Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho
Bài nói về Thiền
Tập 1
Chương 3. Biểu lộ vô lời
Một Thiền sư nào đó
nhận xét vắn tắt về một thiền sinh đã nói dài dòng về lí thuyết Thiền, 'Ông có
quá nhiều thiền.'
'Nhưng chẳng phải là
tự nhiên với một thiền sinh là nói về thiền sao?' cậu học trò phân vân hỏi.
'Sao thầy ghét nói về Thiền?'
'Vì,' thầy đáp thẳng
thừng, nó làm ta chán ghét!'
'Biểu lộ vô lời,' người
sáng lập của Thiền, Bồ đề đạt ma, nói - vì với lời bắt đầu thế giới. Đó đích
xác là điều Kinh Thánh nói - 'Lúc bắt đầu đã là lời.' Và đến cuối cùng cũng là
lời.
Khoảnh khắc bạn đi
vào trong thế giới của lời bạn bắt đầu rời xa khỏi cái đang hiện hữu. Bạn càng
đi vào trong ngôn ngữ, bạn càng ở xa khỏi Thượng đế. Ngôn ngữ là việc làm sai lạc
lớn. Nó không phải là chiếc cầu, nó không phải là trao đổi - nó là rào chắn.
Bồ đề đạt ma nói, 'Biểu
lộ vô lời.' Nếu tâm trí bạn tạo ra vô lời, trong im lặng đó là Thượng đế hay
chân lí hay niết bàn. Khoảnh khắc lời bước vào, bạn không còn trong cái ngã
riêng của bạn. Bạn đã đi xa. Lời đem bạn vào cuộc hành trình xa khỏi bản thân bạn.
Thực ra, bạn không thể đi xa khỏi bản thân bạn - nhưng bạn có thể mơ về điều
đó. Thực ra, bạn bao giờ cũng ở đó, bạn chỉ có thể ở đó và không chỗ nào khác -
nhưng dầu vậy bạn có thể rơi vào giấc ngủ và bạn có thể mơ cả nghìn lẻ một giấc
mơ.
Để tôi kể cho bạn lần
nữa một trong những câu chuyện hay nhất đã từng được nghĩ ra - câu chuyện về sa
ngã của Adam. Nó kể rằng Thượng đế đã cấm Adam ăn từ Cây Tri thức. Thiền sẽ đồng
ý hoàn toàn vì chính tri thức làm cho bạn thành ngu, chính tri thức không cho
phép bạn biết. Adam đã có năng lực biết trước khi anh ta ăn quả từ Cây Tri thức.
Khoảnh khắc anh ta ăn tri thức, khoảnh khắc anh ta trở nên am tường, anh ta
không biết thêm nữa. Hồn nhiên bị mất. Anh ta trở nên tinh ranh và láu lỉnh.
Thông minh đó đã bị mất. Vâng, anh ta đã bắt đầu tăng trưởng trong trí năng
nhưng thông minh không còn đó nữa. Trí năng chẳng liên quan gì tới thông minh,
nó chính là cái tương phản, cái đối lập. Bạn càng nhiều trí năng, bạn nhất định
càng ít thông minh.
Trí năng là cái thay
thế để che giấu không thông minh của bạn; nó là giả mạo. Bạn không có thông
minh cho nên bạn thay thế bằng trí năng, cái tất nhiên là rẻ. Bạn có thể mua nó
ở bất kì chỗ nào, nó là sẵn có. Thực ra, mọi người quá sẵn lòng truyền đạt tri
thức của họ cho bạn. Họ sẵn sàng ném mọi rác rưởi của họ lên bạn.
Adam trở thành am tường
do đó có sa ngã. Cho nên tri thức là sa ngã.
Câu chuyện này nói
anh ta đã ăn quả táo, quả từ Cây Tri thức. Nó không thể là táo được. Táo không
mọc trên Cây Tri thức. Đâu đó câu chuyện này đã bị làm lộn xộn. Táo là hồn
nhiên thế - chỉ bởi ăn táo bạn không thể bị tống ra khỏi cõi trời, bạn không thể
bị trục xuất. Thượng đế không thể giận bạn thế.
Không, nó không thể
là táo được; táo chỉ là biểu dụ. Nó phải là lời, ngôn ngữ. Trên Cây Tri thức quả
mọc ra là lời, khái niệm, triết lí, hệ thống - không phải táo. Quên táo đi. Nhớ
lấy lời.
Và thế rồi, rắn là thầy
giáo đầu tiên của nhân loại, hệ thống giáo dục đầu tiên. Con rắn đó - nó là kẻ
mị dân đầu tiên, viện sĩ hàn lâm đầu tiên. Nó đã dạy thủ đoạn về tri thức: nó
thuyết phục Eve ăn. Nó không thể thuyết phục trực tiếp Adam. Tại sao nó không
thể thuyết phục trực tiếp Adam? Tại sao nó phải thuyết phục Eve trước? Eve là
mong manh hơn. Đàn bà bao giờ cũng mong manh hơn, mở hơn, hiền dịu. Họ có thể
được đưa tới bất kì chỗ nào bởi bất kì người nào; họ là dễ gợi ý hơn; họ có thể
bị thôi miên dễ dàng hơn đàn ông. Rắn đã thuyết phục người đàn bà này. Nó đã
không chỉ là viện sĩ hàn lâm đầu tiên, nó đã là người bán hàng đầu tiên nữa. Và
nó làm tốt.
Nhưng nó không sai. Bất
kì cái gì nó đã nói, điều đó là đúng. Nó đã nói. 'Bạn sẽ trở nên am tường, bạn
sẽ biết cái gì là cái gì. Không ăn quả này bạn sẽ không bao giờ biết cái gì là
cái gì.'
Có một loại biết mà
là khác biệt toàn bộ: bạn biết và vậy mà bạn không thể biết cái gì là cái gì.
Nó là một loại biết rất lộn xộn. Nó không phân loại, nó không phân chia, nó
không phân tích. Adam phải đã sống trong sự hồn nhiên không phân tích đó. Khoa
học đã là không thể được; tôn giáo đã có đó - trút xuống khắp nơi. Adam phải đã
là nhà huyền bí trước khi anh ta ăn từ Cây Tri thức - như mọi đứa trẻ đều là
nhà huyền bí. Mọi đứa trẻ đều là nhà huyền bí được sinh ra thế rồi chúng ta lôi
nó tới trường học và giáo dục và con rắn. Rắn là việc văn minh hoá, nền văn
hoá, việc ước định.
Và rắn là con vật
tinh ranh tới mức biểu dụ này dường như là hoàn hảo. Một con vật uốn éo thế,
trơn trượt thế - hệt như logic. Bạn không thể quyết định được nó đang đi đâu.
Và nó đi mà không có chân; nó không có chân để di chuyển. Nhưng nó đi nhanh thế.
Nó đích xác như là điều phi chân lí. Nó không có chân đó là lí do tại sao điều
phi chân lí bao giờ cũng mượn chân từ chân lí; đó là lí do tại sao phát biểu
không thực cố gắng vất vả để chứng minh rằng nó là thực. Đấy là những cái chân
đi mượn.
Con rắn, thầy giáo đầu
tiên, viện sĩ hàn lâm đầu tiên, đã thuyết phục Eve, và một cách tự nhiên Eve có
thể dễ dàng thuyết phục Adam. Đàn bà bao giờ cũng mạnh hơn đàn ông - bất kì cái
gì đàn ông liên tục suy nghĩ đều là không liên quan, bất kể điều đàn ông giả vờ.
Đàn ông liên tục giả vờ rằng anh ta là mạnh hơn, điều đó đơn giản là vô nghĩa.
Và đàn bà cho phép đàn ông tưởng thật điều đó - điều đó là hoàn toàn được, cứ để
anh ấy tưởng vậy. Điều đó không thay đổi tình huống. Đàn bà vẫn còn mạnh.
Và có lí do... Nữ là
mạnh hơn nam; cái mềm mại là mạnh hơn đá. Bạn hỏi Lão Tử, người của hiểu biết
mà xem. Ông ấy biết. Ông ấy không phải là người của tri thức nhưng ông ấy biết.
Và ông ấy nói rằng nếu bạn muốn trở thành mạnh vô hạn, thì trở thành nữ tính
đi, trở thành thụ động đi. Thụ động bao giờ cũng là mạnh hơn, thai nghén nhiều
hơn chủ động - đó là lí do tại sao đàn ông không trở nên mang thai. Anh ta tựa
sa mạc. Đàn bà có năng lực trở nên mang thai, cô ấy có tiềm năng. Cô ấy mang sự
sống; cô ấy có thể chứa sự sống trong cô ấy. Cô ấy có thể chứa nhiều sự sống
trong cô ấy.
Adam rơi vào bẫy, trở
nên quan tâm. Anh ta phải đã nghĩ rằng nếu anh ta trở nên am tường hơn anh ta sẽ
trở nên chủ động hơn, anh ta sẽ biết nhiều hơn. Anh ta phải đã trở nên tham vọng.
Đó là điều rắn đã làm. Rắn đã nói, 'Nếu bạn ăn bạn sẽ trở thành giống Thượng đế,
mạnh như Thượng đế - đó là lí do tại sao Thượng đế đã cấm bạn ăn. Ông ấy sợ.
Ông ấy ghen tị.'
Từng con trai đều
nghĩ theo cùng cách - rằng bố ghen với mình, rằng bố sợ mình, rằng bố muốn mình
không bao giờ trở thành mạnh như bố để cho bố bao giờ cũng vẫn còn trong kiểm
soát.
Chuyện ngụ ngôn kinh
thánh này là chuyện ngụ ngôn lớn thế. Nó có cái nhìn sâu lớn thế.
Adam đã ở trong trạng
thái biết, thế rồi anh ta trở thành am tường. Tôn giáo biến mất, khoa học được
sinh ra. Khoa học... từ 'khoa học' đích xác ngụ ý tri thức. Những quả đó đã là
quả của khoa học. Anh ta mất sự hồn nhiên và trở thành tinh ranh.
Điều này xảy ra mọi
lúc đứa trẻ được sinh ra trong thế giới. Từng đứa trẻ được sinh ra trong vườn của
Thượng đế - Vườn Eden - và từng đứa trẻ được thuyết phục bởi rắn văn minh, văn
hoá, giáo dục. Từng đứa trẻ đều bị ước định, bị lôi kéo, bị thao túng hướng tới
tham vọng, hướng tới mục đích bản ngã - trở thành giống Thượng đế, đó là toàn
thể ý tưởng đằng sau khoa học. Khoa học nghĩ rằng một ngày nào đó này khác nó sẽ
có khả năng biết mọi điều huyền bí và thế thì con người sẽ là Thượng đế, quyền
năng vô hạn. Đó là tham vọng, trò bản ngã.
