Chương 9. Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh

Chương 9. Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh

Price:

Read more

Osho - Thiền động (Đi tìm điều huyền bí - Tập 2)
Chương 9. Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh

Ở trại thiền Nargol, Thầy đã nói rằng những thực hành yoga - asanas, pranayamas, mudras và bandhas - đã được phát hiện ra trong trạng thái thiền. Trong những trạng thái khác của thiền, những tư thế khác được thân thể hình thành để từ đó thiền nhân có thể đạt tới chiều sâu của thiền. Đảo lại, liệu cùng trạng thái bên trong đó có thể được đem lại bởi việc hình thành các tư thế cần thiết hay không? Trong trường hợp đó, liệu việc thiền có thể đạt tới được bằng việc dùng các asanas, pranayamas, mudras và bandhas không? Đâu là ích lợi và ý nghĩa của chúng?
Điều đầu tiên tới từ kinh nghiệm của thiền. Với kinh nghiệm của thiền người ta đã thấy rằng thân thể lấy nhiều tư thế. Thực tại, bất kì khi nào tâm trí đang ở một trạng thái đặc biệt, thân thể lấy một tư thế tương ứng thích hợp. Chẳng hạn, khi bạn tràn ngập tình yêu, khuôn mặt bạn, cách bầy tỏ của bạn đi theo một cách nào đó, còn khi bạn giận dữ, cách bầy tỏ của bạn trở thành khác hoàn toàn. Trong giận dữ bạn nghiến răng và siết chặt nắm đấm và thân thể sẵn sàng để đánh nhau hay bỏ chạy. Khi bạn đang trong tâm trạng khoan dung, đôi mắt mềm dịu và bàn tay để mở. Khi một người tràn đầy khoan dung, nắm tay người đó không bao giờ siết lại. Giống như siết chặt nắm tay là việc chuẩn bị để đánh nhau, việc mở nắm tay và trải rộng bàn tay là chỉ dẫn về việc thoát khỏi thôi thúc đánh nhau; nó là sự đảm bảo cho việc bảo vệ. Siết chặt nắm tay là để đe doạ người khác.
Bản chất của thân thể là ở chỗ nó vận hành tương ứng theo trạng thái của tâm trí. Thân thể tuân theo tâm trí: nó bao giờ cũng đi sau. Cho nên thông thường chúng ta biết một người sẽ làm gì trong giận và người đó sẽ làm gì trong yêu - cả việc người đó sẽ làm gì trong trạng thái tin cậy. Nhưng chúng ta không biết cách thức người đó phản ứng lại với những trạng thái sâu sắc hơn của tâm trí.
Khi những trạng thái sâu sắc được tạo ra trong tâm trí, rất nhiều điều cũng xảy ra trong thân thể nữa. Nhiều điệu bộ, cử chỉ, và nhiều tư thế asana xảy ra nói về những thay đổi bên trong. Thực tế, các động thái được hình thành vào lúc chuẩn bị cho những trạng thái bên trong đặc biệt. Các điệu bộ được hình thành về sau và chúng cho thông tin về trạng thái bên trong của người ta.
Khi thay đổi xuất hiện bên trong, thân thể phải tìm một sự điều chỉnh tương đương với những thay đổi bên trong đó. Khi kundalini thức tỉnh bên trong, thân thể sẽ lấy tất cả các tư thế bất thường để tạo đường cho năng lượng. Xương sống tự nó sẽ uốn theo nhiều cách để cho phép năng lượng đi lên. Đầu cũng lấy những vị trí khác nhau khi kundalini thức tỉnh. Thân thể lấy những tư thế mà chúng ta chưa bao giờ có trước đây. Cũng hệt như khi ta tỉnh dậy thân thể lấy vị trí đứng thẳng và khi chúng ta ngủ, thân thể phải nằm ra - nó không thể đứng hay ngồi.
Bây giờ giả sử có một người không biết đến ngủ là gì từ khi sinh: người đó sẽ chẳng bao giờ nằm cả. Nếu sau ba mươi năm người đó muốn ngủ, người đó sẽ  nằm xuống lần đầu tiên. Lần đầu tiên điều kiện tâm trí người đó sẽ thay đổi theo khía cạnh này và người đó sẽ đi ngủ. Tuy nhiên, người đó sẽ rất suy nghĩ bởi tư thế mới, vì thân thể người đó chưa bao giờ lấy tư thế đó trước đây. Cho tới nay người đó vẫn quen ngồi, đứng, bước, nhưng chưa bao giờ nằm xuống cả. Bây giờ người đó phải nằm xuống để cho điều kiện cần thiết cho giấc ngủ xảy ra bên trong mình. Khi thân thể nằm dài ra, tâm trí thấy dễ trượt vào điều kiện đặc biệt hơn. Nhưng những người khác nhau có những cách khác nhau để nằm ra bởi vì trạng thái tâm trí của mỗi người mỗi khác.
Chẳng hạn, người ở vùng bộ lạc không dùng gối khi ngủ, nhưng người văn minh lại không thể nào ngủ được nếu thiếu gối. Người bộ lạc ít nghĩ đến mức dòng máu chảy lên đầu cũng ít hơn nhiều. Để ngủ, điều cơ bản là dòng máu lên đầu phải ít nhất có thể được. Nếu quá nhiều máu, bạn sẽ không thể nào ngủ được. Nếu thần kinh trong bộ não không thảnh thơi, sẽ khó cho bạn thảnh thơi; máu sẽ cứ chảy lên não. Thế thì bạn phải thêm một cái gối nữa rồi gối nữa. Người ta càng văn minh và có giáo dục, người đó càng được mở mang, người đó lại càng cần nhiều gối dưới đầu hơn. Cổ phải gần như thẳng đứng để ngăn cản dòng máu lên đầu.
Tư thế của thân thể tương ứng với trạng thái tâm trí của người ta. Cho nên với thức tỉnh của năng lượng bên trong, những chuyển vận của nó theo nhiều cách bắt đầu hình thành. Các luân xa khác nhau cũng đưa thân thể tới các tư thế asana khác nhau. Vậy, nhiều tư thế được hình thành. Khi một trạng thái đặt biệt bắt đầu hình thành bên trong, cách biểu hiện của tay bạn, mặt bạn và mắt bạn cũng thay đổi. Điều này xảy ra trong thiền. Xem như kết quả, điều ngược lại cũng xuất hiện trong sự chú ý của con người: tức là, khi thực hiện những động tác này, có thể đi vào trong thiền được không? Cần phải hiểu điều này.
Trong thiền những quá trình này xảy ra; ấy thế mà chúng không phải là không tránh khỏi. Nói cách khác, tất cả các thiền nhân không trải qua cùng các quá trình thân thể. Một điều kiện phải được sinh ra trong tâm trí: trạng thái thân tâm của mọi thiền nhân là khác với trạng thái thân tâm của người khác - do đó, tất cả sẽ không trải qua cùng các động tác. Chẳng hạn, nếu dòng máu ít đi lên đầu của một thiền nhân và nếu lại cần dòng máu lớn hơn để thức tỉnh kundalini, người này, mặc dầu không biết, sẽ đi vào tư thế trồng cây chuối, shirshasana. Tất cả các thiền nhân sẽ không đi vào tư thế này bởi vì tỉ lệ dòng máu là khác nhau cho từng người; mỗi người có những yêu cầu khác nhau. Cho nên các động tác sẽ hình thành tương ứng theo nhu cầu của từng thiền nhân.
Khi bản thân chúng ta chọn một động tác và thực hành chúng, thế thì chúng ta không biết động tác đặc biệt nào là có ích hay cần thiết cho chúng ta. Các động tác có thể có hại cũng như có lợi. Nếu không được cần tới trong trường hợp của một thiền nhân đặc biệt, chúng có thể tỏ ra có hại - nếu chúng là cần thiết, chúng sẽ có ích. Một khó khăn là ở chỗ đây là điều bất định. Khó khăn nữa là ở chỗ khi cái gì đó xảy ra bên trong và đồng thời cái gì đó bắt đầu xảy ra bên ngoài nữa, thế thì năng lượng sẽ chuyển ra ngoài. Khi chúng ta thực hiện một hành động từ bên ngoài, nó có thể vẫn không khác gì việc biểu diễn vật lí.
Bây giờ như tôi đã nói, trong giận dữ, nắm tay siết lại một cách tự động. Nhưng đấy không nhất thiết là trường hợp bạn trở nên giận dữ bằng việc nắm tay lại. Chúng ta có thể diễn lại một hành động giận dữ trong khi không có bất kì giận dữ nào bên trong. Vậy mà nếu chúng ta muốn gợi lên cơn giận dữ bên trong, việc siết chặt nắm tay có thể có ích, nhưng chúng ta không thể nói chắc rằng giận dữ sẽ sinh ra. Nếu chúng ta phải chọn giữa siết chặt và không siết chặt nắm đấm, khả năng đem lại giận dữ nhất định sẽ nhiều hơn với việc siết chặt nắm đấm. Chút ít trợ giúp này là có thể.
Khi một người trong trạng thái an bình, tay người đó sẽ ở một điệu bộ cần thiết. Nhưng nếu một người luyện tập hình thành điệu bộ ấy của tay, không thể nói chắc rằng tâm trí người đó có đạt tới an bình không. Vậy mà những trạng thái đặc biệt của thân thể lại giúp cho tâm trí được an bình. Thân thể sẽ biểu lộ tính sẵn sàng của nó để hợp tác; thế thì để cho tâm trí làn điều cần thiết. Nhưng thay đổi thân thể không có nghĩa là tâm trí sẽ thay đổi, và lí do là ở chỗ trạng thái của tâm trí đi trước trạng thái của thân thể. Đó là lí do tại sao khi tâm trí thay đổi, thân thể thay đổi theo, nhưng việc thay đổi ban đầu trong thân thể nhiều nhất chỉ tạo ra một khả năng cho thay đổi trong tâm trí thôi. Điều đó không phải là điều chắc chắn.
Cho nên bao giờ cũng có nguy cơ lừa dối. Một người có thể thường xuyên thực hiện các động tác và điệu bộ và cho rằng mình đã làm mọi việc; những trường hợp như thế vẫn xảy ra. Trong hàng nghìn năm người ta đã tập các động tác và điệu bộ trong khi nghĩ rằng mình thực hành yoga. Thế rồi dần dần khái niệm về thiền bị mất đi trong yoga. Với từ yoga sadhana, điều đến trong tâm trí là asanas, pranayamas, vân vân. Nếu bạn hỏi ai đó yoga là gì, người đó sẽ nghĩ về asanas, pranayamas, và cứ như thế mà tiếp. Do đó, tôi bao giờ cũng nhấn mạnh rằng nếu các yêu cầu của một thiền nhân được hiểu đúng, những vị trí thân thể nào đó có thể tỏ ra có ích cho người đó. Nhưng kết quả là bất định. Đó là lí do tại sao tôi bao giờ cũng thiên về làm việc từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài.
Nếu cái gì đó bắt đầu từ bên trong, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của nó. Giả sử một thiền nhân ngồi thiền và tôi cảm thấy rằng bên trong người đó muốn bật khóc nhưng người đó phải kìm nó lại. Tôi có thể thấy rằng nếu người đó khóc trong mười phút, người đó sẽ bắt đầu chuyển biến và việc thanh tâm sẽ xảy ra. Tuy nhiên, người đó sợ rằng mình buột khóc cho nên người đó tự chặn mình lại. Bây giờ nếu người đó được phép không tự chặn mình lại mà cứ khóc, người đó ban đầu sẽ giả khóc. Nhưng trong hai hay ba phút, việc khóc đó sẽ trở thành chân thật khi xung động khóc đã vỡ bờ tràn ra từ bên trong. Quá trình khóc sẽ phá vỡ rào chắn và cái phải chảy ra sẽ ào ạt tuôn ra.
