Read more
Thiền là gì? Bởi vì toàn bộ Tâm
Kinh này là nói về cái cốt lõi bên trong nhất của thiền. Chúng ta đi vào trong
nó.
Điều thứ nhất: Thiền không phải là tập trung.
Trong tập trung có một cái ta đang tập trung và có một đối tượng được tập trung
vào. Có nhị nguyên. Trong thiền không có ai ở bên trong và không có gì ở bên
ngoài. Nó không phải là việc tập trung. Không có phân chia giữa trong và ngoài.
Cái trong cứ tuôn chảy vào cái ngoài, cái ngoài cứ tuôn chảy vào cái trong.
Phân ranh giới, biên giới, đường biên không còn nữa. Cái trong là cái ngoài,
cái ngoài là cái trong; nó là tâm thức bất nhị.
Tập trung là tâm thức nhị
nguyên: đó là lí do tại sao tập trung tạo ra mệt mỏi; đó là lí do tại sao khi bạn
tập trung, bạn cảm thấy kiệt sức. Và bạn không thể nào tập trung được trong hai
mươi tư tiếng, bạn sẽ phải lấy ngày nghỉ để nghỉ ngơi. Tập trung chẳng bao giờ
có thể trở thành bản tính của bạn được. Thiền thì không mệt mỏi, thiền không vắt
kiệt bạn. Thiền có thể trở thành việc làm trong hai mươi bốn tiếng - ngày tới,
ngày qua, năm tới, năm qua. Nó có thể trở thành vĩnh hằng. Nó chính là bản thân
sự thảnh thơi.
Tập trung là một hành động, một
hành động có ý chí. Thiền là trạng thái không ý chí, trạng thái không hành động.
Nó là thảnh thơi. Người ta chỉ thả mình vào bản thể mình, và bản thể đó cũng giống
hệt như bản thể của tất cả. Trong tập trung có kế hoạch, phóng chiếu, ý tưởng.
Trong tập trung tâm trí vận hành từ kết luận: bạn đang làm điều gì đó. Tập
trung bắt nguồn từ quá khứ.
Trong thiền không có kết luận
sau nó. Bạn không làm bất kì điều gì đặc biệt, bạn chỉ đơn giản hiện hữu. Nó
không có quá khứ, không bị quá khứ vấy bẩn. Nó không có tương lai, nó là sự thuần
khiết của tất cả tương lai. Nó là điều Lão Tử đã gọi là vi vô vi, hành động qua
bất hành. Đây là điều các thiền sư đã từng nói: ngồi im lặng không làm gì, xuân
tới và cỏ tự nó mọc lên. Nhớ lấy, ‘tự nó’ - chẳng có gì phải làm cả. Bạn không
kéo cỏ mọc lên; xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Trạng thái đó - khi bạn cho phép
cuộc sống diễn ra theo ý riêng của nó, khi bạn không muốn hướng dẫn nó, khi bạn
không muốn đưa ra bất kì việc điều khiển gì cho nó, khi bạn không thao túng,
khi bạn không bó buộc bất kì kỉ luật nào lên nó - trạng thái của tự phát không
kỉ luật thuần khiết đó, chính đó là thiền.
Thiền là trong hiện tại, hiện tại
thuần khiết. Thiền là trực tiếp. Bạn không thể thiền được, nhưng bạn có thể
trong thiền; bạn không thể trong tập trung được, nhưng bạn có thể tập trung. Tập
trung là con người, thiền là điều thiêng liêng.
Tập trung có một trung tâm
trong bạn; từ trung tâm đó nó đi ra. Tập trung có cái ta trong bạn. Trong thực
tế người tập trung thật nhiều sẽ bắt đầu thu thập cái ta rất mạnh. Người đó bắt
đầu trở thành ngày một mạnh hơn, người đó bắt đầu trở thành ngày một nhiều ý
chí hơn. Người ấy trông có vẻ tự chủ hơn, hơn là một mảnh.
Con người của thiền không trở
thành mạnh mẽ: người ấy trở thành im lặng, người ấy trở thành an bình. Sức mạnh
được tạo ra từ xung đột; tất cả các sức mạnh đều là từ cọ sát. Từ cọ sát sinh
ra điện. Bạn có thể tạo ra điện từ nước: khi sông đổ từ núi xuống, có cọ sát giữa
sông và đá, và cọ sát sinh ra năng lượng. Đó là lí do tại sao những người tìm
kiếm sức mạnh bao giờ cũng tranh đấu. Tranh đấu tạo ra năng lượng. Bao giờ cũng
là thông qua cọ sát mà năng lượng được tạo ra, sức mạnh được tạo ra. Thế giới cứ
đi vào trong chiến tranh mãi bởi vì thế giới bị quá chi phối bởi ý tưởng về sức
mạnh. Bạn không thể mạnh mà không tranh đấu.
