Chương 1. Nối với ngôi sao xa nhất

Chương 1. Nối với ngôi sao xa nhất

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho

Bài nói về Thiền

Tập 1

Chương 1. Nối với ngôi sao xa nhất


Như trời trống rỗng không có biên giới, vậy mà nó là đúng ở chỗ này, bao giờ cũng sâu sắc và trong trẻo. Khi ông tìm để biết nó, ông không thể thấy nó, ông không thể cầm nó, nhưng ông không thể mất nó. Trong việc không có khả năng có nó, ông có nó. Khi ông im lặng nó nói; khi ông nói, nó im lặng. Cổng lớn là rộng mở để tặng bố thí, và không đám đông nào chắn đường.

Trước hết là vài điều nền tảng...

Thiền không phải là thượng đế học, nó là tôn giáo - và tôn giáo không có thượng đế học là hiện tượng duy nhất. Mọi tôn giáo khác tồn tại quanh khái niệm Thượng đế. Họ có các thượng đế học. Họ lấy Thượng đế là trung tâm, không lấy con người làm trung tâm, Thượng đế là mục đích. Nhưng không phải vậy với Thiền. Với Thiền, con người là mục đích, con người là mục đích lên bản thân con người, Thượng đế không phải là cái gì đó trên nhân loại, Thượng đế là cái gì đó ẩn bên trong nhân loại. Con người mang Thượng đế trong bản thân mình như một tiềm năng.

Cho nên không có khái niệm Thượng đế trong Thiền. Nếu bạn muốn bạn có thể nói rằng nó thậm chí không là tôn giáo - vì làm sao có thể có tôn giáo mà không có khái niệm Thượng đế? Chắc chắn những người đã được nuôi lớn như người Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, người Hindus, người Do Thái, không thể quan niệm được về Thiền là loại tôn giáo nào. Nếu không có Thượng đế thế thì nó trở thành vô thần. Nó không là vậy. Nó là hữu thần tới chính cốt lõi - nhưng không có Thượng đế.

Đây là điều nền tảng thứ nhất cần được hiểu. Để nó chìm sâu bên trong bạn, thế thì mọi sự sẽ trở nên trong trẻo.

Thiền nói rằng Thượng đế không phải là ở bên ngoài tôn giáo, nó là ở bên trong. Nó không là chỗ kia, nó là ở đây. Thực ra không có 'chỗ kia' cho Thiền, mọi thứ là ở đây. Và Thượng đế không là lúc khác, Thượng đế là bây giờ - và không có thời gian khác. Không có không gian khác, không có thời gian khác. Khoảnh khắc này là tất cả. Trong khoảnh khắc này toàn thể sự tồn tại hợp tụ, trong khoảnh khắc này mọi thứ là sẵn có. Nếu bạn không thể thấy được nó điều đó không có nghĩa rằng nó không sẵn có - điều đó đơn giản ngụ ý bạn không có cái nhìn để thấy nó. Thượng đế phải không được tìm kiếm, bạn chỉ phải mở mắt ra. Thượng đế đã là hoàn cảnh rồi.

Lời cầu nguyện là không liên quan trong Thiền - cầu nguyện ai? Không có Thượng đế đang ngồi đâu đó trên cõi trời và kiểm soát sự sống, sự tồn tại. Không có người kiểm soát. Sự sống vận động hài hoà theo cách riêng của nó. Không có người nào bên ngoài nó đang cho các lời răn. Khi có thẩm quyền bên ngoài điều đó tạo ra một loại nô lệ... người Ki tô giáo trở thành nô lệ, cùng điều đó xảy ra cho người Mô ha mét giáo. Khi Thượng đế có đó chỉ huy, bạn nhiều nhất có thể là người hầu hay nô lệ. Bạn mất chân giá trị.

Không phải như vậy với Thiền. Thiền cho bạn chân giá trị vô cùng. Không có thẩm quyền nào ở bất kì chỗ nào. Tự do là tuyệt đối và tối thượng.

Giá như Friederich Nietzsche biết bất kì cái gì về Thiền ông ấy chắc có thể đã biến thành nhà huyền bí thay vì phát điên. Ông ấy đã tình cờ gặp được sự kiện lớn. Ông ấy đã nói, 'Không có Thượng đế. Thượng đế chết - và con người là tự do.' Nhưng về căn bản ông ấy đã mang vào trong thế giới của người Do Thái và người Ki tô giáo, một thế giới rất hạn hẹp, rất bị giới hạn trong các quan niệm. Ông ấy đã tình cờ vớ được chân lí lớn: 'Không có Thượng đế. Thượng đế chết, do đó con người tự do.' Ông ấy tình cờ vớ được chân giá trị của tự do, nhưng nó là quá nhiều. Với tâm trí ông ấy nó đã là quá nhiều. Ông ấy đã phát điên, ông ấy đã phát rồ. Giá như ông ấy biết bất kì cái gì như Thiền ông ấy chắc đã thành nhà huyền bí - không có nhu cầu phát điên.

Người ta có thể có tính tôn giáo mà không có Thượng đế. Thực ra, làm sao người ta có thể có tính tôn giáo cùng với Thượng đế được? Đó là câu hỏi Thiền hỏi, câu hỏi gây bối rối lắm. Làm sao con người có thể có tính tôn giáo cùng với Thượng đế? - vì Thượng đế sẽ phá huỷ tự do của bạn, Thượng đế sẽ chi phối bạn. Bạn có thể nhìn vào trong kinh Cựu Ước. Thượng đế nói, 'Ta là Thượng đế rất ghen tị và ta không thể dung thứ bất kì Thượng đế nào khác. Những người không cùng với ta là chống lại ta. Và ta là Thượng đế rất bạo hành và độc ác và ta sẽ trừng phạt ngươi và ngươi sẽ bị tống vào ngọn lửa địa ngục vĩnh hằng.' Làm sao con người có thể có tính tôn giáo cùng Thượng đế như vậy? Làm sao bạn có thể là tự do và làm sao bạn có thể nở hoa? Không có tự do không có nở hoa. Làm sao bạn có thể đi tới biểu lộ tối đa của bạn khi có một Thượng đế giới hạn bạn, kết án bạn, ép buộc bạn theo cách này cách nó, thao túng bạn?

Thiền nói rằng với Thượng đế, con người sẽ vẫn còn là nô lệ; với Thượng đế, con người sẽ vẫn còn là người tôn thờ; với Thượng đế, con người sẽ vẫn còn trong sợ. Trong sợ làm sao bạn có thể nở hoa? Bạn sẽ co lại, bạn sẽ trở thành khô héo, bạn sẽ bắt đầu chết. Thiền nói rằng khi không có Thượng đế, có tự do vô cùng, không có thẩm quyền nào trong sự tồn tại. Do đó nảy sinh trách nhiệm lớn. Nhìn đó... nếu bạn bị chi phối bởi ai đó, bạn không thể cảm thấy trách nhiệm. Thẩm quyền nhất thiết tạo ra vô trách nhiệm; thẩm quyền tạo ra chống đối; thẩm quyền tạo ra phản ứng, nổi dậy, trong bạn - bạn sẽ muốn giết Thượng đế. Đó là điều Nietzsche ngụ ý khi ông ấy nói Thượng đế là chết - đó không phải là Thượng đế đã tự tử, ông ấy đã bị sát hại.

Ông ấy phải bị sát hại. Với ông ấy không có khả năng nào để là tự do - chỉ có tự do khi không có ông ấy. Nhưng thế rồi Nietzsche trở nên rất sợ bản thân mình. Sống không có Thượng đế cần dũng cảm lớn, sống không có Thượng đế cần thiền lớn, sống không có Thượng đế cần nhận biết lớn - điều đã không có đó. Đó là lí do tại sao tôi nói ông ấy tình cờ vớ được sự kiện này, nó đã không là khám phá. Ông ấy đã tình cờ vớ được trong bóng tối.

Với Thiền đó là việc khám phá. Đó là chân lí đã được thiết lập: không có Thượng đế. Con người chịu trách nhiệm cho bản thân mình và cho thế giới người đó sống trong. Nếu có khổ, bạn chịu trách nhiệm; không có người nào khác để nhìn tới. Bạn không thể đổ trách nhiệm của bạn đi. Nếu thế giới là xấu và là đau đớn, chúng ta chịu trách nhiệm - không có người nào khác. Nếu chúng ta không trưởng thành chúng ta không thể đổ trách lên vai ai đó khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm.