Chúng ta lôi từng đứa
trẻ hướng tới bản ngã và bản ngã sống trên ngôn ngữ. Cho nên đứa trẻ càng nói
giỏi, nó càng trở nên bản ngã hơn. Nó càng có thể diễn đạt và trao đổi tốt hơn
qua ngôn ngữ, nó càng trở nên nổi tiếng hơn. Nó sẽ trở thành người lãnh đạo con
người hay nó có thể trở thành tác giả lớn, nhà văn, nhà thơ, và thế này và thế
nọ - đây là những người nổi tiếng nhất trên thế giới. Nó sẽ trở thành nhà tư tưởng
hay giáo sư hay triết gia. Đây là những người chi phối.
Tại sao họ chi phối
trong thế giới này? Người nói giỏi trong ngôn ngữ là người chi phối. Bạn không
thể nghĩ được người lãnh đạo mà câm và bạn không thể nghĩ được người không nói
được và không diễn đạt được điều người đó nghĩ mà trở thành nổi tiếng. Không thể
được. Mọi danh tiếng tới từ ngôn ngữ. Cho nên đứa trẻ bắt đầu trở nên ngày càng
bị vướng vào ngôn ngữ, vào lời - và Bồ đề đạt ma nói, 'Biểu lộ vô lời.'
Tôi đã gọi rắn là thầy
giáo đầu tiên. Thế rồi toàn thể công việc của Thầy tôn giáo không là gì ngoài
cách hoàn tác lại rắn, cách hoàn tác lại điều đã được dạy cho bạn, cách hoàn
tác lại toàn thể hệ thống giáo dục, cách làm cho bạn tự do khỏi các ước định,
cách giúp bạn bỏ lời. Khoảnh khắc bạn bỏ lời bạn lại là hồn nhiên - đó là điều
tính thánh thiện là gì, hồn nhiên, hồn nhiên nguyên thuỷ.
Khoảnh khắc ngôn ngữ
biến mất khỏi tâm trí bạn và bạn không còn thêu dệt trong lời, im lặng lớn nảy
sinh... im lặng mà bạn gần như đã quên. Bạn không tỉnh táo chút nào rằng bạn đã
có nó một ngày nào đó. Nó đã ở đó thấm vào bạn khi bạn ở trong bụng mẹ của mẹ bạn.
Khi bạn được sinh ra và khi bạn mở mắt ra lần đầu tiên nó đã có đó thấm đẫm
toàn thể sự tồn tại. Nó đã có đó rất, rất sống động. Bạn sống trong nó trong
vài ngày, trong vài tháng, vài năm. Dần dần, dần dần nó biến mất. Bụi tụ lại và
gương không còn phản xạ. Khi mọi người bắt đầu nói rằng bây giờ bạn là người lớn,
họ đơn giản nói rằng bạn đã đánh mất hồn nhiên của bạn.
Họ đã làm biến chất bạn,
họ đã thôi miên bạn trong ngôn ngữ. Bây giờ bạn không thấy, bạn nghĩ. Bây giờ bạn
không biết, bạn nghĩ. Bây giờ bạn đi loanh quanh loanh quanh và bạn không bao
giờ chạm vào bản thân mục tiêu. Bạn đi lòng vòng lòng vòng. Bạn sẽ nói về Thượng
đế, bạn sẽ nói về yêu, và bạn sẽ nói về cái này và cái nọ và bạn sẽ không bao
giờ biết bất kì cái gì - vì để biết yêu người ta phải là việc yêu. Nghĩ về nó,
đọc về nó sẽ không giúp đỡ. Bạn có thể trở thành một trong những chuyên gia lớn
nhất về yêu và bạn sẽ không biết chút nào về nó. Nó là kinh nghiệm. Ngôn ngữ là
rất thủ đoạn. Nó thay thế cái thực bằng cái về.
Một hôm một người tới
tôi và anh ta nói, 'Tôi đã đi tới biết về Thượng đế.' Tôi nói, 'Tại sao về? Sao
không là bản thân Thượng đế?' Tại sao về? Và làm sao nó sẽ giúp được nếu bạn biết
về Thượng đế? Vâng, bạn sẽ tích luỹ chút ít thông tin, bạn sẽ trở thành am tường
hơn - nhưng điều đó sẽ không giúp ích, điều đó sẽ không biến đổi bạn, điều đó sẽ
không trở thành chói sáng bên trong của bạn. Bạn sẽ vẫn còn tối như trước.
Toàn thể nỗ lực của một
Jesus hay một Phật hay một Bồ đề đạt ma không là gì ngoài cách hoàn tác lại điều
xã hội đã làm với bạn. Đây là những người phản xã hội nhất trên thế giới. Họ
phá huỷ bất kì cái gì xã hội đã tạo ra quanh bạn, mọi hàng rào quanh bạn, mọi
việc phòng thủ quanh bạn, mọi tường quanh bạn - họ phá huỷ, họ liên tục phá huỷ.
Họ là những người theo hư vô vĩ đại. Họ đơn giản phá huỷ - vì cái đang đó,
không cần được tạo ra. Nó đã có đó rồi. Nó phải không được phát minh ra, nó chỉ
phải được khám phá ra.
Hay, tốt hơn cả là
nói, khám phá lại. Bạn đã biết nó, đó là lí do tại sao chúng ta có cảm giác rất
mờ mịt về phúc lạc. Bằng cách nào đó chúng ta biết nó là cái gì mặc dầu chúng
ta không thể nói thành lời đích xác nó là cái gì. Chúng ta đang tìm kiếm nó.
Chúng ta đang dò dẫm trong bóng tối và đi hướng tới cái gì đó được gọi là phúc
lạc. Nếu bạn đã không biết nó trước đây, làm sao bạn có thể liên tục dò dẫm tìm
nó? Bạn phải đã biết nó lúc nào đó. Bạn có thể đã quên, đúng, nhưng bạn phải đã
biết và ở đâu đó sâu trong vô thức của bạn, ở chỗ thâm sâu của con người bạn, bạn
phải đang mang nỗi hoài niệm, giấc mơ.
Đó đích xác là hoàn cảnh.
Bạn đã biết Thượng đế. Bạn đã sống như Thượng đế. Khi bạn là đứa trẻ bạn đã sống
không có bản ngã - trước khi bạn đi vào tiếp xúc với rắn. Bạn đã biết, mắt bạn
trong trẻo, bạn đã có sự sáng tỏ trong suốt, bạn đã có khả năng nhìn thấu suốt.
Bạn đã sống như Thượng đế và bạn đã biết phúc lạc là gì nhưng bây giờ nó bị
quên mất. Nhưng dầu vậy nó vẫn liên tục gõ cửa ở đâu đó sâu bên dưới từ vô thức
của bạn - 'Tìm nó đi. Tìm nó lần nữa đi.'
Do đó bạn tìm Thượng
đế, do đó bạn tìm thiền, do đó bạn tìm yêu, do đó bạn tìm mọi cái bạn tìm. Đôi
khi theo hướng đúng, đôi khi theo hướng sai, nhưng bạn liên tục tìm một điều mà
bạn biết đã có đó và cái bạn biết không còn đó nữa. Ngày bạn biết Thượng đế là
gì, ngày bạn gặp kinh nghiệm đó, bạn sẽ cười. Bạn sẽ nói, 'Vậy đây là Thượng đế
sao? Nhưng mình đã biết nó từ trước rồi. Mình có thể nhận ra nó.' Đó là cách mọi
người nhận ra Thượng đế, bằng không làm sao họ sẽ nhận ra điều đó? Nếu đột
nhiên một ngày nào đó bạn bắt gặp tôi và bạn đã không biết tôi, làm sao bạn sẽ
nhận ra tôi?
Mọi người đã nhận ra.
Khi Phật tới khoảnh khắc đó ông ấy có thể nhận ra ngay lập tức, 'Vâng, đây là
nó.' Khi Bồ đề đạt ma đi tới khoảnh khắc đó ông ấy bắt đầu cười. Ông ấy nói, 'Vậy
điều này là nó sao? Điều này đã từng có đó trong thời thơ ấu của mình. Nó đã bị
phá huỷ, nó đã bị làm bẩn. Bụi đã bị ném vào mắt mình và sáng tỏ của mình bị mất.
Giờ mắt lại làm việc tốt và mình có thể thấy nó.'
Thượng đế là cái đang
đấy. Bạn là Thượng đế vô nhận biết, ngủ say.
Một điều nữa về câu
chuyện kinh thánh này... Nó nói rằng Thượng đế đã đuổi Adam đi. Điều đó không
đúng. Thượng đế không thể đuổi được. Theo cách đó Thượng đế là bất lực. Ngài sẽ
đuổi đi đâu? Nói cho tôi xem nào. Ở đâu? Nó toàn là vườn của ông ấy; dù bạn ở bất
kì chỗ nào, bạn đang trong vườn đó. Từ đầu này tới đầu khác nó là Vườn Eden.
Không có cách nào đuổi đi. Vương quốc của Thượng đế là vô hạn. Làm sao ông ấy
có thể đuổi bạn được? Ông ấy có thể đuổi bạn đi đâu? Không có chỗ khác. Vương
quốc của ông ấy là duy nhất thế giới này, không có thế giới khác. Adam không bị
đuổi. Thượng đế không thể đuổi được vì không có chỗ nào để đuổi.
Thứ hai, Thượng đế
không thể đuổi được vì Adam là Thượng đế. Adam là một phần của Thượng đế. Làm
sao bạn có thể đuổi một phần riêng của bạn được? Tôi không thể đuổi tay tôi và
tôi không thể đuổi chân tôi. Điều đó là không thể được. Việc đuổi Adam sẽ là
làm tổn thương bản thân Thượng đế. Không, ông ấy không thể làm điều đó được;
ông ấy không phải là kẻ tự bạo, ông ấy không thể cắt bản thân mình thành các bộ
phận. Thượng đế là từ bi. Adam không bị đuổi.
Thế thì cái gì đã xảy
ra? Adam đã rơi vào giấc ngủ. Bằng việc ăn quả của Cây Tri thức anh ta đã rơi
vào giấc ngủ. Bây giờ anh ta không còn nhìn vào thực tại, anh ta mơ về nó. Bây
giờ anh ta có ý tưởng riêng của mình, anh ta có các quan niệm riêng của mình,
anh ta có cái nhìn riêng của mình. Bây giờ anh ta đã trở thành kẻ bịa đặt, bây
giờ anh ta liên tục bịa đặt. Thay vì nhìn cái đang đó, anh ta liên tục bịa đặt
ra. Anh ta đang dùng cái đang đó chỉ như màn ảnh để phóng chiếu thế giới riêng
của anh ta.
