Read more
Osho - Thiền - Con đường nghịch lý (Tập 1)
Chương 2. Mê Tức Ngộ
Câu hỏi thứ nhất: Có một truyền thuyết cổ
xưa đã gắn liền trí tuệ với ngu dốt? Phải chăng kẻ trí là người có một tâm hồn
chơn chất, giản đơn? Tuổi tác mang đến trí tuệ hay là mệt mỏi? Sự khác biệt giữ
người trí và kẻ ngu là gì?
Người xưa đã nói rất đúng. Có một
sự tổng hợp vượt ra ngoài ngu đần, vượt lên trên trí tuệ - một sự tổng hợp mà trong đó ngu đần và trí tuệ
chan hòa làm một.
Ngu đần và trí tuệ là nhị
nguyên, giống như tất cả những nhị nguyên khác: đàn ông và đàn bà, đêm và ngày,
mùa hè và mùa đông, sự sống và cái chết. Tất cả nhị nguyên đều phải được vượt
qua, siêu thể hóa; nếu không, bạn sẽ không bao giờ thấy được cái nhất thể, cái
thực tướng, cái phổ quát.
Trong ý nghĩa đó, người trí đồng
thời cũng là kẻ ngu - bởi vì trong cái
siêu thể này bao gồm cả hai. Tuy nhiên, đây không phải là kẻ ngu đần như ý nghĩ
của thế gian thường tình - đồng thời
cũng không phải thông minh theo cách hiểu thế gian. Cái trí tuệ của y là một thực
tại riêng biệt, cái ngu đần cũng thế. Y là người trí bởi vì y có hiểu biết, y
là kẻ ngu bởi vì y biết rằng không cách gì có thể hiểu được những huyền nhiệm của
đời sống. Y là người khôn bởi vì cuộc hành trình của y đã kết thúc, là kẻ ngu bởi
vì lần đầu tiên y biết được một điều rằng không có gì để biết và ngay cả có thể
cũng không có cả kiến thức, rằng vô minh là rốt ráo. Y nhận thức được một điều
rằng tận cùng là sự ngu dốt. Không có cách gì có thể giải mả được những bí ẩn của
hiện hữu.
Ta gọi một người có thể đưa ra
lời giải đáp là trí, nhưng kẻ trí thực sự là người không có câu giải đáp nào.
Những câu hỏi của y đã biến mất và những lời giải đáp cũng thế - y hoàn toàn trống rỗng. Trong phạm trù kiến
thức, y là người không hề biết gì hết.
Ta gọi một người là đần vì y
thiếu kiến thức; và ta gọi một người đầy kiến thức là trí vì y học rộng, biết
nhiều. Thế nhưng một kẻ trí thực sự sẽ hiểu được một điều rằng, không có cách
gì y có thể hiểu được thực tại. Thực tại ở ngay trước mắt, bạn có thể sống với,
bạn có thể là nó, nhưng không có cách gì bạn có thể hiểu được nó. Ngay kiến thức
đã bao hàm sự phân chia - phân chia giữa người biết và đối tượng được biết; kiến
thức bao hàm sự cách biệt; kiến thức đặt cơ sở trên nhị nguyên tính.
Một kẻ trí thực sự sẽ đạt đến
cái điểm mà ở đó y không còn bị phân cách nữa; nơi mà y không còn là một hoang
đảo, nơi mà y đã chan hòa với nhất thể. Y có chung cùng một nhịp đập với nhất
thể, rung động cùng với nhất thể, y không còn là y nữa. Chỉ còn lại Thượng Đế.
Đây là ý nghĩa của nhà minh triết Upanishadic khi tuyên bố 'Aham Brahmasmi' -
Ta là Thượng Đế. Đây cũng là ý nghĩa câu nói của Christ: "Ta với Cha ta là
một."
Khi bạn nhìn hiện hữu như một đối
thể, bạn ở trong tình trạng bị phân chia, thế nhưng khi bạn thể nhập với hiện hữu,
trở thành kẻ tham dự, thấy rằng đối thể và chủ thể chỉ là một - lúc đó sẽ không
còn cái gọi là kiến thức và cái gọi là ngu dốt. Khi đã không có kiến thức, làm
sao lại có thể có ngu dốt? Kiến thức và ngu dốt chỉ là hai mặt của một đồng tiền
và kẻ trí đều liệng bỏ cả hai.
Có một truyền thuyết cổ xưa đã
gắn liền trí tuệ với ngu dốt. Đúng vậy. Có một truyền thuyết nói rằng Chúa Giê
Su là một kẻ đần - và quả thực như thế. Lại có một truyền thuyết cho rằng Thánh
Francis là một kẻ đần - và cũng đúng như thế. Ở Ấn Độ, danh xưng Phật -
Buddha- được chuyển qua một dạng kỳ cục
hơn, nó trở thành Buddhu - có nghĩa là "đần độn". Cái tên mang một ý
nghĩa rất trí tuệ, rất giác ngộ - Phật, được chuyển thành một cực hoàn toàn đối
nghịch, "đần, hoàn toàn ngu đần" - buddhu.
Vâng, những thái cực đã gặp
nhau. Đó là những gì mà tôi đã nói với các bạn ngày hôm qua - về cái điều mà những
nhà khoa học gọi là lưỡng tính. Trong một con người đều hàm chứa cả hai yếu tố
âm lẫn dương, thế nhưng bạn chỉ công nhận một phần của cái hiện sinh này. Bạn
cho rằng bạn là nam nhi, nhưng đồng thời lại cũng có một con người nữ ở trong bạn,
chờ đợi được nhìn nhận, đón nhận, chấp nhận. Thế nhưng bạn vẫn luôn từ chối
chuyện này. Bạn nói rằng, "Tôi là một người đàn ông". Thế là bạn vẫn
luôn ở trong tình trạng bất quân bình. Nếu bạn là một người nữ, đồng thời cũng
vẫn có một con người nam ở trong bạn, nhưng bạn luôn luôn phủ nhận nó. Thế nên
bạn sẽ không bao giờ là một nhất thể, bạn luôn luôn bị phân cách.
Sẽ có một tụ điểm của tuệ giác,
của nhận thức, của tri kiến nơi mà phần nam và phần nữ ở trong bạn gặp gỡ, trộn
lẫn và tan biến vào nhau. Đó là điều mà William Blake gọi là "cuộc hôn phối
nội tại" - khi bạn trở thành cả hai, lưỡng tính, nam lẫn nữ. Ở Ấn Độ chúng
ta có một biểu tượng rất hoàn hảo về ý niệm này - ardhanarishwar. Có những bức
tượng thần Siva mang nửa thân mình là nam và nửa thân kia là nữ. Ngài vừa là
người yêu đồng thời là kẻ được yêu, vừa âm lẫn dương, người ái nam ái nữ.
Sự gặp gỡ của những đối lực kiểu
này tiếp tục xảy ra khắp nơi, ở mọi chiều kích. Trí tuệ và ngu si là hai thái cực
của bạn. Nếu bạn là người thông minh và từ khước cái phần ngu si của bạn, bạn
chưa hoàn toàn là một người trí, bởi vì một phần của con người bạn vẫn chưa được
thẩm thấu. Một phần của con người bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đâu đó chung quanh bạn,
chưa được thực sự thể nhập làm một với bạn. Nếu bạn là một người ngu và luôn
cho rằng mình là kẻ ngu đần và như vậy con người thông minh ở trong bạn đã bị
khước từ, bị ức chế. Người trí vừa là cả hai, vừa là không hai. Y vượt qua nhị
nguyên cho nên bạn có thể nói rằng y là không hai và bởi vì nhị nguyên tính đã
tan biến, y trở thành một tổng hợp mới, nên bạn cũng có thể gọi y là cả hai.
Phải chăng kẻ trí là người có một
tâm hồn chơn chất, giản đơn? Không phải như thế. Kẻ trí vô tâm - không có tâm
đơn giản cũng không có tâm phức tạp. Bạn lại rơi vào nhị nguyên rồi khi phân biệt
ra tâm giản đơn và tâm phức tạp. Kẻ trí là người hoàn toàn vô tâm. Kẻ trí đã vượt
ra khỏi sự giam hảm của tâm, y biết là không có tâm gì cả. Có tâm là có sự phân
biệt. Tâm là vật chướng ngại giữa bạn và hữu thể. Tâm hiện hữu như một bức Vạn
Lý Trường Thành - Đó chính là cái vỏ bọc thép của bạn.
Người trí không có vỏ bọc thép.
Y không cần được bảo vệ, y dễ dàng bị công kích, y hoàn toàn rộng mở. Y đâu cần
tự vệ để chống lại tự nhiên - y luôn sẵn sàng, sống trọn vẹn như thế. Y không cần
phải thúc đẩy giòng nước mà trôi theo cùng một nhịp với giòng sông. Y không cần
phải khoác vào bất cứ cái tâm nào bởi vì mang cái tâm vạn hữu đã là quá đủ. Y
đâu cần phải có một cái tâm riêng bởi lẽ y không hề có một mục đích riêng tư. Y
không đi, không đến, không có bất cứ một khát vọng nào - đó là ý nghĩa của điều
tôi nói rằng y không hề có mục đích riêng. Như thế tại sao lại cần phải có một
cái tư tâm? Cái phổ tâm là đủ.
Ta có thể gọi đó là vô tâm hay
là một chữ Tâm viết hoa. Thiền gia sử dụng cả hai. Họ gọi là "vô tâm"
nếu họ muốn khước từ cái tâm thế tục; và họ gọi đó là phổ tâm, cái Tâm viết
hoa, khi họ muốn cho thấy cái mặt tích cực của nó.
Như vậy phải gọi chính xác nó
là cái gì đây? Khi ta gọi vô tâm, ta muốn nói rằng đó không phải là cái mà bạn
thực có; khi ta gọi đó là phổ tâm, quảng tâm - cái Tâm viết hoa- chúng ta đang cho thấy thực sự nó là cái gì.
Gọi là "vô tâm", nói lên khía cạnh tiêu cực, đó không phải là cái tâm
như bạn đã biết. Gọi đó là cái Tâm viết hoa - cái Tâm lớn, quảng Tâm, cho thấy
được bản tánh thực sự của nó. Kẻ trí là người vô tâm hoặc kẻ trí là người quảng
Tâm.
Vâng, y hồn nhiên như một đứa
trẻ nhưng không phải là một anh cả quỷnh. Y hồn nhiên như một đứa trẻ nhưng nên
nhớ rằng y không phải là một đứa trẻ con. Có một sự khác biệt rất lớn lao giữa
trẻ con và hồn nhiên như trẻ thơ. Khi Chúa Giê Su nói rằng: "Chỉ có những
ai giống như trẻ thơ mới có thể bước vào nhà Cha ta", ông ta nói đến sự hồn
nhiên, ngây thơ trong trắng của tuổi thơ - ông không hề nói đến sự trẻ con hay
chín chắn. Người trí không hề trẻ con dù y rất giống một đứa trẻ. Y không phức
tạp theo cái nghĩa của một triết gia, nhà luận lý, nhà thần học. Y không phức tạp
theo cái nghĩa như một con người với đầy học thuyết, chủ nghĩa và mang nó đi
rao giảng khắp nơi - y không phức tạp theo cách hiểu như vậy. Tâm của y hoàn
toàn vắng lặng yên nghỉ. Không mảy may vướng bận. Tâm của y rỗng rang. Không có
gì để phải suy nghĩ.
Suy nghĩ là một sự thay thế.
Khi bạn không biết, bạn buộc phải suy nghĩ. Nếu bạn biết rồi, đâu còn suy nghĩ
để làm chi? Suy nghĩ là một trạng thái mù lòa. Nếu như bạn đang ngồi ở đây và bạn
bị mù, bạn muốn đi ra ngoài, thế là bạn phải nghĩ đến cái cửa đang ở chỗ nào. Bạn
phải hỏi người khác cái cửa nằm ở đâu. Bạn sợ sẽ bị trượt té, sợ sẽ bị đụng đầu
vào tường, bạn lo nghĩ mãi về cái cửa. Thế nhưng một người có đôi mắt sáng sẽ
không cần phải hỏi ai cả. Y trông thấy cái cửa, y biết cái cửa đang ở đâu, thế
nên y không phải suy nghĩ gì về chuyện này. Câu hỏi "Cái cửa ở đâu?"
không cần thiết vì y đã trông thấy nó. Người trí có đôi mắt sáng, y thấy nên
không cần phải suy nghĩ. Chỉ người mù mới phải suy nghĩ.