Khi không có Thượng đế bạn bị ném trở lại bản thân bạn. Trưởng thành xảy ra. Bạn phải trưởng thành. Bạn phải nắm giữ cuộc sống của bạn; bạn phải nắm lấy kiểm soát trong tay riêng của bạn. Bây giờ bạn là người chủ. Bạn phải tỉnh táo hơn và nhận biết hơn vì với bất kì cái gì sẽ xảy ra bạn sẽ chịu trách nhiệm. Điều này cho trách nhiệm lớn. Người ta bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn, nhận biết hơn. Người ta bắt đầu sống theo cách khác toàn bộ. Người ta trở nên có tính quan sát hơn. Người ta trở thành nhân chứng.

Và khi không có cõi bên kia... Cõi bên kia là ở bên trong bạn, không có cõi bên kia bên ngoài bạn. Trong Ki tô giáo cõi bên kia là ở bên ngoài; trong Thiền cõi bên kia là ở bên trong. Cho nên vấn đề không phải là ngẩng mắt lên trời và cầu nguyện - điều đó là vô nghĩa, bạn đang cầu nguyện với trời trống rỗng. Trời là thấp hơn nhiều so với bạn trong tâm thức.

Ai đó đang cầu nguyện cây... Nhiều người Hindus đi và cầu nguyện cây, nhiều người Hindus đi tới sông Hằng và cầu nguyện với sông, nhiều người cầu nguyện với tượng đá, nhiều người cầu nguyện với trời hay nhiều người cầu nguyện hướng tới quan niệm, ý tưởng. Người cao hơn đang cầu nguyện hướng tới cái thấp hơn. Lời cầu nguyện là vô nghĩa.

Thiền nói: duy nhất thiền. Không phải là bạn phải quì xuống trước ai đó. Bỏ thói quen nô lệ cũ này đi. Mọi điều được cần là ở chỗ bạn phải trở nên yên tĩnh và im lặng và đi vào bên trong để tìm trung tâm của bạn. Chính trung tâm đó là trung tâm của sự tổn tại nữa. Khi bạn đã đi tới cốt lõi bên trong nhất của bạn, bạn đã đi tới cốt lõi bên trong nhất của bản thân sự tồn tại. Đó là điều Thượng đế là gì trong Thiền. Nhưng họ không gọi nó là Thượng đế. Điều tốt là họ không gọi nó là Thượng đế.

Cho nên điều đầu tiên cần nhớ là ở chỗ Thiền không là thượng đế học, nó là tôn giáo - và điều đó nữa với khác biệt vô cùng. Nó không là tôn giáo như Hồi giáo. Có ba điều nền tảng trong Hồi giáo: một Thượng đế, một sách, và một nhà tiên tri. Thiền không có Thượng đế, không sách, không nhà tiên tri. Toàn thể sự tồn tại là tính tiên tri của Thượng đế; toàn thể sự tồn tại là thông điệp của ngài.

Và nhớ, Thượng đế không tách rời khỏi thông điệp này nữa. Bản thân thông điệp này là thiêng liêng. Không có sứ giả - mọi cái vô nghĩa đó đã bị Thiền bỏ đi hoàn toàn. Thượng đế học nảy sinh cùng với một sách. Nó cần một Kinh Thánh, nó cần một Koran linh thiêng. Nó cần một sách giả vờ là linh thiêng, nó cần một sách cố nói rằng nó là đặc biệt - rằng không sách nào khác là giống thế này, đây là của trời cho, sách phúc âm.

Thiền nói mọi thứ là thiêng liêng cho nên làm sao bất kì cái gì có thể là đặc biệt? Mọi thứ là đặc biệt. Không cái gì là không đặc biệt, cho nên không cái gì có thể là đặc biệt. Từng chiếc lá của mọi cây và từng hòn sỏi trên mọi bờ biển là đặc biệt, duy nhất, linh thiêng. Không phải Koran là linh thiêng, không phải Kinh Thánh là linh thiêng. Khi người yêu viết thư cho người được yêu của mình, thư đó là linh thiêng.

Thiền mang tính linh thiêng cho sự sống bình thường.

Một Thiền sư, Bokoju, thường nói, 'Điều này kì diệu làm sao. Huyền bí làm sao. Ta mang dầu, ta kéo nước.'

'Điều này kì diệu làm sao. Huyền bí làm sao.' Mang dầu, kéo nước từ giếng và ông ấy nói, 'Huyền bí làm sao.' Đây là tâm linh Thiền. Nó biến đổi cái bình thường thành cái phi thường. Nó biến đổi cái trần tục thành cái linh thiêng. Nó bỏ phân chia giữa thế giới và điều thiêng liêng.

Đó là lí do tại sao tôi nói nó không phải là thượng đế học. Nó là tôn giáo thuần khiết. Thượng đế học làm ô nhiễm tôn giáo. Không có khác biệt giữa người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo và người Hindu khi có liên quan tới tôn giáo nhưng có khác biệt lớn khi có liên quan tới thượng đế học. Họ có các thượng đế học khác nhau. Mọi người đã từng tranh đấu vì thượng đế học.

Tôn giáo là một; thượng đế học là nhiều. Thượng đế học ngụ ý triết lí về Thượng đế, logic về Thượng đế. Nó toàn là vô nghĩa vì không có cách nào chứng minh Thượng đế - không có cách nào để bác bỏ nữa. Tranh cãi là không liên quan. Vâng, người ta có thể trải nghiệm nhưng người ta không thể chứng minh - và đó là điều thượng đế học liên tục làm. Và thượng đế học liên tục làm những thứ ngu xuẩn thế - chặt chẻ logic. Khi bạn nhìn vào nó từ một khoảng cách bạn sẽ cười. Nó nực cười thế.

Vào thời Trung Cổ, các nhà thượng đế học Ki tô giáo đã rất quan tâm, rất băn khoăn, phân vân về những vấn đề mà chả có vẻ gì là vấn đề với bạn. Chẳng hạn, bao nhiên thiên thần có thể đứng trên đầu kim? Nhiều sách đã được viết về điều đó - những luận cứ lớn.

Mulla Nasrudin, người chủ của hai con vẹt xanh, mời bác sĩ thú ý. 'Tôi lo nghĩ về các con chim của tôi,' anh ta công bố. 'Chúng đã không đi ị cả tuần.'

Bác sĩ nhìn vào bên trong chuồng và hỏi, 'Ông có luôn lót chuồng này bằng bản đồ trái đất không?'

'Không,' Mulla Nasrudin trả lời, 'Tôi để cái đó từ thứ bẩy trước khi tôi ra ngoài mua báo.'

'Điều đó giải thích việc này!' bác sĩ đáp. 'Vẹt xanh là sinh vật rất nhạy cảm. Chúng nhịn ị vì chúng hình dung hành tinh trái đất này đã nhận mọi cứt nó có thể chứa!'

Thượng đế học là chuyện tào lao. Và vì thượng đế học, tôn giáo trở nên bị đầu độc. Người tôn giáo thực không có thượng đế học. Vâng, người đó có kinh nghiệm, người đó có chân lí, người đó có sự chói sáng đó, nhưng người đó không có thượng đế học. Nhưng thượng đế học đã là việc giúp đỡ lớn cho các học giả, bác học, cái gọi là người uyên bác. Nó đã là mối quan tâm lớn cho các tu sĩ, cho các giáo hoàng, cho các shankaracharyas. Nó đã có ích lợi lớn cho họ. Toàn thể kinh doanh của họ phụ thuộc vào nó.

Thiền chặt chính rễ. Nó phá huỷ chính kinh doanh của tu sĩ. Và đó là một trong những kinh doanh xấu nhất trên thế giới vì nó phụ thuộc vào lừa dối rất lớn. Tu sĩ đã không biết và ông ta liên tục thuyết giảng; nhà thượng đế học đã không biết nhưng ông ta liên tục thêu dệt các lí thuyết. Ông ta dốt nát như bất kì người nào khác - có thể thậm chí còn dốt nát hơn thế. Nhưng dốt nát của ông ta đã trở thành việc nói rất, rất khéo. Dốt nát của ông ta rất được trang điểm - được trang điểm bằng các kinh sách, được trang điểm bằng các lí thuyết; được trang điểm tinh ranh và láu cá tới mức rất khó phát hiện ra thiếu sót. Thượng đế học đã không phải là sự giúp đỡ cho nhân loại nhưng chắc chắn nó đã giúp cho nhiều người: các tu sĩ. Họ đã có khả năng khai thác nhân loại nhân danh các lí thuyết ngu xuẩn.