Đó là lí do tại sao Bồ
đề đạt ma nói, 'Biểu lộ vô lời.' Và nếu bạn đã phát ra lời, dỡ chúng ra đi, bỏ
chúng đi. Đây là một trong những thông điệp nền tảng nhất của Thiền. Họ gọi trạng
thái này trong tiếng Trung Quốc là mặc chiếu - khi bạn không phát minh ra bất kì
lời nào. Mặc nghĩa là trầm lặng hay im lặng và chiếu nghĩa là phản xạ hay nhận
biết. Reflection trong tiếng Anh bên cạnh nghĩa suy tư, còn có nghĩa phản xạ.
Trong ngữ cảnh này nó ngụ ý phẩm chất tựa gương. Nó đích xác, theo nghĩa đen,
ngụ ý phản xạ. Mặc chiếu ngụ ý phản xạ im lặng. Chiếc hồ im lặng - không gợn sóng.
Nó phản xạ hoàn hảo. Chính đêm trăng tròn và trăng tròn được phản chiếu trong hồ.
Và bạn có thấy nó
không? Trăng trong phản xạ là đẹp hơn nhiều so với trăng trên trời. Cái gì đó
được thêm vào nó - cái lặng của hồ, im lặng của hồ, mát mẻ của hồ. Cái đẹp tựa
gương của hồ được thêm vào cho nó. Nó là cái gì đó nhiều hơn. Khi Thượng đế phản
xạ trong bạn, trong mặc chiếu của bạn, Thượng đế thậm chí trở nên đẹp hơn. Cái
gì đó được thêm vào.
Nhưng nếu bạn nghĩ,
thế thì có gợn sóng. Thế thì hồ trong rối loạn. Thế thì bạn không trong trạng
thái phản xạ. Thế thì bạn rất, rất có tính phá huỷ với thực tại. Thế thì trăng
không được phản xạ như nó vậy, nó bị phá huỷ bởi gợn sóng của bạn. Và nếu có
sóng lớn, tất nhiên nó bị phá huỷ thậm chí còn nhiều hơn. Thế thì bạn không
thêm bất kì cái gì vào cho cái đẹp của trăng, bạn lấy đi mọi cái đẹp. Và đó là
việc gây hư hỏng. Nó không đích xác như trăng vậy, đó là cái gì đó khác. Nó
không thực, nó là phi thực.
Mặc chiếu này, phản xạ
tĩnh lặng, được diễn đạt trong bài thơ nổi tiếng của một Thiền sư, Hung Chin:
Im lặng và trầm lặng người ta quên mọi lời;
cái đó xuất hiện trước người đó rõ ràng và
sống động.
Khi người ta nhận ra nó, nó là bao la và
không bờ;
trong bản chất của nó, người ta là nhận biết
rõ ràng.
Phản xạ phi thường là nhận biết sáng chói
này,
đầy ngạc nhiên là phản xạ thuần khiết này.
Sương và trăng,
sao và suối,
tuyết trên cây thông
và mây lơ lửng trên những đỉnh núi -
từ chỗ tối tất cả chúng trở thành sáng sinh
động;
từ mờ tối tất cả chúng biến thành ánh sáng
chói lọi.
Ngạc nhiên vô hạn thấm đẫm trầm lặng này;
trong phản chiếu này mọi nỗ lực có chủ ý
tan biến.
Trầm lặng vậy là lời của mọi giáo huấn.
Chân lí của mặc chiếu
là hoản hảo và đầy đủ.
Ôi nhìn kìa! Hàng trăm sông chảy -
vào trong dòng nước lũ hỗn loạn
đi ra đại dương lớn!
Thiền được dựa trên mặc
chiếu - phản xạ trầm lặng. Điều này phải được hiểu. Trầm lặng không ngụ ý tĩnh
lặng bị ép buộc. Bạn có thể ép buộc tâm trí bạn là tĩnh lặng nhưng điều đó sẽ
không giúp gì mấy đâu. Đó là điều nhiều người thế nghĩ họ là thiền nhân đang
làm việc trên thế giới. Họ ép buộc tâm trí một cách bạo hành. Họ rất năng nổ với
tâm trí của họ. Nếu bạn liên tục năng nổ bạn sẽ đi tới điểm mà tâm trí, từ mệt
mỏi cực kì, chịu nhường bước. Nhưng điều này sẽ chỉ trên bề mặt; sâu trong chỗ
thâm sâu của vô thức của bạn, rối loạn sẽ tiếp tục. Nó sẽ là trầm lặng giả. Trầm
lặng bị ép buộc là trầm lặng giả, nó không là thực.
Không, bạn sẽ không
thể mang nó tới được. Bằng nỗ lực nó không thể được mang tới. Nó tới chỉ qua việc
hiểu, không bởi ý chí. Cho nên đừng bao giờ thay thế việc hiểu bằng ý chí - mặc
dầu cám dỗ là lớn. Bao giờ cám dỗ cũng có đó vì làm cái gì đó qua ý chí sẽ có vẻ
dễ dàng hơn. Làm cái gì đó qua bạo hành có vẻ dễ dàng hơn; làm cùng điều đó qua
yêu và hiểu có vẻ rất khó và dường như điều đó sẽ mất hàng nghìn năm để đạt tới.
Cho nên chúng ta bao giờ cũng cố tìm lối tắt.
Và không có lối tắt
trong trưởng thành tâm linh; không bao giờ có và sẽ không bao giờ có. Đừng bị
thành nạn nhân của lối tắt. Trầm lặng phải phát triển, không bị ép buộc. Nó phải
tới từ cốt lõi bên trong nhất của bạn, qua việc hiểu.
Cho nên cố hiểu điều
ngôn ngữ đã làm cho bạn, cố hiểu điều ngôn ngữ đã phá huỷ trong bạn, cố hiểu rằng
sự am tường của bạn không phải là việc biết của bạn. Nhìn vào trong nó đi. Quan
sát nó. Trong những tình huống khác nhau có nhận biết về nó - cách nó làm sao
lãng bạn khỏi thực tại.
Bạn bắt gặp đoá hồng
và khoảnh khắc bạn nhìn thấy nó, lập tức ngôn ngữ nhảy vào và cái gì đó bên
trong tâm trí bạn nói, 'Đoá hồng đẹp.' Và bạn đã phá huỷ cái gì đó. Bây giờ nó
không còn là đẹp cũng chẳng là hoa hồng - lời có đó. Đừng cho phép lời can thiệp
vào từng và mọi kinh nghiệm của bạn. Đôi khi chỉ hiện hữu ở đó cùng hoa hồng và
không nói, 'Hoa hồng.' Không có nhu cầu. Hoa hồng không có tên, cái tên do
chúng ta đặt ra. Và cái tên không phải là thứ thực. Cho nên nếu bạn còn quá gắn
bó với cái tên bạn sẽ bỏ lỡ cái thực. Cái tên sẽ tới trong mắt bạn và bạn sẽ
phóng chiếu cái gì đó - mọi hoa hồng quá khứ.
Khi bạn nói nó là hoa
hồng bạn đang phân loại nó và không hoa hồng nào có thể bị phân loại vì mọi hoa
hồng là duy nhất và cá nhân tới mức việc phân loại chỉ là không thể được. Đừng
cho nó vào một loại hạng, đừng nhét nó vào ngăn kéo, đừng để nó và trong hộp. Tận
hưởng cái đẹp của nó, tận hưởng mầu sắc của nó, tận hưởng điệu múa của nó đi.
Chỉ hiện hữu ở đó. Không nói bất kì cái gì. Quan sát. Ở trong mặc chiếu, phản xạ
im lặng, trầm lặng. Chỉ phản xạ. Để hoa hồng phản xạ trong bạn. Bạn là chiếc
gương. Nếu bạn có thể trở thành gương bạn đã trở thành thiền nhân. Thiền không
là gì ngoài kĩ năng soi gương. Và bây giờ không lời nào chuyển bên trong bạn
cho nên không có sao lãng.
Lời được liên kết lẫn
nhau, được móc nối lẫn nhau. Lời này dẫn tới lời khác và lời khác dẫn tới lời
khác nữa và bạn đã đi xa rồi. Khoảnh khắc bạn nói 'Đây là hoa hồng đẹp' ngay lập
tức bạn nhớ tới cô bạn gái người thường thích hoa hồng đẹp. Thế rồi bạn nhớ mọi
sự xảy ra với cô bạn gái này - chuyện tình tưởng tượng, tuần trăng mật, và thế
rồi khổ tự nhiên theo sau, và li dị... và mọi điều đó.
Và hoa này - bạn đã
quên mọi điều về nó. Hoa hồng này không còn đó nữa. Ngôn ngữ, lời, đã làm sao
lãng bạn và bạn đã đi vào trong cuộc hành trình. Lời này dẫn tới lời khác, có
việc nối lại liên tục. Mọi lời được nối lại, liên nối lại. Có liên kết lớn. Chỉ
dùng một lời và cứ đợi và xem nó bắt đầu thêu dệt mọi thứ thế nào.
Bạn nói 'chó', chỉ một
lời bình thường, và chỉ đợi trong một giây và ngay lập tức bạn bắt đầu đi cùng
lời đó. Bạn nhớ tới một con chó trong thời thơ ấu của bạn mà thường gây khiếp
hãi cho bạn - chỉ là con chó nhà hàng xóm. Và bạn sợ nhiều thế khi bạn thường về
nhà từ trường, và tim bạn bắt đầu lại đập mạnh và bạn bắt đầu cảm thấy hơi chút
sợ nảy sinh. Con chó đó vẫn còn quá nhiều. Và thế rồi bạn nhớ tới người hàng
xóm và vân vân.
Một điều dẫn tới cả
nghìn lẻ một điều và không có kết thúc cho nó. Vâng, lời là lúc bắt đầu - phát
biểu của kinh thánh là đúng hoàn hảo. Mọi thứ bắt đầu với lời. Thế giới bắt đầu
với lời; khi bạn bỏ lời, thế giới biến mất. Thế thì bạn ở trong Thượng đế. Lần
nữa cậu con trai bị đuổi quay trở lại. Anh ta đã thức tỉnh.
Cho nên đừng ép buộc
im lặng lên bản thân bạn. Đó là lí do tại sao nhấn mạnh của tôi ở đây là không
ép buộc - thay vì thế thì múa, hát. Để hoạt động của bạn được thoả mãn. Để tâm
trí bạn chạy đây đó, để nó mệt theo cách riêng của nó. Nhảy và thở và múa và nhảy
lùi và bơi và khi bạn cảm thấy rằng bây giờ thân-tâm bạn bị mệt mỏi thế thì ngồi
im lặng và quan sát.