Thiền nhân khác cảm thấy muốn nhảy múa nhưng người đó phải kìm mình lại. Nếu chúng ta bảo người đó nhảy múa, ban đầu người đó sẽ chỉ đóng kịch: vì việc nhảy múa sẽ không đến từ bên trong. Một khi người đó bắt đầu nhảy múa, điều đó sẽ đem lại cho việc nhảy múa cơ hội để phá ra. Chẳng mấy chốc điều này sẽ bắt đầu và điệu vũ bên trong sẽ hội nhập vào với điệu vũ bên ngoài. Nhưng nếu không có lí do gì cho việc nhảy múa bên trong người đó và chúng ta bảo thiền nhân nhảy múa, người đó sẽ cứ nhảy múa mà chẳng có gì xảy ra cả.
Cho nên nhiều điều cần phải xem xét tới. Có nhiều, nhiều điều kiện cho tất cả mọi người mà tôi đã nói với các bạn. Nếu bạn nhớ những điều này trong tâm trí, bạn sẽ hiểu. Nếu bạn không muốn bị nặng gánh với tất cả những điều này, cách tốt nhất là bắt đầu từ bên trong và để cho mọi thứ xảy ra một cách tự phát. Đừng chặn biến cố bên ngoài, đừng đánh nhau với nó. Thế thì mọi việc sẽ tự nó xảy ra.

Trong những thực nghiệm thiền mà Thầy hiện đang hướng dẫn, đâu là khác biệt về vật lí và tâm lí đưa lại bởi việc ngồi hay đứng cho thực nghiệm đó?
Điều ấy tạo ra khác biệt lớn đấy. Như tôi đã nói với các bạn trước đây, sâu bên trong, mọi trạng thái thân thể đều có gắn với một trạng thái đặc biệt của tâm trí tương ứng với nó. Nếu chúng ta bảo một người thức khi người đó đang nằm, rất khó cho người đó làm như vậy; nếu chúng ta bảo người đó tỉnh táo khi người đó đang đứng, điều này sẽ dễ dàng. Nếu chúng ta bảo người đó ngủ khi người đó đang đứng, điều đó sẽ khó khăn; nếu chúng ta bảo người đó ngủ khi người đó nằm, điều đó sẽ dễ dàng.
Cho nên có quá trình kép trong đó có sợ là thiền nhân có thể rơi vào giấc ngủ hay mê đi. Nếu người đó đứng, việc này sẽ giúp xua đuổi sợ này. Nếu người đó đứng, khả năng mê sẽ kém đi.
Phần thứ hai của thực nghiệm này là thái độ chứng kiến - nhận biết. Ban đầu khó mà duy trì nhận biết khi nằm ra. Về sau điều đó sẽ dễ dàng. Bao giờ cũng dễ dàng duy trì việc chứng kiến khi bạn đứng. Quá trình khởi đầu thôi miên, mà thay vì thế sẽ đưa bạn vào giấc mê, sẽ bị thu hẹp lại rất nhiều bởi việc đứng.
Có hai hay ba điều nữa. Khi bạn đứng, chuyển động của thân thể là tự do; khi bạn nằm chuyển động của bạn sẽ không được tự do như thế. Khi bạn ngồi, nửa thân thể sẽ không thể nào tham gia vào hoạt động. Giả sử chân bạn muốn nhảy múa còn bạn đang ngồi: thế thì chân không thể nhảy múa được. Bạn thậm chí sẽ không biết chúng cần gì bởi vì chân không có cách nào tự bầy tỏ được. Có những hướng dẫn tinh tế mà chúng ta không nắm được. Nếu bạn đang đứng, chân sẽ bắt đầu đưa lên và bạn sẽ biết chúng muốn nhảy. Nhưng nếu bạn đang ngồi, hướng dẫn này không thể nào được truyền đạt ra.
Thực tại, truyền thống về ngồi thiền đặc biệt có nghĩa để kìm nén tất cả những chuyển động nảy sinh của thân thể. Siddhanasana, padmasana và sukhasana phải được thực hành mở rộng trước khi việc thiền được dạy để cho chuyển động của thân thể có thể được dừng lại. Cho nên khả năng của việc năng lượng dâng lên bên trong vẫn có đó từ ban đầu. Rất nhiều điều xảy ra như kết quả. Bạn cảm thấy muốn nhảy múa, ca hát, nhảy nhót, chạy. Những hành động xúc động này bao giờ cũng bị coi như là điên khùng. Người điên kêu khóc, cười nói, nhảy múa, nhảy nhót. Khi thiền nhân làm cùng điều đó, do vậy người đó sẽ bị coi dường như là điên.
Không phải dường như điên khùng trong xã hội, siddhasana, padmasana và những tư thế ngồi khác đã được công phu rất nhiều để cho thân thể được trong kiểm soát hoàn toàn. Thế thì thiền nhân sẽ không trông như điên khùng đối với thế giới. Bây giờ các tư thế ngồi padmasana, sukhasana và siddhasana là để cho chúng làm cho chân bạn thành cứng nhắc. Trọng lượng của bạn lớn hơn khi gần đất, khi xa đất, nó trở thành nhẹ bớt đi. Phần mông bạn trở nên nặng nề tựa như ngôi đền hay kim tự tháp: rộng đáy, hẹp trên đỉnh. Thế thì khả năng chuyển động là rất tối thiểu - gần bằng không.
Việc chuyển động tối đa là có thể khi bạn đứng - khi không có gì giữ bạn cố định. Khi bạn xếp chéo chân và ngồi, bạn tạo thành một chân đế không thể di động nổi. Phần lớn thân thể bạn được cố định bởi trọng lực, cái vẫn luôn nắm giữ nó. Thế rồi bạn để tay theo cách mà khả năng chuyển động bị giảm tối thiểu. Xương sống nữa cũng được dựng thẳng và cố định. Trước khi bạn sẽ được phép đi vào trong thiền, kiểu động tác này phải được làm hoàn hảo trước hết qua một thời kì tập luyện dài.
Theo cách tiếp cận của tôi, vấn đề là đối lập lại. Theo quan điểm của tôi, chẳng có mấy khác biệt cơ bản giữa chúng ta và những người điên. Tất cả chúng ta đều là người điên bị kìm ném; cái điên của chúng ta là cái điên bị kìm nén. Bạn có thể nói rằng chúng ta là điên theo cách bình thường hay chúng ta là "điên thông thường." Có nhiều điểm chung giữa chúng ta và điên khùng... Nhưng người tiến thêm chút nữa trong điên khùng của mình, thấy mình gặp rắc rối, nhưng điên khùng vẫn nằm  quanh chúng ta và nó cố gắng tìm lối ra của mình.
Khi bạn giận dữ, bạn tạm thời hoá điên. Vào những lúc như thế bạn làm những điều mà bạn sẽ không bao giờ mơ tới việc làm đó khi bạn có ý thức. Bạn sẽ chửi rủa, ném đá, đập phá đồ đạc. Bạn thậm chí còn có thể nhảy từ mái nhà; bạn có thể làm bất cứ điều gì. Nếu một người điên làm những việc này, chúng ta có thể hiểu được, nhưng khi một người "bình thường" làm điều này, chúng ta đơn thuần nói rằng người đó giận dữ. Bây giờ đây chính là cùng người "bình thường" đó, và nếu những điều này không phải là ở bên trong người đó, chúng phải không ló ra. Tất cả những điều này là ở bên trong chúng ta và tất cả chúng ta đều canh giữ nó. Việc hiểu của tôi là ở chỗ trước khi đi vào thiền, điều cần thiết là tất cả những điều này phải được tống ra hết từ bên trong. Bạn càng xả bớt cái điên khùng này đi bao nhiêu, tâm trí bạn sẽ càng được nhẹ thêm đi bấy nhiêu.
Do đó, trong khi phương pháp siddhasana cổ phải mất nhiều năm mới cho kết quả, phương pháp mới này thực hiện cùng nhiệm vụ đó chỉ trong trong vài tháng. Phương pháp cổ phải tốn nhiều lần sinh thành để hoàn thành nó; phương pháp mới này có thể chỉ tốn vài tháng. Cái điên khùng bên trong phải được xả ra, nhưng trong phương pháp cổ, thanh tâm được tiến hành trong thể ê te thay vì trong thể vật lí. Bây giờ điều này là cái gì đó khác hẳn, bởi vì cười, khóc, múa, vân vân tất cả đều bên trong bạn, và điều tuyệt đối cần thiết là phải cho chúng ra.
Nếu bạn đã huấn luyện thể vật lí của mình một cách rộng rãi để hoàn toàn tĩnh lặng trong hàng giờ cho đến cuối, thế thì bạn sẽ thực hiện thanh tâm qua thể ê te của mình. Thế thì điều đó sẽ không thấy được đối với người khác ngoài bạn. Bạn bây giờ tự bảo vệ mình đối với xã hội; bây giờ không ai biết khi nào bạn nhảy múa hay ca hát vì bạn sẽ chỉ làm như vậy ở bên trong. Việc nhảy múa và ca hát này sẽ dường như trong mơ. Bạn sẽ nhảy múa bên trong, kêu khóc bên trong, cười bên trong, nhưng thể vật lí của bạn, chẳng lộ ra bằng chứng nào về điều đang xảy ra bên trong bạn. Nó sẽ vẫn ngồi tĩnh lặng mà không có dấu vết nào về việc xảy ra bên trong.
Quan điểm của tôi là ở chỗ không đáng phải trải qua quá nhiều rắc rối để được điều nhỏ bé như thế. Chẳng có gì quan trọng trong việc làm cho người tìm kiếm mất nhiều năm để rèn luyện thể chất trước khi đưa người đó vào thiền. Cũng còn có những khả năng khác nữa. Nếu một người trở nên rất thành thạo trong việc kiểm soát thân thể mình và thành công trong việc kìm nén hoàn toàn thân thể vật lí của mình, có khả năng là không có rung động nào sẽ nảy sinh trong thể ê te và nó có thể trở thành hoàn toàn trơ ì. Dưới những điều kiện như thế thì có thể là những quá trình không sâu sắc sẽ xảy ra bên trong bạn nhưng bạn sẽ thành công đơn thuần trong việc ngồi im như bức tượng. Bây giờ dưới những điều kiện như thế thì khi tất cả các quá trình đều bị kìm nén bên trong, có nỗi sợ của người này trở thành điên khùng.
Trong quá khứ người ta đã thấy các thiền nhân bị phát điên. Tuy nhiên phương pháp mà tôi đề ra ở đây, nếu được thực hành, ngay cả người điên trong vòng một hay hai tháng, cũng sẽ thoát khỏi điên khùng của mình. Không thể nào có chuyện một người bình thường lại trở thành điên khi thực hành phương pháp này, bởi vì trong phương pháp của tôi, chúng ta không kìm nén cái điên khùng bên trong chúng ta, chúng ta khơi nó ra. Các phương pháp thiền cũ đã biến nhiều người thành điên khùng, và sự kiện này đã bị che đậy bởi những từ ngữ hoa mĩ. Chúng ta sẽ nói về một người như thế là "Ông ấy sướng điên; ông ấy say về Thượng đế; ông ấy đã trở thành thánh." Nhưng sự kiện còn lại là ông ấy đã hoàn toàn phát điên. Ông ấy đã kìm nén đôi điều bên trong mình tồi tệ đến mức chúng trở thành hoàn toàn vượt ra ngoài kiểm soát của ông ấy.
Phương pháp này làm hai việc. Nhiệm vụ thứ nhất nó thực hiện là ném đi tất cả những rác rưởi vẫn có bên trong bạn bằng cách thanh tâm. Trước hết bạn phải trở thành vô trọng lượng - vô trọng lượng đến mức không một dấu vết nhỏ nhặt nào của cái điên khùng là còn lại bên trong; thế rồi bạn du hành bên trong. Cho nên điều dường như rõ ràng giống như điên khùng trong phương pháp này, về bản chất là quá trình làm cho bạn thoát khỏi tất cả các cái điên khùng. Tôi ưa thích rằng cái ở bên trong bạn sẽ đi ra, và với nó, gánh nặng, căng thẳng, lo âu cũng đi ra.