Tại Tây phương, cái ý niệm về một
nhà tư tưởng hoàn toàn khác biệt với hình ảnh của một con người minh triết Ðông
phương. Chắc có lẽ bạn đã trông thấy bức tượng "Người Tư Duy" của
Rodin, hay ít ra là trông qua bức hình chụp lại. Ta không thể gọi đó là hình ảnh
của một người đang tư duy. "Người Tư Duy" của Rodin có vẻ như đang
đau ốm, lo nghĩ. Nhìn vào bức tượng ta có cảm giác như có hàng triệu ý tưởng
đang tuôn chảy qua tâm trí y - giống như lưu lượng giao thông trong giờ cao điểm.
Bạn như có thể thấy được chúng trong bức tượng đá hoa này, trong dáng ngồi thiểu
não, tay ôm đầu, và những nếp nhăn lo nghĩ trên vầng trán. Và rồi bạn có cảm tưởng
rằng nếu y cứ tiếp tục theo cái kiểu này, chắc là y sẽ phát điên mất.
Ý niệm về một con người minh
triết hoàn toàn khác hẵn - đó là lý do tại sao ta gọi y là nhà minh triết. Phật,
như vậy là một con người minh triết, không phải là nhà tư tưởng; Mahavir, Chúa
Giê Su cũng thế. Những thiền giả cũng là những con người minh triết. Tại sao ta
gọi họ là những con người minh triết? Bởi vì họ thấy. Khi bạn nhìn thấy bạn
không cần phải suy nghĩ. Tại sao phải suy nghĩ khi mình thấy rõ vấn đề? Khi đôi
mắt làm việc, suy nghĩ bị loại trừ. Suy nghĩ chẳng khác gì chiếc gậy dò đường của
người mù.
Có một câu chuyện ngụ ngôn. Một
người mù tìm đến Chúa Chúa Giê Su. Chúa Giê Su sờ vào đôi mắt của y và y liền
được sáng. Y đang mang theo một chiếc gậy lớn, chiếc gậy được mang theo suốt cả
đời người. Lành bệnh xong y tạ ơn Chúa Giê Su và lên đường trở về nhà - vô cùng
hạnh phúc vì có được đôi mắt sáng, lần đầu tiên trong đời y được trông thấy màu
sắc, mặt trời, những tia nắng, những đóa hoa, con người và những khuôn mặt thân
quen. Thật vô cùng xúc động. Tuy nhiên y vẫn không quên mang theo chiếc gậy bên
mình. Chúa Giê Su trông thấy bảo: "Này người kia, tại sao ngươi không
quăng chiếc gậy của ngươi đi? Ngươi còn mang theo nó làm gì?" Người kia trả
lời, "Quẳng chiếc gậy đi? Thưa Chúa, làm sao con quẳng nó đi được? Con đã
quá quen với nó rồi."
Ðó là một thói quen đã tập nhiễm
lâu đời. Y không hề biết rằng nay y đã sáng mắt và không cần phải mang theo chiếc
gậy dò đường nữa.
Ðiều này xảy ra khi bạn hoà nhịp
với trạng thái vô tâm lần đầu tiên. Bạn vẫn còn tiếp tục suy nghĩ. Giống như
thói quen của người mù già. Nhưng rồi ngày một ngày hai bạn trở nên tỉnh thức,
rằng quả thật mình đang làm một chuyện vô nghĩa - ta lặp lại công việc theo
thói quen, ta vẫn đi trên lối mòn xưa cũ.
Suy nghĩ trở nên không còn
thích đáng nữa - đó là ý nghĩa khi tôi nói rằng kẻ trí chơn chất nhưng không phải
là một anh cả quỷnh. Tất cả đều sẵn đó cho y - y là một anh đần thế nào được? Ý
thức của y bung mở, ý thức của y được thánh hóa, tâm linh phong phú như Thượng
Ðế - thế nên đừng bao giờ nghĩ rằng y là một tên đần độn. Sự phong phú của y
còn hơn của một tư tưởng gia, một triệu lần hơn, vô tận. Nhưng y vẫn chất phác
hồn nhiên; sự trong sáng ngây thơ của y không hề bị nhiễm độc, suối nguồn ý thức
của y không hề bị bao phủ bởi những đám mây mờ.
--------------------
Bạn hỏi: Tuổi tác mang đến trí
tuệ hay là mệt mỏi? Cái đến với tuổi tác là sự mệt mỏi. Trí tuệ không liên hệ
gì đến tuổi tác. Một người trẻ có thể rất thông minh và không thiếu gì những
người già ngu đần - khi bạn cố gắng tìm ra một người, bạn có thể tìm ra hàng
ngàn. Dứt khoát, tuổi già không liên hệ gì đến trí tuệ. Vâng, đúng như thế, một
người già có thể có nhiều kinh nghiệm, nhưng điều đó không làm cho y trở thành
thông minh hơn. Một người già có thể có nhiều kiến thức, nhưng điều đó không
liên hệ gì đến trí tuệ. Y vẫn ở trong tình trạng ngu dốt như bao giờ.
Cả ngu đần lẫn trí tuệ không hề
là vấn đề số lượng. Không hề có chuyện kẻ ngu biết ít và người trí biết nhiều,
không bao giờ. Ðây là một thay đổi hoàn toàn; đây là một thể dạng mới. Sự ngu dốt,
kẻ được gọi là người ngu, và kẻ được gọi là người kiến thức đều hiện hữu trong
cùng một chiều kích - sự khác biệt là lượng không phải là phẩm. Có thể là người
ngu chỉ biết được một vài điều và người có kiến thức hiểu biết nhiều điều hơn,
nhưng đó là sự khác biệt giữa ít và nhiều; sự khác biệt không hề là phẩm chất
mà chỉ là số lượng; sự khác biệt chỉ là mức độ.
Người trí thì khác, y không
cùng ở chung một tần số, y đã dời qua một tần số khác. Sự khác biệt giữa người
trí và kẻ ngu thật là vô cùng lớn lao nên không còn là vấn đề số lượng. Thế nên
sự khác biệt giữa kẻ trí và người ngu cũng hoàn toàn giống như sự khác biệt giữa
kẻ trí và người giàu kiến thức. Y cách biệt sâu xa với người có kiến thức cũng
tương tự như với người dốt. Sự cách biệt giữa y và người có học vấn cũng tương
tự như với người vô học. Ðây là một dạng thể cấu trúc hoàn toàn mới. Phẩm chất
ý thức của y hoàn toàn thay đổi - vấn đề không phải là y hiểu biết nhiều hơn mà
là có phẩm chất hơn. Một hiện sinh đầy chất lượng.
Có thể là bạn biết nhiều hơn
Chúa Giê Su; trong thực tế, hoàn toàn đúng như vậy. Bạn biết nhiều hơn Chúa Giê
Su, bạn biết nhiều hơn Ðức Phật. Nếu Phật đến đây trong lúc này và ta bắt ngài
phải thi lấy bằng Cữ nhân, Cao học, ngài chắc là sẽ bị đánh rớt - nhưng bao
nhiêu người thi đỗ những cấp bằng này sẽ không ai có trí tuệ hơn ngài. Ngài sẽ
không biết một ngàn lẽ một thứ linh tinh. Nếu bạn hỏi ngài "vật lý lượng tử"
là gì, ngài sẽ không biết. Nếu bạn hỏi ngài lý thuyết tương đối của Albert
Einstein là gì, ngài sẽ không biết. Nhưng những điều này không có nghĩa là ngài
không trí tuệ.
Sự khác biệt giữa bạn và Ðức Phật
là vấn đề phẩm chất. Sự hiện hữu của ngài là khác biệt, sự tỉnh thức của ngài
là khác biệt, lòng từ bi của ngài là khác biệt. Vấn đề không phải là ngài biết
nhiều. Ngay cả dưới thời ngài cũng có rất nhiều người biết nhiều hơn ngài.
Không thiếu những học giả uyên bác, không thiếu những nhà bác học tài danh thường
luận bàn, tranh cãi với ngài. Thế nhưng đó là những ngày thật tuyệt vời. Con
người không quá kiêu mạn. Vì họ có thể thấy được. Ngay cả những học giả - thường
là chuyện rất hiếm có- ngay cả những học giả cũng có thể thấy được rằng ngài là
một người hoàn toàn khác biệt, ngài hiện hữu ở một tần số khác biệt. Họ bái phục
ngài. Ðấy không phải là do họ biết ít hơn ngài, họ có thể biết nhiều hơn, nhưng
phẩm chất của ngài là trội vượt. Ðây không phải là chuyện tích lũy tri kiến, mà
là một cái gì đó thăng hoa trong ngài. Ðây là một hiện hữu chan hòa ánh sáng,
không còn tồn tại một chút u tối nào. Ðó là ý nghĩa của giác ngộ - ngài, con
người đã vươn đến ánh sáng.
Ánh sáng này là trí tuệ. Làm
sao ánh sáng này lại có thể có được do tuổi tác? Cái ánh sáng này thỉnh thoảng
cũng xuất hiện ở những người trẻ tuổi - Lão Tử, được mô tả là đã đạt được giác
ngộ ngay khi mới sinh ra. Theo truyền thuyết ông sinh ra thì đã khá già, khoảng
chừng tám mươi hai tuổi, già đến độ râu tóc đều bạc trắng như tuyết. Cái truyền
thuyết hay ho này dĩ nhiên chỉ là một ẩn dụ - nó không hề có thực, căn cứ trên
một sử liệu có thực. Nó muốn nói một điều là ông thông tuệ như một người ở vào
cái lớp tuổi tám mươi hai.
Ở Ấn Ðộ, Shankara (2) mất vào
lúc mới ba mươi ba tuổi - gần với giới hạn của lớp tuổi 'híp- pi'. Tuy không sống
lâu nhưng ngài là một trong những bậc giác ngộ vào bậc nhất của thế giới này.
Ngay cả những bậc thông thái cao niên cũng đã tìm đến quỳ dưới chân ngài và đổi
đạo theo ngài.
Lúc Chúa Giê Su bị đóng đinh,
ngài cũng chỉ mới ba mươi ba tuổi. Dĩ nhiên là ngài không phải là người có nhiều
kinh nghiệm hay kiến thức uyên bác. Nhiều thầy tư tế Do Thái giáo lúc đó còn có
kiến thức nhiều hơn, có thể trích giảng kinh sách một cách chính xác hơn. Chúa
Giê Su gần như là một người không có học thức, chỉ là con trai của một ông thợ
mộc, ta không thể đòi hỏi gì hơn. Thế nhưng sự khác biệt là ở chỗ nào? Sự khác
biệt không phải là ở kiến thức, sự khác biệt ở ngay chính trong sinh thể. Ngài
chan hoà ánh sáng, chan hòa hạnh phúc, chan hòa an lạc. Ở Ngài tỏa mùi hương
giác ngộ - không còn nơi để đến, mục tiêu để đạt, tất cả mọi dục vọng đã tan biến.
Khi cái sẽ là tan biến bạn là một
hiện thể - người trí đạt đến cái hiện thể. Kẻ bất trí mãi chạy theo cái sẽ là -
trở thành cái này, trở thành cái nọ, trở thành giàu có, trở thành quyền uy,
luôn luôn muốn mình sẽ là cái này, cái kia. Người trí hạnh phúc với những gì y
đang có, với thời gian, nơi chốn mà y đang hiện hữu. Y không khao khát bất cứ
điều gì - ngay cả Thượng Ðế, ngay cả giác ngộ. Không còn mong cầu điều gì. Dục
vọng đã tan biến, dục vọng đã từ bỏ y. Cái tâm thức vô cầu đó chúng ta gọi là
trí tuệ.
