâu. Đôi khi một người nào đó đạt tới những đỉnh cao, thế rồi chúng ta biến họ thành mục tiêu để tôn thờ và lãng quên. Nhưng tất cả điều đó là có thể. Có rất nhiều mức độ trong con người nhưng họ đã chôn vùi chúng vào vô thức, cho nên chúng ta không có khái niệm về chúng.
Yoga chia con người thành bảy mức độ, thành bảy trung tâm. Năng lượng vô hạn đang ngủ im lìm trong bảy trung tâm đó, giống như bông hoa khép lại trong nụ. Nhìn nụ, chúng ta không có khái niệm rằng có một bông hoa như vậy trong nó, rằng hoa sen sẽ nở - hoa sen với rất nhiều cánh sẽ biểu lộ. Nụ cũng vẫn khép lại. Nếu một người nào đó chỉ nhìn thấy nụ của hoa sen và chưa bao giờ nhìn thấy hoa, anh ta không thể tưởng tượng rằng nụ đó có thể trở thành bông hoa. Tất cả trung tâm mà chúng ta đã đóng lại giống như nụ hoa. Nếu chúng nở hoàn toàn thì chúng ta mới biết rằng tất cả có thể tiềm ẩn bên trong chúng, quá nhiều hương thơm, quá nhiều vẻ đẹp, quá nhiều năng lượng! năng lượng vô hạn đang ngủ im lìm trong mỗi trung tâm. Nếu nụ nở ra thì chúng có thể biểu lộ; nếu nụ không nở hoa thì nó không thể biểu lộ.
Bạn đã bao giờ quan sát nụ sen nở chưa? Khi nào chúng nở? vào buổi sáng khi mặt trời mọc và ánh sáng bắt đầu trải rộng. Nụ hoa khép kín trong bóng đêm, chúng nở vào buổi sáng cùng với ánh sáng mặt trời. Chính xác là như vậy, ánh sáng ban ngày của tâm thức của chúng ta biểu lộ ở mỗi trung tâm, mỗi trung tâm của nụ bắt đầu lộ ra.
Cũng còn có mặt trời bên trong, mặt trời tâm thức.
Sau khi đạt được điều đó, chúng ta có thể đặt cho cái tên là thiền hoặc một cái gì đó khác - điều đó không quan trọng, nhưng có một mặt trời tâm thức bên trong chúng ta. Ánh sáng của nó rọi lên bất kỳ trung tâm nào thì nụ của trung tâm đó sẽ hé nở và trở thành bông hoa. Cùng với việc nở hoa, chúng ta sẽ nhận ra rằng năng lượng vô hạn ngủ im lìm trong chúng ta bắt đầu hé lộ.
Có bảy trung tâm và mỗi một trong chúng có thể hé mở, và mỗi trung tâm có khả năng của riêng nó. Và khi tất cả bảy trung tâm mở ra, những ô cửa ra vào và những ô cửa sổ của con người, những điều mà chúng ta đã nói đến ngày hôm qua, sẽ trở nên mở hoàn toàn tới vô hạn. Cá thể trở thành một với vô hạn.
Tâm thức, làm cách nào mà chỉ mình tâm thức có thể mở những trung tâm này? Tôi muốn nói với các bạn một vài thực tế khoa học về điều này.
Cho đến hai mươi hay hai mươi lăm năm trước, các nhà khoa học không có khái niệm rằng, tâm thức lại có thể mang bất kỳ sự thay đổi nào đến cho bất kỳ thứ gì. Chúng ta cũng không nhìn thấy những điều nó. Chúng ta đã nghe những câu chuyện về những faki, về yogi, nhưng chúng chỉ là những câu chuyện. Khi nghệ thuật thực hiện những điều nào đó bị lãng quên thì chúng trở thành những câu chuyện - đó là điều tự nhiên. Nếu chiến tranh thế giới thứ ba xảy ra, và nếu một số ít nhà khoa học vĩ đại của nhân loại bị chết thì việc chế tạo bom nguyên tử là điều không thể. Hiện nay chỉ một tá hoặc hai tá, không thể nhiều hơn thế, là biết công thức. Nếu bạn giết hai mươi lăm nhà khoa học thì bom nguyên tử không thể được chế tạo nữa. Hiện nay có hai mươi lăm người biết cách chế tạo nó; mười năm trước chỉ có mười lăm người biết. Khi Hiroshima bị ném bom thì trước đó, trên toàn thế giới chỉ có bốn người biết. Nếu bốn người đó bị giết thì bom nguyên tử sẽ chỉ là câu chuyện, và nếu một người nào đó nói, đó không phải là câu chuyện mà là sự thật thì hẳn chúng ta sẽ nói, bạn hãy chế tạo bom nguyên tử đi và chỉ cho chúng tôi xem. Vậy thì điều đó sẽ trở thành khó khăn.