Sự kiện thú vị nhất là ở chỗ khi điên khùng tới với bạn, bạn không kiểm soát được nó. Nhưng bạn là người chủ của cái điên khùng mà bạn vẫn thường đem bên mình. Một khi bạn nhận biết về sự kiện này, cái điên khùng sẽ chẳng bao giờ chiếm giữ được bạn.
Xét một người đang nhảy múa, ca hát hay cười nói, hò hét theo ý riêng của mình: người đó đang làm tất cả những cái mà người điên làm. Chỉ có khác biệt này: với người điên, mọi sự tự chúng xảy ra trong khi thiền nhân đem chúng tới. Không có hợp tác hoàn toàn của thiền nhân, cái điên khùng này không thể kéo dài được một khoảnh khắc. Người đó có thể dừng lại vào khoảnh khắc người đó muốn. Bây giờ người đó chẳng bao giờ có thể phát điên, bởi vì người đó đã sống cái điên khùng, thấy cái điên khùng, trở nên quen thuộc với cái điên khùng. Bây giờ điều này đã trở thành một biến cố tự nguyện cho người đó; cái điên khùng bây giờ ở trong phạm vi kiểm soát của người đó.
Nền văn hoá của chúng ta đã đào tạo chúng ta theo cách mà cái điên khùng nằm ngoài sự kiểm soát của ta; nó đã trở thành không tự nguyện. Vậy, khi nó xảy ra cho chúng ta, chúng ta không thể nào làm bất kì cái gì về nó.
Tôi coi phương pháp này là rất có giá trị cho nhân loại tương lai, bởi vì toàn bộ nền văn minh hàng ngày đều phải đương đầu với cái điên khùng toàn bộ. Mọi người sẽ cần kĩ thuật này để loại bỏ cái điên khùng của mình; không có cách nào khác.
Nếu người ta tống khứ đi cái điên khùng của mình theo cách này trong một giờ thiền, mọi người sẽ dần dần quen với phương thức thiền này. Mọi người sẽ biết rằng con người này đang thiền. Tuy nhiên, nếu người ta thực hiện hành động tương tự bên hè đường, người ta sẽ bị tống vào nhà giam. Nếu người đó xả ra sự giận dữ của mình giữa mọi người, tất cả các mối quan hệ của người đó sẽ trở nên xấu và tan vỡ.
Cái điên khùng này phải ra đi theo cách này hay cách khác, nếu không người đó sẽ gặp khó khăn. Nếu người đó không cho phép nó được xả ra một cách tự nguyện, cái điên khùng này sẽ tìm hàng trăm cách để nổ bùng ra. Đôi khi người ta trở thành say khướt để cho cái điên khùng đi ra khỏi mình; đôi khi người đó bộc lộ điên khùng của mình trong nhảy múa điên cuồng. Nhưng tại sao phải đi qua tất cả những rối loạn này? Bây giờ những cách nhảy múa mới, như nhảy múa quay tít, vân vân, không phải là biến cố ngẫu nhiên nữa. Bên trong thân thể muốn chuyển động và chúng ta không dành chỗ nào cho việc chuyển động. Vậy nó sẽ tự thu xếp cho chính nó và thế thì nó lại dệt thêm mạng nhện bên trong những thu xếp này.
Thiền đang ném đi cái điên khùng mà không cần những thu xếp thay thế này. Trong thiền chúng ta đơn thuần ném đi cái mà ta biết là ở bên trong chúng ta và cái mà chúng ta biết cần phải vứt đi. Nếu chúng ta dạy phương pháp thanh tâm này cho trẻ nhỏ cùng với việc giáo dục, sẽ có sụt giảm hẳn số người điên. Cái điên có thể bị loại bỏ vĩnh viễn. Nhưng thay vì thế chúng ta thấy nó tăng lên hàng ngày. Khi xã hội chúng ta tiến bộ thêm nữa, nó ngày càng quá khích hơn.
Nền văn hoá dạy chúng ta kìm nén. Qui ước thông thường không cho phép chúng ta khóc to hay cười to; nó không cho phép chúng ta nhảy múa hay gào thét như ta muốn. Nó dồn sức ép lên chúng ta từ mọi phía với kết quả là tất cả những cái cần phải xảy ra bên trong chúng ta đều bị kìm nén lại. Thế rồi một hôm nào đó sức ép bị tích luỹ của những xúc động này bùng nổ và tình huống này vượt ra ngoài kiểm soát của chúng ta. Vậy, thanh tâm là bước đầu tiên trong phương pháp thiền của chúng ta, và qua nó chúng ta xả ra tất cả những xúc động bị dồn nén bên trong.
Chính bởi lí do này mà tôi khuyên nên đứng trong khi thực nghiệm, bởi vì thế thì bạn sẽ nhận biết về chuyển động nhỏ bé nhất bên trong và bạn sẽ có khả năng di chuyển tự do. Thiền nhân nên ở trong một phòng đóng kín. Người đó không chỉ nên đứng, mà người đó nên hoàn toàn ở trần để cho không một mảnh quần áo nào có thể gây ra cản trở cho người đó. Người đó nên hoàn toàn được tự do để cho tất cả mọi chuyển động xảy ra. Không nên có chướng ngại dù là nhỏ nhặt nhất trong bất kì phần nào của tính cách người đó mà cản trở chuyển động. Thế thì người đó sẽ thu được tiến bộ nhanh chóng và cái mà phải mất nhiều năm hay thậm chí nhiều kiếp để đạt được qua hatha yoga và các yoga khác, sẽ xảy ra trong quá trình vài ngày theo phương pháp này.
Những công phu yoga kéo dài sẽ không có tác dụng cho thế giới; bây giờ người ta không có ngày hay thậm chí giờ rảnh nữa. Chúng ta cần các phương pháp cho kết quả nhanh chóng. Nếu một người cam kết luyện tập trong bẩy ngày, đến cuối thời kì đó người đó nên cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy ra cho mình. Người đó nên trở thành con người khác trong thời gian bẩy ngày. Nếu một thực nghiệm cho kết quả chỉ sau bẩy lần sinh, chẳng ai sẽ tới gần thực nghiệm ấy nữa. Các phương pháp cũ nói kết quả tới sau nhiều lần sinh. Họ quen nói, "Tiến hành thực nghiệm này trong kiếp này và kết quả nhất định sẽ tới trong kiếp khác." Đấy là những người rất kiên nhẫn và bền bỉ. Họ tiến hành thiền cho dù kết quả được hứa hẹn ở những kiếp sau. Bây giờ bạn sẽ không tìm được người như thế. Nếu kết quả không đạt được ngay chính hôm nay, chẳng ai sẵn lòng chờ đợi dù là đến mai.
Và ai có thể tin vào ngày mai được? Kể từ khi bom nguyên tử rơi xuống Hirosima và Nagasaki, ngày mai của chúng ta đã tan biến rồi. Hàng nghìn thanh niên nam nữ Mĩ từ chối đến trường đại học. Họ nói, "Liệu thế giới có còn nguyên vào lúc chúng ta kết thúc việc học tập không? Người ta chẳng bao giờ biết điều gì có thể xảy ra vào ngày mai cả." Họ cảm thấy đấy là lãng phí thời gian. Họ trốn khỏi trường học và trường đại học. Họ biện minh với bố mẹ: "Trong sáu năm chúng con vào đại học, liệu thế giới có tồn tại nữa hay không? Bố mẹ có đảm bảo điều đó không? Tại sao chúng ta không dùng tất cả sáu năm quí giá này trong cuộc sống của mình?"
Khi ngày mai đã trở thành bất định thế, thật là vô nghĩa để nói theo kiểu nhiều lần sinh thành. Không ai sẵn sàng lắng nghe, không ai nghe nữa. Cho nên tôi nói công phu hôm nay và cảm thấy kết quả ngay lập tức. Nếu một người sẵn lòng trao cho tôi một giờ làm thực nghiệm này, người đó nên thu được cảm giác về kết quả sau chính giờ này. Chỉ thế thì người đó mới có thể trao cho tôi một giờ của thời gian ngày mai của người đó; bằng không, chẳng chắc là người đó sẽ thực hiện nó vào ngày mai. Cho nên yêu cầu đã thay đổi cho thời đại này. Trong thế giới của xe bò kéo mọi thứ đều chuyển động chậm chạp, cho nên thiền cũng chuyển động với nhịp độ rất chậm chạp. Bây giờ là thời đại phản lực; bây giờ thiền không thể nào chịu đựng được chậm trễ. Nó phải tăng tốc lên.

Xin thầy giải thích ý nghĩa và nghĩa của điều sau đây đối với năng lượng của kundalini: nằm phủ phục trên đất trong kính trọng một người linh thiêng, chạm vào chân người đó bằng đầu hay tay, cúng dường tại các chỗ thiêng liêng, ân huệ của một người thiêng liêng được trao bằng việc chạm vào đầu hay lưng người tìm kiếm, người Sikh và người hồi giáo quấn đầu khi đi vào trong đền thờ hay gurudwara.
Có nhiều lí do cho những điều này. Như tôi đã nói trước đây, khi chúng ta tràn đầy giận dữ, chúng ta cảm thấy muốn đánh ai đó; chúng ta cảm thấy muốn dẫm lên đầu người đó. Vì điều này quá ư không thực tế nên chúng ta làm điều tiếp sau tốt nhất: ta ném giầy vào người đó. Rất khó làm cho người cao mét bẩy phải nằm dưới chân ta, cho nên chúng ta ném giầy vào đầu người đó như một biểu tượng cho thôi thúc của giận dữ bên trong ta. Nhưng chẳng ai hỏi đâu là lí do nằm sau việc ném giầy này. Và đây không phải là hành động do một giáo phái hay một nước ham muốn; nó là phổ quát. Chính sự kiện là bất kì khi nào một người giận dữ với người khác, ham muốn tràn ngập của người đó là dẫm lên đầu của người kia dưới chân mình.
Khi con người vẫn còn nguyên thuỷ, có lẽ con người chỉ nghỉ sau khi đã dẫm chân lên đầu địch thủ vì con người còn chưa có giầy. Cho nên khi bạn đang trong trạng thái giận dữ, bạn cảm thấy muốn dẫm chân lên đầu ai đó. Tuy nhiên, điều đối lập lại cũng đúng: khi bạn tràn ngập tin cậy và tôn kính, bạn cảm thấy phải đặt đầu dưới chân ai đó. Có nhiều lí do cho điều này cũng như là đã có nhiều lí do cho tình huống trước đây.
Có những khoảnh khắc bạn cảm thấy phải phủ phục xuống, và đấy chính là những khoảnh khắc khi bạn cảm thấy năng lượng sống tuôn chảy từ ai đó vào bạn. Thực tế, bất kì khi nào bạn muốn nhận bất kì luồng năng lượng nào bạn đều phải cúi mình xuống. Nếu bạn muốn trút đầy nước sông vào cái bình của mình, bạn phải cúi người xuống. Người ta phải cúi mình để nhận được bất kì luồng nước nào bởi vì tất cả các luồng nước đều chảy xuống. Cho nên nếu bạn cảm thấy rằng cái gì đó đang chảy xuống từ ai đó, đầu bạn càng cúi thấp xuống và khoảnh khắc đó, bạn càng nhận được nó nhiều hơn.
Thứ hai là năng lượng chảy từ các cực điểm của người ta: chẳng hạn, từ các ngón tay, ngón chân. Năng lượng không chảy ra từ mọi chỗ. Năng lượng sinh học, hay năng lượng của shaktipat, hay với vấn đề đó bất kì năng lượng nào chảy ra từ thân thể, đều chảy ra từ đầu ngón tay hay ngón chân. Nó không chảy từ toàn bộ thân thể mà chỉ từ các cực điểm. Cho nên người phải nhận năng lượng sẽ đặt đầu mình xuống dưới chân thầy và người muốn trao năng lượng sẽ đặt tay lên đầu của người nhận.