Thiền đem tới an bình. An bình
có sức mạnh riêng của nó, nhưng đó lại là một hiện tượng hoàn toàn khác. Sức mạnh
được tạo ra từ sự cọ sát là bạo hành, hung hăng, nam tính. Sức mạnh - tôi đang
dùng từ này bởi vì không có từ khác - sức mạnh bắt nguồn từ an bình, là nữ
tính. Nó có duyên dáng của nó. Nó là sức mạnh thụ động, nó là tiếp nhận, nó là
cởi mở. Nó không bắt nguồn từ cọ sát; đó là lí do tại sao nó lại không bạo
hành.
Phật là mạnh mẽ, mạnh mẽ trong
an bình của ông ấy, trong im lặng của ông ấy. Ông ấy mạnh mẽ như hoa hồng, ông ấy
không mạnh mẽ như bom nguyên tử. Ông ấy mạnh mẽ như nụ cười của trẻ thơ... rất
mảnh mai, rất mong manh; nhưng ông ấy không mạnh như lưỡi kiếm. Ông ấy mạnh mẽ,
như ngọn đèn đất nhỏ, ngọn lửa nhỏ cháy sáng trong đêm tối. Đó là một chiều hướng
sức mạnh hoàn toàn khác. Sức mạnh này là cái chúng ta gọi là sức mạnh thiêng
liêng. Nó không bắt nguồn từ cọ sát.
Tập trung là cọ sát: bạn tranh
đấu với tâm trí mình. Bạn cố gắng hội tụ tâm trí theo một cách nào đó, hướng tới
một ý tưởng nào đó, hướng tới một vật nào đó. Bạn bắt buộc nó, bạn đem nó trở lại
mãi. Nó cố gắng thoát ra, nó chạy đi, nó đi lạc lối, nó bắt đầu suy nghĩ cả
nghìn lẻ một thứ, và bạn đem nó lại và bạn bó buộc nó. Bạn đi vào tự tranh đấu.
Chắc chắn sức mạnh được tạo ra; sức mạnh đó cũng hại như bất kì sức mạnh nào
khác, sức mạnh đó là nguy hiểm như bất kì sức mạnh nào khác.
Sức mạnh đó sẽ được dùng để làm
hại ai đó, bởi vì sức mạnh tới từ cọ sát là bạo hành. Cái gì đó bắt nguồn từ bạo
hành thì sẽ là bạo hành; nó sẽ mang tính huỷ diệt. Sức mạnh tới từ an bình,
không cọ sát, không tranh đấu, không thao túng, là sức mạnh của hoa hồng, sức mạnh
của ngọn đèn nhỏ, sức mạnh của nụ cười trẻ nhỏ, sức mạnh của khóc lóc của phụ nữ,
sức mạnh ở trong những giọt nước mắt và trong những giọt sương sớm. Nó là mênh
mông nhưng không nặng nề; nó là vô hạn nhưng không bạo hành.
Tập trung sẽ làm cho bạn thành
người có ý chí. Thiền sẽ làm cho bạn thành cái trống rỗng. Đó là điều Phật đang
nói cho Sariputra. Prajnaparamita có nghĩa đích xác là ‘thiền, trí huệ của cõi
bên kia’.
Bạn không thể đem nó tới nhưng
bạn có thể cởi mở với nó. Bạn không cần làm bất kì điều gì để đem nó vào trong
thế giới - bạn không thể đem nó tới; nó ở bên ngoài bạn. Bạn phải tan biến để
cho nó tới. Tâm trí phải dừng lại để thiền có đấy. Tập trung là nỗ lực của tâm
trí; thiền là trạng thái vô trí. Thiền là nhận biết thuần khiết, thiền không có
động cơ trong nó.
Thiền là cây lớn lên mà không
có hạt mầm: đó là phép mầu của thiền, điều ảo thuật, điều bí ẩn. Tập trung có hạt
mầm trong nó: bạn tập trung với một mục đích nào đó, có động cơ, nó là nó động
cơ. Thiền không có động cơ. Thế thì tại sao người ta phải thiền nếu không có động
cơ?