Nếu chiến tranh thế giới thứ ba xảy ra, vậy thì cũng giống như nó xảy ra nhiều lần trước đó, tất cả các nhà khoa học sẽ bị thủ tiêu. Mhabharata đã xảy ra và tất cả nền khoa học, nền văn hóa của thời kỳ đó đã bị phá hủy, chỉ có những câu chuyện về chúng là được giữ lại. Chúng ta nói, tất cả chúng chỉ là những câu chuyện. Bây giờ chúng là những câu chuyện. Nếu chiến tranh thế giới thứ ba xảy ra và toàn bộ thế giới bị phá hủy như là điều có thể, bất kỳ khi nào thế giới bị phá hủy bởi chiến tranh thì những con người phát triển nhất trong thế giới đó sẽ bị tiêu diệt trước tiên. Nếu bom rơi trong chiến tranh thế giới thứ ba thì Poona, Bombay, Delhi, London, New York sẽ không thể sống sót. Nếu có một người nào đó sống sót thì họ phải là những thổ dân trốn trong hang núi ở Bastra, hoặc một người nào đó ở miền núi cao Himacjal Pradresh. Không ai cố tình bỏ bom nguyên tử ở những nơi đó. Việc tìm kiếm và xác định những con người này để ném bom nguyên tử xuống sẽ là điều vô nghĩa và vô cùng tốn kém. Nhưng tất cả những trung tâm phát triển của thế giới, các trường đại học, các trung tâm khoa học sẽ bị phá hủy. Đầu tiên sẽ là phá hủy. Và những người sống sót, những thổ dân, họ cũng nhìn thấy tàu hỏa, cho nên họ sẽ kể những câu chuyện cho con cháu họ rằng đã từng có tàu hỏa. Sau hai hay ba thế hệ, trẻ con sẽ nói rằng điều đó là không thể. Làm sao có chuyện đó được? Bằng chứng đâu? Và hẳn sẽ là không còn những bằng chứng.
Điều tương tự cũng đã xảy ra với nghệ thuật Yoga. Nghệ thuật phát triển nhiều lần, nhưng sau đó, vì nhiều lý do, nó lại bị mất đi. Lý do chủ yếu nhất của tất cả điều đó là tự chúng ta không thể tha thứ, bởi vì có sự nguy hiểm trong nó. Tôi đã nói với bạn rằng ý thức tạo ra sự khác nhau của nhiều vấn đề. Đã luôn có những thử nghiệm đơn giản trong Yoga để kết luận rằng, ý thức tạo ra sự khác nhau đối với nhiều vấn đề. Bằng việc trở nên ý thức nó đã tạo ra sự khác nhau. Hiện nay khoa học đồng tình với điều này. Nếu chúng ta nhìn vào đá cuội, nó không tạo ra sự khác biệt nào. Làm thế nào nó lại tạo ra sự khác biệt? Đá cuội vẫn là đá cuội. Chẳng ý nghĩa gì nếu chúng ta quá tập trung ý thức vào nó, đá cuội vẫn là đá cuội. Nhưng từ khi có sự khám phá ra điện tử, các nhà khoa học đã biết rằng, khi chúng ta tập trung sự cố gắng để nhìn điện tử thông qua kính hiển vi thì sự chuyển động của điện tử là dạng dao động. Cũng tương tự như vậy khi chúng ta tắm trong buồng tắm là lúc chúng ta ở trong trạng thái thư giãn nhất, tạo ra nhiều bộ mặt và cười trong gương, lãng quên tuổi tác, thế rồi bỗng nhiên bạn nhận ra rằng, một người nào đó đang nhìn trộm qua lỗ khóa, bạn trở nên cảnh giác và dừng tất cả mọi chuyện. Nếu lúc đó bạn đang hát bài hát trong phim, thì bạn sẽ bắt đầu hát thánh ca hoặc bắt đầu làm một cái gì đó khác.