Những điều này là vấn đề rất huyền bí và khoa học. Cũng tự nhiên mà nhiều người sẽ bắt chước hành động này. Hàng nghìn người đặt đầu dưới chân người khác mà chẳng có mục đích nào cả, và có hàng nghìn người đặt tay lên đầu người khác cũng chẳng có nghĩa lí gì. Vậy một nguyên lí rất sâu sắc đã dần trở thành một lễ nghi đơn thuần. Khi lễ nghi tiếp tục trong một thời gian dài, người ta nhất định nổi dậy chống lại nó. Họ sẽ nói, "Cái điều vô nghĩa gì thế này? Cái gì tới từ việc đặt đầu dưới chân người khác? Và điều gì xảy ra đơn thuần bởi việc chạm vào đầu?" Chín mươi chín phần trăm số lần điều ấy chỉ là vô nghĩa; tuy nhiên, một phần trăm vẫn còn có nghĩa.
Đã có thời một trăm phần trăm lần đều có nghĩa bởi vì nó là tự phát. Bạn không chạm vào chân ai đó bởi vì bạn nghĩ bạn phải làm như thế. Đôi khi, khi bạn cảm thấy bạn phải sụp xuống dưới chân ai đó, đừng kìm mình lại: cứ sụp xuống! Và đấy không phải là người khác phải đặt tay lên đầu người nhận. Việc xảy ra là trong khoảnh khắc nào đó là bàn tay trở nên rất nặng và cái gì đó sẵn sàng chảy ra từ nó. Nếu người khác đã sẵn sàng nhận, chỉ thế thì tay mới được đặt lên đầu. Nhưng qua một thời kì dài mọi thứ biến thành một nghi lễ đơn thuần mà điều này, trở thành vô nghĩa. Và khi nó trở thành vô nghĩa, nó bị phê phán. Những phê phán này mang sức lôi cuốn rất lớn vì khoa học đứng sau truyền thống này đã bị mất. Cho nên điều này là một cử chỉ rất có ý nghĩa, nhưng nó chỉ có nghĩa khi có một bậc thầy sống và một đệ tử tiếp nhận.
Một người sụp mình dưới chân một Phật, một Mahavira, và kinh nghiệm thấy sự say mê duy  nhất; người đó cảm thấy ân huệ đổ xuống từ ông ấy. Không ai sẽ có thể thấy điều này từ bên ngoài bởi vì đây là toàn bộ biến cố ở bên trong. Nó là thực tại cho người đã kinh nghiệm nó. Nếu người khác yêu cầu bằng chứng về nó, người này chẳng có gì để đưa ra cả. Thực tế, đây là khó khăn cho mọi hiện tượng huyền bí: cá nhân có kinh nghiệm nhưng người đó không có bằng chứng về nó để đưa ra trước người khác. Thế thì người này dường như là người tin tưởng mù quáng. Người này nói, "Tôi không thể diễn tả được nó, nhưng cái gì đó đã xảy ra." Những người còn chưa kinh nghiệm, từ chối tin điều này vì họ chẳng cảm thấy gì cả. Thế thì họ cảm thấy rằng con người đáng thương này đang trong ảo tưởng.
Nếu một người như thế sụp mình xuống dưới chân Jesus, chẳng có gì sẽ xảy ra cho người đó và người đó sẽ bắt đầu tuyên bố to rằng tất cả những điều này là vô nghĩa: người đó đã đặt đầu xuống dưới chân Jesus mà chẳng có gì xảy ra cả. Cũng hệt như bình nước với miệng bình mở được nhấn xuống nước. Khi được lấy lên nó nói, "Tôi đã được nhấn xuống nước và đã tràn đầy." Bây giờ một cái bình khác có miệng bình đóng kín có thể bắt đầu tự mình thử việc ấy. Nó có thể đi sâu vào trong dòng sông những sẽ trở ra trống rỗng. Thế rồi nó sẽ xác nhận rằng tất cả đều là sai và chẳng ai được múc đầy bởi việc nhúng sâu vào trong dòng sông. Nó sẽ tuyên bố, "Tôi đã cúi mình xuống, tôi đã nhúng mình vào, nhưng tôi trở lại trống rỗng."
Đấy là một biến cố hai mặt. Năng lượng chảy từ một người vẫn chưa đủ; điều quan trọng tương đương là bạn phải trống rỗng và cởi mở. Nhiều lần luồng chảy của năng lượng từ ai đó không quan trọng như việc chuẩn bị của bạn, sự cởi mở của bạn để đón nhận nó. Nếu bạn đủ cởi mở, thế thì thậm chí nếu năng lượng không có trong người đứng trước bạn, những nguồn năng lượng cao hơn ở trên người đó sẽ bắt đầu chảy về phía bạn và đạt tới bạn. Cho nên điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ nếu bạn để cho bản thân mình sống toàn tâm toàn ý thậm chí ngay trước một người mà chẳng có gì cho bạn, bạn sẽ vẫn cứ nhận được năng lượng từ người đó. Nhưng năng lượng không đến từ người đó; người đó chỉ là trung gian và người đó hoàn toàn không hay biết gì về biến cố đã xảy ra.
Bây giờ đến phần thứ hai trong câu hỏi của bạn về việc đi vào đền thờ hay gurudwara với cái đầu được quấn khăn. Nhiều thầy tu khổ hạnh ưa thích quấn đầu và thế rồi thực hành thiền. Việc đó có ích của nó. Khi năng lượng thức tỉnh, có khả năng đầu trở thành rất nặng. Nếu bạn quấn đầu bằng một tấm vải, năng lượng này không thể chảy đi được. Thế thì năng lượng này sẽ tạo ra một mạch bên trong bạn và do vậy làm mạnh thêm việc thiền của bạn. Cho nên kiểu quấn đầu này tỏ ra rất có ích. Nếu bạn thiền với đầu được quấn khăn, bạn sẽ cảm thấy khác ngay lập tức. Thế thì điều có thể được hoàn thành trong mười lăm ngày cũng có thể được hoàn thành trong năm ngày.
Khi năng lượng đạt tới đầu, cũng có các cơ hội nó trở nên bị phân tán và rải rác đi. Nếu nó có thể bị buộc lại và nếu một mạch như vậy được hình thành, kinh nghiệm của bạn sẽ sâu sắc hơn nhiều. Nhưng hiện tại việc quấn đầu này trong các đền thờ hồi giáo và gurudwara chỉ là nghi lễ đơn thuần; bây giờ nó chẳng có nghĩa gì. Tuy thế thì sự kiện vẫn còn đấy là có nhiều ý nghĩa đằng sau tục lệ này.
Bây giờ có thể hiểu được rằng một năng lượng nào đó có thể nhận được bằng việc chạm vào chân ai đó hay qua tay người đó đưa lên ban ân huệ. Nhưng một người cúi mình trước một nấm mồ hay trước hình ảnh trong đền, người đó có thể thu được gì? Có nhiều điều trong việc này cũng cần phải được hiểu. Đằng sau việc tạo ra hình ảnh và thần tượng có thu xếp rất khoa học.
Giả sử rằng tôi sắp chết và có vài người quanh tôi, những người yêu mến tôi, người đã thấy cái gì đó trong tôi, người đã tìm kiếm và đã thấy điều gì đó ở tôi. Bây giờ những người này có thể hỏi tôi họ nên tưởng nhớ tới tôi theo cách nào. Cho nên trước khi tôi chết có thể thiết lập biểu tượng giữa chúng tôi. Nó có thể là bất kì cái gì - thần tượng, hòn đá, cây, thậm chí cái bục, hay nấm mồ của tôi, samadhi của tôi, hay một mẩu quần áo của tôi, hay đôi dép của tôi - bất kì cái gì. Nhưng vật này phải được quyết định trước giữa chúng tôi; nó là hiểu biết giữa chúng tôi. Nó không thể được quyết định chỉ bởi riêng bất kì một bên nào; tôi phải là một nhân chứng. Sự chấp nhận của tôi, sự chuẩn y của tôi là cần thiết đối với biểu tượng này. Thế thì tôi có thể nói rằng nếu họ ra trước biểu tượng đó và nghĩ về tôi, tôi sẽ hiện diện trong trạng thái vô thân thể. Lời hứa mà tôi đã đưa ra, và tất cả những công việc đều tiến hành tương ứng với lời hứa này. Và điều này là hoàn toàn đúng.
Do đó, có những ngôi đền là ngôi đền sống và những ngôi đền là đền chết. Đền chết là những đền đã được tạo ra chỉ bởi một phía; không có sự đảm bảo từ phía bên kia. Đấy là mong ước của chúng ta để làm ra ngôi đền về Phật - nhưng đây sẽ là một ngôi đền chết bởi vì Phật chẳng đưa ra bất kì lời hứa nào đối với nó. Có những ngôi đền sống mà có sự đảm bảo từ phía bên kia nữa, và tại nền tảng của nó có tuyên bố của một người thần thánh nào đó.
Có một nơi ở Tây Tạng mà lời đảm bảo của Phật đã được thực hiện từ hai nghìn năm trăm năm qua. Tuy nhiên, nơi này bây giờ đang trong khó khăn. Có một nhóm, một uỷ ban năm trăm lạt ma, và khi một trong năm trăm người này chết, sẽ rất khó để thay thế người đó. Số năm trăm này là hằng số; không thể nhiều hơn hay ít hơn được. Khi một trong số họ chết, một người nữa sẽ được chọn, nhưng chỉ với sự chấp thuận của bốn trăm chín mươi chín người. Và nếu dù chỉ một người trong số bốn trăm chín mươi chín người từ chối chấp nhận người đó, người đó cũng không thể được chọn. Uỷ ban năm trăm lạt ma này họp lại trên một vùng núi đặc biệt vào đêm Phật Poornima - đêm trăng tròn tháng năm để kỉ niệm ngày sinh Phật - và vào đúng giờ đã xác định, người ta nghe thấy tiếng nói của Phật. Biến cố này không thể xảy ra tại bất kì chỗ nào khác và với bất kì người nào khác. Nó xảy ra đích xác theo sắp xếp đã hứa hẹn.
Cũng hệt như nếu bạn quyết tâm trước khi ngủ đêm rằng bạn sẽ dậy buổi sáng vào lúc năm giờ: thế thì bạn không cần chuông báo thức để đánh thức mình. Vào đúng năm giờ bạn sẽ đột nhiên tỉnh dậy. Đây là một điều gì đó khá ngạc nhiên - và bạn có thể kiểm tra điều đó theo đồng hồ. Đồng hồ có thể sai nhưng bạn thì không. Nếu quyết tâm của bạn là vững chắc, bạn sẽ chắc chắn dậy lúc năm giờ.
Nếu bạn kiên quyết nhất định chết vào một ngày nào đó trong năm nào đó, chẳng có sức mạnh nào trên thế giới này có thể dừng được bạn: bạn sẽ chết vào khoảnh khắc đã quyết định đó. Nếu quyết tâm của bạn rất sâu sắc và mạnh mẽ, bạn cũng có thể hoàn thành lời hứa của mình thậm chí sau khi chết. Chẳng hạn, sự xuất hiện của Jesus sau cái chết: đó là một lời hứa được thực hiện. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho người Ki tô giáo, bởi vì họ không biết điều đã xảy ra về trước và do vậy họ không chắc liệu Christ có phục sinh hay không. Tuy nhiên, đây là một lời ông ấy đã hứa với một số tông đồ, điều này đã được thực hiện sau cái chết.