Thiền đi vào trong sự tồn tại
chỉ khi bạn đã nhìn vào trong tất cả các động cơ và thấy thiếu chúng, khi bạn
đã đi qua cả vòng động cơ và bạn đã thấy cái giả dối của nó. Bạn đã thấy rằng động
cơ chẳng dẫn đến đâu cả, rằng bạn cứ đi vòng tròn mãi; bạn vẫn còn như cũ. Động
cơ cứ tiếp tục dẫn bạn đi, hướng bạn đi, gần như đưa bạn tới điên khùng, tạo ra
ham muốn mới, nhưng chẳng đạt được cái gì cả. Đôi tay vẫn còn trống rỗng như
trước. Khi điều này đã được thấy rõ, khi bạn đã nhìn vào cuộc sống mình và thấy
tất cả các động cơ của mình đều thất bại...
Không động cơ nào thành công cả,
không động cơ nào lại đem được hạnh phúc cho bất kì ai. Động cơ chỉ hứa hẹn;
hàng hoá chẳng bao giờ được giao. Động cơ này thất bại thì động cơ khác tới và
lại hứa hẹn nữa với bạn... và bạn lại bị lừa nữa. Cứ bị động cơ lừa đi lừa lại
mãi, rồi một hôm bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết - bỗng nhiên bạn nhìn vào nó,
và chính cái nhìn đó là bắt đầu cho thiền. Nó không có hạt mầm trong đó, nó
không có động cơ trong đó. Nếu bạn thiền về cái gì đó, thế thì bạn đang tập
trung, không phải là thiền. Thế thì bạn vẫn trong thế giới - tâm trí bạn vẫn
đang quan tâm tới những đồ rẻ mạt, tầm thường. Thế thì bạn vẫn là phàm nhân.
Cho dù là bạn thiền để đạt tới
Thượng đế, bạn vẫn cứ là phàm nhân. Cho dù là bạn thiền để đạt tới niết bàn, bạn
vẫn cứ là phàm nhân - bởi vì thiền không có mục đích. Thiền là cái nhìn sáng suốt
rằng tất cả các mục đích đều sai. Thiền là việc hiểu rằng ham muốn chẳng dẫn đến
đâu cả. Thấy điều đó đi... Và điều này không phải là niềm tin rằng bạn có thể
nhận được từ tôi hay từ Phật hay từ Jesus. Đây không phải là tri thức; bạn sẽ
phải thấy nó.
Bạn có thể thấy nó ngay bây giờ!
Bạn đã sống, bạn đã thấy nhiều động cơ, bạn đã trong rối loạn, bạn đã nghĩ về
cái gì phải làm, cái gì không làm, và bạn đã làm nhiều thứ. Tất cả những cái đó
dẫn bạn tới đâu? Nhìn vào trong nó đi! Tôi không nói là đồng ý với tôi, tôi
không nói tin vào tôi. Tôi đơn giản làm cho bạn nhận biết về một sự kiện mà bạn
đã từng quên lãng. Đây không phải là lí thuyết, đây là một phát biểu đơn giản về
một sự kiện rất đơn giản. Có thể bởi vì nó đơn giản thế, đó là lí do tại sao bạn
cứ tiếp tục mãi mà không nhìn vào nó. Tâm trí bao giờ cũng quan tâm tới những
cái phức tạp, bởi vì cái gì đó có thể được làm với thứ phức tạp. Bạn không thể
làm bất kì cái gì với hiện tượng đơn giản.
Cái đơn giản bị không nhận thấy,
cái đơn giản bị lãng quên, cái đơn giản bị bỏ qua. Cái đơn giản hiển nhiên đến
mức bạn chẳng bao giờ nhìn vào nó. Bạn cứ đi tìm kiếm cái phức tạp - cái phức tạp
có thách thức ở trong nó. Cái phức tạp của một hiện tượng, của một vấn đề, của
một tình huống, cho bạn sự thách thức. Trong thách thức đó năng lượng, cọ sát,
xung đột tới: bạn phải giải quyết vấn đề này, bạn phải chứng minh rằng bạn có
thể giải quyết vấn đề này. Khi vấn đề có đó thì bạn xúc động bởi kích động rằng
có khả năng chứng minh điều gì đó. Nhưng điều tôi đang nói là sự kiện đơn giản,
nó không phải là vấn đề. Nó không cho bạn thách thức, nó đơn giản có đấy. Bạn
có thể nhìn vào nó hay bạn có thể né tránh nó. Mà nó cũng chẳng hô to lên; nó
đơn giản thế. Bạn thậm chí không thể gọi nó là một tiếng nói tĩnh lặng, nhỏ bé
bên trong bạn; nó thậm chí cũng không thì thào. Nó đơn giản có đấy - bạn có thể
nhìn, bạn có thể không nhìn.