Hai thầy thuốc tâm thần gặp nhau trong một nhà hàng đông đúc đi vào nói chuyện và một người nói ông ta đã chữa trị cho một ca khá thú vị bị tinh thần phân liệt.

Với điều đó nhà phân tích kia không chịu. 'Cái gì thú vị thế về điều đó? Các ca chia chẻ nhân cách là chuyện khá bình thường, tôi nói vậy.'

'Ca này thú vị,' đồng nghiệp của ông ta đáp. 'Họ cả hai nhân cách đều trả tiền!'

Đó là cách các nhà thượng đế học đã sống. Thượng đế học là chính trị. Nó phân chia mọi người. Và nếu bạn có thể phân chia mọi người bạn có thể cai trị họ.

Thiền nhìn nhân loại với cái nhìn không phân chia - nó không phân chia. Nó có cái nhìn toàn bộ. Đó là lí do tại sao tôi nói rằng Thiền là tôn giáo của tương lai. Nhân loại đang trưởng thành dần hướng tới nhận biết đó nơi thượng đế học sẽ bị bỏ đi và tôn giáo sẽ được chấp nhận một cách thuần khiết như kinh nghiệm.

Ở Nhật Bản họ có một từ đặc biệt dành cho nó. Họ gọi nó là konomama hay sonomama - 'Tính thế này' của sự tồn tại. Thế này - 'Thế này' chữ hoa - là nó. Tính đây này của sự sống là Thượng đế. Không phải là Thượng đế hiện hữu, nhưng chính sự đây này là thiêng liêng: sự đây này của cây, sự đây này của đá, sự đây này của đàn ông, sự đây này của đàn bà, sự đây này của đứa trẻ. Và sự đây này là hiện tượng không được định nghĩa, không thể định nghĩa được. Bạn có thể tan biến trong nó, bạn có thể hội nhập trong nó, bạn có thể nếm trải nó. 'Kì diệu làm sao. Huyền bí làm sao.'

Nhưng bạn không thể định nghĩa được nó, bạn không thể chỉ rõ nó về logic, bạn không thể phát biểu nó trong các khái niệm rõ ràng. Khái niệm giết chết nó. Thế thì chính cái đây này không còn nữa. Thế thì nó là kết cấu tâm trí. Từ 'Thượng đế' không phải là Thượng đế, khái niệm 'Thượng đế' không phải là Thượng đế. Khái niệm 'yêu' cũng không là yêu, từ 'thức ăn' cũng không là thức ăn. Thiền nói một điều rất đơn giản. Nó nói: nhớ rằng menu không là thức ăn. Và đừng bắt đầu ăn menu. Đó là điều mọi người đã từng làm suốt nhiều thế kỉ: ăn menu.

Và tất nhiên, nếu họ thiếu ăn, nếu họ không tuôn chảy, nếu họ không sống động, nếu họ không sống một cách toàn bộ, điều đó là tự nhiên, điều đó là dự đoán được. Họ đã không sống trên thức ăn thực. Họ đã nói quá nhiều về thức ăn và họ đã hoàn toàn quên thức ăn là gì. Thượng đế phải bị ăn, Thượng đế phải bị nếm, Thượng đế phải được sống - không được tranh cãi về.

Quá trình 'về' là thượng đế học. Và 'về' đó chạy lòng vòng lòng vòng, nó không bao giờ đi tới thứ thực. Nó là cái vòng luẩn quản. Logic là cái vòng luẩn quẩn. Và Thiền làm mọi nỗ lực để mang bạn ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó.

Logic là cái vòng luẩn quẩn thế nào? Tiền đề đã có kết luận trong nó. Kết luận sẽ không là cái gì đó mới, nó được chứa trong tiền đề. Và thế rồi trong kết luận tiền đề lại được hàm chứa. Nó giống như hạt mầm: cây được chứa trong hạt mầm và thế rồi cây sẽ cho sinh ra nhiều hạt mầm nữa và trong những hạt mầm đó cây sẽ được chứa. Nó là cái vòng luẩn quẩn: hạt mầm, cây, hạt mầm. Nó tiếp diễn. Hay, trứng, gà, trứng, gà, trứng... nó tiếp diễn tới vô tận. Nó là vòng tròn.

Phá vỡ vòng tròn này là điều Thiền tất cả là gì - không liên tục di chuyển trong tâm trí bạn qua lời và khái niệm mà rơi vào trong bản thân sự tồn tại.

Môt Thiền sư lớn, Nanin, đang chặt cây trong rừng. Và một giáo sư đại học tới gặp ông ấy. Một cách tự nhiên ông giáo sư này nghĩ rằng ông tiều phu này phải biết nơi Nanin sống trên núi, cho nên ông ta hỏi thăm. Tiều phu cầm rìu trong tay và nói, 'Ta phải trả rất nhiều tiền cho nó.'

Ông giáo sư đã không hỏi về rìu của ông ấy. Ông ta hỏi nơi Nanin sống; ông ta hỏi liệu ông ấy có trong đền không nếu ông ta đến đó. Và Nanin giơ rìu lên và nói, 'Trông đây, ta phải trả rất nhiều tiền cho nó.' Ông giáo sư cảm thấy hơi chút phân vân và trước khi ông ta có thể trốn đi, Nanin thậm chí tới gần hơn và đặt rìu lên đầu ông giáo sư. Ông giáo sư bắt đầu run và Nanin nói, 'Nó thực sự sắc.' Và ông giáo sư trốn biệt.

Về sau, khi ông ta lên tới đền ông ta mới biết rằng ông tiều phu đó không là ai khác ngoài bản thân Nanin. Thế rồi ông ta hỏi, 'Ông ấy có điên không?'

'Không,' đệ tử nói. 'Ông đã hỏi liệu Nanin có bên trong không và ông ấy đã nói có. Ông ấy đã chỉ ra "cái đây này" của ông ấy và "cái đây này". Khoảnh khắc đó ông ấy đã là tiều phu; khoảnh khắc đó, rìu trong tay ông ấy, ông ấy đã bị cuốn hút hoàn toàn trong cái sắc bén của rìu. Ông ấy đã là cái sắc bén đó trong khoảnh khắc đó. Ông ấy đã nói "Ta đang ở trong" bằng việc ngay tức khắc thế, bằng việc toàn bộ thế trong hiện tại. Ông đã bỏ lỡ vấn đề. Ông ấy đã chỉ cho ông phẩm chất của Thiền.'

Thiền là vô khái niệm, vô trí tuệ. Nó là tôn giáo duy nhất trên thế giới thuyết giảng về sự lập tức; lập tức từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc; hiện diện trong khoảnh khắc, không quá khứ, không tương lai.

Nhưng mọi người đã sống cùng thượng đế học. Và những thượng đế học đó giữ họ vẫn là trẻ con, chúng không cho phép họ trưởng thành. Bạn không thể trưởng thành bằng việc bị giới hạn trong thượng đế học, bằng việc là người Ki tô giáo hay người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay thậm chí là Phật tử. Bạn không thể trưởng thành; bạn không có đủ không gian để trưởng thành. Bạn bị giới hạn rất nhiều, trong không gian rất hẹp; bạn bị cầm tù.

Một linh mục trẻ lấy một trăm nghìn đô la từ két sắt nhà thờ và làm mất nó trên thị trường chứng khoán. Thế rồi cô vợ đẹp của anh ta bỏ anh ta. Trong thất vọng anh ta đi ra sông và định nhảy xuống từ cầu thì anh ta bị một người đàn bà trong bộ áo choàng mầu đen với bộ mặt nhăn nheo và tóc xoã hoa râm ngăn lại.

'Đừng nhảy,' bà ấy the thé nói. 'Ta là phù thuỷ đây, và ta sẽ ban cho anh ba điều ước nếu anh làm cái gì đó cho ta!'

'Tôi chả giúp được gì đâu,' anh ta đáp.

'Đừng có đần,' bà ấy nói. 'Alakazam! Tiền trở lại hầm mộ nhà thờ. Alakazam! Vợ anh ở nhà đang đợi anh với tình yêu trong tim cô ấy. Alakazam! Anh bây giờ có hai trăm nghìn đô la trong ngân hàng!'