Dần dần những khoảnh
khắc nhỏ của trầm lặng sẽ bắt đầu đi vào bạn. Chúng tới theo lượng nhỏ. Có một
từ đặc biệt cho nó... Phật tử đã gọi nó là chitta-kshana sát na ý thức, một khoảnh
khắc của ý thức. Những chitta-kshana này, những khoảnh khắc nguyên tử này của ý
thức, bắt đầu nổi trong bạn. Chúng tới như các khoảnh hở. Một lời đã rời đi, lời
khác đã chưa nảy sinh. Ngay ở giữa hai lời này đột nhiên cửa sổ mở ra - một khoảng
hở, kẽ hở. Và bạn có thể thấy thực tại rất rõ ràng, rất chói sáng. Bạn lại có
thể thấy bằng những đôi mắt đó của thời thơ ấu mà bạn đã quên hoàn toàn. Thế giới
lại phiêu diêu, rất mầu sắc, rất sống động, đầy ngạc nhiên.
Đó là điều Hung Chin
này nói...
Đầy ngạc nhiên là phản
xạ thuần khiết này...
Ngạc nhiên vô hạn thấm
vào trầm lặng này...
Ngạc nhiên là vị của
trầm lặng đó. Tâm trí hiện đại đã mất mọi năng lực của nó để ngạc nhiên. Nó đã
mất mọi năng lực nhìn vào trong điều huyền bí, vào trong điều kì diệu, vì tri
thức, vì nó nghĩ nó biết. Khoảnh khắc bạn nghĩ bạn biết, ngạc nhiên dừng nảy
sinh. Khoảnh khắc bạn lại bắt đầu trở nên ít am tường, ngạc nhiên vào lại, bắt
đầu xuyên thấu bạn. Quan sát điều đó đi. Nếu bạn nghĩ bạn biết cây này thế thì
bạn không còn trong bất kì ngạc nhiên nào về nó.
Đó là lí do tại sao vợ
riêng của bạn và cái đẹp của cô ấy không rót đầy mắt bạn bằng ngạc nhiên. Bạn
nghĩ bạn biết cô ấy. Giá mà cô ấy là vợ của ai đó khác bạn chắc sẽ bị hấp dẫn.
Nhưng bây giờ bạn nghĩ bạn biết cô ấy, bây giờ bạn nghĩ bạn quen thuộc với cô ấy.
Và bạn không vậy - vì từng người là điều bí ẩn duy nhất thế không có cách nào
biết. Bạn không thể biết người đàn bà bằng việc trở thành chồng của cô ấy và bạn
không thể biết người đàn ông bằng việc trở thành vợ.
Các bạn có thể đã sống
trong ba mươi năm cùng nhau nhưng các bạn không biết. Các bạn vẫn còn là người
lạ. Vì chúng ta tất cả đều là những điều bí ẩn không có cách nào để quen thuộc,
và từng khoảnh khắc điều không thể dự đoán được là có thể.
Đôi khi bạn bắt gặp
điều đó. Bạn đã sống trong mười năm cùng với người đàn bà và đột nhiên một ngày
nào đó cô ấy giận và bạn không bao giờ nghĩ rằng cô ấy sẽ giận thế. Trong mười
năm bạn đã quan sát cô ấy và cô ấy bao giờ cũng dịu dàng thế, đáng yêu thế, từ
bi thế, và đột nhiên một ngày nào đó cô ấy giận tới mức cô ấy muốn giết bạn.
Không thể dự đoán được. Và bạn đã được lắng đọng và bạn đã bắt đầu coi cô ấy
như đương nhiên có đấy và bạn đã tưởng rằng bạn biết cô ấy. Không ai biết bất
kì ai. Cô ấy cũng không biết bạn mà bạn cũng không biết cô ấy.
Vâng, bạn có thể đã
cho sinh ra đứa con. Đứa con vẫn còn trong bụng bạn chín tháng, nhưng bạn không
biết nó. Khi đứa con tới nó là không dự đoán được như con của bất kì người nào
khác. Trong một khoảnh khắc đừng nghĩ rằng bạn biết bất kì ai. Chúng ta là những
người lạ.
Toàn thể sự tồn tại
này là vậy. Những cây này bao quanh bạn ở đây... Bạn thấy chúng mọi ngày và dần
dần bạn đã dừng việc thấy chúng vì bạn nghĩ rằng bây giờ bạn biết - vấn đề là
gì? Xin lắng nghe tôi. Lại có cái nhìn và bạn sẽ ngạc nhiên. Không cái gì đã
bao giờ được biết. Tri thức không xảy ra. Tri thức chỉ là dốt nát cực kì. Sự sống
vẫn còn là điều huyền bí. Vâng, chúng ta có thể tận hưởng nó, chúng ta có thể
nhảy múa nó, chúng ta có thể hát cùng nó, chúng ta có thể mở hội - điều đó là
có thể. Nhưng chúng ta không thể biết được nó.
Mọi Thầy lớn của thế
giới đều đã nói rằng tri thức là không thể được. Điều đó là không thể được
trong bản chất của mọi sự. Và bất kì cái gì bạn nghĩ bạn biết đều chỉ tàm tạm -
việc giả bộ của bạn. Vì việc giả bộ đó bạn trở nên bị nặng gánh tới mức bạn dừng
ngạc nhiên. Đứa trẻ ngạc nhiên vì nó không biết. Một khi nó bắt đầu được làm
quen - nó đọc địa lí và lịch sử và đủ loại vô nghĩa - thế thì nó nghĩ nó biết.
Thế thì hoa không toả mùi theo cách hoa vẫn thường toả thêm nữa. Thế thì bướm
không hấp dẫn nó thêm nữa như bướm vẫn thường hấp dẫn. Thế thì nó sẽ không đi
nhặt vỏ sò trên bãi biển. Nó đã trở thành người lớn.
Thực ra, nó đã dừng
trưởng thành. Thực ra, nó đã chết. Ngày bạn nghĩ bạn biết, cái chết của bạn đã
xảy ra - vì sẽ không có ngạc nhiên và không có niềm vui và không có ngạc nhiên.
Bây giờ bạn sẽ sống cuộc sống chết. Bạn có thể đi vào trong mồ của bạn, bạn sẽ
không mất bất kì cái gì. Vì bạn sẽ không bị ngạc nhiên bởi bất kì cái gì, phỏng
có ích gì mà tiếp tục sống? Tự tử đi. Thực ra, đó là điều bạn thực tại đang
làm. Chúng ta tự tử. Ngày bạn nghĩ bạn biết, bạn đã tự tử.
Với mặc chiếu này, với
phản xạ trầm lặng này, bạn sẽ lại trở thành đứa trẻ, bạn sẽ lại đạt tới con mắt
đẹp đó của thời thơ ấu - hồn nhiên, không biết, vậy mà xuyên thấu.
Cho nên nhớ, trầm lặng
hay im lặng không phải là êm ả, không phải là yên tĩnh. Nó ngụ ý siêu việt trên
mọi lời hay ý nghĩ biểu hiện cho trạng thái ở bên ngoài, an bình toả khắp. Nó
không là tâm trí tĩnh lặng, nó là bản thân tĩnh lặng. Nó không là thứ theo kỉ
luật từ nỗ lực của bạn. Nó không là cái gì để được thực hành, nó là cái gì đó để
được hiểu, để được yêu. Bạn phải chơi với nó thay vì làm nó. Nó là việc thiếu vắng
thiền. Vâng, đó là điều thiền tất cả là gì - thiếu vắng thiền. Tâm trí không
còn suy nghĩ, tâm trí im lặng.
Nó không có phảng phất
của hoạt động tâm trí, nó là nhận biết rõ ràng trong sự thanh bình của hư
không. Người Nhật Bản có một từ hay cho nó: họ gọi nó là kokoro. Kokoro nghĩa
là hư không tuyệt đối; kokoro nghĩa là sự thiếu vắng vô cùng; kokoro nghĩa là
trống trơn - nhưng không phủ định. Hư không cho nghĩa về cái gì đó bị phủ định.
Không. Mọi thứ là rác rưởi bị phủ định, chắc chắn, hiển nhiên, nhưng một khi bạn
phủ định mọi thứ là rác rưởi, bản tính bên trong nhất riêng của bạn khẳng định.
Nó rất khẳng định.
Khi các gợn sóng đã
biến mất khỏi hồ bạn có thể nói rằng bây giờ không cái gì tồn tại trên mặt hồ.
Hư không tuyệt đối cư ngụ, nổi. Nhưng đây không phải là trạng thái phủ định. Thực
ra, bây giờ hồ khẳng định bản thân nó trong im lặng toàn bộ của nó. Bản tính của
nó là thấy được trên bề mặt; những sóng và gợn sóng đó đã che giấu nó. Bây giờ
nó có đó, chỉ hiện diện. Không ồn ào, rất im lặng. Không tuyên bố rằng 'tôi ở
đây' - không có cái 'tôi' nào thêm nữa.
'Tôi' không là gì
ngoài mọi ồn ào của bạn gắn lại với nhau. Khi tiếng ồn biến mất, khi tâm trí
không còn nữa, khi thiền không còn đó, đột nhiên bạn hiện hữu lần đầu tiên - và
vậy mà bạn không hiện hữu. Bạn không hiện hữu theo cách cũ; bạn đã chết và bạn
được tái sinh. Đây là thời thơ ấu thứ hai.
Thầy Suigan, vào cuối
mùa hè đã đưa ra công bố này, 'Ta đã từng nói, Đông và Tây, suốt cả mùa hè này,
cho các huynh đệ của ta. Nhìn xem lông mày của ta vẫn đang mọc đây.'
Một trong các đệ tử của
ông ấy nói, 'Chúng mọc đẹp làm sao, thưa thầy.'
Người khác nói, 'Người
phạm tội ăn cắp cảm thấy không thoải mái trong tâm.'
Và người thứ ba,
không nói gì, đơn giản thốt ra, 'Quái!'
'Quái' chỉ là lời thốt
ra không có nghĩa nào gắn với nó. Nó cũng không là biểu tượng, nó là bản thân một
thứ.
Thầy đã từng nói...
Bây giờ điều này là sự mỉa mai, điều nghịch lí - ngay cả Thiền sư cũng phải
nói. Ông ấy nói chống lại việc nói nhưng dầu vậy ông ấy phải nói.
Điều đó gần giống như
bạn có bệnh và bệnh này đang đầu độc bạn và chúng ta chuẩn bị thuốc từ chất độc
khác để tiêu diệt bệnh này. Gần như mọi thuốc được chuẩn bị từ chất độc. Để giết
chất độc bạn phải dùng chất độc.