Thực tế, những nơi mà lời hứa sống động nào đó vẫn được thực hiện qua hàng nghìn năm đã dần dần biến thành tirths, nơi thần thánh cho việc hành hương. Thế rồi dần dần những lời hứa cũng bị lãng quên. Chỉ một điều còn lại trong kí ức mọi người - rằng họ phải tới và viếng thăm những nơi này; có vậy thôi.
Có những lời hứa mà Mohammed đã đưa ra; có những lời hứa mà Shankara đã đưa ra. Rồi cũng những lời hứa đã được Phật, Mahavira và Krishna đưa ra, và những lời hứa đó gắn với những nơi đặc biệt, những khoảnh khắc đặc biệt và với những thời gian đặc biệt. Nhưng chúng ta vẫn có thể thiết lập mối quan hệ với họ. Cho nên bạn sẽ phải cúi mình tại những nơi này và buông xuôi bản thân mình hoàn toàn; chỉ thế thì bạn mới có thể thiết lập được mối nối này.
Những nơi thần thánh, các đền, samadhi, tất cả đều có ích lợi của chúng, nhưng cũng như với các vật khác, những nơi có ích này chung cuộc đều trở thành tín ngưỡng, và thế thì chúng trở thành chết và vô dụng. Thế thì chúng phải bị giật đổ để cho những lời hứa mới có thể được đưa ra mà sẽ làm phát sinh ra các chỗ hành hương mới, những thần tượng mới, những đền mới. Cái cũ phải bị phá đổ bởi vì nó đã trở thành chết. Chúng ta chẳng có ý tưởng gì  về những  quá  trình vẫn đang  vận  hành  qua chúng.
Có một nhà yoga ở miền Nam Ấn Độ. Một lữ hành người Anh đã tới gặp ông. Vào lúc ra đi, người này nói với nhà yoga, "Tôi sắp đi bây giờ và có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại Ấn Độ nữa. Nhưng nếu tôi muốn gặp ông, tôi sẽ phải làm gì?
Nhà yoga lấy tấm ảnh của mình và trao nó cho ông ta nói, "Bất kì khi nào ông tự nhốt mình vào trong một căn phòng và tập trung trong năm phút vào bức ảnh này không chớp mắt, tôi sẽ ở đó."
Bây giờ người đáng thương này không thể nào kìm mình được trong cuộc hành trình. Ông ta bị ám ảnh bởi ý nghĩ: thử thực nghiệm này ngay lập tức. Ông ấy không tin điều như vậy có thể xảy ra - nhưng điều đó đã xảy ra. Lời hứa được nêu ra đã được hoàn thành theo thể vía. Chẳng khó khăn gì trong việc này. Người đã thức tỉnh có thể hoàn thành lời hứa của mình ngay cả khi người đó đã chết. Do đó, những bức ảnh trở thành có ý nghĩa và cả các bức tượng nữa. Lí do cho ý nghĩa của chúng là ở chỗ qua chúng một số lời hứa có thể được thực hiện. Cho nên có khoa học phức tạp đằng sau việc tạo ra các hình ảnh và thần tượng.
Thần tượng không thể nào được làm ra theo bất kì cách nào; có phương pháp đầy đủ đằng sau nó. Bây giờ nếu bạn định quan sát hai mươi bốn tirthankara của người Jaina, bạn sẽ gặp khó khăn bởi vì tất cả họ đều giống nhau; chỉ các biểu tượng của họ là khác nhau. Mahavira có một dấu hiệu, Parshwanath một dấu hiệu khác, Neminath lại một dấu hiệu khác, và cứ thế mãi. Nếu những biểu tượng này bị bỏ đi, không thể nào nói được tirthankara nào là ai từ những người khác. Tuy nhiên, không thể nào có chuyện tất cả họ đều giống nhau được. Do đó, có thể là các tượng tirthankara đã được làm ra tuân theo việc dùng hình ảnh của tirthankara đầu tiên xem như bản mẫu cho họ. Cho nên không cần phải làm ra các hình ảnh khác nhau; chỉ một hình ảnh của tirthankara được dùng cho tất cả.
Nhưng điều này không thoả mãn cho những người sùng kính, người sùng kính với các tirthankara khác, cho nên họ đã gọi tirthankara đặc biệt của mình với ít nhất một dấu hiệu, một hiệu bài để phân biệt ông ấy với những người khác. Vậy, các biểu tượng khác nhau đã được tạo ra cho các tirthankara khác nhau nhưng hình ảnh vẫn còn là một. Người này có con sư tử, người kia có cái gì đó khác, và cứ thế. Cho nên có khác biệt này trong các dấu hiệu của họ - và điều này nữa cũng là một phần của lời hứa đã đưa ra. Chỉ tirthakara đặc biệt có gắn với một biểu tượng mới có thể được tiếp xúc.
Cho nên những điều này đã được thoả thuận về những biểu tượng và chúng vận hành. Chẳng hạn dấu hiệu của Jesus là chữ thập; điều này sẽ vận hành. Nhưng Mohammed đã từ chối làm thần tượng của mình. Thực tế, người ta đã tạo ra nhiều thần tượng trong thời Mohammed đến mức ông ấy muốn cho đồ đệ của mình một loại biểu tượng hoàn toàn khác. Ông ấy bảo họ, "Đừng làm tượng về ta. Ta sẽ thiết lập mối quan hệ với ông không cần tượng. Đừng làm tượng về ta; đừng làm ảnh về ta. Ta sẽ có liên hệ với ông mà không cần ảnh hay tượng." Đây là một phương pháp rất sâu sắc và dũng cảm, nhưng người thường thấy rất khó thiết lập tiếp xúc với Mohammed.
Do đó, sau Mohammed người Mô ha mét giáo đã bắt đầu xây dựng lăng tẩm và mồ cho hàng nghìn vị thánh của họ. Họ không biết cách thiết lập mối nối với Mohammed một cách trực tiếp cho nên họ đã làm điều đó bằng cách làm ra các nấm mồ cho vị thánh Mô ha mét giáo. Không nơi đâu trên thế giới này mà lăng tẩm và mồ mả lại được sùng kính đến thế như ở người Mô ha mét giáo. Lí do duy nhất là ở chỗ họ chẳng giữ lại điều gì về Mohammed để thiết lập tiếp xúc trực tiếp với ông ấy. Họ không thể nào làm ra hình ảnh của ông ấy cho nên họ phải tạo ra hình ảnh khác và họ bắt đầu thiết lập mối quan hệ qua các hình ảnh đó.
Tất cả điều này là một quá trình khoa học hoàn toàn. Nếu điều này được hiểu một cách khoa học, những kết quả có thể là kì diệu, nhưng nếu nó được tuân theo một cách mù quáng, đó lại là tự tử.

Đâu là ý nghĩa huyền bí của quá trình được thực hiện trong prana pratishtha, việc thiết lập thần tượng?
Nó có ý nghĩa lớn. Chính thuật ngữ prana pratishtha - hay việc thiết lập huyền bí cho một thần tượng - có nghĩa là chúng ta đã tạo ra hình ảnh mới dựa trên lời hứa cổ. Bây giờ chúng ta phải phát hiện ra qua những chỉ dẫn liệu lời hứa cũ có được thực hiện đúng đắn không. Về phần mình chúng ta phải tuân theo thu xếp cũ một cách trung thành; chúng ta không nên coi thần tượng là thần tượng đơn thuần mà phải là một thực thể sống. Chúng ta nên thực hiện tất cả những thu xếp cho nó như là chúng ta thu xếp cho người sống, và thế thì chúng ta sẽ bắt đầu nhận được hướng dẫn và dấu hiệu mà qua đó chúng ta có thể biết rằng việc thiết lập huyền bí cho thần tượng đã được chấp nhận. Nhưng khía cạnh thứ hai này đã tan biến hoàn toàn khỏi tri thức của chúng ta. Nếu những dấu hiệu như thế không hiện diện, thế thì dù chúng ta đã làm việc thiết lập thần tượng, việc ấy vẫn không thành công. Phải có bằng chứng rằng việc thiết lập thần tượng đã thành công. Cho nên bởi lí do này, một số chỉ dẫn huyền bí đặc biệt đã được ấn định. Nếu những dấu hiệu này được tìm thấy, người ta hiểu rằng việc thiết lập thần tượng đã được chấp nhận bởi các lực huyền bí và rằng bây giờ nó sống và hoạt động.
Bây giờ giả sử rằng bạn đem về nhà một chiếc radio mới... Điều đầu tiên là ở chỗ nó phải trong điều kiện tốt; tất cả các thành phần của nó phải ở đúng chỗ. Thế rồi bạn nối điện vào nó, và thế mà bạn chẳng bắt được đài phát nào cả. Điều đó có nghĩa là nó không làm việc. Nó là một công cụ chết và nó sẽ hoặc phải đem đi sửa hay được thay thế. Thần tượng nữa cũng là một loại vị trí nhận mà qua đó một người chứng ngộ đã chấm dứt về mặt vật lí hoàn thành lời hứa mà người đó đã đưa ra cho những người khác. Nhưng nếu bạn giữ một hình ảnh và bạn không biết về những chỉ dẫn xác nhận cho việc thiết lập, thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ biết liệu hình ảnh ấy là sống hay chết.
Quá trình thiết lập một thần tượng có hai phần. Phần thứ nhất được các tu sĩ thực hiện. Họ biết bao nhiêu mật chú cần phải niệm, bao nhiêu dây cần phải buộc vào, kiểu lễ nào cần phải tiến hành cho việc tôn thờ nó, kiểu tôn thờ nào cần phải được thực hiện, vân vân. Đây mới là một nửa công việc. Phần thứ hai của buổi lễ này chỉ có thể được tiến hành bởi người ở bình diện thứ năm. Khi người này thông báo rằng hình ảnh là sống, chỉ thế thì nó mới trở thành sống. Điều này đã trở nên gần như không thể nào có được trong thời hiện đại; do đó, các đền của chúng ta không phải là các ngôi đền sống mà là những chỗ chết. Những đền mới ngày nay chắc chắn là những chỗ chết.
Không thể nào phá huỷ một ngôi đền sống bởi vì đấy không phải là sự kiện bình thường. Nếu nó bị phá huỷ, điều đó chỉ nghĩa là cái bạn cho rằng sống, không còn sống, như trường hợp ngôi đền Somanath. Câu chuyện về việc phá huỷ nó là một chuyện rất kì lạ và đấy là một chỉ dẫn về khoa học về tất cả các đền. Có năm trăm pujari - tu sĩ - phục vụ cho ngôi đền, và họ đã chắc chắn rằng hình ảnh bên trong là hình ảnh sống, cho nên họ đã chắc chắn nó không thể nào bị phá huỷ. Các tu sĩ thực thi phần phận sự của mình, nhưng điều này là một phía, bởi vì không có ai có thể thực tế tìm ra liệu hình ảnh này là chết hay sống.
Một hôm, vua và các nhà quí tộc của vùng đó gửi chỉ dụ cho ngôi đền cảnh báo họ về việc bọn xâm lăng hồi giáo Gajanawi sẽ tới và muốn bảo vệ họ, nhưng các tu sĩ khước từ sự giúp đỡ, nói rằng thần tượng đã bảo vệ tất cả mọi người cho nên không cần việc bảo vệ của họ. Các quí tộc tạ lỗi và rút đi - nhưng đó là sai lầm: thần tượng này đã là một thần tượng chết. Các tu sĩ vẫn dưới ảo tưởng rằng một sức mạnh vĩ đại đang đứng sau bức ảnh, và khi họ coi nó là sống, thật sai lầm mà nghĩ tới việc bảo vệ nó. Gajanawi đã tới với một nhát kiếm đập vỡ thần tượng ra làm bốn mảnh. Ngay cả thế các tu sĩ vẫn không nghĩ là thần tượng là một vật chết. Điều này không thể xảy ra cho một thần tượng sống; không một viên gạch nào có thể rơi khỏi hình ảnh bên trong mà vẫn còn sống. Nếu ngôi đền vẫn còn là ngôi đền sống, nó không thể bị động chạm tới được.