Cho nên, chúng ta có thể đồng ý với điều này rằng, nếu bạn đang bị nhìn qua lỗ khóa thì bạn sẽ thay đổi, nhưng khi các nhà khoa học nói rằng khi các điện tử được nhìn thông qua kính hiển vi thì sự chuyển động của nó sẽ thay đổi, thế thì điều đó sẽ trở nên quá ngạc nhiên. Điều đó có nghĩa là quan sát mang đến sự thay đổi.
Hôm qua tôi đã nói với bạn về vị thánh Thiên chúa giáo, người đã ban phúc cho những hạt mầm ở phòng thí nghiệm của trường đại học Oxford. Một điều còn ngạc nhiên hơn đã xảy ra trong khi vị thánh đó ban phúc cho một hạt mầm. Ông ta đeo cây thánh giá ở cổ, cúi xuống hạt mầm được hai tay chắp lại và cầu nguyện. Khi hạt mầm được chụp ảnh, chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên. Bên trong hạt mầm, ảnh của cây thánh giá cũng xuất hiện. Điều đó là vô cùng kinh ngạc. Khi vi thánh cúi xuống để cầu nguyện, cây thánh giá cũng tới gần hạt mầm, nhưng đó lại là ảnh của cây thánh giá bên trong hạt mầm! Làm thế nào mà điều đó lại có thể xảy ra? Có thể những lời cầu nguyện của ông ta, sự chú ý của ông ta bao phủ hạt mầm cũng còn có thể truyền ảnh của cây thánh giá bên trong hạt mầm? Có phải là hạt mầm cũng phản ứng lại đối với lời cầu nguyện? có phải là hạt mầm đã chấp nhận tất cả điều đó để động viên vị tu sĩ?
Yoga đã biết từ rất lâu rằng, ở bất kỳ trung tâm nào mà chúng ta thiền một cách thầm kín thì ngay lập tức trung tâm đó trở nên hoạt động. Hành động của nó là mở nụ đang bị khép kín, giống như bình minh đánh thức chim muông. Nên nhớ, có thể bạn đã chú ý đến điều đó hay không, thực tế chim muông đã bắt đầu ca hót hàng giờ trước khi mặt trời mọc. Cho đến nay, mặt trời chỉ quay mặt của nó theo hướng này, nó chưa thực sự đến, nó chỉ chuẩn bị đến và chim muông bắt đầu ca hót, nụ hoa bắt đầu nở. Mặt trời đã chuẩn bị xuất hiện - cho đến lúc đó nó vẫn chưa đến và hoa đã bắt đầu nở, nụ hoa đã bắt đầu mỉm cười và chim muông bắt đầu ca hót. Sự chú ý của bạn bắt đầu hướng vào bên trong và các trung tâm của bạn bắt đầu hoạt động. Chỉ hướng vào bên trong, những kinh nghiệm duy nhất bắt đầu xuất hiện.
Hiện nay, trong ba ngày này, rất nhiều bạn bè đã đến và nói với tôi rất nhiều trải nghiệm. Một số bắt đầu trải nghiệm ánh sáng mãnh liệt bên trong, một số trung tâm đang tỏa hương thơm. Một số bắt đầu nghe thấy âm nhạc. Đó là âm nhạc tỏa ra từ một vài trung tâm. Những kinh nghiệm khác nhau bắt đầu biểu lộ từ bên trong. Vũ trụ bên trong chúng ta không nhỏ hơn vũ trụ bên ngoài chúng ta. Cho đến bây giờ chúng ta chỉ chú ý đến bên ngoài, cho nên chỉ những thứ bên ngoài mới trở nên hoạt động. Cho đến bây giờ chúng ta không chú ý bên trong, nếu không thì mọi thứ bên trong đã trở nên hoạt động. Tôi có thể nói với bạn một số thử nghiệm nhỏ để bạn thực hiện, và bằng việc thực hiện những thử nghiệm đó bạn có thể hiểu điều đó có thể xảy ra. Bạn đang đi trên đường, một người nào đó đang đi bộ trước bạn. Liên tục nhìn vào phía sau cổ của người đó trong một hoặc hai phút mà không chớp mắt. Không quá hai phút sau người đó sẽ quay lại nhìn bạn. Trung tâm của người đó trở nên hoạt động; cảm thấy không thoải mái, người đó ngay lập tức sẽ quay lại để nhìn xem có chuyện gì xảy ra. Điều gì đang xảy ra phía sau? Bạn không thể tìm được con người, mà người đó không nhìn lại phía sau nếu bạn nhìm chằm chằm trong hai phút theo kiểu như vậy, và nếu bạn có thể tìm ra con người không làm như vậy thì bạn phải hiểu rõ rằng, bạn đã tình cờ gặp một người rất đáng giá.