'Điều đó là kì-ì-ì diệu,' linh mục nói lắp. 'Tôi có thể làm gì cho bà?'

'Dành đêm nay làm tình với ta.'

Ý nghĩ về ngủ với mụ phù thuỷ già móm thật kinh tởm, nhưng chắc chắn xứng đáng với điều đó, cho nên họ ẩn dật ở một khách sạn cạnh đó. Đến sáng, thử thách khó chịu đã qua, linh mục mặc quần áo định đi về nhà thì con dơi trong giường nói, 'Cu con nói xem, cu bao nhiêu tuổi?'

'Tôi bốn mươi hai!' anh ta đáp. 'Sao vậy?'

'Cu chưa lớn mà tin vào phù thuỷ sao?'

Đó là điều xảy ra. Nếu bạn tin vào Thượng đế bạn có thể tin vào phù thuỷ, đó là cùng một gói. Nếu bạn có thể tin vào một loại vô nghĩa, bạn có thể tin vào mọi loại vô nghĩa. Nhưng bạn không bao giờ trưởng thành. Bạn vẫn còn vị thành niên.

Thiền ngụ ý trưởng thành. Thiền ngụ ý bỏ mọi ao ước và thấy cái gì đang là hoàn cảnh. Đừng mang mơ của bạn vào trong thực tại. Lau sạch mắt bạn hoàn toàn khỏi mơ để cho bạn có thể thấy cái gì là hoàn cảnh. Cái đây này đó được gọi là konomama hay sonomama. Kono hay sonomama nghĩa là tính đây này của một vật - thực tại trong tính đây này của nó. Mọi ý thức hệ ngăn cản bạn khỏi việc thấy. Các ý thức hệ toàn là khăn bịt mắt, chúng cản trở cái nhìn của bạn. Người Ki tô giáo không thể thấy được, người Hindu cũng không thể thấy được, người Mô ha mét giáo cũng không thấy được. Vì bạn là đầy những ý tưởng thế, bạn liên tục thấy điều bạn muốn thấy, bạn liên tục thấy điều không có đó, bạn liên tục phóng chiếu, bạn liên tục diễn giải, bạn liên tục tạo ra thực tại riêng tư của riêng bạn, điều không có đó. Việc này tạo ra một loại không lành mạnh. Trong một trăm cái gọi là thánh nhân của bạn, chín mươi chín người là người không lành mạnh.

Thiền mang lành mạnh cho thế giới, hoàn toàn lành mạnh. Nó bỏ đi mọi ý thức hệ. Nó nói: 'Là trống rỗng. Nhìn mà không có ý tưởng nào. Nhìn vào trong bản chất của mọi thứ mà không có ý tưởng nào, không định kiến nào, không giả định trước.' Không bị bận tâm - đó là một trong những điều nền tảng. Cho nên thượng đế học phải bị bỏ đi bằng không bạn vẫn còn bị bận tâm.

Bạn có thể thấy ra vấn đề không? Nếu bạn có ý tưởng, có mọi khả năng rằng bạn sẽ tìm thấy nó trong thực tại - vì tâm trí là rất, rất sáng tạo. Tất nhiên, sáng tạo đó sẽ chỉ trong tưởng tượng. Nếu bạn đang tìm Christ bạn có thể bắt đầu có linh ảnh về Christ, và chúng sẽ toàn là tưởng tượng. Nếu bạn đang tìm Krishna bạn sẽ bắt đầu thấy Krishna, và chúng sẽ toàn là tưởng tượng.

Thiền là rất thực tế. Nó nói rằng tưởng tượng phải bị bỏ đi. Tưởng tượng tới từ quá khứ của bạn. Từ thời thơ ấu bạn đã bị ước định theo những ý tưởng nào đó. Từ thời thơ ấu bạn đã được đưa tới nhà thờ, tới đền chùa, tới nhà thờ Hồi giáo; bạn đã được đưa tới học giả, bác học, tu sĩ; bạn đã bị ép buộc nghe buổi thuyết pháp - mọi thứ đã được ném vào trong tâm trí bạn. Bị đè nặng với mọi điều đó, không đi tới thực tại - nói cách khác bạn sẽ không bao giờ đi tới biết thực tại là gì.

Dỡ gánh nặng đi. Việc dỡ gánh nặng đó là Thiền.

Một mục sư về Phúc âm đang tiến hành buổi lễ tôn giáo trong nhà thương điên cho những người điên. Bài nói của ông ta đột nhiên bị ngắt quãng bởi một người bị giam giữ đang kêu lên một cách hoang dã, 'Tôi nói, chúng tôi đã nghe chuyện vớ vẩn này rồi?'

Ông mục sư, ngạc nhiên và bối rối, quay sang người trông nom và nói, 'Tôi thôi nói chứ?'

Người trông nom đáp, 'Không, không, cứ làm tiếp đi, điều đó sẽ không xảy ra nữa đâu, ít nhất không trong bảy năm. Người đó chỉ có một khoảnh khắc lành mạnh cứ mỗi bẩy năm.

Thực sự rất khó là lành mạnh trong một thế giới không lành mạnh.

Thiền là đơn giản vậy mà khó. Đơn giản khi có liên quan tới Thiền - nó là điều đơn giản nhất, đơn sơ nhất, vì nó là thứ tự phát - nhưng rất khó vì tâm trí bị ước định của bạn, vì thế giới không lành mạnh trong đó chúng ta đang sống, bởi điều chúng ta đã được nuôi dưỡng lớn lên, bởi điều chúng ta đã bị làm biến chất.

Điều thứ hai: Thiền không là triết lí, nó là thơ ca. Nó không đề nghị, nó đơn giản thuyết phục. Nó không tranh cãi, nó đơn giản hát bài ca riêng của nó. Nó là thẩm mĩ tới chính cốt lõi, nó không phải là khổ hạnh. Nó không tin vào việc là cao ngạo, hung hăng với thực tại, nó tin vào yêu. Nó tin rằng nếu chúng ta tham gia cùng thực tại, thực tại hiển lộ các bí mật của nó cho chúng ta. Nó tạo ra ý thức tham gia. Nó là thơ ca, nó là thơ ca thuần khiết - cũng như nó là tôn giáo thuần khiết.

Thiền rất rất quan tâm tới cái đẹp - ít quan tâm tới chân lí, quan tâm nhiều tới cái đẹp. Tại sao? Vì chân lí là biểu tượng khô khan. Nó không chỉ là khô khan trong bản thân nó nhưng những người trở nên quan tâm quá nhiều tới chân lí cũng trở thành khô khan. Họ bắt đầu chết. Tim họ co lại, nhựa sống của họ không còn chảy. Họ trở thành không có tình yêu, họ trở thành bạo hành, và họ bắt đầu đi ngày càng nhiều vào trong cái đầu.

Và Thiền không là chuyện cái đầu, nó là thứ toàn bộ. Không phải là đầu bị phủ nhận, nhưng đầu phải được để đúng chỗ của nó. Đầu không được đưa ra bất kì qui chế chi phối nào. Nó phải vận hành với tính toàn bộ. Ruột là quan trọng như đầu, chân là quan trọng như đầu, tim là quan trọng như đầu. Cái toàn bộ phải vận hành như một cơ thể. Không ai phải bị chi phối.

Triết lí là hướng đầu; thơ ca nhiều tính toàn bộ hơn. Thơ ca có nhiều dòng chảy cho nó. Thơ ca quan tâm nhiều hơn tới cái đẹp. Và cái đẹp là bất bạo hành và cái đẹp là yêu và cái đẹp là từ bi.

Người tìm kiếm Thiền nhìn vào trong thực tại để tìm ra cái đẹp... trong những tiếng hót của chim, trong cây, trong điệu múa của công, trong mây, trong sét, trong biển, trong cát. Nó cố tìm cái đẹp.

Một cách tự nhiên, tìm cái đẹp có tác động khác toàn bộ. Khi bạn đang tìm chân lí bạn nhiều nam tính hơn; khi bạn tìm cái đẹp, bạn nhiều nữ tính hơn. Khi bạn tìm chân lí bạn quan tâm nhiều tới lí trí; khi bạn tìm cái đẹp bạn phải mỗi lúc quan tâm nhiều hơn tới trực giác. Thiền mang nữ tính. Thơ ca mang nữ tính. Triết học rất nam tính, rất năng nổ. Nó là tâm trí nam tính.