Nhưng thông thường, đền không phải là đền sống bởi vì có rất nhiều khó khăn trong việc giữ cho nó sống. Một ngôi đền trở nên sống là phép màu vĩ đại. Nó là một phần của một khoa học rất sâu sắc. Tuy nhiên ngày nay chẳng còn người nào sống mà biết tới khoa học này, người có thể tiến hành các yêu cầu khác nhau của nó. Ngày nay tầng lớp người cai quản các đền như cửa hàng đã trở nên lớn đến mức nếu có người nào đó biết được khoa học này, người đó sẽ không được phép ở trong ngôi đền. Đền bây giờ được cai quản theo đường lối kinh doanh, và chính mối quan tâm của các tu sĩ là đền hãy cứ còn chết đấy. Đền sống, không có lợi cho purohit, tu sĩ. Ông ta muốn có vị thần chết trong ngôi đền mà ông ta có thể khoá lại, và thế rồi ông tự mình ấy giữ lấy chìa khoá. Nếu đền được nối với những quyền năng cao hơn, tu sĩ không thể nào còn lại ở đó. Cho nên tu sĩ là công cụ trong việc tạo ra những đền chết này vì điều này đem lại cho họ việc nở hoa kinh doanh. Thực tế, đền sống còn rất ít.
Nỗ lực lớn đã được tiến hành để giữ cho đền còn sống, nhưng số các tu sĩ và học giả trong mọi tôn giáo, trong mọi đền, lại lớn đến mức làm cho khó mà thực hiện được nỗ lực này. Đây là điều bao giờ cuối cùng cũng xảy ra. Đây là lí do tại sao có nhiều đền thế; bằng không, sẽ chẳng cần nhiều đến thế. Nếu những ngôi đền và những nơi hành hương của thời Upanishad vẫn còn sống cho tới thời đại của Mahavira, đã chẳng cần Mahavira phải xây dựng ra những đền mới. Nhưng đền và nơi thiêng liêng đã hoàn toàn chết bởi đã có một mạng lưới các tu sĩ bao quanh chúng mà không thể nào phá vỡ nổi. Những ngôi đền này đã không thể nào được vào nổi cho nên không còn cách nào khác ngoại trừ việc làm đền mới. Ngày nay ngay cả đền của Mahavira cũng đã chết và cùng loại mạng lưới tu sĩ bao quanh chúng.
Nếu những nguyên lí sống của tôn giáo còn được gìn giữ, biết bao nhiêu tôn giáo như thế đã không đi vào hiện hữu trong thế giới này. Nhưng những nguyên lí này không thể nào được gìn giữ, bởi vì tất cả các loại rối loạn đều tụ hội xung quanh và cuối cùng làm cho chúng mất đi tất cả các tiềm năng. Thế thì, khi các ước định của một phía đã bị phá bỏ, lời hứa của phía bên kia cũng sẽ huỷ bỏ. Chính hiểu biết lẫn nhau đã được đạt tới bởi cả hai phía. Chúng ta phải giữ thoả thuận về phần mình; chỉ thế thì phía bên kia mới đáp ứng lại; bằng không, lời hứa sẽ không được thực hiện và vấn đề chấm dứt ở đấy.
Chẳng hạn, nếu trong khi rời khỏi thân thể mình tôi nói với các bạn, "Nhớ đến tôi và tôi sẽ có đấy" - nhưng nếu bạn chẳng bao giờ nghĩ đến tôi hay nếu bạn vứt ảnh tôi vào thùng rác và quên hết về nó, thoả thuận của chúng ta kéo dài được bao lâu? Và nếu thoả thuận này bị phá vỡ về phần bạn, cũng chẳng cần để tôi giữ nó làm gì. Cho nên những thoả thuận như vậy bao giờ cũng bị phá vỡ.
Cho nên các quá trình huyền bí của việc thiết lập một thần tượng mang một ý nghĩa, nhưng ý nghĩa của nó lại dựa trên nhiều phép kiểm tra khác nhau và những chỉ dẫn xác định xem liệu việc thiết lập thần tượng có thành công hay không.
Trong một số đền, những giọt nước rơi xuống một cách tự nhiên trên các hình ảnh. Liệu đấy có phải là dấu hiệu rằng ngôi đền như thế là ngôi đền còn sống không?
Không. Tính hợp lệ của ngôi đền sống chẳng có quan hệ gì với điều này cả. Nước vẫn rơi xuống dù dưới nó có ảnh hay không. Đây là những bằng chứng sai, và bởi vì chúng nên chúng ta giả sử rằng đền này là ngôi đền sống. Nơi không có một giọt nước rơi, vẫn có những đền mà có thể và đang là đền sống.

Trong truy tìm tâm linh, deeksha, điểm đạo, chiếm vị trí rất quan trọng. Những nghi lễ đặc biệt được tiến hành trong những trạng thái đặc biệt. Phật và Mahavira thường cho điểm đạo. Có bao nhiêu kiểu điểm đạo? Đâu là ý nghĩa và cách dùng và tại sao chúng lại cần tới?
Một chút ít nói về điểm đạo sẽ có ích. Điều đầu tiên, deeksha, điểm đạo, không bao giờ được cho; điểm đạo xảy ra, nó là sự xảy ra. Chẳng hạn, một người ở với Mahavira và phải mất nhiều năm để cho việc điểm đạo của người đó xảy ra. Mahavira bảo người đó ở lại, ở cùng ông ấy, bước đi cùng ông ấy, đứng theo cùng cách như thế, ngồi theo cùng cách như thế, thiền cùng cách như thế. Thế rồi một thời điểm tới khi người này đã được chuẩn bị đầy đủ. Thế thì Mahavira chỉ là trung gian. Có lẽ thậm chí nói rằng ông ấy là trung gian cũng không hoàn toàn đúng - thay vì thế trong một cảm giác rất sâu sắc ông ấy chỉ là nhân chứng và việc điểm đạo xảy ra trước ông ấy.
Điểm đạo bao giờ cũng là từ điều thiêng liêng, nhưng nó có thể xảy ra trong sự hiện diện của Mahavira. Bây giờ người được điểm đạo thấy Mahavira ngay trước mình, nhưng người đó không thể thấy điều thiêng liêng. Điều đó xảy ra cho người đó ngay trước Mahavira một cách tự nhiên đến mức người đó trở nên biết ơn Mahavira - và điều này đúng là vậy. Nhưng Mahavira không chấp nhận lòng biết ơn của người đó. Ông ấy có thể chỉ chấp nhận lòng biết ơn của người đó nếu ông ấy thừa nhận rằng ông ấy đã điểm đạo cho người đó.
Do vậy có hai kiểu điểm đạo. Một là ở chỗ nó xảy ra và cái đó tôi gọi là điểm đạo "thật", bởi vì trong điều này bạn thiết lập mối quan hệ với điều thiêng liêng. Thế thì cuộc hành trình của bạn qua cuộc sống lấy bước ngoặt mới: bây giờ bạn trở thành ai đó khác; bạn không còn là cùng con người bạn trước đây; mọi thứ bên trong bạn đều được biến đổi. Bạn đã thấy điều gì đó mới. Điều gì đó mới đã xảy ra cho bạn, một tia sáng đã đi vào bạn, và bây giờ mọi thứ bên trong bạn đều khác.
Trong điểm đạo thật, thầy đứng cạnh giống như nhân chứng và thầy có thể xác nhận rằng việc điểm đạo đã xảy ra. Người đó có thể thấy đầy đủ quá trình nhưng bạn chỉ thấy một nửa. Bạn chỉ có thể thấy điều đang xảy ra cho bạn; người đó thấy cái mà từ đó việc điểm đạo xảy ra. Nhưng liệu việc điểm đạo có xảy ra hay không, liệu bạn có được chấp nhận hay không, điều đó bạn không thể nói chắc được. Ngay cả sau khi bạn được điểm đạo, bạn vẫn sẽ tự hỏi, "Mình đã được chấp nhận chưa? Mình đã được chọn chưa? Mình đã được điều thiêng liêng chọn chưa? Bây giờ mình có thể coi là mình là của nó chưa? Về phần mình, mình đã buông xuôi, nhưng ngài đã coi mình là ngài chưa?" Điều này bạn không thể biết ngay được. Bạn sẽ đi tới nhận ra sau một chốc, nhưng khoảng chờ đợi này có thể dài đấy. Cho nên người thứ hai, người mà chúng ta gọi là thầy, có thể biết điều này bởi vì người đó đã quan sát sự việc xảy ra từ cả hai phía.
Điểm đạo thật không thể được cho, mà cũng chẳng thể được lấy. Nó tới từ điều thiêng liêng; bạn đơn thuần là người nhận.
Bây giờ tới kiểu điểm đạo khác, mà chúng ta có thể gọi là điểm đạo giả, có thể được cho mà cũng có thể được nhận. Điều thiêng liêng hoàn toàn vắng bóng ở đây; chỉ có thầy và đệ tử. Thầy cho, đệ tử nhận, nhưng cái thứ ba, nhân tố thực, vắng bóng.
Nơi chỉ có hai hiện diện - thầy và đệ tử - việc điểm đạo là giả. Nơi có ba hiện diện - thầy, đệ tử và ngài từ nơi điều đó xảy ra - mọi thứ đều thay đổi. Việc cho điểm đạo không chỉ là không thật mà còn nguy hiểm nữa, tai hoạ nữa, bởi vì trong ảo tưởng của điểm đạo, việc điểm đạo thật không thể xảy ra. Bạn sẽ đơn thuần sống dưới ảo tưởng rằng việc điểm đạo đã xảy ra.
Một người tìm kiếm tới tôi, người đã được ai đó điểm đạo. Người đó nói, "Tôi đã được điểm đạo bởi thầy này nọ và tôi phải tới thầy để học thiền."
Tôi hỏi người đó, "Thế thì tại sao bạn nhận điểm đạo? Và nếu bạn không đạt tới thiền, bạn thu được cái gì từ việc điểm đạo của mình? Tất cả những cái bạn nhận được là quần áo và tên tuổi. Nếu bạn vẫn còn đi tìm thiền, thế thì việc điểm đạo của bạn có ý nghĩa gì?"
Chân lí là ở chỗ điểm đạo chỉ có thể xảy ra sau thiền. Thiền sau điểm đạo chẳng có ý nghĩa gì cả. Điều ấy cũng giống như một người tuyên bố rằng mình mạnh khoẻ và người đó vẫn đến gõ cửa nhà bác sĩ và hỏi xin thuốc. Điểm đạo là việc chấp nhận thu được sau thiền. Nó là sự phê chuẩn được trao cho sự chấp nhận của bạn - sự đồng ý. Điều thiêng liêng đã được hỏi ý kiến về bạn và lối vào của bạn trong cảnh giới của ngài đã xảy ra. Điểm đạo chỉ là xác nhận cho sự kiện này.
Việc điểm đạo như vậy bây giờ đã mất, và tôi cảm thấy nó nên được làm sống lại: điểm đạo là nơi thầy không phải là người cho và đệ tử không phải là người nhận - còn người cho là Thượng đế. Điều này có thể có; điều này nên có. Nếu tôi là nhân chứng cho việc điểm đạo của ai đó, tôi không trở thành thầy của người đó. Thế thì thầy của người đó là điều thiêng liêng. Nếu người đó biết ơn, đấy là việc của người đó. Nhưng yêu cầu lòng biết ơn là điên rồ còn chấp nhận nó là vô nghĩa.
Gurudom, mạng lưới cái gọi là thầy, đã được tạo ra bằng việc ban phát dạng thức mới cho điểm đạo. Lời nói được thì thầm vào tai, mật chú được trao, và chẳng có ai điểm đạo cho bất kì ai. Liệu bản thân người đó có được điểm đạo hay không cũng không chắc chắn; liệu điều thiêng liêng có chấp nhận người đó hay không cũng chẳng được biết. Có lẽ ông thầy ấy nữa cũng đã được điểm đạo theo cùng cách ấy. Ai đó đã thì thào vào tai ông ta, ông ta lại thì thào vào tai ai đó, và người này đến lượt mình lại sẽ thì thào vào tai ai đó khác nữa.