Hôm nay hãy chọn một số trung tâm trong cơ thể bạn và bắt đầu mang một chút xíu ý thức đến cho nó. Nếu chúng ta được hỏi, làm cách nào chúng ta cảm nhận nếu một cánh tay của chúng ta bị lấy khỏi, chúng ta hẳn sẽ nói, “Điều đó thật không hay chút nào, chắc là sẽ bị đau, nhưng không đau bằng khi tôi bị lấy đi khỏi”. Nhưng nếu chúng ta hỏi, “Điều gì xảy ra nếu đầu bị lấy khỏi?” thế thì chúng ta sẽ nói, “Tất cả hẳn sẽ biến mất”. Bởi vì tất cả sự nhận dạng của chúng ta chỉ với đầu, và điều đó trở thành toàn bộ bản thể của chúng ta. Bất kỳ chúng ta giàu có thế nào, suy nghĩ thế nào, hiểu biết thế nào, chúng ta đã biết bất kỳ điều gì về mình, tất cả điều đó cũng chỉ ở một trung tâm nhỏ trong trí não chúng ta, nó không lan rộng khắp cơ thể.
Bạn bắt đầu thiền với bất kỳ trung tâm nào bên trong bạn. Khi tôi nói với bạn thử nghiệm bên ngoài, cũng bằng cách tương tự, chỉ trong năm hoặc sáu ngày với mắt nhắm, hướng sự chú ý của bạn vào tim - không có gì nhiều hơn được thực hiện. Năm phút mỗi ngày, bạn sẽ nhận ra rằng tình yêu đã bắt đầu tăng lên trong bản thể bạn. Bạn sẽ cảm nhận được điều đó, hàng xóm của bạn sẽ cảm nhận được điều đó, các thành viên trong gia đình bạn sẽ cảm nhận được điều đó. Không cần phải nói với bất kỳ ai, bạn chỉ tiếp tục hướng sự chú ý một cách thầm lặng tới điều đó, bạn sẽ nhận ra rằng, mọi người đã bắt đầu chú ý đến sự thay đổi bên trong bạn và nhắc nhở điều đó với bạn. Bạn chưa bao giờ quá thương yêu như vậy.
Bất kỳ trung tâm nào mà bạn hướng ý thức tới thì trung tâm đó sẽ trở nên hoạt động. Chúng ta có bảy trung tâm. Ý thức của bạn có thể hướng tới tất cả bảy trung tâm này. Nếu bạn hướng ý thức của bạn tới đó thì chỉ khi đó nó sẽ hướng tới đó. Đây là ưu thế của việc trở nên tự ý thức và điều này cũng còn là sự nguy hiểm. Nếu bạn không hướng nó tới đó, nó sẽ không tới đó. Nếu bạn không hướng tới đó thì cũng không có sự khác biệt giữa con vật vô thức và con người. Nếu tôi nói, đây là cách Yoga là khoa học tạo ra con người từ thú vật thì định nghĩa này không phải là sự cường điệu. Trong Yoga, ý nghĩa của thú vật không còn rất thú vị. Theo Yoga thì con vật là con người trong bế tắc - giống như khi con bò hoặc con trâu bị buộc bởi cái dây. Cái dây được gọi là sự say mê, sự ràng buộc và người bị ràng buộc là pashu, là thú vật.
Yoga nói, con người bị buộc chặt vào những xiềng xích của vô thức là con vật, và ai đó phá bỏ xiềng xích của vô thức thì là con người. Manushya, con người, có nghĩa ai đó đã hoàn toàn trở thành người có suy nghĩ và cảm giác. Suy nghĩ và cảm giác là định nghĩa của ý thức. Suy nghĩ và cảm giác là ý thức, rằng điều đó đã trở nên hoàn toàn ý thức. Chữ con người trong tiếng Anh cũng xuất phát từ chữ con người của tiếng Sanskrit. Rằng điều đó là hoàn toàn trở thành ‘con người’, rằng nghĩa của ‘ý thức’ là con người. Đây là câu kinh thứ bảy của Yoga. Thêm một vài điều trong sự chuyển tiếp này và vì thế tôi sẽ nói với bạn ngày mai về những câu kinh còn lại. Giữ trong tâm thức thêm một vài điều là rất cốt lõi.