Có chiếc gai mắc
trong chân bạn. Chúng ta kiếm chiếc gai khác để lấy chiếc gai kia ra khỏi chân.
Gai phải được nhể ra bằng gai khác. Vâng, điều mỉa mai là ngay cả Thiền sư cũng
phải nói liên tục. Phật đã nói trong bốn mươi hai năm liên tục, sáng, chiều, tối
- và ở giữa. Và ông ấy đã nói duy nhất một điều - đó là: dừng nói, là im lặng,
'biểu lộ vô lời'.
Bây giờ Thầy này,
Suigan này, đã nói trong nhiều tháng, và thế rồi ở chỗ kết luận của buổi nói
ông ấy nói, 'Ta đã từng nói, Đông và Tây, suốt mùa hè này, cho huynh đệ của ta.
Nhìn xem lông mày của ta vẫn đang mọc ra.' Ông ấy đang nói, 'Trông đấy, ta vẫn
sống hay chết. Với việc nói nhiều thế ta có thể đã lăn ra chết, ta có thể đã dừng
phát triển.'
Đệ tử thứ nhất nói,
'Chúng mọc đẹp làm sao.' Anh ta là đúng, một trăm phần trăm đúng. Anh ta có thể
nhìn vào trong Thầy. Những lời đó đã không quấy rối im lặng của Thầy, chúng đã
không trở thành chết của thầy - sự sống của thầy vẫn chảy như bao giờ. Chúng đã
không trở thành bất kì chướng ngại nào. Bạn được phép nói chỉ khi lời của bạn
không phá huỷ im lặng của bạn. Khi im lặng của bạn vẫn còn không bị chạm tới bởi
lời của bạn thế thì bạn có thể nói. Thế thì lời của bạn sẽ là phúc lành cho thế
giới. Thế thì bạn sẽ giúp cho nhiều người đi ra khỏi lời của họ. Thế thì lời của
bạn sẽ trở thành thuốc.
Nhưng nếu lời của bạn
làm rối im lặng của bạn, nếu trong khi bạn nói bạn mất tiếp xúc với cốt lõi trầm
lặng bên trong nhất của mặc chiếu, thế thì nó là vô tích sự. Thế thì tốt hơn cả
là chữa lành cho bản thân bạn trước đã. 'Bác sĩ điều trị chữa lành cho bản thân
ông ấy.' Thế thì đừng bắt đầu chữa lành cho bất kì người nào. Bạn sẽ gây hại
thay vì chữa lành cho bất kì ai.
Đệ tử này nói, 'Vâng,
thưa Thầy, chúng mọc đẹp làm sao. Tôi có thể thấy im lặng của thầy không bị làm
rối.'
Đệ tử thứ hai nói,
'Người phạm tội trộm cắp cảm thấy không thoải mái trong tâm.' Anh ta thậm chí
còn tốt hơn người thứ nhất. Anh ta nói, 'Thưa Thầy, mặc dầu thầy ở ngoài trộm cắp,
dầu vậy, cho dù thầy trộm cắp, thầy sẽ cảm thấy mặc cảm. Chúng tôi biết rằng lời
không làm rối thầy nhưng dầu vậy lời là mối phiền toái tới mức thầy đang cảm thấy
hơi chút mặc cảm. Tôi có thể thấy được điều đó.'
Và tôi có thể hiểu ý
tưởng của đệ tử thứ hai này. Vâng, nói với bạn tôi cũng cảm thấy mặc cảm vì có
mọi nguy hiểm bạn có thể không nghe điều tôi đang nói, bạn có thể không nghe điều
tôi ngụ ý khi nói và bạn có thể bắt đầu nói hệt như tôi. Nguy hiểm có đó. Tôi
đang phạm phải tội lỗi. Nó phải bị phạm vào vì dường như không có cách khác để
giúp bạn. Rủi ro đó phải được nhận lấy.
Đệ tử thứ hai đạt tới
sâu hơn một chút. Đệ tử thứ nhất đã là đúng một trăm phần trăm, nhớ lấy, đệ tử
thứ hai là đúng hai trăm phần trăm. Anh ta nói, 'Thưa Thầy, kẻ trộm cắp cảm thấy
không thoải mái trong tâm. Tôi có thể thấy điều đó.'
Đệ tử thứ ba là đúng
ba trăm phần trăm. Người thứ ba, không nói bất kì cái gì, đơn giản thốt ra,
'Quái!' Nó cũng giống như 'hoo!' Nói bất kì cái gì là vô nghĩa. Anh ta đơn giản
thốt ra một âm thanh. Và anh ta đang nói, 'Bất kì cái gì thầy đã từng nói chỉ
là âm thanh trống rỗng, thưa thầy!
Đừng lo nghĩ. Bất kì
cái gì thầy đã từng nói chỉ là lời rỗng tuếch, chỉ giống như "Quái!"
của tôi. Vâng, giúp người khác thức dậy đôi khi là tốt nhưng nó chẳng ngụ ý bất
kì cái gì. Nếu ai đó đang ngủ say và bạn quát vào tai người đó
"Quái!" người đó sẽ mở mắt ra, có vậy thôi. Công việc được hoàn
thành. Nhưng "Quái!" không ngụ ý bất kì cái gì.'
Điều đó đích xác là
điều mọi lời nói của các Thầy là gì - một 'Quái!' Chúng không ngụ ý bất kì cái
gì, chúng không mang bất kì triết lí nào trong chúng. Chúng chỉ là tiếng hét để
đánh thức bạn. Người thứ ba đã hiểu một cách toàn bộ. Anh ta đích xác đang ở cùng
không gian như bản thân Thầy.
Từ 'Quái!' này bắt
nguồn từ đâu? Nó bắt nguồn từ kokoro, hư không. Và khi bạn ở trong hư không này
mọi thứ là có thể. Hư không này là tiềm năng thế, hư không này là khẳng định thế,
hư không này là Thượng đế. Các Phật tử không dùng từ Thượng đế vì Thượng đế dường
như là giới hạn. Họ dùng hư không - kokoro, shunyata. Trong hư không này, bạn sẽ
thấy rằng Thượng đế là có mặt khắp nơi. Hư không này đang rót đầy toàn thể sự tồn
tại.
Đây là những lời của
John Donne: 'Thượng đế là toàn diện tới mức Thượng đế là thiên thần trong thiên
thần và tảng đá trong tảng đá và cọng rơm trong cọng rơm.'
Trong hư không này bạn
sẽ xuyên thấu vào trong chính bản chất của mọi sự. Việc xuyên thấu này vào
trong bản chất của mọi sự là mục đích. Và điều đó là có thể chỉ khi bạn 'biểu lộ
vô lời'. Thế thì mọi sự hiện hữu.
Lắng nghe những lời
này của Wordsworth:
Gà đang gáy,
suối đang chảy,
bầy chim nhỏ líu lo,
hồ lấp lánh,
cánh đồng xanh ngủ dưới ánh mặt trời.
Thế thì mọi thứ là
như nó vậy. Gà đang gáy và cánh đồng xanh ngủ dưới ánh mặt trời. 'Thượng đế là
toàn diện tới mức Thượng đế là thiên thần trong thiên thần và tảng đá trong tảng
đá và cọng rơm trong cọng rơm.' Thế thì Thượng đế biến mất. Chỉ tính Thượng đế
có đó. Thế thì không có thần, chỉ có tính thiêng liêng, tính thiêng liêng trong
sáng thuần khiết, tràn ngập khắp không gian.
Mới đêm hôm nọ tôi đã
đọc nhật kí của Leonardo Da Vinci. Trong nhật kí của mình ông ấy viết một câu
gây ấn tượng cho tôi. 'Trong những điều vĩ đại được tìm thấy trong chúng ta, là
hư không là điều vĩ đại nhất.' Kokoro.
Việc là hư không đó tới
qua vô lời, vô ngôn ngữ, vô khái niệm, vô trí, vô tâm trạng - mặc chiếu.
Bây giờ tới chuyện ngụ
ngôn nhỏ này.
Một Thiền sư nào đó
nhận xét vắn tắt về một thiền sinh đã nói dài dòng về lí thuyết Thiền…
Bây giờ, điều đầu
tiên là - Thiền không có lí thuyết. Nó là cách tiếp cận phi lí thuyết vào trong
thực tại. Nó không có học thuyết và không có giáo điều - do đó nó không có nhà
thờ, không tu sĩ, không giáo hoàng. Thiền là rất trần tục, thực tế; nó không giải
quyết trong các khái niệm trừu tượng. Đó là hiện tượng hiếm hoi. Điều đó bắt
nguồn từ sự gặp gỡ của hai thiên tài - thiên tài Ấn Độ và thiên tài Trung Quốc.
Thiên tài Ấn Độ là rất trừu tượng ngay cả Phật. Ông ấy đã cố gắng vất vả để không
là trừu tượng nhưng ông ấy có thể làm được gì? Người Ấn Độ sau rốt vẫn là người
Ấn Độ.
Thiên tài Ấn Độ là rất
trừu tượng. Nó nói về những thứ lớn lao, các lí thuyết; thêu dệt các ý tưởng lớn.
Ông ấy bay trên trời cao, không bao giờ hạ xuống đất. Thiên tài Ấn Độ đã không
biết cách hạ xuống đất trong nhiều thế kỉ. Nó bay lên và thế rồi nó không biết
làm sao quay về. Nó không có rễ. Nó có cánh nhưng không có rễ. Đó là nỗi khổ.
Thiên tài Trung Quốc
gắn liền với đất hơn, thực tiễn hơn, thực chứng hơn. Họ không đi vào trong trời
quá nhiều. Cho dù họ đi tới đó một chút, họ bao giờ cũng giữ chân của họ trên đất,
được bắt rễ trong đất. Họ không bay như chim, họ đi vào trong trời như cây. Họ
giữ rễ của họ trong đất, họ bao giờ cũng giữ sự cân xứng rất sâu. Lão Tử là rất
thực tế, Khổng Tử cũng vậy.
Khi Bồ đề đạt ma tới
Trung Quốc với thông điệp vĩ đại về Thiền đã xảy ra sự gặp gỡ lớn, sự tổng hợp
lớn giữa thiên tài Ấn Độ và thiên tài Trung Quốc. Thiền không Ấn Độ không Trung
Quốc. Nó mang cả hai và vậy mà nó ở bên ngoài cả hai.
Cho nên nếu bạn hỏi một
Phật tử Ấn Độ - họ có rất ít - nếu bạn hỏi một Phật tử Ấn Độ người đó sẽ không
coi trọng Thiền. Người đó sẽ nói, 'Toàn điều vô nghĩa.' Bất kì chỗ nào Phật
giáo Ấn Độ vẫn còn phổ biến ở Ceylon, ở Miến Điện, ở Thái Lan, không ai nói về
Thiền. Mọi người cười. Họ nói nó giống như chuyện cười.