Thì như vậy, trí tuệ chẳng dính
dấp gì đến tuổi tác. Tuổi tác chỉ mang đến sự mệt mỏi. Nhưng rất nhiều người lớn
tuổi cứ cho là mình già dặn, đầy kiến thức. Họ bắt đầu lên lớp với giới trẻ. Họ
bắt đầu nói về những điều mà ngay chính họ chưa bao giờ hoàn tất; thực ra họ chỉ
là những người già nua, mệt mỏi, và trong sâu thẳm, ẩn chứa cả sự ghen tức. Nếu
bạn trông thấy một cậu bé đang trèo cây, bạn cảm thấy ghen tức phải không? Và
ngay lập tức, sự ghen tức này được che đậy bằng những lời khuyên làm như rất
sáng suốt - bạn bảo thằng bé, "Ðùng có leo trèo nghe. Coi chừng té đó. Tin
tao đi. Tao già đầu rồi mà." Nhìn sâu vào lòng, bạn sẽ thấy là bạn đang
ghen tức với một thời tuổi trẻ đã qua đi, rằng bạn không còn khả năng leo trèo
lên cây chơi đùa như cậu bé kia nữa.
Khi một người già trông thấy một
cặp tình nhân trẻ trung tay trong tay ngập tràn tình yêu, ông ta không khỏi cảm
thấy ghen tức. Bây giờ ông đâu còn được như thế nữa cho dù trong lòng có ao ước
đến bao nhiêu. Nhưng lòng ghen tức đó lại được ngụy trang dưới một hình thức
cao đẹp hơn. Nó sẽ nói rằng, ôi cái chuyện đần độn đó mà, nó chỉ thoáng qua
trong phút chốc thôi. "Này, nghe tôi đi," ông già nói, "chuyện
này sớm muộn gì cũng tan biến thôi. Ðừng có ngu mà dính vào." Ðừng nghĩ rằng
ông già này đã trở thành người sáng suốt, bởi vì nếu là người trí thực sự lẽ ra
ông ta phải hiểu và thông cảm được với giới trẻ chứ không phải chống lại chúng.
Trí tuệ thực sự không hề phản
kháng lại đời sống; câu trả lời của nó với thực tại đời sống luôn luôn là
"có", chứ không hề là "không". Bất cứ lúc nào bạn tìm thấy
tiếng "không", hãy nhớ kỹ rằng, rõ ràng có một cái gì khác đang giả bộ
là trí tuệ.
Cuối cùng, bạn hỏi: Sự khác biệt
giữ người trí và kẻ ngu là gì? Người trí biết rằng y là kẻ ngu và kẻ ngu thì
không bao giờ biết chuyện đó.
Câu hỏi thứ hai: Bạn ứng xử với cái chết
như thế nào?
Tôi chết trong từng giây phút,
nhưng tôi không tích lũy cái chết, thế nên nó chẳng có vấn đề đối với tôi. Nếu
bạn thực sự sống thì cái chết không hề là một vấn nạn. Bạn không cần phải đối
phó với nó vì nó thực sự không hiện hữu.
Chết là một vấn nạn hoàn toàn
do bạn tạo ra. Hãy cố gắng để hiểu rõ điều này. Bởi vì bạn không để cho quá khứ
chết đi, nó cứ được tiếp tục tích lũy mãi, nó trở thành một gánh nặng cho bạn,
một gánh nặng chí tử. Bây giờ nếu bạn để cho quá khứ chết đi trong từng giây
phút trôi qua, để cho nó kết thúc, thì trong từng giây phút bạn lại được tái
sanh, cái quá khứ chết không hề được tích lũy. Khi bạn không còn tích lũy cái
chết thì đâu còn vấn nạn để phải giải quyết, đâu còn vấn nạn để đối phó? Trong
từng khoảnh khắc bạn trở nên tươi trẻ - và bạn biết rằng sự tươi trẻ này là
vĩnh cữu, là vô tận. Ngay cả lúc mà cái được gọi là cái chết xuất hiện, bạn
cũng sẽ không hề chết. Trong khoảnh khắc đó, đời sống đã trở thành quá khứ, thế
nên bạn không cần phải bám víu vào nó. Bạn cần phải học một điều ở trong đời sống
- không nên bám víu. Bạn không bám víu vào nó thì vấn nạn sẽ không phát khởi. Nếu
bạn bám víu vào đời sống bạn sẽ sợ hãi cái chết. Chính cái sự bám víu vào đời sống
tạo ra vấn nạn.
Tại sao bạn bám víu vào đời sống?
Bạn bám víu vào đời sống bởi vì bạn không biết sống như thế nào, bạn không hề
được ai bảo cho phải sống như thế nào. Bạn thực sự hoàn toàn bị thương tật, bạn
đã bị điều kiện hoá đến độ bạn chưa bao giờ được sống.
Bạn chưa sống thực sự mà chỉ sống
trong nỗi sợ hãi. Bạn chưa bao giờ đi sâu vào bất cứ một chuyện gì trọn vẹn. Bạn
chưa hề yêu trọn vẹn, bạn chưa hề khóc trọn vẹn, bạn chưa hề cười trọn vẹn - hầu
như bạn đã quên mất cái tiếng trọn vẹn. Bạn không còn biết cái tiếng trọn vẹn
nghĩa là gì nữa - bạn hoàn toàn cục bộ. Ngay cả khi yêu, bạn cũng không hề yêu
cho đến tận cùng, bạn không để cho nó xảy đến. Bạn luôn cưỡng chống lại.
Trước tiên bạn tiếp tục đi tích
lũy cái quá khứ chết - tức là tích lũy cái chết chung quanh bạn. Cái quá khứ
đóng băng đó ngày càng trở nên nặng nề vì nó tăng trưởng mỗi ngày, và bởi vì đời
sống của bạn quá đổi mỏng manh, tinh tế, bạn chất cái quá khứ chết này lên
trên, đời sống của bạn sẽ bị nghiền nát thôi. Chính cái quá khứ chết này không
bao giờ để yên cho bạn có thể sống một giây phút nào trọn vẹn, nó luôn luôn kéo
lùi bạn trở lại. Bạn muốn tiến về phía trước, nhưng nó lại kéo ngược bạn trở
lui. Ngay cả khi bạn bưóc đi, bạn cũng không hề đi một cách trọn vẹn. Có nghĩa
là không có một cái gì hoàn tất cả, bạn không hề hoàn tất bất cứ điều gì cả. Bạn
không hề yêu, bạn không hề cười. Vâng, bạn có thể đã cười bao nhiêu lần trong đời
nhưng những nụ cười đó không bao giờ trọn vẹn, nó chỉ là một nụ cuời dở dang, một
mảnh vụn.
Bạn vẫn chưa khám phá ra đời sống
là gì - chưa hát khúc nhạc đời, chưa nhảy khúc luân vũ của sự sống. Thế nhưng
khi bạn sống trọn vẹn trong từng phút giây, bạn sẽ không còn sợ hãi cái chết,
tuyệt đối không có gì để phải sợ hãi. Bạn đã sống cuộc đời của bạn, thưởng thức
những ân sủng mật ngọt của nó, với vô vàn biết ơn. Cái chết lúc đó sẽ xuất hiện
như một sự nghỉ ngơi dài, không là gì khác. Cái chết sẽ không có khả năng tước
đoạt được của bạn bất cứ cái gì bởi vì bất cứ cái gì có thể bị tước đoạt, bạn
đã quẳng nó đi từ lâu rồi, trước khi cái chết đến với bạn. Bạn đã không hề tích
lũy nó, thế nên cái chết sẽ không hủy diệt được bất cứ cái gì vì bạn đã biết sống
trọn vẹn trong từng khoảnh khắc. Và khi cái chết đến, bạn cũng sẽ biết chết một
cách trọn vẹn.
Khi Socrates (3) đang hấp hối
sau khi bị kết án phải uống thuốc độc, những môn đệ của ông không ngừng than
khóc. Ông mở mắt ra và bảo họ, "Qúy vị đang làm gì vậy? Tại sao quý vị lại
than khóc? Quý vị đang làm gì trong cái giây phút tuyệt diệu như thế này? Tại
sao qúy vị lại để lỡ mất đi một cơ hội? Hãy dự phần với ta. Cái chết đang xuất
hiện. Ðừng để lỡ mất cơ hội này. Hãy cố gắng để nhìn thẳng vào cái chết. Ðó là
điều ta đang làm đây."
Rồi ông tiếp tục nói với môn đệ,
"Bây giờ thì chân của ta tê rồi. Nhưng điều bí ẩn là - chân ta tê rồi, ta
không còn cảm giác về nó nữa, nhưng những cảm giác về ta vẫn y nguyên, vẫn
không hề giảm sút." Rồi ông tiếp, "Bây giờ đến lượt đôi tay cũng tê rồi.
Chúng đã biến mất. Ta không còn cảm giác về chúng nữa." Ông bảo một môn đệ
thử châm vào tay mình. Người ta châm vào tay và ông không thấy có cảm giác gì cả.
Ông cười và bảo họ, "Thật lạ lùng, thân xác của ta bây giờ coi như đã chết
thế nhưng ta vẫn sống như bao giờ. Cảm giác của ta về ý thức vẫn toàn vẹn như
bao giờ".
Rồi ông bắt đầu có cảm giác rằng
trái tim của mình ngưng hoạt động nhưng cho đến phút cuối ông vẫn còn tiếp tục
bảo môn đệ: "Hãy nhớ kỹ. Đây là lời nói cuối cùng của ta. Ta sẽ không thể
nói thêm điều gì được nữa bởi vì lưỡi ta đang dần tê cóng." Và tiếp theo
là lời nói cuối cùng: "Ta vẫn sống toàn vẹn như bao giờ; ý thức của ta
không mất đi một chút nào cả. Cái thân xác này không thể hủy diệt được ta. Cái
thân xác này đang ra đi, ta đang trên bờ tan biến, nhưng cảm giác nội tại, cái
ý thức chủ quan vẫn không hề bị đụng tới. Thực ra, nó còn sáng tỏ hơn
xưa."
Cái chết mang đến cho ta một bối
cảnh; nó trở thành một cái bảng đen và đời sống như là một cái gì đó được viết
bằng phấn trắng lên trên tấm bảng đen này. Khi sống có thể là bạn không cảm nhận
đời sống một cách sâu sắc, một cách bén nhạy, một cách tế nhị, nhưng trái lại bạn
có thể cảm nhận chúng khi chết. Chẳng khác gì nhìn những ngôi sao trong đêm, bầu
trời càng tối đen, những ngôi sao càng lấp lánh. Chúng vẫn ở đó suốt ngày,
chúng không đi đâu cả, không thể đi đâu được. Chúng đi đâu bây giờ? Chúng vẫn ở
đó, nhưng vì ánh sáng của mặt trời, ta không thể thấy chúng. Ánh sáng của chúng
bị xóa nhòa đi trong ánh sáng của mặt trời. Nhưng trong đêm tối, chúng lại xuất
hiện - lấp lánh, tuyệt vời. Điều này cũng xảy ra giống y hệt như thế với cái chết.
Đời sống trở thành một ngôi sao chiếu sáng lấp lánh.
Bạn hỏi tôi: Ngài đối phó với
cái chết như thế nào? Thực sự ra, tôi không hề biết cái chết là gì bởi vì tôi
đang chết, trong mỗi khoảnh khắc cái tôi quá khứ đang chết. Tôi không hề sống
trong quá khứ. Và bởi vì tôi không sống trong quá khứ, tôi cũng không hề sống
trong tương lai - tương lai luôn luôn chỉ là sự phóng chiếu của quá khứ. Cái
quá khứ chết tạo ra một tương lai sai lạc, chỉ có giây phút hiện tại này đây là
đúng đắn.
Tôi đang hiện hữu tại đây,
trong khoảnh khắc này. Đâu có vấn nạn gì về cái chết? Làm sao bạn có thể chết ở
trong khoảnh khắc hiện tại? Cái chết luôn luôn là một vấn nạn được phóng chiếu:
Một ngày nào đó bạn sẽ chết. Đây chỉ là sự suy luận - một ngày nào đó. Ai đó đã
chết, bạn trông thấy họ đang hấp hối và rồi bạn trở nên sợ hãi rằng bạn sẽ chết.
Thế nhưng bạn có thực sự trông thấy y chết như thế nào chưa? Bạn mới chỉ thấy
những biểu hiện bên ngoài, bạn chưa hề thấy cái gì xảy ra ở bên trong.