Khi tôi nói rằng, con người là ý thức thì điều đó chỉ thỉnh thoảng thôi, thời gian còn lại anh ta là vô thức. Điều ngược lại cũng xảy ra. Những gì chúng ta cho là vô thức trong mọi thời điểm thì cũng trở nên ý thức ở vài thời điểm. Ví dụ, cây cũng trở nên ý thức ở một vài thời điểm, tảng đá cũng trở nên ý thức ở vài thời điểm, thú vật cũng trở nên ý thức ở vài thời điểm. Khi con người có ý thức ở vài thời điểm, tương tự như vậy, những loài chậm tiến hơn con người cũng có ý thức trong một vài thời điểm của cuộc đời. Những sự việc đó rất khó xảy ra và chúng là rất hiếm. Trong thời kỳ của Đức Phật, điều đó đã xảy ra với cây bồ đề.
Năm trăm năm sau khi Đức Phật chết, tượng của người vẫn không được dựng, bởi vì Đức Phật yêu cầu không dựng tượng. Người nói, cây bồ đề này sẽ làm điều đó, và trong năm trăm năm, chỉ có cây bồ đề đó là được thờ cúng. Sau năm trăm năm tượng của Đức Phật đã được dựng. Có rất nhiều lý do - một lý do đó là, ở thời điểm Đức Phật trở nên chứng ngộ, cây mà người ngồi dưới gốc đã có sự cộng hưởng và sự chứng ngộ của người, nó đã trở nên ý thức. Nó trở thành sự chứng kiến, nó trở nên chứng kiến một mình, không có ai khác có mặt ở đó, chỉ có cây là có mặt ở đó như là người chứng kiến.
Bạn sẽ hỏi, “Làm cách nào mà cây trở nên có ý thức?” Mặt trời vĩ đại như Đức Phật đã mọc dưới cây đó. Cây đó ngủ bao lâu trong vô thức thì điều đó cũng không thành vấn đề, một phần của nó đã thức tỉnh. Nó còn chứng kiến hiện tượng xảy ra một cách thận trọng. Do vậy mà Đức Phật nói, “Cây này là sự chứng kiến của tôi. Tôn thờ nó và thế là đủ. Nó đã chứng kiến một mình”. Đây là toàn bộ lý do mà phật tử đã cố gắng để bảo vệ cây bồ đề này cho đến bây giờ, mặc dù họ cũng không biết tại sao lại liên tục bảo vệ nó. Ashoka đã gửi một cành cây này tới Sri Lanka cùng con trai và con gái của mình. Cành cây đó đã mọc rễ ở Sri Lanka. Cho nên khi cây bồ đề ở Ấn Độ chết, một cành của cây ở Sri Lanka đã được trồng lại ở Ấn Độ. Cây đó đã sống hai nghìn năm trăm năm, đó là sự chứng kiến. Hiện tượng xảy ra trong tâm thức của Đức Phật cũng tràn ngập cây bồ đề đó và đánh thức nó từ giấc ngủ rất lâu, nó cũng còn gieo mầm những gì đã xảy ra.
Sẽ là dễ dàng khi hiểu như thế này. Nếu bạn hỏi một số nhạc sĩ tài năng, họ sẽ có khả năng giải thích điều đó một cách dễ dàng. Nếu trong phòng trống có một cây đàn veena và trong góc khác có một vài nghệ sĩ chơi đàn veena khác, veena đầu tiên sẽ bắt đầu cộng hưởng với bản nhạc đang được chơi. Những dây đàn của những cây đàn khác cũng bắt đầu rung động và nhảy múa.
Điều tương tự cũng xảy ra với cây. Đó là hiện tượng kỳ diệu đã xảy ra với Đức Phật, dưới sự ảnh hưởng đó, những sợi dây của cây đàn veena bên trong cây cũng bắt đầu rung động. Cây cũng nhảy múa. Cây trở thành kẻ chứng kiến.