Nếu bạn nói với Thiền
nhân Trung Quốc và Thiền nhân Nhật Bản về các kinh sách Phật giáo lớn, họ nói,
'Đốt chúng ngay lập tức. Mọi lí thuyết trừu tượng là vô nghĩa. Chúng đưa con
người đi lạc lối khỏi thực tại.'
Với tôi Thiền là một
trong những sự tổng hợp vĩ đại nhất - hiện tượng siêu việt. Điều đầu tiên về nó
là ở chỗ nó có tính tồn tại và không tính lí thuyết. Nó không nói bất kì cái gì
về chân lí, nó cho bạn chân lí như cái đang vậy. Nó đơn giản đánh thức bạn. Nó
gây sốc bạn để đánh thức, nó quát vào bạn để đánh thức - nhưng nó không cho bạn
lí thuyết, nó không cho bạn học thuyết, nó không cho bạn kinh sách. Thiền là
tôn giáo duy nhất có năng lực thiêu cháy kinh sách, tôn giáo duy nhất có năng lực
phá huỷ mọi thần tượng và mọi lí tưởng nữa.
Một Thiền sư nào đó
nhận xét vắn tắt về một thiền sinh đã nói dài dòng về lí thuyết Thiền...
Thiền không có lí
thuyết. Đó là tính duy nhất của Thiền. Khoảnh khắc bạn bắt đầu nói về lí thuyết
Thiền, Thiền không còn là Thiền. Có lí thuyết nhưng không còn Thiền. Thiền và
lí thuyết không thể tồn tại cùng nhau. Lí thuyết rất bị giới hạn; Thiền là kinh
nghiệm vô giới hạn. Thiền giống với yêu nhiều hơn - bạn không thể định nghĩa được
nó.
Thầy đã nói,
'Ông có quá nhiều Thiền.'
Một phát biểu hay thế.
Ông ấy nói, 'Ông có quá nhiều Thiền.' Ông ấy đang nói, 'Ông chẳng có gì về Thiền
trong ông.' Đó là cách các Thiền sư nói. Ông ấy muốn nói, 'Ông chẳng có gì về
Thiền trong ông' - nhưng ông ấy nói điều ngược lại, 'Ông có quá nhiều Thiền.'
Làm sao bạn có thể có quá nhiều Thiền? Hoặc bạn có nó hoặc bạn không có nó. Đây
là cách nói rằng bạn không có bất kì Thiền nào trong bạn. 'Ông có quá nhiều Thiền'
ngụ ý 'Ông có quá nhiều lí thuyết. Ông biết quá nhiều về nó. Và ông thậm chí đã
không có một thoáng nhìn về nó.'
'Nhưng chẳng phải là
tự nhiên với một thiền sinh là nói về thiền sao?' cậu học trò phân vân hỏi.
Điều thứ hai... Thứ
nhất không có lí thuyết trong Thiền, thứ hai không thể có bất kì người nào được
gọi là Thiền sinh. Điều đó là không thể được. Học sinh tìm lí thuyết. Học sinh
muốn trở thành am tường. Học sinh đi tới rắn không đi tới Thầy. Học sinh đi tới
thầy giáo. Học sinh đi tới cao đẳng, đại học, viện.
Thiền không có học
sinh. Thiền không có lí thuyết cho nên nó không thể có học sinh, nó không thể
có giáo sư. Vâng, nó có Thầy và nó có đệ tử. Thầy không phải là thầy giáo, nhớ
lấy. Công việc của Thầy đích xác đối lập với công việc của thầy giáo. Thầy giáo
dạy bạn, thầy giáo làm cho bạn học nhiều thứ - Thầy giúp bạn dỡ bỏ. Thầy là thuốc
giải độc của thầy giáo. Trong từ điển bạn sẽ thấy rằng chúng ngụ ý cùng điều
nhưng nhớ, ít nhất trong thế giới của Thiền, chúng không ngụ ý cùng điều.
Tôi là Thầy, tôi
không là thầy giáo, và những người thực sự ở đây không là học sinh mà là đệ tử.
Khác biệt gì giữa học sinh và đệ tử? Học sinh muốn biết nhiều hơn, nắm bắt nhiều
hơn. Học sinh muốn trở thành học giả. Học sinh khao khát Cây Tri thức. Học sinh
muốn ăn nhiều táo nhất có thể được. Học sinh đang trên hành trình bản ngã - tò
mò, truy hỏi, nhưng không sẵn sàng được biến đổi.
Đệ tử là hiện tượng
khác. Đệ tử không khao khát tri thức, người đó muốn thấy, không muốn biết. Người
đó muốn hiện hữu. Người đó không còn quan tâm tới việc có nhiều tri thức hơn,
người đó muốn có nhiều hiện hữu hơn. Chiều hướng của người đó là khác toàn bộ.
Nếu để có nhiều hiện hữu hơn người đó phải bỏ mọi việc biết của mình, người đó
sẵn sàng. Người đó sẵn sàng hi sinh mọi thứ.
Đệ tử không là người
tích trữ; học sinh là người tích trữ. Và tất nhiên, khi bạn tích trữ, bạn tích
trữ trong kí ức. Kí ức liên tục tăng trưởng trong tâm trí của học sinh nhưng không
tăng trưởng tâm thức của người đó. Bên trong đệ tử kí ức dần dần bắt đầu biến mất.
Người đó không mang gánh nặng của quá khứ thêm nữa. Người đó chỉ biết chính điều
bản chất. Tri thức của người đó là tiện dụng. Nhưng tâm thức của người đó bắt đầu
tăng trưởng. Toàn thể năng lượng của người đó chuyển từ kí ức sang tâm thức.
Có khác biệt lớn giữa
học sinh và đệ tử. Học sinh muốn biết về - toàn thể nỗ lực của người đó là cách
nghĩ tốt hơn. Đệ tử muốn hiện hữu - toàn thể nỗ lực của người đó là cách hiện hữu,
cách về lại nhà, cách đạt tới con mắt thời thơ ấu đó lần nữa, cách được tái
sinh. Đó là điều Jesus ngụ ý khi ông ấy nói, 'Chừng nào ông chưa được sinh ra lần
nữa.' Ông ấy đã đi tìm đệ tử. Và với người này, Nicodemus, người mà ông ấy đã
nói điều này, 'Chừng nào ông chưa được sinh ra lần nữa ông sẽ không hiểu ta và
ông sẽ không có khả năng vào vương quốc Thượng đế' của ta...
Bạn có thể không biết
rằng người đó, Nicodemus, đã là một giáo sư và ông ấy đã tới trong việc tìm tri
thức. Ông ấy đã là một giáo sĩ nổi tiếng. Ông ấy đã trong ban quản lí ngôi đền
lớn ở Jerusalem. Ông ấy đã không tới ban ngày vì ông ấy sợ rằng mọi người sẽ cười
- một học giả lớn thế, một giáo sư nổi tiếng khắp nước, mà lại đi tới một người
thường, người kiểu hippie.
Vâng, Jesus đã là người
hippie đi cùng những người vô giáo dục, những phần tử phi xã hội, gái mãi dâm
coi như bạn, đối xử tốt với mọi loại người, ở cùng những người không đáng kính
trọng. Và ông ấy đã là một thanh niên và ông ấy có vẻ như điên. Ông ấy là vậy.
Và ông ấy đã nói về những điều mà chỉ người thần kinh hay chư phật có thể nói tới.
Bất kì khi nào có vấn đề về việc quyết định liệu người nào đó là phật hay là
người thần kinh, bạn sẽ quyết định rằng người đó là thần kinh - vì để quyết định
rằng người đó là phật là chống lại bản ngã của bạn. Cho nên mọi người biết rằng
Jesus có hơi thần kinh, hơi điên, lập dị, và ông ấy tụ tập một số người nguy hiểm
quanh ông ấy.
Nicodemus không thể
đi tới ông ấy vào ban ngày; vào nửa đêm ông ấy đi và hỏi. Ông ấy đã hỏi, 'Vương
quốc của Thượng đế mà ông liên tục nói tới là gì vậy? Đây là cái gì? Tôi muốn
biết nhiều hơn về nó.' 'Về nó' - nhắc bạn. Và Jesus nói, 'Chừng nào ông chưa được
sinh ra lần nữa ông sẽ không biết nó là gì đâu.' Bây giờ điều này là quá nhiều
với Nicodemus. Được sinh ra lần nữa sao? Giá chừng nấy sao? Chết đi và được
sinh ra lần nữa. Điều đó dường như là quá nhiều.
Học sinh sẵn sàng trả
tiền theo từng cắc nhỏ; đệ tử sẵn sàng trả bằng cuộc đời mình. Học sinh có truy
vấn; đệ tử... đó không chỉ là truy vấn. Trong tiếng Anh không có từ đúng cho
nó. Trong tiếng Phạn chúng ta có từ - mumuksha. Về truy vấn chúng ta có từ khác
- jigyasa. Nó ngụ ý người muốn biết nhiều hơn. Mumuksha ngụ ý người muốn hiện hữu
nhiều hơn. Người muốn được tự do khỏi mọi giam cầm. Người ta không muốn bị giam
giữ trong bất kì loại nô lệ nào - của truyền thống, của kinh sách, của xã hội,
của quốc gia. Người ta không muốn bất kì loại nô lệ nào thêm nữa; người ta muốn
là tự do, hoàn toàn tự do. Việc nổi dậy đó, thôi thúc đó để là tự do toàn bộ,
là mumuksha. Trong tiếng Anh không có từ để dịch nó. Chúng ta gọi nó là ham muốn
trở thành vô ham muốn; ham muốn là tự do hoàn toàn tới mức ngày cả ham muốn này
cũng không còn lại.
Bây giờ học sinh này
nói,
'Nhưng chẳng phải là
tự nhiên với một thiền sinh là nói về thiền sao?'
Anh ta là học sinh,
anh ta không là đệ tử - đó là chỗ mọi sự bị lộn xộn. Và anh ta nói, 'Điều đó chẳng
phải là tự nhiên sao?' Vâng, điều đó là tự nhiên với học sinh. Học sinh có thể
làm cái gì khác? Học sinh và học giả và giáo sư - họ xử lí trong lời. Họ biểu lộ
bằng lời. Họ tạo ra những lời mới. Họ liên tục chơi với lời. Toàn thể công việc
của họ là về lời - những lời trống rỗng, bất lực. Nhưng họ liên tục chơi với những
lời đó, tạo ra những lời mới.