Thiền có tính thụ động - đó là lí do tại sao trong Thiền, việc ngồi trở thành một trong những cách thiền quan trọng nhất. Chỉ ngồi - toạ thiền. Thiền nhân nói rằng nếu bạn đơn giản ngồi không làm gì, mọi sự sẽ xảy ra. Mọi sự sẽ xảy ra theo cách riêng của chúng; bạn không cần đi theo chúng, bạn không cần tìm kiếm chúng, bạn không cần dò tìm chúng. Chúng sẽ tới. Bạn đơn giản ngồi. Nếu bạn có thể ngồi một cách im lặng, nếu bạn có thể rơi vào trong nghỉ ngơi vô cùng, nếu bạn có thể 'thả lỏng' bản thân bạn, nếu bạn có thể bỏ mọi căng thẳng và trở thành vũng năng lượng im lặng, không đi đâu, không tìm cái gì, Thượng đế bắt đầu rót vào trong bạn. Từ mọi nơi Thượng đế xô tới bạn. Chỉ ngồi, không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.

Và nhớ, khi Thiền nói 'chỉ ngồi' nó ngụ ý chỉ ngồi - không cái gì khác, thậm chí không mật chú. Nếu bạn đang nhẩm mật chú bạn không chỉ ngồi, bạn lại đang lâm vào chuyện vớ vẩn nào đó, lại trong việc tâm trí nào đó. Nếu bạn không làm bất kì cái gì... Ý nghĩ đang tới, tới đi; chúng đang đi, đi đi - nếu chúng tới, tốt; nếu chúng không tới, tốt. Bạn không quan tâm tới cái gì đang xảy ra, bạn đơn giản ngồi đó. Nếu bạn cảm thấy mệt bạn nằm ra. Nếu bạn cảm thấy chân bạn căng cơ bạn duỗi chúng ra. Bạn vẫn còn tự nhiên. Thậm chí không theo dõi. Không làm bất kì nỗ lực thuộc bất kì loại nào. Đó là điều họ ngụ ý bởi chỉ ngồi. Chỉ ngồi nó xảy ra.

Thiền là cách tiếp cận nữ tính và tôn giáo về căn bản là nữ. Khoa học là nam, triết học là nam - tôn giáo là nữ. Mọi cái là đẹp trong thế giới - thơ ca, hội hoạ, múa - tất cả đã bắt nguồn từ tâm trí nữ tính.

Điều đó có thể đã không tới từ đàn bà vì đàn bà chưa được tự do để sáng tạo. Ngày của họ đang tới. Khi Thiền trở nên ngày càng có ý nghĩa hơn trên thế giới, tâm trí nữ tính sẽ có sự bột phát lớn, bùng nổ lớn.

Mọi thứ đi vào sự cùng nhau. Quá khứ đã từng bị chi phối bởi nam - do đó có Hồi giáo và Ki tô giáo và Hindu giáo. Tương lai sẽ nhiều nữ tính hơn, hiền dịu hơn, thụ động hơn, thảnh thơi hơn, thẩm mĩ hơn, thơ ca hơn. Trong bầu không khí thơ ca đó Thiền sẽ trở thành điều có ý nghĩa nhất trên thế giới.

Triết học là logic; thơ ca là yêu. Triết học mổ xẻ, phân tích; thơ ca tổng hợp, đặt mọi thứ vào cùng nhau. Triết học về căn bản mang tính phá huỷ; thơ ca cho sự sống. Phân tích là phương pháp của triết học - và nó là phương pháp của khoa học, phương pháp của các nhà phân tâm. Sớm hay muộn phân tâm học sẽ phải bị thay thế bởi tổng hợp tâm lí sâu sắc hơn. Assagioli là đúng hơn Sigmund Freud vì tổng hợp gần chân lí hơn. Thế giới là một. Nó là một thể thống nhất. Không cái gì là tách rời. Mọi thứ đập cùng nhau. Chúng ta được nối lẫn với nhau, liên móc nối. Toàn thể sự sống là một mạng lưới. Ngay cả nhành cỏ nhỏ nhất quanh thính phòng Trang Tử này cũng được nối với ngôi sao xa nhất. Nếu cái gì đó xảy ra cho chiếc lá này, cái gì đó sẽ xảy ra cho ngôi sao xa nhất kia nữa. Mọi thứ là cùng nhau, tính cùng nhau này. Sự tồn tại là một gia đình.

Thiền nói không mổ xẻ, không phân tích.

Một nông dân, người là nhân chứng trong một vụ kiện đường sắt ở Vermont, được yêu cầu kể lại theo cách riêng của anh ta về tai nạn xảy ra thế nào.

'Thế này, Jake và tôi đang bước đi theo đường tầu thì tôi nghe thấy tiếng còi, và tôi đi ra khỏi đường ray và tầu hoả đi qua, và tôi trở lại đường tầu và tôi không thấy Jake. Nhưng tôi bước dọc đường ngay khi đó tôi thấy cái mũ của Jake, và tôi bước tiếp và tôi thấy một trong các chân của Jake, và thế rồi tôi thấy một trong các cánh tay của Jake, và thế rồi chân kia, và thế ở một phía là đầu của Jake, và tôi nói, "Mèn ơi! Cái gì đó phải đã xảy ra cho Jake!"'

Đó là điều đã xảy ra cho nhân loại. Cái gì đó đã xảy ra. Con người đã bị chặt thành các bộ phận. Bây giờ có các chuyên viên: ai đó chăm nom cho mắt và ai đó chăm nom cho tim và ai đó chăm nom cho đầu và ai đó chăm nom cho cái gì đó khác. Con người bị phân chia.

Thiền nói con người là một tổ chức toàn bộ.

Trong khoa học hiện đại một khái niệm mới đang trở nên phổ biến - họ gọi nó là lưỡng tính (androgeny). Buckminster Fuller đã định nghĩa lưỡng tính là đặc trưng của toàn thể hệ thống, một cơ quan. Một cơ quan có cái gì đó không chỉ là tổng cộng các bộ phận của nó. Cái đó được gọi là sinh năng - tức là, nhiều hơn tổng đơn giản của các bộ phận của nó. Khi các bộ phận này được thống nhất trong toàn thể vận hành, theo thứ tự làm việc, một phần sinh năng xuất hiện - cái 'tích tắc'. Bạn mở đồng hồ và bạn tách rời mọi thứ - cái tích tắc biến mất. Bạn gắn các bộ phận lại với nhau theo thứ tự vận hành - cái tích tắc lại xuất hiện. Cái tích tắc là cái gì đó rất mới. Không một bộ phận nào có thể được coi là chịu trách nhiệm cho nó; không một bộ phận nào có nó. Chính cái toàn thể là ra tích tắc.

Cái tích tắc đó là hồn. Bạn lấy tay tôi ra, bạn lấy chân tôi ra, bạn lấy tim tôi ra, và cái tích tắc biến mất. Cái tích tắc là chính hồn. Nhưng cái tích tắc chỉ còn lại trong sự thống nhất tổ chức.

Thượng đế là cái tích tắc của toàn thể sự tồn tại. Bạn không thể tìm ra Thượng đế bằng việc mổ xẻ, Thượng đế chỉ có thể được tìm ra trong cái nhìn thơ ca về thể thống nhất. Thượng đế là kinh nghiệm kết năng. Khoa học không bao giờ có thể làm lộ được nó ra, triết học không bao giờ có thể đi tới nó - chỉ cách tiếp cận thơ ca, cách tiếp cận rất thụ động, rất đáng yêu, mới có thể. Khi bạn rơi vào mối quan hệ với sự tồn tại, khi bạn không còn tách biệt như người tìm kiếm, khi bạn không còn tách rời như người quan sát, khi bạn không còn tách rời như người ngắm nhìn, khi bạn bị mất hút trong nó, hoàn toàn mất hút, nó có đó, cái tích tắc.

Điều thứ ba: Thiền không phải là khoa học nhưng là phép thần thông của thuật sĩ, nó là phép thần như cách để nhìn vào sự sống. Khoa học thuộc về trí tuệ. Nó là nỗ lực để phá huỷ điều huyền bí của sự sống. Nó giết chết sự kinh ngạc. Nó chống lại điều kì diệu. Thiền tất cả ủng hộ điều kì diệu - vì điều huyền diệu, vì điều huyền bí.