Có thể bạn đã nghe tên nhà vật lý Lukman. Trong cuộc đời của Lukman, có một sự liên quan kỳ lạ đến gốc rễ sâu xa của Yoga. Có một câu chuyện về Lukman; tôi nói đó là câu chuyện, mặc dù thực tế đó là lịch sử. Câu chuyện đó là, Lukman đến và hỏi cây, “Công dụng của bạn là gì?” ông ta đến và hỏi cây cỏ dược thảo, “Công dụng của bạn là gì?” Thậm chí bây giờ, những người nghiên cứu y học đang bị bối rối, làm cách nào con người có thể khám phá hàng trăm nghìn loại thảo mộc và công dụng của chúng - Ayuvedic, Greek và những thứ khác - bởi vì không có bằng chứng về bất kỳ phòng thí nghiệm lớn nào trong những cuốn sách cổ về y học. Thậm chí ngày nay chúng ta không có khả năng tìm ra tất cả các loại dược thảo và công dụng của chúng đối với bệnh tật, công việc vẫn còn tiếp tục. Nhưng Lukman vẫn đơn thương độc mã tạo ra toàn bộ khoa học. Làm cách nào mà một con người đơn thương độc mã lại có thể tìm ra được quá nhiều điều trong một cuộc đời?
Câu chuyện của Lukman cũng còn nói cho chúng ta một cái gì đó khác. Nó cho chúng ta biết rằng, Lukman thường lui tới tất cả các loại cây, ngồi gần đó để tham thiền. Ông ta hẳn là cầu nguyện cây để nói cho ông ta công dụng của chúng là gì, hẳn là ông ta đã nhận được câu trả lời từ cây trong tâm của mình, thế rồi ông ta bắt đầu sử dụng cây đó cho căn bệnh cụ thể. Thậm chí bây giờ những cây mà Lukman đã sử dụng đã được chứng minh là đúng trong các phòng thí nghiệm. Thậm chí những cây gần với các phòng thí nghiệm. Thậm chí những cây gần với Lukman, gần với Đức Phật cũng trở nên thức tỉnh trong khi đó hàng nghìn người đến gần với người mà vẫn không thức tỉnh, vẫn còn trong mơ ngủ. Có lẽ cây cối trong trắng hơn, ngây thơ hơn, chính vì vậy mà chúng cùng rung động, cùng cộng hưởng.
Con người rất phức tạp, thông minh và ranh mãnh, không dễ cộng hưởng một cách nhanh chóng. Họ điều tra và thử nghiệm mọi thứ trước khi chấp nhận. Trong việc thử nghiệm và kiểm tra, thỉnh thoảng họ thành công trong việc mua một cái bình đất với giá hai xu, nhưng họ thường mất những tấm séc hàng triệu đôla.

Con người quá thông minh đôi khi cũng thất bại trong mánh lới lừa gạt. Nếu có một người nào đó thực hiện mọi bước với sự cảnh giác cao độ... một cái cụ thể, thế thì anh ta không thể thực hiện cuộc hành trình tới đấng linh thiêng, bởi vì hành trình đó không an toàn; những người quá thông minh sẽ không thực hiện hành trình chưa được biết trước, còn quá xa lạ. Nhiều người, người ngây thơ bước qua ô cửa còn những người thông minh vẫn đứng ở ngoài để suy nghĩ, đắn đo.
Ngày mai tôi sẽ nói với các bạn về câu kinh tiếp theo. Nếu có những câu hỏi nào liên quan, bạn có thể hỏi. Cho đến bây giờ, bất kỳ câu hỏi nào được hỏi thì tôi đã trả lời lần lượt. Có thể còn lại một vài câu hỏi, tôi sẽ nói với chúng vào ngày mai. Những người bạn muốn đến vào sáng mai để tham thiền nên tắm sạch sẽ trước khi đến, nên đến đúng giờ và giữ yên lặng. Ngày mai là ngày cuối cùng, không được ai đến chỉ để quan sát, chỉ những người muốn thử nghiệm là được mời.
Các bạn đã nghe tôi nói với tình thương yêu thầm lặng - tôi rất biết ơn vì điều đó. Bây giờ cho phép tôi biểu lộ sự tôn thờ đối với sự linh thiêng bên trong các bạn, xin hãy chấp nhận sự tôn trọng của tôi.

Ads Belove Post