Nhưng chẳng phải là tự
nhiên,' anh ta nói, 'với một thiền sinh là nói về thiền sao?' Với học sinh tất
nhiên điều có vẻ rất phi tự nhiên là không nói về Thiền. Thế thì phỏng có ích
gì mà tới Thầy? Phỏng có ích gì mà tới Thiền viện nếu người ta không thể nói?
Điều đó là tự nhiên.
Điều đó không là tự
nhiên với đệ tử. Đệ tử đã tới để trở thành im lặng. Đệ tử biết rằng là im lặng
là tự nhiên. Lắng nghe Thầy trong im lặng. Thực ra, không nghe quá nhiều lời thầy,
nghe im lặng của thầy cái bao giờ cũng có đó đằng sau lời. Bạn bắt đầu bằng việc
nghe những lời của thầy và thế rồi dần dần bạn bắt đầu lắng nghe im lặng của thầy.
Dần dần, dần dần, bạn tốt nghiệp từ lời vào im lặng. Dần dần, dần dần, dịch
chuyển xảy ra, động thái thay đổi - bạn không còn quan tâm tới điều Thầy nói, bạn
trở nên quan tâm tới điều thầy hiện hữu.
Với đệ tử điều đó là
tự nhiên nhưng với học sinh, tất nhiên, anh ta có thể làm gì khác được? Anh ta
có thể nói. Đệ tử phân vân này đã hỏi, ''Chẳng phải là tự nhiên với một thiền
sinh là nói về thiền sao? Tại sao Thầy ghét nói về Thiền?' Thầy nói. Thầy không
ghét. Thầy không thể ghét được. Thầy đơn giản thấy cái vô tích sự của nó. Nhớ,
yêu và ghét cả hai đều là quan hệ. Thầy không liên quan tới lời chút nào; thầy
không trong yêu ngôn ngữ và thầy không ghét.
Ghét lại là quan hệ,
bạn chưa được tự do, bạn vẫn bị gắn bó. Nó là cách đảo ngược nhưng bạn vẫn bị gắn
bó, bạn vẫn bị lo nghĩ. Bạn có thể trốn khỏi ngôn ngữ nhưng bạn vẫn không tự do.
Và bạn vẫn được kết nối với ngôn ngữ và ngôn ngữ đó sẽ liên tục ám ảnh bạn.
Không, Thầy không chống
lại nó, thầy đơn giản tự do với nó. Thầy không có quan hệ với ngôn ngữ, thầy đã
đập vỡ chiếc cầu. Thầy sống không có ngôn ngữ. Thầy sống không có suy nghĩ. Thầy
sống trong mặc chiếu, trong im lặng, phản xạ trầm lặng. Thầy là tấm gương.
'Vì,' thầy đáp thẳng
thừng, nó làm ta chán ghét!'
Bây giờ điều này sẽ
phải được hiểu. Nó là biểu dụ Thiền.
Thiền nhân nói rằng
có vật lộn thường xuyên giữa cái đầu và cái bụng - và đầu biến thành bụng. Đầu
rất có tính phá huỷ với bụng. Bụng là trung tâm thực của con người bạn. Đầu đã
trở thành kẻ độc tài vì ngôn ngữ và lời và các lí thuyết và giáo dục và việc học
và tri thức. Đầu đã gần như trở thành trung tâm của bạn - nó không phải vậy. Đầu
đó có thể bị bỏ đi, và bằng việc bỏ nó bạn chẳng mất cái gì, bạn thu được nhiều.
Bằng việc bỏ nó bạn thu được tất cả. Sống bằng đầu bạn chỉ sống trong lời chết.
Chúng không thể thoả mãn cho bạn, chúng không thể giải thoát bạn. Đầu đấu lại bụng.
Mới đêm hôm nọ tôi đã
nói về một Thiền sư thường mang hai con búp bê quanh mình. Chúng gần như giống
nhau nhưng bên trong có khác biệt. Một con búp bê quá nặng trong đầu - kim loại
nặng nào đó phải đã được đặt vào bên trong đầu. Búp bê kia quá nặng ở mông.
Trong bụng kim loại nặng đã được đặt vào. Và chúng có vẻ giống nhau và chúng ăn
vận như nhau. Chúng bao giờ cũng ngồi bên ông ấy.
Và bất kì khi nào ai
đó tới và hỏi 'Thiền là gì?' hay 'Zen là gì?' và 'Làm sao đạt tới nó?' đầu tiên
ông ấy sẽ đẩy một con búp bê - con đầu nặng - và nó sẽ ngã xoài và sẽ không thể
nào trở lại được. Làm sao nó đứng dậy được? Cái đầu quá nặng. Thế rồi ông ấy sẽ
đẩy con búp bê kia - con có mông quá nặng, để cho bạn có thể liên tục đẩy,
nhưng nó bật lại và ngồi lại trong tư thế Phật.
Và thầy sẽ nói, 'Đây
là Thiền - cái bụng. Đây là phương Đông - cái bụng.'
Trong mọi nước phương
Đông cổ, đặc biệt ở Viễn Đông, họ bao giờ cũng nghĩ rằng con người sống trong bụng.
Vào thời xưa - chỉ một trăm năm trước - nếu bạn đi sang Nhật Bản bạn chắc đã thấy
những người mà nếu bạn hỏi họ 'Anh nghĩ ở đâu?' họ sẽ chỉ vào bụng họ - 'Chúng
tôi nghĩ ở đây'. Bây giờ họ đang biến mất, đặc biệt sau thế chiến thứ hai. Bản
thân nước Nhật Bản đã trở thành giống con búp bê thứ nhất - tác động của Mĩ quá
nhiều. Bây giờ họ sẽ cười và không ai sẽ nói cho bạn rằng họ nghĩ từ bụng - điều
đó có vẻ ngu xuẩn thế để nghĩ từ bụng. Bây giờ họ đã bắt đầu nghĩ từ đầu.
Nhưng nhấn mạnh này
là quan trọng. Bụng là cội nguồn sống của bạn. Bạn được nối với mẹ bạn qua rốn;
chính từ đó mà sự sống bắt đầu đập. Đầu là góc xa nhất của sự tồn tại của bạn,
trung tâm là rốn. Sự tồn tại của bạn, con người bạn, cư ngụ ở đó. Suy nghĩ của
bạn có thể ở trong đầu nhưng suy nghĩ là một chuyên môn hoá. Cũng như bạn dùng
tay vì chủ định nào đó, bạn dùng chân cho chủ định khác nào đó, bạn dùng mắt
cho chủ định khác nào đó, và tai và mũi... bạn dùng đầu cũng vậy, cơ chế não của
bạn, cho suy nghĩ.
Nhưng ai đang dùng tất
cả những cái này? Ai dùng chân để bước đi, ai dùng tay và ai dùng mắt? Thế rồi
ai dùng não? Bây giờ ngay cả trong tâm lí học phương Tây họ đang trở nên hoài
nghi về ý tưởng cũ của họ rằng não là tâm trí. Bây giờ hoài nghi lớn đã nảy
sinh: nó không là vậy. Bây giờ vài người đã bắt đầu nghĩ rằng não là khác với
tâm trí.
Và bạn đôi khi cũng
có những thoáng nhìn rằng não không phải là tâm trí. Chẳng hạn, bạn nhìn thấy một
người đi qua trên đường... Bạn nhớ mặt, bạn nhớ rằng bạn đã biết người này, bạn
nhớ rằng bạn phải biết tên của người đó và đột nhiên cái tên có đó trên lưỡi bạn.
Và bạn nói, 'Nó ngay trên đầu lưỡi tôi. Tôi biết nó có đó, nhưng nó không nhảy
ra.'
Bây giờ có hai điều.
Não cung cấp cái tên nhưng nó cần thời gian. Não nói, 'Đợi đi. Nó có đó trong hồ
sơ. Đợi đi.' Nhưng người đang đợi lại không là não - vì bạn biết, 'Vâng, nó phải
có đó.' Não là cái máy mà tâm trí đang dùng. Thế rồi bạn cố gắng vất vả và nó
không ra và, thất vọng, bạn bỏ toàn thể ý tưởng cố tìm này. Và bạn đi ra vườn
và bạn bắt đầu hút thuốc - và đột nhiên nó có đó.
Bạn và não của bạn là
hai thứ. Não là cái máy của bạn cũng như mọi thứ khác là máy của bạn. Tay này
là máy của tôi, tôi dùng nó. Não của tôi là máy của tôi, tôi dùng nó.
Trung tâm của tâm trí
ở đâu? Thiền nói nó ở dạ dầy, nó ở trong bụng, nó ở trong rốn - nơi đích xác, từ
đó rung động đầu tiên tới. Và thế rồi nó lan toả khắp. Quay lại tới nó đi.
Khi Thầy nói 'Vì nó
làm ta chán ghét' ông ấy đang nói rằng những người quá nhiều trí não đập mạnh
vào tâm trí ông ấy. Có rối loạn, chúng là mối phiền phức. Nó làm ta chán ghét.'
Đầu đối với bụng của
ông ấy có thể được cho trong nhiều phát biểu: trí năng đối với trực giác; logic
đối với yêu; ý thức đối với vô thức; bộ phận đối với toàn thể; việc làm đối với
việc xảy ra; chết đối với sống; việc có đối với việc hiện hữu. Bẩy cách phát biểu
này là có thể và tất cả bẩy cách phát biểu này là có ý nghĩa.
Trí năng là rất, rất
bị giới hạn; trực giác là vô hạn. Trực giác bao giờ cũng bắt nguồn từ bụng. Bất
kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó trực giác tới với bạn - linh cảm - nó bao giờ
cũng tới đích xác từ bụng. Bụng của bạn sẽ bị ảnh hưởng ngay lập tức. Khi bạn
rơi vào yêu bạn không cảm thấy rơi từ đầu - đó là lí do tại sao mọi người gọi
yêu là mù quáng. Nó là vậy, vì nó chẳng liên quan gì tới não. Khi bạn rơi vào
yêu, bạn rơi vào trong yêu từ nguồn khác nào đó. Nếu bạn hỏi các nhà khoa học lớn,
nhà thơ lớn, những người sáng tạo lớn, họ cũng sẽ nói rằng khi cái gì đó mới xảy
ra nó không bao giờ bắt nguồn từ não. Nó bắt nguồn từ đâu đó bên ngoài.
Bà Curie đã làm việc
vất vả về một bài toán toán học trong ba năm. Bà ấy đã làm mọi điều có thể được
làm. Bà ấy là thiên tài toán học và bà ấy đã thất bại, hoàn toàn thất bại. Thế
rồi một đêm bà ấy bỏ toàn thể ý tưởng này. Dường như bà ấy đã chẳng đi tới đâu
và rằng bà ấy sẽ chẳng đi tới đâu. Ba năm là thời gian rất dài cho một bài
toán.