Chưa hề có ai chết. Chết là điều
dối trá lớn nhất; nó không hề hiện hữu. Chỉ có đời sống là hiện hữu. Đời sống
là vĩnh cửu. Nếu bạn liệng bỏ quá khứ, tương lai cũng tan biến theo. Trong khoảnh
khắc của hiện tại, cái chết không hề có mặt, trong hiện tại, chỉ có đời sống.
Hãy nghe câu chuyện thú vị sau
đây.
Một lớp học về môn tâm lý của
trường đại học nọ đang nghiên cứu về những phản ứng của con người đối với kích
thích tình dục đặc biệt là mức độ thường xuyên của chuyện liên hệ gối chăn.
"Có bao nhiêu sinh viên ở
đây làm chuyện chăn gối hơn một lần trong tuần?" vị giáo sư hỏi.
Có năm cánh tay đưa lên.
"Bao nhiêu người một lần
trong tuần?"
Mười cánh tay đưa lên.
"Bao nhiêu người hai lần
trong tháng?" - Tám cánh tay đưa lên.
"Một lần trong
tháng?" - Bốn cánh tay đưa lên.
"Có ai chỉ một lần trong
năm?"
Một gả nhỏ con ở cuối lớp đưa
tay vẩy loạn lên và cười một cách khoái chí.
Vị giáo sư ngạc nhiên: "Nếu
một năm chỉ làm chuyện chăn gối một lần, tôi thấy đâu có gì để bạn phải vui quá
mức như vậy?"
Tràn ngập hân hoan, gã học trò
nhỏ con trả lời, "Thì tối nay tôi làm chuyện đó thầy ơi!"
Hãy để cho khoảnh khắc này đây
là khoảnh khắc hiện tại. Đừng sống trong quá khứ bởi vì không ai có thể sống
trong quá khứ. Nó đã trôi qua. Cũng đừng xây những lâu đài trong tương lai, nó
sẽ không bao giờ hoàn tất. Tuơng lai không hiện hữu. Hãy sống với chính khoảnh
khắc hiện tại này.
Có lần Chúa Giê Su nói với môn
đệ: "Hãy nhìn những đoá hoa uất kim hương trên cánh đồng kia. Thật là đẹp
tuyệt vời. Ngay vua Solomon có đem tất cả gấm vóc quý giá của ông ta trải ra,
cũng không đẹp được như thế." Thế thì cái bí mật của những đoá hoa uất kim
hương trên cánh đồng là gì? Chính là do chúng sống trong khoảnh khắc hiện tại.
Ngày hôm nay là ngày hôm nay. Đêm nay là đêm nay và khoảnh khắc này chính là
khoảnh khắc này.
Một khi bạn bắt đầu sống với
khoảnh khắc hiện tại có nghĩa là bạn giao tiếp với đời sống một cách liên tục
và trọn vẹn. Và rồi đời sống sẽ không ngừng tiếp nối làm bạn tươi mát trở lại,
trẻ trung trở lại.
Vâng, một ngày nào đó thân xác
của bạn có thể tan biến đi, nhưng đó không phải là chết - một cách đơn giản, đó
là một cái thân xác mệt mỏi bắt đầu được nghỉ ngơi. Vâng, cái tâm thức này cũng
sẽ bị mất đi, bởi vì cái tâm thức này đã được sử dụng quá nhiều. Thế thì bạn
còn muốn cái gì nữa? Sử dụng cái tâm này vĩnh viễn? Bạn chưa chán ngấy nó sao?
Cái tâm này làm việc từ khi bạn chào đời cho đến ngày bạn ra đi - bảy mươi, tám
mươi, chín mươi năm. Ðây cũng là một cổ máy thôi. Hãy rủ một chút lòng từ bi
cho cổ máy này - ngày qua ngày nó trở nên già cỗi, ngày qua ngày nó không còn
làm việc hiệu quả, bạn cần một cổ máy mới thôi.
Thân xác này đã trở nên già
nua, thân xác này đã trở nên mục rửa, nó cũng chỉ là một cổ máy. Một cổ máy rất
tinh vi, phức tạp mà cho đến nay khoa học vẫn chưa sáng chế nổi. Một cổ máy
hoàn toàn tự động. Bạn cho rằng máy móc tự động là chuyện mới mẻ? Không đâu bạn
ơi, cái thân xác của bạn là một bộ máy tự động từ hàng triệu năm rồi. Khi bạn
ăn uống, thực phẩm được tiêu hoá một cách tự động. Bạn không phải làm công việc
tiêu hóa. Khi bạn thở vào, máu nhận dưỡng khí và thải ra thán khí một cách tự động
- bạn không cần phải làm những công việc này. Hãy nghĩ đến chuyện bạn phải cáng
đáng những công chuyện như thế! Chỉ một ngày thôi cũng đủ làm bạn phát điên lên
rồi, không cách chi sống nỗi. May mà tất cả đều tự động. Trong suốt bảy chục,
tám chục, chín chục năm trời cổ máy tự động này vẫn chạy đều. Vâng, thì thỉnh
thoảng bạn cũng bị ốm đau, thỉnh thoảng bạn cảm thấy không khoẻ, bị chuyện nọ
chuyện kia - nhưng nó có thấm vào đâu. Với cái cổ máy phức tạp tinh vi như thế,
tất cả những ốm đau so ra chẳng là cái gì cả. Chuyện bạn hiện hữu mới là phép lạ.
Chuyện bạn sức khoẻ mới là phép lạ.
Nhưng rồi tất cả mọi cổ máy đều
cũng phải có lúc già nua mệt mỏi. Ngay cả kim loại cũng thế. Các nhà khoa học
bây giờ cho ta biết kim loại cũng bị già nua. Ngay khi tôi đang nói chuyện với
bạn, không phải chỉ thân xác của tôi sẽ già đi mệt mỏi mà cái micro tôi đang cầm
trên tay cũng sẽ già đi mệt mỏi. Tất cả mọi vật đều sẽ già nua và đều cần an
nghỉ.
Cái chết là sự nghỉ ngơi, không
là gì khác. Bạn hoà nhập trở lại với tứ đại. Thân xác này trở về với trái đất để
nghỉ ngơi. Nhưng rồi nó sẽ được phục sinh trong một ngàn lẻ một thân xác khác,
nó sẽ trở lại. Bạn có thể thấy được điều này ở khắp nơi. Khi mùa xuân về, cây cối
đơm bông, nhưng rồi những cánh hoa biến mất trở lại trong lòng đất. Và rồi những
chiếc lá rụng rơi trở thành phân bón. Một lần nữa chúng sẽ lại thể nhập vào
dòng lưu chuyển của một cái cây khác, một lần nữa chúng sẽ trở thành bộ phận của
một cái cây khác, một lần nữa chúng sẽ lại sống động dưới ánh sáng mặt trời, sẽ
lại vui đùa với làn gió, với trăng sao, chúng sẽ lại cười cợt, sẽ ca lại khúc nhạc
đời bất tận và rồi chim chóc sẽ tụ hội trở về, và con người thích thú ngắm nhìn
chúng.
Ðiều này lại được tái diễn. Ðời
sống là một vòng luân chuyển của hành động và nghỉ ngơi, hành động và nghỉ
ngơi. Ðời sống không phải chỉ là những gì mà bạn gọi là đời sống - cái chết
cũng là một phần của đời sống, cái chết không phải là sự kết thúc. Cái chết là
một phần của đời sống, thông qua cái chết đời sống hiện hữu, đúng như thế, qua
cái chết đời sống được nghỉ ngơi lấy lại toàn bộ năng lượng và sức sống để trở
lại. Giống như bạn đi ngủ mỗi đêm. Vâng, ngủ là một cái chết ngắn. Bạn chỉ chết
trong vòng vài giờ và nếu bạn chết đúng mức, mỗi buổi sáng bạn sẽ rất tươi tắn,
bạn sẽ trẻ trung trở lại, đôi mắt sẽ linh động, đôi chân như muốn nhảy múa, con
người bạn sẽ tràn ngập niềm vui và mật ngọt hương đời. Còn nếu bạn không thể ngủ
ngon, sáng ra bạn sẽ vô cùng mệt mỏi.
Thế nên phải học cách sống trọn
vẹn và chết trọn vẹn. Khi bạn chết, hãy chết một cách trọn vẹn để khi tái sanh
trở lại, những tinh tuý mật ngọt lại tuôn chảy trở lại trong bạn. Nhưng tại sao
bạn lại phải bận lòng về chuyện này? Bận lòng về một chuyện không đáng - có bao
giờ bạn phải mất công suy xét về nó? Có bao giờ bạn nghĩ đến bạn đã ở nơi đâu
trước kiếp sống này, trước khi được sinh ra? Bạn đã không hề quan tâm đến mà.
Thế thì tại sao bạn lại lo nghĩ đến cái chết? Bạn đã từng kinh qua cái chết biết
bao nhiêu lần rồi và không còn quan tâm đến nữa. Bạn có thể là Alexandre Ðại Ðế,
đâu biết được? Có đủ loại khùng điên đang có mặt ở đây. Bạn có thể là Thành Cát
Tư Hãn, là Adolf Hitler ...bao nhiêu người Ðức đang có mặt tại đây. Làm sao biết
được?
Biết bao nhiêu chuyện xảy ra
trong thế giới này và bạn không hề bận tâm đến. Ngay cả nếu có người bảo cho bạn
biết rằng bạn đã từng là Alexandre Ðại Ðế, bạn sẽ trả lời là bạn không cần biết.
Ðâu có gì quan trọng? Khi bạn đang là Alexandre Ðại Ðế, đó mới là chuyện quan
trọng - thế mà bây giờ bạn lại suy nghĩ rất nhiều về cái chết.
Bạn sẽ chết và bạn sẽ không chết.
Ðây là một sự kết hợp. Cái thân xác này trở nên già cỗi, cái tâm này trở nên
già cỗi, cái ngã này trở nên già cỗi... thế là cái thực tánh ở trong bạn, vị chủ
nhân thực sự của ngôi nhà, cái tâm thức, làm một bước nhảy, đi tìm kiếm một
thân xác mới, một cái bào thai khác, để được tiếp tục.
Rồi sẽ có một khoảnh khắc nào
đó bạn cảm thấy chán ngán cái vòng lẩn quẩn của đời sống. Cái vòng đầu tiên,
cái vòng kế tiếp, cái vòng khác, những vòng quay tiếp nối những vòng quay. Có một
khoảnh khắc trong đời bạn bỗng nhiên tỉnh thức trước những gì đang xảy ra. Bạn
cảm thấy chán ngán, không phải chỉ cho một kiếp sống mà cho cái vòng quay lẩn
quẩn như thế, cái vòng quay bất tận hết đến rồi đi - cái mà Ấn Ðộ giáo gọi là
awagaman, đến và đi.
Cái ngày mà bạn trở nên chán
ngán cái cõi đi, về trong hiện tại này, bạn trở nên tín ngưỡng. Một nhân tố mới
đã đi vào tâm thức bạn, một tia sáng mới. Thế là bạn bắt đầu suy nghĩ về niết
bàn. Một cái chết thông thường là sự loại bỏ một kiếp sống để bạn tiếp tục sống
trở lại; niết bàn là sự loại bỏ tất cả các kiếp sống để bạn không còn sống như
một cá thể, bạn bắt đầu sống như là vũ trụ, như là Thượng Ðế. Sẽ không còn nhu
cầu phải trở lại xác thân, với tâm và cái ngã.
Câu hỏi thứ ba: Một triết gia nói rằng:
"Kiến thức là một đức hạnh cho nữa phần đời thứ hai nhưng là những gì chán
ngấy cho nữa phần đời thứ nhất." Cái quy luật này có nên chỉ dành cho những
người trên bốn mươi?
Kiến thức luôn luôn là một điều
chán ngấy. Không phải nó chỉ chán ngấy lúc bạn còn trẻ mà nó luôn luôn chán ngấy,
kiến thức chỉ là rác rưởi phế thải. Kiến thức không phải là một cái gì có thực.