Điều huyền bí của sự sống phải không được giải vì nó không thể được giải. Nó phải được sống. Người ta phải đi vào trong nó, yêu nó. Chính niềm vui lớn là ở chỗ sự sống là điều huyền bí. Nó phải được mở hội.

Thiền là phép thần. Nó cho bạn chìa khoá để mở điều huyền diệu. Và điều huyền diệu là trong bạn và chìa khoá cũng ở trong bạn.

Khi bạn tới với một Thiền sư ông ấy đơn giản giúp bạn là im lặng để cho bạn có thể tìm ra chìa khoá của bạn mà bạn đang mang dọc con đường, và bạn có thể tìm ra cửa của bạn - cái có đó - và bạn có thể đi vào trong điện thờ bên trong nhất của riêng bạn.

Và điều nền tảng cuối cùng: Thiền không là đạo đức, nó là thẩm mĩ. Nó không áp đặt bộ luật đạo đức, nó không cho bạn bất kì lời răn nào: làm cái này, không làm cái kia. Nó đơn giản làm cho bạn nhạy cảm hơn hướng tới cái đẹp, và chính sự nhạy cảm đó trở thành đạo đức của bạn. Nhưng thế thì nó nảy sinh ra từ bạn, từ tâm thức của bạn, Thiền không cho bạn bất kì lương tâm nào như ngược lại ý thức; nó đơn giản cho bạn nhiều ý thức hơn và ý thức nhiều hơn của bạn trở thành lương tâm của bạn. Thế thì không phải là Moses cho bạn lời răn, không phải là nó tới từ Kinh Thánh hay Koran hay Vedas... nó không tới từ bên ngoài. Nó tới từ cốt lõi bên trong nhất của bạn.

Và khi nó tới từ đó, không có sự nô lệ, nó là tự do. Khi nó tới từ đó, không phải là bạn đang làm nó như nghĩa vụ, do dự. Bạn tận hưởng làm nó. Nó trở thành tình yêu của bạn.

Đây là những nền tảng. Và bây giờ là lời kinh sâu lắng.

Như trời trống rỗng không có biên giới, vậy mà nó là đúng ở chỗ này, bao giờ cũng sâu sắc và trong trẻo.

Thay thế 'nó' bằng 'Thượng đế' và bạn sẽ lập tức hiểu - nhưng Thiền nhân không dùng từ 'Thượng đế', họ nói 'nó'.

Như trời trống rỗng không có biên giới, vậy mà nó là đúng ở chỗ này, bao giờ cũng sâu sắc và trong trẻo.

Nếu bạn bắt đầu tìm trời bạn sẽ không bao giờ thấy nó. Nếu bạn bắt đầu tìm kiếm và bạn trở nên rất nghiêm chỉnh bạn sẽ không bao giờ tìm thấy trời. Bạn sẽ tìm thấy trời ở đâu? Trời không ở đâu đó, nó là mọi nơi và cái ở mọi nơi không thể được tìm. Bạn không thể định vị được nó; bạn không thể nói nó là ở phương bắc, bạn không thể nói nó là ở phương nam, bạn không thể nói nó là ở đó - vì nó là ở mọi nơi. Cái mà ở mọi nơi không thể được tìm thấy ở đâu đó. Và bạn sẽ tìm ở đâu? Bạn sẽ chạy xô vào trong bản thân trời, đây đó. Và nó toàn là trời. Thượng đế giống như trời, như trời trống rỗng.

Nó không có biên giới cho nên nó không thể được định nghĩa. Bạn không thể nói nó bắt đầu ở đâu và nó kết thúc ở đâu. Nó là vĩnh hằng, nó là vô hạn - vậy mà nó ở ngay tại chỗ này, ngay trước bạn. Nếu bạn thảnh thơi nó có đó; nếu bạn trở nên căng thẳng nó biến mất.

Một Thiền sư thường nói, 'Nó là trong veo và do vậy nó là khó thấy. Người ngu đi tìm lửa với chiếc đèn thắp sáng. Nếu như người đó biết lửa là gì người đó chắc đã nấu cơm sớm hơn nhiều.'

Bây giờ với chiếc đèn đã thắp sáng bạn đang đi tìm lửa và bạn đang mang lửa trong tay bạn mọi lúc. Vâng, Thiền sư này là đúng: nếu như người đó biết lửa là gì người đó chắc đã nấu cơm sớm hơn nhiều. Bạn bao giờ cũng có thể nấu cơm sớm hơn nhiều. Và bạn đói, và bạn đã từng đói trong nhiều thế kỉ, trong vĩnh hằng. Và bạn đã từng đi tìm lửa với chiếc đèn thắp sáng trong tay bạn.

Mọi người liên tục hỏi Thượng đế ở đâu và ngài ở ngay trước bạn. Ngài bao quanh bạn. Ngài ở trong và ngài ở ngoài vì chỉ ngài hiện hữu. Nhưng Thiền nhân gọi điều đó là 'nó' để cho bạn không bị mắc bẫy trong từ 'Thượng đế'.

Khi ông tìm để biết nó, ông không thể thấy nó.

Tại sao? Vì khi bạn muốn biết nó, chính việc muốn của bạn trở thành trạng thái căng thẳng của sự việc. Bạn trở nên chật hẹp. Bạn trở nên bị tập trung. Khi ông tìm để biết nó, ông không thể thấy nó. Bạn lỡ - vì nó có thể được thấy chỉ khi bạn hoàn toàn thảnh thơi, khi bạn mở từ mọi nơi, khi bạn không bị tập trung.

Lắng nghe nó đi. Bình thường những người không biết thiền là gì, viết rằng thiền là tập trung. Có hàng nghìn cuốn sách trong đó bạn sẽ tìm thấy phát biểu này, phát biểu hoàn toàn ngu xuẩn - rằng thiền là tập trung. Thiền không là tập trung - điều đó là điều cuối cùng mà thiền có thể là. Thực ra, tập trung chính là đối lập đối xứng. Trong tập trung bạn rất căng thẳng, hội tụ, tìm cái gì đó. Vâng, tập trung là tốt nếu bạn đang tìm những vật tí xíu. Nếu bạn đang tìm con kiến, tập trung là hoàn toàn tốt - nhưng không tốt cho Thượng đế. Thượng đế là bao la thế, cực kì bao la. Nếu bạn nhìn với sự tập trung bạn sẽ thấy kiến, không thấy Thượng đế. Với Thượng đế bạn phải hoàn toàn mở, không tập trung, mở từ mọi phía, không tìm, không nhìn. Và tâm thức không hội tụ là điều thiền là gì - tâm thức không hội tụ.

Bạn chỉ thắp một chiếc đèn nhỏ. Ánh sáng là không hội tụ, nó toả vào mọi hướng. Nó không đi bất kì đâu, nó đơn giản ở đó toả theo mọi hướng. Mọi hướng được rót đầy bởi nó. Thế rồi có ngọn đuốc. Đuốc giống như tập trung. Nó được hội tụ. Khi bạn muốn nhìn vào Thượng đế, đuốc sẽ không giúp gì - đèn sẽ giúp. Nếu bạn đang đi tìm kiến, hoàn toàn tốt; nếu bạn đang đi tìm chuột, hoàn toàn tốt - đuốc sẽ có tác dụng. Với cái nhỏ, tâm thức hội tụ được cần.

Trong khoa học, tập trung là hoàn toàn đúng. Khoa học không thể tồn tại mà không có tập trung - nó đi tìm cái nhỏ, cái ngày càng nhỏ hơn. Nó liên tục từ cái nhỏ hơn sang cái nhỏ hơn sang cái nhỏ nhất - nó đi tìm phân tử và thế rồi tìm nguyên tử và thế rồi tìm điện tử và thế rồi tìm nơ tron. Nó liên tục tìm cái nhỏ hơn, toàn thể tìm kiếm dành cho cái nhỏ hơn. Cho nên khoa học trở nên ngày càng tập trung và hội tụ.

Tôn giáo chính là cái đối lập - không hội tụ, mở theo mọi hướng, theo mọi làn gió có thể. Mọi cửa ra vào, mọi cửa sổ mở, tường bị bỏ đi; bạn chỉ là lối mở.

Khi ông tìm để biết nó, ông không thể thấy nó.

Cho nên chính nỗ lực để thấy nó, chính ham muốn để thấy nó trở thành rào chắn. Đừng tìm kiếm Thượng đế. Đừng tìm kiếm chân lí. Thay vì thế, tạo ra tình huống không hội tụ và Thượng đế tới với bạn, nó tới với bạn. Nó có đó.