Đêm đó bà ấy bỏ ý tưởng
này. Sáng hôm sau bà ấy định bắt đầu cái gì đó mới, làm việc trên dự án mới nào
đó. Và đêm đó nó đã được giải. Vảo nửa đêm bà ấy thức dậy, đi tới bàn và đã làm
toàn thể bài toán toán học, đã giải nó, trở lại và rơi vào giấc ngủ.
Đến sáng khi bà ấy
quay lại bàn làm việc bà ấy không thể tin được vào mắt mình vì không ai đã vào
phòng ngoại trừ người phục vụ đã tới ban đêm để chuẩn bị giường ngủ của bà ấy. Nhưng
người phục vụ không thể làm được điều này - bà Curie thậm chí đã không có khả
năng làm nó. Và thế rồi bà ấy nhìn thêm vào bản viết tay - nó đã là chữ viết
tay của bà ấy. Không đích xác nhưng nó đã là của bà ấy - bà ấy có thể thấy điều
đó. Có vẻ dường như bà ấy đã bị say – nó hơi chút mờ mờ, run run - nhưng nét chữ
đó là của bà ấy. Nó đã từ đâu tới?
Thế rồi bà ấy nhớ lại
giấc mơ đêm qua - rằng bà ấy đã mơ là bà ấy đi tới giải bài toán này và bà ấy
đã viết ra. Và thế rồi bà ấy nhớ lại toàn thể giấc mơ. Bà ấy đã giải nó trong
mơ. Não đã không làm việc. Từ não không có câu trả lời. Nó đã tới từ bụng, từ
tâm trí.
Đích xác cùng điều
này đã xảy ra cho Phật. Ông ấy đã làm việc trong sáu năm, thử đủ mọi cách có thể
để đạt tới chứng ngộ, và đã không thể đạt được. Cùng không gian đó đã tới với
bà Curie và một đêm ông ấy đã bỏ toàn thể dự định. Ông ấy nói, 'Không có đâu mà
đi và không có gì sẽ xảy ra và mình quên về nó.' Đêm đó ông ấy đã ngủ thảnh
thơi và đêm đó ông ấy đã trở nên chứng ngộ. Đến sáng khi ông ấy mở mắt ra ông ấy
đã là người khác toàn bộ. Cái gì đó đã xảy ra trong đêm. Từ đâu?
Nhưng nhớ - tại sao
điều đó xảy ra khi bạn đã làm mọi thứ bạn có thể làm? Vâng, nó chỉ xảy ra như
thế. Khi não bạn bị kết thúc tới mức tối đa chỉ thế thì trực giác bắt dầu làm
việc. Nó là năng lượng cao hơn. Bằng việc dùng não bạn một cách toàn bộ, bạn trở
nên có năng lực dùng nó - từ đó bạn có thể bước hướng tới trực giác.
Trực giác sẽ không
làm việc. Bạn có thể đi tới Bodh Gaya nơi cái cây, khi Phật ngồi dưới nó đã trở
nên chứng ngộ, vẫn còn sống và bạn có thể ngồi đó thảnh thơi và bạn có thể nói,
'Tôi bỏ tất cả.' Không cái gì sẽ xảy ra vì bạn không có bất kì cái gì để bỏ. Sáu
năm đó là điều phải có. Nỗ lực lớn được cần để đạt tới vô nỗ lực.
Trí năng đối với trực
giác, logic đối với yêu... Đây là hai phong cách hiện hữu khác nhau - logic và
yêu. Logic là tuyến tính; yêu là toàn bộ. Logic đi theo đường thẳng hệt như
ngôn ngữ đi theo đường thẳng. Bạn có quan sát điều này không? Ngôn ngữ đi theo
đường thẳng hệt như logic đi theo đường thẳng. Nhưng sự tồn tại không tuyến
tính. Sự tồn tại là đồng thời. Không phải là tôi đang tồn tại, thế rồi bạn tồn
tại, thế rồi ai đó khác tồn tại, thế rồi cây và thế rồi núi - chúng ta tất cả
cùng nhau tồn tại.
Ngôn ngữ là việc làm
sai lạc vì nó đặt mọi thứ vào một hàng. Bạn làm ra một câu: một lời đầu tồn tại,
thế rồi tới lời khác, thế rồi lại lời khác. Văn phạm làm thành chắc chắn lời
nào phải tồn tại trước, thế rồi tới cái gì, thế rồi tới cái gì - cách mọi thứ
phải đi theo.
Đó là lí do tại sao
chữ Trung Quốc là một trong những thứ chữ hay nhất - vì nó là ngôn ngữ tối thiểu.
Không có bảng chữ cái trong chữ Trung Quốc. Vì không có bảng chữ cái, chữ Trung
Quốc tồn tại đồng thời toàn bộ. Nó đúng với sự tồn tại hơn bất kì chữ nào khác.
Nó linh động hơn, nó không rất cố định. Nó giống yêu hơn giống logic. Nó nhiều
tính trực giác hơn. Nó tới từ bụng nhiều hơn. Nó có thể ngụ ý cả nghìn lẻ một
thứ. Vì điều đó, mọi người nghĩ nó rất phi khoa học. Nó là phi khoa học - yêu
là phi khoa học, sự tồn tại là phi khoa học. Nó có thể ngụ ý những điều khác
nhau. Nó nhiều tính thơ ca hơn.
Nhưng đó là cách nó
hiện hữu. Cây có thể ngụ ý cả nghìn lẻ một thứ, cây không có một nghĩa. Với hoạ
sĩ nó có nghĩa này, với tiều phu nó có nghĩa khác, với nhà thơ lại nghĩa khác
và với ai đó người không quan tâm chút nào nó không có nghĩa. Với đứa trẻ đang
chơi quanh nó, nó có nghĩa khác; với người tôn thờ cây nó là Thượng đế. Nó có cả
nghìn lẻ một nghĩa. Cây không bị hạn chế vào một nghĩa. Chữ Trung Quốc là tới mức
từng kí hiệu có thể ngụ ý nhiều thứ đồng thời. Bạn có thể chợt gặp nó từ nhiều
hướng.
Nhưng ngôn ngữ là tuyến
tính. Đường thẳng đi mãi; cái nọ tiếp cái kia mọi sự bắt đầu xảy ra. Trong
logic mọi thứ cũng bắt đầu xảy ra từng cái một. Và nếu thứ này xảy ra thế thì
thứ khác không thể xảy ra được. Thấy ra điều đó đi: nếu bạn nói một thứ thế thì
bạn không thể nói cái đối lập - bạn đã ngăn chặn nó. Trong sự tồn tại các cái đối
lập tồn tại cùng nhau. Sống tồn tại cùng chết; yêu tồn tại cùng ghét - không có
việc phủ nhận. Không phải là yêu tồn tại cho nên ghét không thể tồn tại. Chúng
tồn tại cùng nhau. Sáng tồn tại cùng tối - nhưng nếu bạn làm nó thành câu, nếu
bạn nói, 'Trong phòng này đã có sáng' bạn không thể nói ngay lập tức 'Trong
phòng này đã có tối'. Bây giờ điều đó đã trở thành không thể được. Bạn đã giới
hạn nó. Bạn đã bỏ điều nghịch lí. Sự tồn tại là nghịch lí.
Và tôi gọi Thiền là
con đường của nghịch lí. Nó là nghịch lí. Trực giác là nghịch lí. Nó không tuyến
tính, nó là đa chiều.
Ý thức đối với với vô
thức. Nhưng nhớ, khi tôi nói vô thức tôi không ngụ ý vô thức kiểu Freud. Đó là
vô thức rất nghèo nàn, vô thức rất nhỏ. Nó chỉ là ý thức bị đè nén, nó không là
mấy. Với Thiền vô thức là Thượng đế, với Thiền ý thức là nghèo - một phần nhỏ,
chỉ chỏm tảng băng. Vô thức là bao la, to lớn, khổng lồ, vô giới hạn. Ý thức phải
tan biến vào trong vô thức, không có điều khác - không phải là vô thức phải trở
thành ý thức. Và vô thức đó sống trong bụng.
Nhưng nhớ, từ 'vô thức'
không có nghĩa tốt. Dường như không có ý thức. Không, có một loại ý thức khác.
Không phải là loại ý thức này mà bạn biết, một loại ý thức khác, loại ý thức
tách rời, loại khác toàn bộ - không trực giác trí năng; không tổng hợp phân
tích; không phân chia được, không thể chia được.
Bộ phận đối với toàn
bộ. Đầu là một phần duy nhất bụng là tính toàn bộ của bạn. Đầu chỉ ở chu vi của
bạn, bụng là trung tâm của bạn.
Việc làm đối với việc
xảy ra. Với đầu mọi thứ là để được làm; nó là người làm lớn. Với bụng mọi thứ
chỉ xảy ra; không có làm.
Và chết đối với sống.
Trong đầu có tích luỹ chết vì mọi ý nghĩ là chết. Trong bụng sống rung động.
Và cuối cùng, việc có
đối với việc hiện hữu. Đầu là kẻ tích trữ nó là kẻ keo kiệt, nó liên tục tích
trữ. Toàn thể nỗ lực của nó là làm sao có nhiều hơn và nhiều hơn. Dù đó là tiền
bạc hay tri thức, không thành vấn đề nó có bất kì cái gì. Nhiều hơn và nhiều
hơn về cái đó - có nhiều đàn bà hơn có nhiều đàn ông hơn, có nhiều nhà hơn, có
nhiều tiền hơn, có nhiều quyền hơn, có nhiều tri thức hơn, nhưng có nhiều hơn.
Và cái đầu liên tục cố
có nhiều hơn vì nó nghĩ rằng bằng việc có nhiều hơn nó sẽ trở thành nhiều hơn.
Nó không bao giờ trở nên nhiều hơn vì việc có không bao giờ có thể được biến đổi
thành việc hiện hữu.
Cái bụng là trung tâm
của hiện hữu; nó không nghĩ dưới dạng có, nó nghĩ dưới dạng hiện hữu. Người ta
hiện hữu. Người ta tận hưởng khoảnh khắc này của sự đây này. Trong khoảnh khắc
đó của sự đây này mọi thứ là sẵn có - mọi phúc lành mọi ân huệ.
Thầy nói 'Vì nó làm cho ta chán ghét.' Thầy ngụ ý mọi điều này. Cái đầu có tính phá huỷ. Bỏ đầu đi. Nhưng bằng việc bỏ tôi không ngụ ý rằng bạn không dùng nó. Bạn phải dùng nó nhưng bạn không bị nó dùng.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục Lục Tập 1