Nói về nó như vậy là đúng rồi. Ðương nhiên là nó phải chán ngấy thôi. Kiến thức
không hề là một cái gì có thực. Nó giống như một người đang đói và bạn đến nói
với họ về thực đơn, về thực phẩm, chuyện trên trời dưới đất - họ sẽ không hết
đói.
Con người cần hiểu biết không cần
kiến thức; con người cần thông cảm chứ không phải kiến thức; con người cần trí
tuệ chứ không phải kiến thức. Kiến thức là những gì chán ngấy. Bất kể bạn ở tuổi
tác nào.
Vấn đề thứ hai: Tôn giáo không
liên hệ gì đến tuổi tác. Nó có thể đến với bạn lúc bạn còn trẻ hoặc có thể
không, do một ngàn lẻ một lý do khác nhau. Thỉnh thoảng một người có thể rất tỉnh
thức ngay lúc còn trẻ tuổi và nhận thức được sự hư vọng của thế giới này trong
khi có những người già vẫn không bao giờ thấy được sự thật. Con người không ai
giống ai. Họ rất là khác biệt. Thế nên không hề có một quy luật nào đưa ra một
kết luận nhanh chóng và cố định cả.
Tuy nhiên, một cách tổng quát
ta có thể nói rằng con người bắt đầu có xu hướng tín ngưỡng kể từ lứa tuổi bốn
mươi hai. Bạn cũng không nên xem đây là một quy luật cố định. Một hiện thể ở
trình độ cao càng ít bị chi phối bởi những quy luật cố định, trong khi một hiện
thể ở trình độ thấp sẽ bị chi phối nhiều hơn. Thí dụ, bạn nói rằng nước sôi ở một
trăm độ. Ðây là một quy luật cố định. Cho dù ở Tây Tạng, Ấn Ðộ hay Ba Tư thì nước
cũng bốc hơi ở một trăm độ - bởi vì nước chưa phải là một cá thể có ý thức, nó
chưa có tự do.
Cây cối có chút đỉnh tự do hơn
thế nên chúng khó đoán biết hơn. Súc vật còn tự do hơn cây cỏ, chúng lại càng
khó tiên đoán hơn. Con người là sinh vật có nhiều tự do hơn cả trong thế giới
hiện hữu này nên rất khó đoán trước những gì xảy ra. Tuy nhiên một điều có tính
cách phổ quát là, ở vào lứa tuổi bốn mươi hai, con người bắt đầu suy tư về về
tôn giáo. Có một khuynh hướng tự nhiên như thế.
Theo du già và mật tông, đời sống
con người có thể được phân chia thành từng khoảng bảy năm. Một đứa trẻ bắt đầu
có những đổi thay đầu tiên khi lên bảy. Ðây là giai đoạn ấu thơ chấm dứt. Một
thay đổi lớn. Khi nó lên mười bốn tuổi, tình dục bắt đầu đi vào đời sống. Lại một
đổi thay lớn lao khác. Bây giờ nó bắt đầu trổ mả, bắt đầu có những ước vọng
khác biệt. Ở lứa tuổi hai mươi mốt, cuộc sống mở ra với những khao khát, ước
mơ. Y bắt đầu thích chính trị, nổi loạn, chống đối, đấu tranh - sẵn sàng đánh
nhau với bất cứ ai. Y trở nên một nhà cách mạng. Ở tuổi hai mươi tám y đi vào ổn
định, thích tiện nghi, có trương mục ở ngân hàng, lương cao, nhà rộng, vợ đẹp,
con khôn, rồi TV, xe hơi - đại khái như vậy. Y bắt đầu bị vây bủa.
Thế nên những người "híp-
py" rất đúng khi nói rằng đừng nên tin vào những người trên ba mươi tuổi,
bởi vì sau ba mươi mọi người đều trở nên bảo thủ. Ðó là một khuynh hướng tự
nhiên. Sau tuổi hai mươi tám gả thanh niên trở thành chủ hộ. Thế nên bạn không
thấy một anh "híp- py" già nào cả. Ở cái tuổi này họ tan biến vào cái
thế giới chung chung mà trước đây họ đã từng nổi loạn chống đối. Ở lứa tuổi hai
mươi tám con người đi vào nề nếp, quy tắc, thích nghi với cuộc sống. Những nhiệt
tình cách mạng đã nguội lạnh. Họ trở nên an phận, như con chim xây tổ ấm trên
cành cây, họ bắt đầu nghĩ đến hôn nhân, con cái. Và cũng là điều rất tự nhiên,
khi có gia đình và con cái, bạn không bao giờ còn là một nhà cách mạng được nữa.
Ðến lớp tuổi ba mươi lăm, con
người hầu như đã lập thành - cái lứa tuổi được gọi là tam thập nhi lập. Nếu y
thành công trong đời, sự thành công được thiết định; nếu y thất bại, sự thất bại
mang dấu ấn rõ nét. Bây giờ y biết rằng không còn có thể làm gì khác hơn được.
Cái gì phải xảy ra đã xảy ra. Y trở nên tin vào số mệnh, bắt đầu tin vào những
gì đã được an bài; y cho rằng bây giờ không còn có thể cãi đổi gì được nữa, những
gì trong dòng chỉ tay định mệnh của y nay đã hiện bày. Y không còn nghị lực để
chiến đấu nữa. Y buông thả.
Ðến lớp tuổi bốn mươi hai y bắt
đầu trở nên phần nào thao thức... Y nhìn lại đời mình, ta đang làm cái gì đây?
Ta đang chạy đuổi theo tiền tài, quyền lực, danh vọng? Và cái chết đang đi đến.
Cái chết gỏ vào cánh cửa đời lần đầu tiên khi ta bước vào lứa tuổi bốn mươi hai
- đó là lứa tuổi mà bạn bắt đầu bị nhồi máu cơ tim, cao áp huyết, ung thư, đại
loại như thế. Ðây là tiếng gỏ đầu tiên. Hãy lưu ý đến cái tuổi bốn mươi hai, một
cái tuổi nguy hiểm nhất.
Thế rồi bạn bắt đầu cảm thấy một
thoáng dao động, một thoáng run rẩy ở bên trong, bạn không còn vững chãi như một
thuở nào. Bạn mất tự tin. Bạn đã từng sống, từng biết đến tiền bạc, vợ con, từng
nếm qua hương vị tình dục lẫn tình yêu, đã chứng kiến bao nhiêu chuyện đời, đã
du lịch vòng quanh thế giới - nhưng không có gì làm bạn cảm thấy thỏa mãn cả,
giống như bạn bị mất mát một cái gì đó. Ðây chính là khoảnh khắc mà tín ngưỡng
tôn giáo đi vào đời bạn. Hãy nhớ cho, cái chết và tôn giáo đến cùng với nhau.
Tiếng gỏ của cái chết đồng thời cũng là tiếng gỏ của tôn giáo.
Bây giờ thì tất cả đều tùy thuộc
vào bạn. Nếu bạn là người chống đối tôn giáo mạnh mẽ bạn sẽ bỏ lỡ mất cơ hội để
trở thành một hành giả (sannyasin) khi thần chết gỏ cửa. Nếu bạn là người chống
đối tôn giáo mạnh mẽ, với một thái độ cứng ngắc đầy thiên kiến, sẽ không có gì
còn lại cho bạn ngoài bệnh đau tim, cao áp huyết, lao phổi, ung thư. Chắc chắn
là bạn không thể có Thượng Ðế. Cái đó hoàn toàn tùy thuộc ở bạn.
Nếu bạn là con người cởi mở,
thoáng, không mang sẵn một định kiến nào, đây là khoảnh khắc để bạn bắt đầu tìm
đến Thượng Ðế. Khi thấp thoáng bóng dáng của cái chết, bạn bắt đầu tìm kiếm một
cái gì vĩnh cữu. Thần chết đang trên đường đến viếng thăm và bạn không còn thời
gian nữa. Ðây là lúc mà bạn phải quán chiếu đời sống mình, phải thanh thỏa với
nó. Cái đời sống mà bây giờ bỗng dưng bạn cảm thấy trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa.
Ðiều này xảy đến trong những
giai đoạn khác nhau của đời người. Có khi ở tuổi ba mươi lăm, có khi ở tuổi năm
mươi, nhưng tôi lấy trung bình là tuổi bốn mươi hai. Nhưng cái đó cũng còn tùy,
nếu bạn rất thông minh, điều này có thể xảy ra sớm hơn, nếu bạn quá ngu đần thì
có thể đến tuổi bốn mươi hai cũng chẳng thấy gì cả. Ðây là vấn đề thông minh.
Những kẻ đần độn thì cho đến cuối đời cũng vẫn là vô tín ngưỡng.
Những người thông minh bắt đầu
hướng về tôn giáo rất sớm. Vâng, đây là vấn đề thông minh, không phải là vấn đề
tuổi tác. Tuy nhiên tuổi tác cũng đóng một vai trò trong đó bởi vì đã bắt đầu
có sự thay đổi về kích thích tố trong cơ thể con người. Ðến cái tuổi bốn mươi
hai, tình dục không còn là một ám ảnh lớn. Bạn đã hoàn tất với nó.
Vâng, bạn đã hoàn tất với nó,
trừ phi bạn là một vị thánh hay nghĩ rằng mình là một loại người vĩ đại, cao thượng
nào đó - cái này mới phiền. Bởi vì rồi thì bạn sẽ vẫn tiếp tục bị tình dục ám ảnh
cho đến cuối đời. Nếu bạn có một đời sống tình dục thoải mái, tình dục sẽ sớm
biến thành vô nghĩa. Nếu bạn càng có nhiều kinh nghiệm về tình dục, nó sẽ càng
nhanh chóng mất hết ý nghĩa. Nó trở thành bình thường nhạt nhẽo. Hãy nhớ điều
này: Bạn nên tránh xa những nhân vật cao thượng, vĩ đại, những nhà tu khổ hạnh,
bởi vì họ không bao giờ cho phép bạn đụng đến dục tình.
Ðiều này có thể bạn cho là lạ
lùng, nhưng hãy nghe tôi nói. Những người như các bạn đây chính là những người
đang giữ cho tình dục còn hiện hữu trên trái đất này. Nếu những người như tôi
tuân thủ theo lời dạy của họ, tình dục sẽ biến mất trên trái đất. Nó sẽ còn lại
cái gì? - một thực thể sinh vật, không còn những lãng mạn tình yêu, không còn
những điều vô nghĩa được bạn lập đi lập lại trong đời sống hàng ngày. Cái vô
nghĩa đó vượt ra ngoài sự ức chế. Nếu tình dục bị ức chế thì rồi cho đến tuổi bốn
mươi hai bạn vẫn không cảm thấy được sự vô nghĩa của nó. Mà trong thực tế, bạn
càng ức chế nó chừng nào, bạn càng bị nó tấn công chừng nấy; nó sẽ trở lại tìm
bạn để phục thù không ngưng nghỉ. Nó sẽ ám ảnh bạn trong giấc mơ, nó sẽ ám ảnh
trong trí tưởng bạn.
Ðó là lý do tại sao luôn luôn
có một câu chuyện rất giống nhau trong các bộ kinh cổ: một vị giác ngộ đang ngồi
dưới gốc cây và rồi những nàng apsaras đến từ thiên giới - những người đẹp da
vàng óng ả xinh xắn tuyệt vời- trần truồng
nhảy múa bao quanh. Tại sao như vậy? Thật là tội nghiệp cho lão ta. Y có làm điều
gì sai quấy đâu. Y chỉ ngồi dưới gốc cây đọc kinh, lần tràng hạt thôi mà, y đã
từ bỏ thế gian này - tại sao thiên giới lại chiếu cố đến y như vậy? Tại sao lại
quấy phá y?
Thế nhưng điều này đã xảy ra
trong mọi thời đại. Với Ấn Ðộ giáo, với Cơ Ðốc giáo, với đạo Jains, với Phật
giáo - có vẻ như đây là một hiện tượng khá phổ quát. Nhưng tại sao nó xảy ra?
Người ta tiếp tục giải thích rằng đó là Ma vương tìm cách đến lung lạc họ.
Không có ai lung lạc họ cả, đấy chính là tình dục bị dồn nén quay trở lại phục thù.