Con người tạo ra điều dối trá và lừa dối trong mọi thứ - và một biến cố càng bí ẩn, càng có nhiều lừa dối, bởi vì chẳng có gì thực chất để nêu ra như bằng chứng.
Tôi có ý định tiến hành phương pháp này ở đây nữa. Khoảng mười hay hai mươi người đang chuẩn bị cho nó. Họ sẽ nhận việc điểm đạo từ điều thiêng liêng. Những người khác đang hiện diện sẽ là nhân chứng, và công việc của họ sẽ là xác nhận liệu việc điểm đạo có được chấp nhận bởi điều thiêng liêng hay không; có vậy thôi. Bạn sẽ kinh nghiệm nhưng bạn sẽ không thể nào nhận ra ngay điều gì đã xảy ra. Nó quá không quen thuộc với bạn, làm sao bạn nhận ra rằng sự việc đã xảy ra? Việc xác nhận có thể được tiến hành bởi sự hiện diện của người đã chứng ngộ. Một mình người này này là cơ sở cho việc đánh giá về nó.
Cho nên người thầy tối cao là paramatman - Thượng đế duy nhất. Nếu thầy đứng giữa bước lùi lại, việc điểm đạo sẽ dễ dàng hơn, nhưng ông thầy trung gian lại hay đứng ì ở đấy. Bản ngã của ông ta đắc chí khi làm mình thành thượng đế và thể hiện bản thân mình. Nhiều loại điểm đạo đã được trao quanh cái bản ngã này. Tuy nhiên chúng chẳng có giá trị gì; theo ngôn ngữ tâm linh, tất cả những việc đó là tội ác. Những người điểm đạo giả sẽ kết thúc việc đi tìm kiếm chân lí, cứ tin rằng đã tới nơi. Nếu một ngày nào đó những dối trá tâm linh bị xét xử, những ông thầy này phải bị trừng phạt.
Người tìm kiếm không hoài nghi coi điều đó là được công nhận rằng mình đã được điểm đạo. Thế rồi người đó đi đâu cũng tự hào rằng mình đã nhận được điểm đạo, rằng mình đã có mật chú, và rằng tất cả những gì phải xảy ra, đã xảy ra cho mình. Cho nên tất cả việc tìm kiếm của người đó cho biến cố đúng đắn đều dừng lại.
Khi bất kì ai tới Phật ông ấy cũng không bao giờ điểm đạo cho ngay; đôi khi phải mất nhiều năm trời. Phật sẽ cứ trì hoãn bằng việc bảo người đó thực hiện công phu này công phu khác. Thế rồi, khi thời điểm tới, ông ấy sẽ bảo người đó sang phía điểm đạo.
Có ba phần trong việc điểm đạo của Phật. Người tới để xin điểm đạo phải trải qua ba kiểu buông xuôi. Đầu tiên người đó nói, "Tôi buông xuôi theo Phật - Buddham sharanam gachchhami." Bằng việc này người đó không nói tới Phật Gautam; điều này có nghĩa là buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh.
Có một lần, một người tìm kiếm tới Phật và nói, "Tôi buông xuôi theo vị phật." Phật nghe và vẫn cứ lặng thinh.
Thế rồi ai đó hỏi ông ấy, "Người này nói, ‘Tôi buông xuôi theo vị phật,’ mà thầy chỉ nghe người đó thôi ư?"
Phật đáp, "Người này không buông xuôi theo ta, người này buông xuôi theo người đã thức tỉnh. Ta chỉ đơn thuần là cái cớ. Đã có rất nhiều vị phật trước ta, và sẽ còn rất nhiều vị phật sau ta. Ta chỉ là cái cớ. Ta chỉ là lí do. Người này đang buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh, cho nên ta là ai mà dừng anh ta lại? Nếu anh ta buông xuôi theo ta, ta chắc chắn sẽ dừng anh ta lại, nhưng anh ta đã nói ba lần rằng anh ta đang buông xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh."
Thế rồi có việc buông xuôi thứ hai mà còn tuyệt diệu hơn. Trong việc này người ta nói, "Tôi buông xuôi theo tập thể những người đã thức tỉnh - Sangham sharanam gachchhami." Bây giờ tập thể này có nghĩa là gì? Nói chung, những người theo Phật đều coi điều đó nghĩa là nhóm người của Phật, nhưng điều này không phải là ý nghĩa. Tập thể này là tập hợp tất cả những người đã thức tỉnh. Không chỉ có một Phật là người đã trở nên thức tỉnh; còn có nhiều vị phật trước đó và sẽ có nhiều vị phật sau này, người sẽ thức tỉnh. Họ tất cả đều thuộc vào một công xã, một tập thể. Bây giờ các phật tử cứ nghĩ từ này có nghĩa là hội các phật tử, nhưng điều này là sai.
Chính lời khẩn cầu thứ nhất, trong đó Phật giải thích rằng người tìm kiếm buông  xuôi bản thân mình theo người đã thức tỉnh chứ không phải theo ông ấy như một con người, làm cho mọi việc thành rõ ràng. Lời khẩn cầu thứ hai làm cho tất cả điều đó còn rõ ràng hơn. Trong lời này người đó dâng bản thân mình cho công xã những người đã thức tỉnh.
Ban đầu người đó cúi mình trước một người đã thức tỉnh, người đang ở ngay đó ngay trước mình. Vì người đó đang ở ngay đấy nên dễ dàng tiếp cận tới người đó, nói với người đó. Thế rồi người đó buông xuôi bản thân mình theo nhóm người đã thức tỉnh mà đã thức tỉnh từ lâu và là những người mà người đó không biết, và những người sẽ thức tỉnh trong tương lai và cũng là những người mà người này không biết. Người này buông xuôi theo tất cả họ và người này tiến thêm một bước tới điều tinh tế.
Việc buông xuôi thứ ba là cho dhamma - tôn giáo. Lần thứ ba người tìm kiếm nói, "Tôi buông xuôi theo pháp - Dhammam sharanam gachchhami." Việc buông xuôi đầu tiên là theo một người đã thức tỉnh, việc buông xuôi thứ hai là theo nhóm những người đã thức tỉnh, và bây giờ việc buông xuôi thứ ba là theo cái chính là trạng thái tối thượng của việc thức tỉnh - theo pháp. Tức là, theo bản tính của chúng ta, nơi không có cá nhân, không có cộng đồng; nơi chỉ có pháp, có luật. Người này nói, "Tôi buông xuôi theo pháp đó."
Khi ba việc buông xuôi này đã được hoàn tất chỉ thế thì việc điểm đạo mới được thừa nhận. Phật chỉ là nhân chứng cho biến cố này. Điều này không phải là vấn đề lặp lại đơn thuần. Khi ba việc này đã được hoàn tất - và Phật có thể thấy liệu chúng đã được hoàn tất hay chưa - chỉ thế thì cá nhân này mới được điểm đạo. Phật vẫn còn là nhân chứng cho sự kiện này.
Cho nên về sau Phật cũng sẽ nói với người tìm kiếm, "Chớ có tin những gì ta nói chỉ bởi vì ta là một người đã thức tỉnh; đừng tin vào điều ta nói chỉ bởi vì ta nổi tiếng hay bởi vì ta có nhiều đệ tử hay bởi vì kinh sách xác nhận điều đó. Bây giờ hãy chỉ tin vào cái mà hiểu biết bên trong ông mách bảo ông."
Phật chưa bao giờ trở thành thầy. Vào lúc chết của ông ấy, khi được hỏi về thông điệp cuối cùng của mình, ông ấy đã nói, "Là ánh sáng lên bản thân mình đi. Đừng đi theo người khác; đừng theo đuôi kẻ khác. Là ánh sáng lên bản thân mình. Đây là thông điệp cuối cùng của ta."
Một người như Phật không thể là thầy. Một người như vậy là một nhân chứng. Jesus nhiều lần đã nói, "Đến ngày phán xử cuối cùng, ta sẽ là nhân chứng của ông." Nói cách khác, vào ngày cuối cùng Jesus sẽ làm chứng, "Đúng, người này là người đã cố gắng trở thành người thức tỉnh. Người này muốn buông xuôi theo điều thiêng liêng." Đây là việc nói theo biểu tượng. Điều Christ muốn nói cũng là thế này: "Ta là nhân chứng của ông, không phải là thầy ông."
Không có thầy; do đó, nhận biết về việc điểm đạo nơi ai đó trở thành thầy bạn. Việc điểm đạo mà bạn lập tức trở thành và trực tiếp được nối với điều thiêng liêng là việc điểm đạo duy nhất. Nhớ lấy, trong việc điểm đạo này bạn không phải rời bỏ nhà cửa và ra đi, bạn không phải trở thành người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo, mà bạn cũng không cần phải bị gắn với ai đó. Bạn vẫn còn ở nơi bạn đang ở trong tự do đầy đủ của mình; việc thay đổi sẽ xảy ra chỉ từ bên trong. Theo kiểu điểm đạo giả bạn sẽ bị cột vào một tôn giáo: bạn sẽ là người Hindu hay Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo. Bạn sẽ là một phần của một tổ chức. Một niềm tin nào đó, một phẩm cấp tôn giáo nào đó, học thuyết nào đó, người nào đó, thầy nào đó, sẽ ảnh hưởng lên bạn và họ sẽ giết tự do của bạn.
Điểm đạo không đem đến tự do, không phải là điểm đạo. Điểm đạo đem cho bạn tự do tuyệt đối, duy nhất là việc điểm đạo thật.

Thầy đã nói rằng Phật đã đạt tới mahaparinirvana - niết bàn tối hậu, nhưng thầy cũng nói rằng Phật còn quay lại dạng người và sẽ được biết tới là Di lặc. Liệu có thể lấy lại dạng người sau khi đã đạt tới niết bàn không? Xin Thầy giải thích.
Điều này có đôi chút khó khăn; do đó, tôi đã không nói về nó hôm qua. Nó đòi hỏi giải thích chi tiết; vậy bây giờ tôi sẽ nêu cho các bạn một giải thích ngắn gọn.
Không thể nào quay trở lại sau khi đạt tới bình diện thứ bẩy. Không có việc tái sinh sau thể thứ bẩy. Đấy là điểm không có quay lại; bạn không thể về lại từ nơi đó. Nhưng cũng đúng là Phật đã nói ông ấy sẽ quay trở lại dưới dạng của Di lặc. Bây giờ cả hai điều này dường như mâu thuẫn: Tôi nói bạn không thể quay lại sau thể thứ bẩy còn Phật lại hứa quay lại. Phật đã đạt tới thể thứ bẩy và nhập vào trong niết bàn - thế thì làm sao điều này lại có thể được? Còn có cách khác. Bây giờ bạn phải biết và hiểu đôi điều.
Khi chúng ta chết, chỉ thể vật lí bị loại bỏ đi; phần còn lại của sáu thể vẫn còn với chúng ta. Khi một người đạt tới bình diện thứ năm, bốn thể đầu bị loại bỏ đi và chỉ còn lại ba thể - thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy. Trong thể thứ năm người ta có thể quyết tâm giữ các thể thứ hai, ba và bốn, và điều này có thể xảy ra nếu quyết tâm đó là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Và với một người như Phật, điều này là việc dễ dàng: ông ấy có thể để lại sau vĩnh viễn các thể thứ hai, ba và bốn của mình. Giống như khối lượng năng lượng, những thể này của Phật vẫn di chuyển trong không gian.