Có một giai thoại rất nổi tiếng về một trong những người đàn bà hiếm hoi nhất trên thế giới, Rabiya.

Một nhà huyền bí Sufi đã ở cùng với Rabiya. Tên ông ấy là Hussan. Ông ấy phải đã nghe phát biểu của Jesus Christ, 'Gõ cửa và nó sẽ được mở cho ông. Hỏi và nó sẽ được trao cho ông. Tìm và ông sẽ thấy nó.' Cho nên mọi ngày trong lời cầu nguyện sáng, lời cầu nguyện trưa, lời cầu nguyện tối, lời cầu nguyện đêm của mình - năm lần một ngày người Mô ha mét giáo làm lời cầu nguyện của họ - năm lần mọi ngày ông ấy sẽ nói với Thượng đế, 'Con đang gõ cửa, thưa ngài, và con gõ cửa nhiều thế. Tại sao nó đã không mở ra mãi cho tới giờ? Con đập đầu vào cửa của ngài, thưa ngài. Ngài mở nó ra đi.'

Rabiya nghe điều đó một ngày, Rabiya nghe điều đó ngày thứ hai, Rabiya nghe điều đó ngày thứ ba, thế rồi bà ấy nói, 'Hussan, khi nào ông sẽ nhìn? Cửa mở mà. Ông liên tục nói điều vô nghĩa - "Con gõ cửa, con gõ cửa" - Và cửa là mở mọi lúc. Nhìn đi. Nhưng ông quá quan tâm tới việc gõ cửa và đòi hỏi và ham muốn và việc tìm của ông và ông không thể thấy được. Cửa mở rồi.'

Rabiya là đúng hơn Jesus Christ nhiều. Phát biểu của Jesus Christ là ở bình diện thấp. Vâng, nó là tốt cho những người thậm chí đã không bắt đầu tìm kiếm, nó là tốt cho lớp mẫu giáo những người đã không bắt đầu tìm kiếm. Với họ điều phải được nói 'Tìm, kiếm, gõ cửa' và với họ lời đảm bảo phải được cho bằng không họ sẽ không tìm kiếm - lời đảm bảo rằng ông 'gõ cửa và nó sẽ được mở ra cho ông. Hỏi và nó sẽ được trao cho ông'.

Phát biểu của Rabiya là Thiền thuần khiết. Bà ấy nói, 'Nhìn đi, ông ngu, cửa là mở và nó bao giờ cũng mở. Và chỉ bằng đòi hỏi của ông và chỉ bằng việc hét lên của ông, ông đang nhắm mắt lại. Vấn đề chỉ là mở mắt ông ra - cửa bao giờ cũng mở.'

Thượng đế bao giờ cũng sẵn có. Thượng đế là sẵn có vô điều kiện.

Khi ông tìm để biết nó, ông không thể thấy nó, ông không thể cầm giữ nó, nhưng ông không thể mất nó.

Thấy cái hay của phát biểu này. Ông không thể cầm giữ nó. Nếu bạn muốn sở hữu Thượng đế bạn sẽ không có khả năng sở hữu. Thượng đế không thể bị sở hữu.

Mọi thứ là vĩ đại không thể bị sở hữu - và đó là một trong những điều ngu xuẩn nhất mà con người liên tục làm. Chúng ta muốn sở hữu. Bạn rơi vào yêu và thế rồi bạn muốn sở hữu, và bằng sở hữu bạn phá huỷ yêu. Yêu là phẩm chất của Thượng đế. Jesus đã nó đích xác điều đó - 'Yêu là Thượng đế'. Nếu bạn thực sự muốn ở trong yêu đừng cố sở hữu nó. Bằng việc sở hữu nó bạn giết chết nó, bạn đầu độc nó. Bạn là nhỏ thế và yêu là lớn thế, làm sao bạn có thể sở hữu được nó? Bạn có thể bị nó sở hữu, đúng, nhưng bạn không thể sở hữu nó. Cái nhỏ hơn không thể sở hữu cái lớn hơn. Điều đó đơn giản thế nhưng khó khăn thế.

Khi chúng ta yêu ai đó chúng ta muốn sở hữu tình yêu, chúng ta muốn sở hữu người được yêu, người yêu, chúng ta muốn trở nên trội hơn hoàn toàn vì chúng ta sợ ai đó có thể lấy nó đi. Nhưng trước khi bất kì ai lấy nó đi, nó mất rồi. Nó không có đó thêm nữa. Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ về sở hữu, bạn đã giết chết nó. Bây giờ có thứ chết, cái xác. Sự sống đã biến mất.

Sự sống không thể bị sở hữu vì sự sống là Thượng đế. Sự tồn tại không thể bị sở hữu vì sự tồn tại là Thượng đế.

Bạn thấy đoá hoa đẹp - hoa hồng - trên bụi cây, và bạn lập tức hái nó đi khỏi bụi cây. Bạn muốn sở hữu nó. Bạn đã giết chết nó. Bây giờ bạn để nó vào trong khuyết áo của bạn - nó là hoa chết, nó là cái xác, nó không còn đẹp nữa. Làm sao một thứ chết có thể là đẹp? Nó chỉ là kí ức và nó đang nhạt nhoà đi. Nó đã sống động thế trên bụi cây, nó đã đẹp thế trên bụi cây. Nó đã trẻ thế và hạnh phúc thế và đã có điệu múa trong nó và đã có bài ca quanh nó. Bạn đã giết tất cả. Bây giờ bạn đang mang hoa chết trong khuyết áo của bạn.

Và đây là điều chúng ta đang làm trong mọi thứ. Dù đó là cái đẹp, tình yêu, Thượng đế, chúng ta muốn sở hữu.

ông không thể cầm giữ nó,

- nhớ -

nhưng ông không thể mất nó.

Hay thế. Vâng, bạn không thể sở hữu nó, nhưng không có cách nào để làm mất nó nữa. Nó có đó. Nó bao giờ cũng có đó. Nếu bạn chỉ im lặng bạn sẽ bắt đầu cảm thấy nó. Bạn phải rơi vào hoà điệu với nó. Bạn phải trở nên im lặng để cho bạn có thể lắng nghe nó. Bạn phải trở nên im lặng để cho điệu vũ của Thượng đế có thể xuyên thấu bạn, để cho Thượng đế có thể rung động trong bạn, để cho Thượng đế có thể đập rộn ràng trong bạn. Bạn phải bỏ việc xô đẩy, vội vàng, ý tưởng của bạn về đi đâu đó, đạt tới, trở thành, là cái này cái nọ. Bạn phải dừng việc trở thành. Và nó có đó; bạn không thể mất nó được.

Trong việc không có khả năng có nó, ông có nó.

Trong việc không có khả năng có nó, ông có nó. Khoảnh khắc bạn hiểu rằng bạn không thể sở hữu nó, và bạn bỏ tính sở hữu của bạn, nó có đó - và bạn đã có được nó. Khoảnh khắc bạn hiểu rằng yêu không thể bị sở hữu, việc hiểu lớn đã nảy sinh trong bạn. Và bây giờ bạn sẽ có nó, và bạn sẽ có nó mãi mãi. Bạn không thể vét cạn nó.

Nhưng bạn sẽ có nó chỉ khi bạn đã hiểu vấn đề rằng nó không thể bị sở hữu, rằng không có cách nào để có được nó.

Đây là điều nghịch lí của Thiền - Thiền là con đường của nghịch lí. Nó nói rằng nếu bạn muốn sở hữu Thượng đế, xin đừng sở hữu ngài - và bạn sẽ sở hữu ngài. Nếu bạn muốn sở hữu yêu, đừng sở hữu, và nó có đó và nó bao giờ cũng là của bạn. Bạn không thể làm mất được nó; không thể nào đánh mất nó.

Khi ông im lặng nó nói; khi ông nói, nó im lặng.

Bạn không thể nói nữa. Martin Buber đã làm cho từ 'đối thoại' thành rất, rất phổ biến ở thế giới phương Tây. Nó là sáng suốt lớn nhưng vẫn chưa có chiều cao của Thiền. Martin Buber nói rằng lời cầu nguyện là đối thoại. Trong đối thoại bạn nói với Thượng đế, Thượng đế nói với bạn. Đối thoại phải có hai người. Tất nhiên, đối thoại là mối quan hệ 'tôi-bạn'. Nó là quan hệ. Các bạn có quan hệ.