Khi bạn ức chế tình dục, nó sẽ làm cho bạn phát khùng lên. Những vị được gọi là
giác ngộ đang ngồi dưới những gốc cây trong các hang động của họ tại Hy Mã Lạp
Sơn thật ra đang bị nhiễu loạn thần kinh. Họ cần đuợc tâm lý trị liệu. Họ không
cần cái gì khác, họ chỉ cần một nhà tâm lý trị liệu giỏi. Có thể họ cần một
chút Freud, một chút Jung, một chút Adler. Họ cần đi sâu vào giấc mơ của mình,
tìm cách phân tích chúng.
Nếu bạn không ức chế tình dục,
tình dục sẽ tự mất dần ý nghĩa với thời gian. Cũng giống như nó bắt đầu trở nên
vô cùng ý nghĩa trong lứa tuổi mười bốn, nó sẽ mất dần đi ý nghĩa trong lứa tuổi
bốn mươi hai.
Hãy ghi nhớ hai điều: Khi cái
chết đến gỏ cửa, khi cái chết bắt đầu đến viếng bạn, tình dục sẽ xách nón ra
đi. Chúng có mối liên hệ cùng nhau. Tình dục là sinh sản. Cái chết và tình dục
vì thế là hai kẻ thù, chúng không thể nào sống chung cùng một mái nhà. Tuy
nhiên có một điều rất cần thiết phải được hiểu - tình dục chỉ ra đi khi nào bạn
sống trọn vẹn với nó, hiểu biết nó, thực chứng nó, không ức chế nó dưới bất cứ
hình thức nào, sống trọn vẹn có ý nghĩa. Và như thế nó sẽ chết đi một cách tự
nhiên. Còn nếu bạn ức chế nó, nó sẽ tiếp tục bám víu lấy bạn. Bất cứ khát vọng
nào chưa thành tựu vẫn tiếp tục bám víu, bất cứ việc gì chưa hoàn tất vẫn luôn
quanh quẩn chung quanh không rời bỏ bạn.
Ðến tuổi bốn mươi chín lại một
đổi thay lớn xảy ra. Con người không phải chỉ chú tâm đến một cái gì đó cao cả
hơn tình dục, y bắt đầu dính líu, tham dự vào. Ở tuổi bốn mươi chín, y bắt đầu
suy tư, nghiền ngẫm, quán chiếu; và trở nên gắn bó hơn. Y có thể trở thành một
hành giả sannyasin, một tỳ kheo, một tu sĩ, hoặc ngay cả nếu y không chọn lựa một
hình thái biểu lộ bên ngoài, cái thế giới nội tâm của y đã bắt đầu thay đổi. Y
sẽ trở thành một thiền giả, hay bắt đầu việc cầu nguyện tu tập. Ðây sẽ là một
tham dự tích cực, không còn là chuyện cảm nhận nữa, mà là dâng hiến trọn vẹn cuộc
đời mình cho niềm tin tôn giáo. Sự dâng hiến phát khởi ở lớp tuổi bốn mươi
chín, sự tham dự gắn bó phát khởi ở lớp tuổi bốn mươi chín.
Và nếu như mọi chuyện tiến triển
một cách đúng đắn, nếu như bạn không bị lung lạc bởi đám người đần độn bao
quanh, vào cái tuổi năm mươi sáu, nỗ lực thiền định của bạn bắt đầu nở hoa - sự
chứng ngộ đầu tiên, sự tiếp xúc đầu tiên với Thượng Ðế sẽ xảy ra.
Và nếu mọi chuyện cũng diễn tiến
một cách đúng đắn, vào tuổi sáu mươi ba bạn sẽ nhập được đại định tam muội, bạn
có thể trở thành giác ngộ. Rồi trong vòng bảy năm tiếp theo - nếu như bạn sống
đến tuổi bảy mươi- cuộc sống của bạn sẽ
trở nên thánh hóa, đem niềm vui thiêng liêng tinh thần đến cho mọi người. Bạn
có thể trở thành một bậc Thầy.
Ðây là tiến trình đúng đắn. Cho
đến tuổi bốn mươi hai mọi việc có vẽ như "okay", bởi vì tới tuổi này
mọi việc vẫn còn trong vòng thế tục. Nhưng khi qua khỏi tuổi bốn mươi hai, đã
có một cái gì đó trục trặc, bởi vì khi vượt qua tuổi bốn mươi hai bạn đã bắt đầu
những bước đi vượt ra ngoài thế tục. Thế nên tất cả những gì mà bạn đã liên hệ,
tham dự, đầu tư vào đến cái tuổi bốn mươi hai bỗng trở thành một cái chướng ngại.
Cụ thể như, bạn đã yêu một người
đàn bà, lập gia đình với họ, bây giờ bỗng dưng bạn bắt đầu trở thành một thiền
giả. Người đàn bà dĩ nhiên sẽ chống lại chuyện này vì họ lo sợ - điều này cũng
đúng thôi. Người đàn bà lo sợ rằng nếu bạn tu thiền bạn sẽ không còn quan tâm đến
họ nữa. Cũng đúng thôi. Bây giờ họ sẽ tìm cách quấy rầy bạn, chống lại bạn,
không để cho bạn trở thành một hành giả (sannyasin). Bà ta sẻ bảo: "Không,
không được đâu. Hãy nghĩ đến mẹ con tôi. Việc gì đã xảy đến cho ông? Bộ ông
khùng rồi hả? Thế tại sao ông lại lấy tôi? Rồi sinh con đẻ cái ra rồi bây giờ
ông trở thành một hành giả?"
Ðấy là lý do mà tôi nói rằng bạn
không cần phải lìa bỏ gia đình vợ con để trở thành một hành giả (sannyasin), bởi
vì hành trình tầm đạo là một hành trình nội tâm.
Bà vợ sẽ tạo ra mọi chuyện rắc
rối và ông chồng cũng thế vì một sự yêu thích mới đã xảy ra cho đời bạn mà trước
đó chưa hề có. Niềm yêu thích mới này, rất tự nhiên, sẽ thay đổi hoàn toàn con
người bạn; bạn sẽ không còn là con người cũ nữa. Nếu vợ bạn đến với tôi và trở
nên thích thú trong việc học đạo, bạn sẽ rất là bực mình; nếu bạn đến với tôi,
vợ bạn cũng sẽ bực mình như thế, bởi vì một niềm yêu thích mới đã phát khởi.
Làm sao ai mà biết được chuyện này sẽ dẫn bạn tới đâu? Lo lắng, ghen tức, bảo vệ,
chống đối... bản ngã của bạn bị thương tổn. Bạn đã từng hái ra tiền, bạn đã tạo
dựng ra cả một vương quốc, một đế quốc - bỗng dưng bây giờ ở lứa tuổi bốn mươi
hai bạn lại bỏ tất cả đi tu thiền. Thế là cả cái đế quốc của bạn sẽ nổi lên chống
lại bạn thôi. Ai chịu đựng nỗi một sự đổi thay quá đột ngột như thế.
Thế nhưng tất cả những đổi thay
đều đột ngột. Trước tuổi bốn mươi hai những thay đổi đều ở trong phạm vi trần tục
nên không hề là vấn nạn. Qua tuổi bốn mươi hai, những đổi thay vượt cao hơn trần
tục, bắt đầu hướng đến Thượng Ðế, gần hơn với Thượng Ðế. Bạn đang trên đường trở
lại nhà. Một cuộc hồi hương. Thế giới trần tục này đã kết thúc.
Bạn hỏi: Một triết gia nói rằng:
"Kiến thức là một đức hạnh cho nữa phần đời thứ hai nhưng là những gì chán
ngấy cho nữa phần đời thứ nhất." Kiến thức luôn luôn là những gì chán ngấy,
trí tuệ thì không, trí tuệ là đức hạnh. Và trí tuệ là đức hạnh suốt cả đời bạn,
không bao giờ chán ngấy. Tôi chưa hề thấy một người nào chán ngấy trí tuệ.
Nếu bạn được dịp gần gũi với một
người trí, bạn không bao giờ chán. Quả tình bạn sẽ ngạc nhiên xiết bao khi thấy
chẳng chán ngấy chút nào. Một người trí luôn luôn tươi tắn và họ truyền cái
tươi tắn đó đến bạn. Y rất trẻ trung - y
có thể đã già nhưng tâm hồn rất trẻ. Y tiếp tục mở ra những con đường mới nở
hoa. Y không hề mang theo những bụi bặm của quá khứ, luôn luôn là suối nguồn
tươi mát, như một tấm gương trong. Bạn có thể luôn luôn nhìn vào y để thấy
khuôn mặt mình lớn khôn; bạn có thể luôn luôn tìm đến y như một chất liệu nuôi
dưỡng. Trí tuệ không bao giờ làm cho người ta chán, trí tuệ là chất liệu nuôi
dưỡng.
Thế nhưng kiến thức rất là buồn
tẻ. Nó tạo ra sự chán ngấy ngay lập tức - bởi vì nó sai lầm, đần độn, vay mượn,
nó là xác chết.
Bạn có trông thấy một đứa nhỏ
đang đùa giỡn chung quanh bạn chưa? Chắc chắn là bạn sẽ không cảm thấy bưồn tẻ
vì nó. Nó vui đùa, sống động - nhảy nhót, ca hát, chạy giỡn khắp nơi- làm bạn cũng cảm thấy trẻ trung lây với nó.
Thế còn bạn ngồi cạnh một ông già? Có thể ông ta chỉ ngồi yên đó, không làm gì
cả hoặc đọc một tờ báo chẳng hạn, nhưng bạn vẫn cảm thấy tẻ nhạt làm sao. Có thể
ông ta không nói ra một lời nào, nhưng sự hiện diện đó cũng đủ là nặng nề rồi.
Kiến thức là nặng nề; trí tuệ
luôn nhẹ nhàng.
Câu hỏi thứ tư: Tất cả những điều mà ngài
nói sáng nay đều có cả ở trong Phúc Âm. Thế sao ngài lại từ khước Chúa Giê Su
và Phúc Âm trước mặt chúng tôi, thay vì nói rằng nó rất là toàn vẹn, nhưng những
thông điệp của nó đã bị con người giết chết? Và như vậy, những ai là người Cơ Ðốc
nên quay tìm trở về với nguồn cội của mình, tức Phúc Âm, hoặc nếu ai không phải
là Cơ Ðốc, hãy cố gắng đi những bước đầu tiên bằng lối tiếp cận của ngài?
Một người Cơ Ðốc đến với chúng
ta!
Nếu bạn hiểu Phúc Âm thì có lẽ
câu hỏi đã không được đặt ra - bởi vì bất cứ những gì tôi nói đều chứa đựng sẵn
trong Phúc Âm, kể cả chối bỏ Phúc Âm. Tất cả những kinh điển thật sự đều chối bỏ
các kinh điển. Tất cả những cuốn sách sống đều chống đối lại những cuốn sách chết.
Nếu bạn hiểu Phúc Âm câu hỏi
này sẽ không được đặt ra. Bạn không hiểu Phúc Âm của bạn và bạn không thể nào
hiểu được nó - bởi vì cách thức duy nhất để hiểu Phúc Âm là hướng vào nội tâm.
Phúc Âm không thể được hiểu một cách trực tiếp; bạn không thể nào cầm lấy Bible
đọc và hiểu được nó - điều đó may ra chỉ giúp bạn được một ít kiến thức nhưng
không phải là tuệ giác. Cái kiến thức đó là những gì mà bạn thu thập và đó là
lý do tại sao bạn trở thành phiền hà với nó. Tất cả những điều gì mà tôi đã
nói, ngay cả nếu thỉnh thoảng tôi nói những điều chống lại Christ, ngài đều chấp
nhận chuyện đó. Không tin bạn có thể đi thẳng đến Christ để hỏi ngài.
Làm sao mà tôi có thể chối bỏ
được Christ? Làm sao ngài lại có thể chối bỏ tôi? Không hề có chuyện như thế. Ðấy
là câu hỏi của một tâm thức khác biệt. Christ không có liên hệ gì đến Cơ Ðốc -
cũng như Ðức Phật không có liên hệ gì với Phật giáo, Krishna không có liên hệ
gì với Ấn Ðộ giáo. Những vị này sống trong một tâm thức hoàn toàn khác biệt và
nếu bạn muốn hiểu họ, những lời họ nói ra chẳng giúp ích gì cho bạn cả. Bạn sẽ
phải đi vào thế giới của tâm thức, lúc đó may ra bạn mới hiểu được.