Tất cả các tình cảm mà Phật đã tiếp nhận trong suốt vô lượng kiếp sống đều là tính chất của thể thứ hai - thể ê te. Và những dấu ấn của tất cả các nghiệp mà Phật đã có trong các kiếp trước đều được tích luỹ trong thể thứ ba - thể vía. Thể thứ tư mang tất cả những thành tựu của tâm trí Phật. Tất cả những thành tựu của ông ấy vượt ra ngoài tâm trí đều đã được ông ấy diễn đạt qua tâm trí như tất cả các cách diễn đạt được cho qua tâm trí. Bất kì khi nào một người muốn nêu ra những thành tựu của mình ở thể thứ năm hay thậm chí thể thứ bẩy, người đó phải sử dụng thể thứ tư của mình - bởi vì phương tiện diễn đạt là thể thứ tư. Cho nên người đã nghe Phật nhiều hơn bất kì ai hay bất kì điều gì khác chính là thể thứ tư của riêng ông ấy. Bất kì điều gì ông ấy đã nghĩ, đã sống và đã biết đều được thu thập trong thể thứ tư của ông ấy.
Ba thể đầu này tan rã rất dễ dàng. Khi một người đi vào thể thứ năm, ba thể này bị phá huỷ. Khi một người đi vào thể thứ bẩy, tất cả sáu thể trước đều bị phá huỷ. Nhưng nếu một người ở bình diện thứ năm ham muốn lắm, người đó có thể để lại tất cả những rung động của ba thể này trong không gian. Cũng giống như bây giờ chúng ta đang làm các trạm không gian: tuyển tập các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của Phật sẽ cứ di chuyển trong không gian cho tới khi chúng tự biểu lộ trong một cá nhân với tên Di lặc.
Cho nên khi một người có trạng thái cần thiết cho Di lặc được sinh ra, ba thể này của Phật sẽ đi vào người đó. Cho tới giờ người ta vẫn chờ đợi việc tới của ông ấy. Khi ba thể này đi vào trong người đó, người đó sẽ đạt tới phẩm chất của Phật, bởi vì chúng là sự tích luỹ của tất cả những kinh nghiệm, tất cả những xúc động, ham muốn và hoạt động của Phật.
Bây giờ, chẳng hạn, giả sử tôi bỏ lại thân thể mình ở đây và nó được gìn giữ thật kĩ lưỡng...
Tại Mĩ một người đã chết quãng ba hay bốn năm trước đây. Ông ta đã để lại việc uỷ thác nhiều triệu đô la và ông ta viết di chúc rằng số tiền này được dùng để gìn giữ thân thể mình cho đến lúc khoa học khám phá ra bí mật của việc đưa một cái xác chết trở về với cuộc sống. Hàng triệu đô la đã được tiêu để gìn giữ thân thể người đó sao cho nó không bị huỷ hoại. Thân thể người đó được gìn giữ bằng quá trình khoa học. Nếu đến cuối thế kỉ này mà chúng ta thành công trong việc làm sống lại người chết, cái xác này sẽ được đem lại cuộc sống. Nhưng linh hồn sẽ khác; nó không thể là linh hồn cũ được.
Thân thể sẽ vẫn như cũ: mắt, mầu da, nét mặt, cách đi, tất cả các thói quen vật lí của người đó, sẽ vẫn như cũ. Theo một nghĩa nào đó, người đã chết sẽ được biểu thị trong cái xác này. Nếu người này được tập trung quanh thân thể vật lí của mình - mà người đó phải ở đấy vì bằng không, ham muốn sắc bén ấy để gìn giữ thân thể sẽ không có đó - mà chẳng có ý tưởng gì về các thể khác, một linh hồn khác cũng có thể hành động như người đó. Nó sẽ hành động đích xác hệt theo cùng cách như người chết, và các nhà khoa học vậy sẽ nói rằng đấy vẫn là cũng con người cũ đã quay lại cuộc sống. Tất cả kí ức và hồi ức của người đó mà được cất giữ trong bộ não vật lí sẽ thức tỉnh lại một lần nữa: người đó sẽ có thể nhận ra ảnh của mẹ mình và con mình, những người đã chết từ lâu; người đó sẽ nhận ra thành phố nơi mình sinh ra; người đó sẽ chỉ ra nơi mình chết; người đó cũng sẽ gọi tên những người hiện diện khi mình chết. Linh hồn sẽ khác mặc dầu nội dung bộ não vẫn như cũ.
Bây giờ khoa học nói rằng trong ngày gần đây họ sẽ có thể cấy được kí ức. Điều này là có thể. Nếu tôi chết, toàn bộ hồi ức và kí ức của tôi cũng mất đi cùng tôi. Nhưng bây giờ có thể cất giữ toàn bộ cơ chế kí ức của tôi vào lúc tôi chết cũng như chúng ta gìn giữ mắt để cấy ghép. Ngày mai ai đó sẽ có thể thấy bằng mắt tôi. Và không phải là một mình tôi có thể yêu bằng trái tim mình - ngày mai ai đó khác cũng có thể yêu bằng trái tim tôi nữa. Bây giờ không thể nào hứa hẹn rằng "Trái tim anh mãi mãi là của em." Bởi vì chính trái tim này có thể được thề dành cho người khác trong tương lai xa.
Theo cùng cách đó, kí ức cũng sẽ được cấy ghép. Sẽ phải mất thời gian để làm điều này bởi vì nó rất tinh vi và rất tinh tế. Nhưng trong tương lai, như chúng ta đem mắt cho ngân hàng mắt, sẽ có ngân hàng kí ức nữa. Thế thì kí ức của tôi sẽ được cấy vào một đứa bé nhỏ và nó vậy sẽ biết tất cả những điều tôi đã phải học. Nó sẽ trưởng thành mà đã biết bao nhiêu điều vì kí ức của tôi sẽ là một phần tạo nên bộ não nó. Thế thì ý nghĩ của tôi sẽ là của nó, hồi ức của tôi sẽ là của nó, và trong một số vấn đề nó sẽ nghĩ theo cùng cách như tôi nghĩ, vì nó sẽ có bộ não của tôi.
Bây giờ Phật đã kinh nghiệm theo một hướng khác - một hướng không phải là khoa học mà là huyền bí. Bằng một số phương pháp, các nỗ lực đã được tiến hành để gìn giữ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của ông ấy. Phật không tồn tại chút nào nữa; linh hồn đã sống bên trong cũng đã mất tại bình diện thứ bẩy. Nhưng trước khi linh hồn nhập vào bình diện thứ bẩy, những thu xếp đã được tiến hành để lo liệu rằng ba thể này - thể thứ hai, thứ ba và thứ tư - không chết. Cái đà của quyết tâm và hứa hẹn của Phật vẫn còn thấm đẫm trong chúng. Cũng hệt như nếu tôi ném một hòn đá với lực đủ, nó sẽ đi được tám mươi cây số; thế rồi tôi chết ngay sau khi ném hòn đá đi. Nhưng cái chết của tôi không thể gây nhiễu lên chuyển động của hòn đá. Nó có lực mà tôi đã trao cho nó để đi được tám mươi cây số, và nó sẽ đi dù tôi còn hay không còn. Sức mạnh mà tôi đã sử dụng sẽ giữ cho hòn đá đi tiếp.
Phật đã trao đà cho ba thể này và chúng sẽ sống. Ông ấy cũng đã nói chúng có thể tồn tại được bao lâu. Bây giờ thời gian đã chín muồi cho Di lặc sinh thành. Chính thực nghiệm này đã được tiến hành với J. Krishnamurti để cho ông ấy sẽ đạt tới ba thể của Phật. Đầu tiên thực nghiệm này được tiến hành trên Nityananda, anh của Krisnamurti, nhưng ông này đã chết trong quá trình đó. Đây là một quá trình duy nhất - một quá trình khó khăn để trải qua.
Một nỗ lực đã được tiến hành để tách các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của Nityananda và thay chúng bằng các thể của Di lặc. Thế rồi Nityananda chết. Thế rồi cùng thực nghiệm đó lại được thử lên Krishnamurti, việc này cũng không thể thành công được. Thế rồi điều đó lại được thử lên một hay hai người nữa: George Arundale là một trong những người mà thực nghiệm này đã được thử bởi những người biết về bí mật này. Trong số những người biết về bí mật này, bà Blavatsky là người đàn bà sâu sắc nhất của thế kỉ chúng ta với tri thức liên quan tới khoa học huyền bí. Annie Besant là người khác; Leadbeater cũng có nhiều hiểu biết trong vấn đề huyền bí. Rất ít người có hiểu biết này.
Những người này biết rằng bây giờ sức mạnh đằng sau ba thể của Phật đang sắp giảm đi. Nếu Di lặc không sinh ra, những thể này sẽ không thể nào giữ được lâu hơn nữa; chúng sẽ phân tán. Bây giờ đà của chúng đang sắp hết. Ai đó bây giờ phải sẵn sàng để hấp thu ba thể này. Bất kì ai hấp thu ba thể này sẽ thành nguyên nhân cho việc tái sinh của Phật. Linh hồn của Phật sẽ không quay lại, nhưng linh hồn của cá nhân đó sẽ lấy ba thể của Phật và hành động tương ứng. Người đó lập tức sẽ đích thâm tham gia vào sứ mệnh của Phật.
Không phải mọi người đều có thể ở vào trạng thái này. Dù người đó là ai, người đó cũng phải ít nhất ở mức độ tâm thức cao như mức độ của Phật. Chỉ người như thế mới có khả năng hấp thu ba thân này; bằng không, người đó sẽ chết. Cho nên thực nghiệm này đã không thành công, bởi vì có nhiều khó khăn trong quá trình này. Cố gắng vẫn còn tiếp tục. Thậm chí ngày nay vẫn còn các nhóm bí truyền nhỏ đang cố gắng đem xuống ba thể này của Phật. Nhưng bây giờ không có tuyên truyền rầm rĩ về nó, vì điều đó tỏ ra có hại.
Đã có khả năng ba thể này giáng xuống Krishnamurti. Ông ấy xứng đáng với điều đó và điều này đã được thông báo rộng rãi. Việc tuyên truyền này đã được tiến hành với niềm tin chân thành. Nó đã được tiến hành bởi lí do là khi việc giáng sinh của Phật xảy ra, ông ấy sẽ nhanh chóng được thừa nhận. Điều đó cũng được tiến hành để làm sống lại các kí ức kiếp quá khứ của những người đang sống bây giờ mà đã sống vào thời Phật, để cho họ có thể nhận ra rằng đây là cùng một con người. Nhưng việc tuyên truyền này lại thành bất lợi cho quá trình này. Nó đã tạo ra phản ứng trong tâm trí của Krishnamurti, người có một nhân cách giản dị, kín đáo và nhạy cảm. Thật khó cho ông ấy ở trong đám đông. Nếu thực nghiệm này được tiến hành trong im lặng tại một chỗ hẻo lánh, bằng không ai biết gì về nó cho tới khi biến cố xảy ra, rất có thể là biến cố đó đã xảy ra thật.
Nhưng việc đó đã không xảy ra. Krishnamurti đã từ chối việc buông bỏ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của mình để được thay thế bằng ba thể của Phật. Đây là một cú khủng khiếp đối với khoa học huyền bí của thời đại chúng ta. Chưa bao giờ một thực nghiệm rộng lớn và phức tạp như thế được thực hiện trên thế giới này ở bất kì đâu ngoại trừ tại Tây Tạng. Quá trình này đã được tiến hành ở Tây Tạng trong thời gian lâu dài, và nhiều linh hồn làm việc thông qua trung gian của các thể khác.
Tôi hi vọng rằng bạn đã hiểu điều tôi nói. Không có mâu thuẫn trong nó cho dù đôi khi bạn có thể cảm thấy rằng có. Có thể là bạn cảm thấy cái gì đó là mâu thuẫn bởi vì tôi đã nói từ một góc độ khác, nhưng nó không phải là như thế.
Kết thúc quyển "Đi tìm điều huyền bí" - Quay về Mục lục Tập 2

Ads Belove Post