Thiền nói rằng điều này là không thể được. Nếu bạn nói, Thượng đế im lặng. Khi bạn nói và tạo ra tiếng ồn trong đầu bạn, ngài biến mất - vì tiếng nói của ngài là tĩnh lặng và nhỏ bé, im lặng, tới mức nó có thể được nghe thấy chỉ khi bạn hoàn toàn im lặng. Điều đó không phải là đối thoại, điều đó là lắng nghe thụ động.

Hoặc bạn nói và Thượng đế không có đó, hoặc Thượng đế nói và bạn không có đó. Nếu bạn tan biến, biến mất, thế thì bạn nghe thấy ngài. Thế thì ngài đang nói từ mọi nơi - từ mọi tiếng chíp chíp của mọi chim và từ mọi tiếng rì rào của mọi suối và từ mọi cơn gió thoảng qua mọi cây thông. Ngài ở mọi nơi - nhưng bạn không im lặng.

Khi ông im lặng nó nói; khi ông nói, nó im lặng. Cổng lớn là rộng mở để tặng bố thí, và không đám đông nào chắn đường.

Không có cạnh tranh, không có ai chắn đường bạn, không có người cạnh tranh. Bạn không cần vội vàng. Bạn không cần làm bất kì nỗ lực nào để chộp giật. Không có người nào cạnh tranh với bạn và không có người nào đứng trước bạn - duy nhất Thượng đế, duy nhất Thượng đế. Bạn có thể thảnh thơi. Bạn không cần sợ rằng bạn sẽ lỡ nó. Bạn không thể bỏ lỡ nó trong chính bản chất của mọi sự. Bạn không thể mất ngài. Bạn thảnh thơi.

Mọi phát biểu này chỉ để giúp bạn thảnh thơi. Thượng đế không thể bị mất - thảnh thơi đi. Không có người nào chắn đường - thảnh thơi đi. Không có vội vàng vì Thượng đế không là cái gì đó trong thời gian - thảnh thơi đi. Không có đâu mà đi vì Thượng đế không ở xa xôi trong ngôi sao nào đó - thảnh thơi đi. Bạn không thể bỏ lỡ trong chính bản chất của mọi sự - thảnh thơi đi.

Toàn thể thông điệp của mọi phát biểu nghịch lí này là - thảnh thơi. Nó có thể được cô đọng trong một thứ - thảnh thơi. Không tìm, không kiếm, không hỏi, không gõ cửa, không đòi hỏi - thảnh thơi. Nếu bạn thảnh thơi, nó tới. Nếu bạn thảnh thơi, nó có đó. Nếu bạn thảnh thơi, bạn bắt đầu rung động cùng nó.

Đó là điều Thiền gọi là tỏ ngộ-satori... thảnh thơi hoàn toàn của con người bạn; trạng thái của tâm thức bạn nơi không việc trở thành nào còn lại; khi bạn không là người thành đạt thêm nữa; khi bạn không đi bất kì đâu; khi không có mục đích; khi mọi mục đích đã biến mất và mọi chủ định đã bị bỏ lại sau; khi bạn hiện hữu, đơn giản hiện hữu. Trong khoảnh khắc đó của đây này bạn tan biến vào trong tính toàn bộ và tiếng tích tắc mới nảy sinh mà chưa bao giờ có đó. Tích tắc đó được gọi là tỏ ngộ-satori, đại ngộ-samadhi, chứng ngộ.

Nó có thể xảy ra trong bất kì tình huống nào - bất kì khi nào bạn rơi vào hoà điệu với cái toàn thể.

Điều cuối cùng. Thiền là không nghiêm chỉnh. Thiền có ý thức khôi hài vô cùng. Không tôn giáo nào khác đã tiến hoá nhiều tới mức nó có thể có ý thức khôi hài đó. Thiền có tiếng cười trong nó. Thiền là lễ hội. Linh hồn của Thiền là linh hồn của mở hội.

Các tôn giáo khác là rất nghiêm chỉnh - dường như đạt tới Thượng đế là công việc lớn, dường như ai đó sẽ lấy Thượng đế đi khỏi họ, dường như Thượng đế đang cố ẩn nấp; dường như Thượng đế đang tạo ra rào chắn một cách có chủ ý, có ý định; dường như có cạnh tranh lớn và Thượng đế là không đủ cho mọi người; dường như Thượng đế là tiền và không có đủ cho mọi người. Nếu bạn không chộp nó ngay lập tức trước người khác, người khác sẽ chộp lấy. Đây là những người rất nghiêm chỉnh, những người hướng theo tiền, người hướng theo mục đích - nhưng không thực sự là tôn giáo.

Thượng đế lớn thế, khổng lồ thế, to lớn thế. Nó là tính toàn bộ của sự tồn tại - ai có thể vét cạn nó? Không cần sợ rằng ai đó sẽ sở hữu nó trước bạn và thế rồi bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ bị mất mãi mãi. Không có vật lộn, không có cạnh tranh. Và có thời gian vĩnh hằng sẵn có. Đừng vội vàng và đừng nghiêm chỉnh.

Mặt dài không phải là mặt tôn giáo thực. Họ đơn giản nói họ đã không hiểu nó - bằng không họ sẽ có tiếng cười vui. Tiếng cười là rất duy nhất cho Thiền và bởi vì tiếng cười tôi nói nó là tôn giáo cao nhất cho tới giờ. Nó không làm xấu cuộc sống của bạn, nó không làm bạn thành què quặt - nó làm cho bạn nhảy múa, nó làm cho bạn tận hưởng.

Một cậu bé lần đầu tiên được đưa đi xem trưng bày hình người bằng sáp nổi tiếng thế giới của Madam Tussaud ở London. Nó hiển nhiên thất vọng bởi toàn thể sự việc này. Mẹ nó tìm cách khai sáng nó.

'Con thấy đấy, con yêu, tất cả những người đàn ông và đàn bà này đều là người nổi tiếng đã sống một thời gian lâu trước đây. Bây giờ tất cả họ đã chết.'

Vẻ buồn rầu của chú bé sâu sắc hơn, và nó lẩm bẩm, 'Vậy ra, đây là cõi trời!'

Điều đó là nguy hiểm. Nếu bạn đi tới cõi trời Ki tô giáo bạn sẽ ở trong cái gì đó giống như điều đó. Nghĩ về ác mộng kinh hoàng của việc sống cùng với các thánh nhân Ki tô giáo.

Ai đó hỏi một Thiền sư tại sao đã không có nhiều thánh nhân thế trên thế gian. Ông ấy cười và ông ấy nói, 'Họ thoải mái trong cõi trời vì rất khó sống với họ. Chúng ta may mắn rằng họ không ở trên thế gian. Để họ ở trong cõi trời đi.'

Điều đó là tốt. Cứ hình dung sống cùng với thánh nhân mà xem. Bạn sẽ bắt đầu tự tử.

Thiền mang tới tiếng cười và làn gió mới trong tôn giáo. Thiền làm ra chuyện cười tôn giáo. Nó là loại tiếp cận khác toàn bộ - lành mạnh hơn, tự nhiên hơn.

Đây là những điều nền tảng. Tôi có thể nói cho bạn rất nhanh.

Lắng nghe câu chuyện này.

'Pop' Gabardine, huấn luyện viên của đội bóng Midwestern, đã thấy trách nhiệm của mình cho tám buổi chiều thứ bẩy dẫm chân tại chỗ trong hàng, lần cuối bởi tỉ số mất mặt năm hai - không.

Khi đội bóng họp lại vào thứ hai sau, Pop nói một cách cay đắng, 'Với trận cuối cùng của mùa bóng, chúng ta có thể quên ngay mọi thủ đoạn chơi tôi đã cố dạy các bạn là người ngu. Chúng ta sẽ quay lại điều nền tảng. Làm nào. Bài học số một: vật tôi đang cầm được biết tới là quả bóng đá. Bài học số hai... '

Tại điểm này huấn luyện viên Gabardine bị ngắt lời bởi một hậu vệ lo nghĩ ở hàng trước, người cầu xin, 'Này, Pop, đừng nhanh thế.'

Tôi đã đi rất nhanh nhưng tôi hi vọng các bạn những người ở đây không là người ngu. Tôi tin cậy thông minh của bạn.

Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục Lục Tập 1

Quay về Mục Lục Toàn Tập

Ads Belove Post