Bạn nghĩ rằng chúng ta nên tìm
về cội nguồn, Phúc Âm. Phúc Âm không hề là cội nguồn; cội nguồn là ngay chính ở
trong bạn. Nếu bạn tìm về cội nguồn ở ngay chính trong bạn, bạn sẽ hiểu được
Phúc Âm, không có một con đường nào khác, không có chuyện ngược lại. Không hề
có chuyện bạn hiểu được Phúc Âm và từ đó bạn đi trở vào lòng mình, không bao giờ.
Chỉ có một con đường duy nhất là phải đi vào chỗ thẳm sâu nhất của tâm thức bạn.
Chúa Giê Su đã nói với chúng ta
những gì? Ngài phán, "Nước Trời đang ở trong bạn." Ngài không nói là
nó đang ở trong Phúc Âm. Ngài phán, "Hãy nhìn vào bên trong, Thượng Ðế
đang ở cùng với ngươi." Ngài không nói là, "Hãy nhìn lên trên thiên
đàng," mà hãy nhớ kỹ là ngài nói "Hãy nhìn vào bên trong."
Hoàn toàn giống với những gì
Thiền đã nói. Chúa Giê Su là một vị Thiền Sư. Khi vị Thiền sư nói rằng hãy đem
đốt hết các kinh điển, đừng lấy đó làm điều bị xúc phạm, vì đó là lối nói của
Thiền. Ðây là một trong những cách nói chứa đựng nội dung sâu sắc nhất - «Hãy đốt
hết các kinh điển.» Tại sao ? Ðể cho chiếc cầu nối liền với ngoại giới bị chặt
gãy và bạn sẽ không còn gì ở bên ngoài để tìm kiếm, bám víu. Thế là bạn phải hướng
nội. Và cái ngày mà bạn đạt đến tận cùng tâm thức của bạn - bản lai diện mục- ,
bạn sẽ thấy Chúa Giê Su nói đúng như thế nào. Lúc đó bạn trở thành Phúc Âm.
Bạn hỏi : Tất cả những gì ngài
nói trong buổi sáng hôm nay đều có sẵn cả ở trong Phúc Âm. Vâng, ngay cả điều
này cũng vậy - sự chối bỏ cũng được bao gồm trong Phúc Âm. Sự hoàn toàn chối bỏ
Phúc Âm cũng có sẵn ở trong đó. Tất cả nội dung Chúa Giê Su giảng dạy đều nói rằng
Thượng Ðế là một thực chứng. Chúa Giê Su không phải là nhà thần học, Ngài là một
huyền nhiệm. Tuy nhiên một điều thường xảy ra là, khi tất cả những nhà huyền
nhiệm vĩ đại vắng bóng rồi, các nhà thần học lại nhảy bổ vào vẽ rắn thêm chân.
Tôi có nghe câu chuyện về nhà
danh họa Michelangelo (4). Trong một thánh đường ông vừa hoàn thành xong một bức
họa về Chúa Giê Su. Khi Giáo Hoàng và một số Giám Mục đến tham quan, họ bắt đầu
chỉ trích về bức họa, tìm kiếm những sai lầm trong đó. Michelangelo lặng yên đứng
nghe và cuối cùng Ðức Giáo Hoàng phán: «Tốt. Mọi chuyện đều rất tốt, chỉ có một
điều là họa sĩ đã vẽ mặt Chúa quá đỏ. » Michelangelo vội trả lời: "Thưa
Ngài, không phải là tôi đã vẽ mặt Chúa quá đỏ đâu. Chúa đỏ mặt vì ngài hổ thẹn
bởi qúy vị. Ngài hổ thẹn khi thấy những lời dạy của Ngài đã rơi vào tay của qúy
vị.»
Ðó là điều thường xảy ra. Ðó là
điều cũng sẽ xảy ra đối với tôi. Hãy cẩn thận.
Tại sao Ngài lại bác bỏ Giê Su
và Phúc Âm trước mặt chúng tôi... ? Tôi bác bỏ Phúc Âm, tôi bác bỏ Cơ Ðốc, và
thỉnh thoảng bác bỏ cả Chúa Giê Su - để tôi có thể mang qúy vị đến với Giê Su.
Ðến với Giê Su ta phải kinh qua sự chối bỏ hoàn toàn, nếu không bạn cũng lại chỉ
tiếp tục bám víu vào một cái gì đó. Không còn gì nên để lại ở ngoài bạn - kinh
điển, nhà thờ, hội thánh. Mọi thứ cần phải được hủy diệt để có thể mang con người
bạn trở lại với chính mình - đó là phương pháp của Thiền.
Nhưng mà tôi thông cảm chuyện
này. Khi bạn đang sống trong một loại định kiến nào đó, nếu bạn là người Ấn Ðộ
giáo, Hồi Giáo hay Cơ Ðốc, rất khó khăn để loại trừ nó. Ðó không phải là y phục
để lúc nào bạn cũng có thể thay đổi một cách dễ dàng, nó giống như da thịt của
bạn. Ðấy là điều rất mực khó khăn, rất mực đau đớn. Nhưng không đau đớn, không
thể trưởng thành được.
Ðọc kinh điển bạn trở thành một
loại đồ cũ bởi vì Thượng Ðế của bạn cũng chỉ là một thứ đồ cũ.
Một bà bốn mươi chưa chồng được
một cậu em ở ngoại quốc gởi biếu một cặp vẹt nuôi trong một chiếc lồng đôi. Bà
ta rất tò mò muốn biết trong hai con, con nào là trống, con nào là mái, vì nó
giống hệt như nhau. Bà tham khảo ý kiến một nhà thú y sĩ.
«Hãy xem kỹ chúng,» Nhà thú y
trả lời, «Trong hai con, con nào nằm trên con kia là con trống.»
«Tôi quan sát chúng kỹ lắm,
nhưng không hề thấy chúng làm gì cả.» Bà ta trả lời.
«Thì hãy đợi đến lúc gần sáng,
rón rén bò đến gần và nhìn lén chúng thì biết ngay mà, biết con nào là trống rồi
bà nên làm dấu cho khỏi nhầm. »
Bà ta làm đúng theo lời chỉ dẫn
và bắt quả tang cặp chim đang làm công việc truyền giống. Cảm thấy kinh hoàng,
bà ta tóm cổ con trống và quấn quanh cổ nó một cái giải màu trắng.
Sáng Chủ nhật hôm sau vị Cha sở
đến nhà thăm dùng trà. Khi ông cỡi chiếc áo khoác bên ngoài, con vẹt trống tưởng
là gặp người đồng hội đồng thuyền, la lên : « Hêlo. Thế là Cha bị bắt quả tang
đang làm chuyện ấy với phụ nữ rồi, phải không?» (5)
Tất cả những kiến thức vay mượn
đều giống như thế.
Ðừng mang theo bạn một Thượng Ðế
cũ mèm. Thượng Ðế sẽ không bao giờ hạnh phúc với bạn. Ðừng trở nên một bản sao
của tờ giấy 'các- bon'. Thượng Ðế yêu những gì nguyên thủy bởi vì Thượng Ðế là
một nguyên thủy vô cùng. Thượng Ðế không hề muốn có một Giê Su thứ hai, bởi vì
nếu không ngài đã sáng tạo ra một người khác. Thượng Ðế không hề muốn có nhiều
hơn một vị Phật vì nếu không ngài đã làm điều này. Ngài chỉ sáng tạo ra một vị
Phật một lần duy nhất, không bao giờ lặp lại.
Thế nên nếu bạn muốn đến với
Thượng Ðế, hãy là mình trước tiên. Không nên là một người Cơ Ðốc, người Ấn Ðộ
giáo, người Hồi giáo. Nên là chính mình, một hiện thể chân thực, trong cái hiện
thể mà bạn sẽ biết Chúa Giê Su là cái gì, Ðức Phật là cái gì, Thượng Ðế là cái
gì.
Câu hỏi cuối cùng: Càng ngày tôi càng cảm
thấy chán ngán tình dục, điều này làm cho tôi băn khoăn. Có vẻ như tôi không
còn tha thiết gì nữa, ngay cả với đời sống. Như vậy đâu có gì còn lại ngoài cái
chết? Tôi nên làm gì bây giờ?
Bạn hỏi nhầm người rồi. Lẽ ra bạn
nên tìm gặp những người được gọi là đại thánh giả. Bạn có thể đọc sách của Ðại
thánh giả Gandhi hay của Swami Sivananda (6) - may ra chúng giúp ích phần nào
cho bạn. Tác dụng của chúng giống như là những loại thuốc kích dục.
Ðây là một vài đề nghị : Ðừng
xem Playboy, đừng đi coi phim, đừng nhìn đàn bà nữa. Khi bước đi hãy theo đúng
quy luật Phật dạy: chỉ nhìn mặt đất phía trước chừng bốn feet. Nếu gặp đàn bà,
hãy tìm cách chạy trốn. Thế là bạn sớm hết chán ngán tình dục ngay ! Các nàng
thiên nữ khỏa thân apsaras lại bắt đầu chạy đi kiếm bạn thôi !
Câu hỏi này chắc chắn là do một
người Tây phương nêu ra, nó không thể là của một người Ấn. Người Ấn không bao
giờ thấy chán chuyện này, khó lắm. Họ có rất nhiều vị đại thánh giả. Khi người Ấn
đến với tôi, câu hỏi thông thường của họ là làm sao loại trừ được tình dục. Khi
người Ấn Ðộ giáo đến với tôi, điều lo lắng của họ là làm sao loại bỏ được tình
dục.
Câu hỏi này chắc chắn là của một
người Mỹ. Vâng, tại Mỹ tình dục sẽ không có chỗ đứng trong tương lai, nó coi
như chấm dứt. Nếu không bây giờ thì trong vòng hai mươi năm nữa nó sẽ hoàn toàn
chấm dứt. Một khi tình dục được chấp nhận một cách công khai, nó sẽ trở thành
buồn tẻ. Một sự lập đi lập lại nhàm chán; một bổn cũ soạn lại như cơm nếp nát.
Một khi tình dục sẵn sàng trong tầm tay, bạn đâu còn những tưởng tượng phong
phú về nó nữa. Đến khi nó thừa thải quá, ngày qua ngày bạn sẽ lấy làm ngạc
nhiên tự hỏi, mình đang làm cái gì đây, cái trò nhảm nhí vô nghĩa này là cái gì
vậy? Không chừng bạn lại bắt đầu quẩn trí trước câu hỏi, Bạn đang làm cái gì vậy?
Kỳ thực nếu bạn thật sự muốn giữ cho tình dục mãi mãi xanh tươi, trẻ trung,
không có con đường nào khác ngoài sự ức chế.
Trong tất cả mọi thời đã qua,
Đông cũng như Tây, tình dục không bao giờ là điều nhàm chán, bởi vì các tôn
giáo đã "lo lắng" cho nó rất chu đáo. Thông qua những thuyết giảng
ngăn cấm, chống lại tình dục họ đã làm cho tình dục trở nên sống động.
Con người trong thời đại hậu-
Freud một ngày nào đó sẽ cảm thấy tình dục là một chuyện buồn tẻ. Đúng như thế.
Đó là một chuyện rất máy móc thôi. Tất cả những gì mà bạn nhìn thấy ở trong đó
đều thông qua lăng kính của sự ức chế. Nó không phải sự thực như thế.
Chẳng khác gì một người đang nhịn
đói - đồ ăn sẽ trở thành mối ám ảnh lớn trong trí tưởng khi bạn nhịn đói. Nếu bạn
đang nhịn đói và đi vào chợ, bạn sẽ không nhìn thấy bất cứ cái gì khác ngoài cửa
hàng thực phẩm, quán ăn, khách sạn. Bạn sẽ không trông thấy những cái gì khác
hơn. Dĩ nhiên là có cả hàng ngàn vạn thứ đang bầy bán, nhưng nhìn đi đâu bạn
cũng sẽ chỉ thấy đồ ăn, nó nổi lên bồng bềnh trước mắt bạn.
Heinrich Heine đã kể lại rằng
có lần ông bị lạc ở trong rừng. Suốt ba ngày vẫn không tìm được lối ra, ông rất
đói. Đó là một dêm trăng tròn. Heine là một nhà thơ lớn và trăng là một đề tài
mà ông mê đắm nhất. Ông đã luôn luôn so sánh trăng với người tình yêu dấu tuyệt
vời của mình.
Thế nhưng cái đêm hôm ấy đã làm
cho ông ngạc nhiên - ông không nhìn thấy trăng đâu cả mà chỉ là một khúc bánh
mì màu trắng nằm lơ lửng trên bầu trời. Hình ảnh người đàn bà xinh đẹp biến đi
đâu mất. Ông dụi đôi mắt mình. Cái gì đang xảy ra thế này? Mình khùng lên rồi
chắc? Dĩ nhiên không hề có chuyện gì xảy ra cả. Cũng giống như khi bạn nhìn thấy
hình ảnh một người đàn bà đẹp trong mặt trăng, thế thôi, chỉ là sự phóng chiếu.
Khi bạn đang nhịn đói, đồ ăn cũng là sự phóng chiếu.
Trong quá khứ, những con người
được gọi là tín ngưỡng "săn sóc" tình dục quá kỹ thế nên trong những
thời đại trước đây người ta rất thích thú về chuyện này. Tất cả các kinh điển đều
chống lại nó, tất cả các nhà tu đều chống lại nó, tất cả các ông Giáo hoàng đều
chống lại nó. Họ đã làm cho tình dục trở nên sống động. Bây giờ thì điều đó rất
khó khăn.
Nhưng mà bạn đã nêu câu hỏi lầm
người rồi.
Hãy lắng nghe một vài câu chuyện
vui vậy.
Một cậu bé mười hai dẫn một cô
bé lên mười, con gái của người hàng xóm, đến gặp cha mình.
"Bố ạ", cậu bé nói,
"Tụi con muốn thành hôn với nhau."
"Ừa, mười năm nửa,
con."
"Không, con muốn ngay bây
giờ, bố!"
"Thế thì con làm gì để sống
nào?"
"Tụi con biết cách quản lý
số tiền tụi con có trong túi mà."
Ông bố đùa: "Thế ngộ nhỡ tụi
con có em bé thì sao?"
"Ồ, chưa có chuyện gì xảy
ra cả mà, bố."
Như thế đó, từ tuổi lên mười,
có khi còn sớm hơn, bạn đã bắt đầu rồi, như thế bạn giữ cho nó khỏi nhàm chán
được bao lâu? Rồi thì tất cả mọi thứ chuyện đều có đủ ở Mỹ - Dục kinh
Kamasutras của Vatsyayana (7) với hình ảnh đủ kiểu làm tình, những sách với hình
ảnh của Khajuraho, Konarak, và Puri và hàng ngàn lẻ một phương pháp tạo ra hình
ảnh những thân xác đẹp đẽ gợi cảm - ít nhất là đẹp đẽ qua trí tưởng- bằng kỹ thuật chụp hình, kỹ thuật ghép hình.
Rồi tranh lõa thể khiêu dâm góp phần quan trọng vào việc giết chết những ham muốn
dục tình. Hefner cũng là một kẻ thù của ham muốn tình dục, và rồi Playboy cùng
với bao nhiêu những tạp chí khai thác thân xác đàn bà khác đang giết chết, hủy
diệt lòng khao khát này. Chưa kể đến đủ mọi hình thức luyến ái: đối tính, đồng
tính, lưỡng tính và hàng ngàn lẽ một phương pháp làm tình khác.
Khi đọc cuốn Dục kinh
Kamasutras của Vatsyayana - một công trình lớn-
tôi cứ có cái cảm giác rằng Ấn Độ dưới thời Vatsyayana chắc chắn cũng
đang có cùng một tâm cảnh như Mỹ quốc bây giờ. Con người sống chắc là buồn tẻ lắm,
nếu không tại sao lại có người sáng tạo ra đủ kiểu làm tình? Tại sao? Một kiểu
cũng là đủ quá rồi thế mà Vatsyayana lại cứ tiếp tục phát minh ra những kiểu mới.
Thì đã hẵn như vậy - buồn tẻ quá mới bày ra những trò mới. Cái phát minh này
không cho thấy điều gì khác hơn là sự chán chường. Vatsyayana chắc là đang tìm
cách giúp đỡ con người thời đại mình - ông hẵn là một nhà minh triết, một trí
giả. Ông hẵn đã trông thấy cái bất hạnh của họ. Họ đang sống một cách chán chường,
thế nên phải làm một cái gì đó cho họ.
Bất cứ lúc nào một nền văn hoá
trở nên quá phóng túng về tình dục nó sẽ trở thành buồn chán. Ấn Độ một thời đã
rất tự do - một trong những quốc gia tự do nhất trên thế giới. Khi có tự do, bạn
không bị ức chế. Khi bạn không bị ức chế, sự buồn chán phát khởi. Thế là bao
nhiêu kiểu cách được bày ra - tìm cách thỏa mãn những khoái lạc cũ rích bằng những
trò chơi mới. Khi bạn cảm thấy buồn tẻ thì lại tìm cách khác để giải khuây.
Giao hoan tập thể trở nên thịnh hành - còn để lại những dấu ấn trong các đền
đài Khajuraho. Khi người ta chán cái mối liên hệ một chồng một vợ, người ta bắt
đầu luyến ái tập thể. Chuyện đổi vợ cho nhau trở thành một cái mốt thịnh hành.
Đây là tất cả những dấu hiệu
cho thấy tình dục đang chết, đang chết vì có quá nhiều tự do.
Một anh híp- py trẻ tuổi bị cảnh
sát bắt về tội rao bán hình lõa thể khiêu dâm.
"Ông bắt lầm người rồi! Những
bức hình này có gì là dơ dáy đâu!" Chàng híp- py phản đối.
Người cảnh sát lựa ra và xem kỹ
một số hình lõa thể đàn ông lẫn đàn bà, "Bây giờ thì anh không thể nói rằng
những bức hình này là không dơ dáy!"
"Trời đất!" chàng
híp- py nhún vai, "Bộ ông từ trước đến giờ chưa hề trông thấy năm người
đang làm tình sao?"
Những câu chuyện đại loại như
thế đã trở nên thông thường. Đây là những dấu hiệu của sự buồn chán.
Tuy nhiên tôi muốn lập lại một
lần nữa, bạn đã gỏ cửa nhầm người, bởi vì tôi rất vui khi thấy bạn đang nhàm
chán. Tất cả những nỗ lực của tôi ở đây là làm cho các bạn trở nên chán ngán
tình dục. Bởi vì chỉ khi nào bạn chán ngán tình dục, bạn mới quay trở về lại với
Thượng Đế, và không hề có chuyện ngược lại. Một người bị ẩn ức sinh lý sẽ vẫn
còn quan tâm đến tình dục mãi, đó là lý do tại sao tôi chống lại sự ức chế. Có
thể bạn sẽ ngạc nhiên nhưng đó là lô- gíc của tôi, sự tính toán của tôi. Một
người bị ức chế sinh lý sẽ vẫn còn quan tâm đến tình dục, vẫn bị ám ảnh bởi
tình dục, thế nên tôi nói rằng bạn cứ việc thanh thoả với tình dục đi và rồi
ngay sau đó bạn sẽ chán, chuyện đó sẽ chấm dứt. Và khi bạn đã thanh thoả xong với
nó, tình dục mất tất cả ý nghĩa của nó rồi, thì đó chính là ngày trọng đại, khoảnh
khắc lớn lao nhất trong đời bạn. Lúc đó bạn trở nên quan tâm đến Thượng Ðế, điều
mà chưa bao giờ xảy ra trước đây.
Chỉ có một kẻ chán chường -
nhàm chán tình dục- mới có thể trở thành
một người độc thân thực sự. Một vị phạm hạnh - brahmacharya- , một con người phạm
hạnh thật sự xuất hiện - vượt ra từ nỗi chán chường. Thế nên nếu bạn chưa đủ
chán, con người phạm hạnh của bạn vẫn còn bị ức chế, và tôi không tán thành bất
cứ sự ức chế nào, bởi vì sự ức chế làm cho con người vẫn còn say đắm mãi với
tình dục.
Người ta nghĩ là tôi đang rao
giảng về tình dục. Không phải vậy, tôi là một trong những người rao giảng Thượng
Đế. Nếu tôi có nói những chuyện liên quan đến tình dục, dĩ nhiên là phải có lý
do - mà cái lý do chính là tôi muốn rằng bạn phải hiểu biết về nó trước khi quá
trễ. Hiểu biết về nó, hiểu biết một cách hoàn toàn, trực diện với nó và kết
thúc với nó. Bạn phải đi vào tình dục trong suy niệm, trong cảnh báo, tỉnh thức
- đó là cách thức tiếp cận của mật tông, đó là phong thái của mật tông. Thể nhập
vào đó và chứng nghiệm. Một khi bạn hiểu biết cặn kẽ một cái gì đó, có nghĩa là
bạn được hoàn toàn tự do không còn vướng bận đến nó nữa. Từ kiến thức, đến hiểu
biết, rồi giải phóng.
Đối với tôi, tâm của bạn ở
trong một trạng thái khá tốt, không có gì để phải lo lắng. Rất tốt là đàng
khác, bạn là người may mắn. Tình dục đã kết thúc. Bây giờ đừng có chạy đến tìm
bất cứ vị đại thánh giả nào nữa nhé, làm như vậy không chừng nó sẽ bắt đầu trở
lại đấy. Đây chính là khoảnh khắc mà bạn có thể giúp cho năng lượng của mình hướng
đến Thượng Đế mà không bị bất cứ chướng ngại, trở lực nào. Bây giờ bạn hoàn
toàn không bị một cản trở nào.
Đây chính là lúc năng lượng của
tình dục được chuyển hoá thành tam muội. Một khi năng lượng tình dục được giải
phóng ra khỏi những đối tượng dục tình nó bắt đầu chuyển hướng vào thiền quán,
nó trở thành lời kinh cầu nguyện. Vâng, Chúa Giê Su đã rất đúng khi nói rằng
Thượng Đế là yêu thương. Chính năng lượng tình yêu của bạn đã nở hoa cùng Thượng
Đế. Một khi nó được giải phóng ra khỏi người nam và người nữ, một khi bạn không
còn cảm thấy yêu thích người khác phái, thì cái năng lượng của bạn sẽ đi về
đâu? Nó sẽ bắt đầu hướng nội. Chuyện nam nữ đã được bỏ ra ngoài. Một khi bạn
còn yêu thích người khác phái có nghĩa là bạn vẫn còn lưu ý đến kẻ khác. Nhưng
một khi tình dục không còn, một khi bạn chấm dứt với kẻ khác, cũng là lúc đối mắt
bạn bắt đầu nhắm lại. Bạn trở nên vắng lặng một cách an nhiên tự tại.
Dĩ nhiên là tôi hiểu mối băn
khoăn của bạn - mối băn khoăn của người Mỹ. Bạn luôn luôn nghĩ đời sống chỉ là
tình dục. Bây giờ hết tình dục đời sống đâu còn lại gì ngoài cái chết? Tôi muốn
thưa với bạn rằng ta vẫn còn lại Thượng Đế. Khi tình dục chấm dứt, Thượng Đế bắt
đầu. Không có gì để phải lo lắng, không có gì để phải băn khoăn, không có gì để
phải đau khổ, phiền não. Hãy thư giản trong trạng thái này. Và đừng để lỡ mất
cơ hội hiếm có này, bởi vì sẽ có cơ may là bạn lại rơi vào vòng tay của ai đó
và y lại tạo ra những khát vọng dục tình ở bạn. Hãy lợi dụng cơ hội này để thiền
quán; đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Cánh cửa đã hé mở, hãy nhìn vào bên
trong.
Vâng, đây cũng là cánh cửa mà
thần chết bước vào, và hành giả cũng đi vào bằng cánh cửa đó. Bằng cánh cửa này
thần chết đến với ta và Thượng Đế cũng thế. Thượng Đế đã cho bạn cơ hội. Đừng để
lỡ mất.