Nhìn nó đi! Và khi tôi nói,
“Nhìn nó đi,” tôi muốn nói nhìn nó ngay bây giờ, ngay lập tức. Không cần phải đợi.
Và làm nhanh chóng khi tôi nói, “Nhìn nó!” Nhìn nó, nhưng nhanh chóng, bởi vì nếu
bạn bắt đầu nghĩ, nếu bạn không nhìn nhanh chóng, ngay lập tức, trong giây lát
đó thì tâm trí sẽ vào và tâm trí bắt đầu đem định kiến tới. Và bạn lại trong trạng
thái triết lí - nhiều ý nghĩ. Thế thì bạn phải chọn cái gì phải và cái gì trái,
suy xét đã bắt đầu. Bạn bỏ lỡ khoảnh khắc tồn tại.
Khoảnh khắc tồn tại là ngay bây
giờ. Chỉ có nhìn, và đó là thiền - cái nhìn đó là thiền. Chỉ thấy tính sự kiện
của điều nào đó, của trạng thái nào đó, thì là thiền. Thiền không có động cơ,
do đó không có trung tâm cho nó. Và bởi vì không có động cơ và không trung tâm,
nên không có cái ta trong đó. Bạn không vận hành từ một trung tâm trong thiền,
bạn hành động từ cái không. Đáp ứng từ cái không chính là tất cả điều thiền là
gì.
Tâm trí tập trung: nó hành động
từ quá khứ. Thiền hành động trong hiện tại, từ hiện tại. Nó là đáp ứng thuần
khiết cho hiện tại, nó không phải là phản ứng. Nó hành động không từ kết luận,
nó hành động khi thấy sự tồn tại. Quan sát trong cuộc sống bạn: có khác biệt lớn
khi bạn hành động từ kết luận. Bạn thấy một người, bạn cảm thấy hấp dẫn - một
người đẹp, trông rất hay, trông hồn nhiên. Mắt người đó thật đẹp, rung động thật
đẹp. Nhưng thế rồi người đó giới thiệu mình và người đó nói, “Tôi là người Do
Thái” - còn bạn là người Ki tô giáo. Cái gì đó lập tức nhoáng lên và có khoảng
cách: bây giờ người đó không còn hồn nhiên nữa, người đó không còn đẹp nữa.
Bạn có một ý tưởng nào đó về
người Do Thái. Hay, người đó là người Ki tô giáo còn bạn là người Do Thái; bạn
có ý tưởng nào đó về người Ki tô giáo - điều Ki tô giáo đã làm với người Do
Thái trong quá khứ, điều người Ki tô giáo khác đã làm với người Do Thái, cách
thức họ đã tra tấn người Do Thái qua các thời đại... và bỗng nhiên người ấy là
người Ki tô giáo - và một cái gì đó lập tức thay đổi. Đây là hành động từ kết
luận, định kiến, không nhìn vào con người này - bởi vì con người này có thể
không phải là người mà bạn nghĩ người Do Thái phải là... bởi vì mỗi người Do
Thái là một loại người khác, mỗi người Hindu là một loại người khác, mỗi người
Mô ha mét giáo cũng vậy. Bạn không thể nào hành động từ định kiến. Bạn không thể
nào hành động bằng việc phân loại mọi người. Bạn không thể chia tổ mọi người;
không ai có thể bị nhóm vào các phân loại. Bạn có thể bị lừa bởi hàng trăm người
cộng sản, và khi bạn gặp người cộng sản thứ một trăm linh một, đừng cứ tin vào
phân loại mà bạn đã lập ra trong trí: rằng người cộng sản là lừa dối - hay bất
kì cái gì khác. Người này có thể là một kiểu người khác, bởi vì không hai người
nào giống nhau cả.
Bất kì khi nào bạn hành động từ
kết luận, đấy đều là tâm trí. Khi bạn nhìn vào hiện tại và bạn không cho phép bất
kì ý tưởng nào cản trở thực tại, cản trở sự kiện, bạn chỉ nhìn vào sự kiện và
hành động từ cái nhìn đó, đấy là thiền.
Thiền không phải là cái gì đó bạn
làm vào buổi sáng và bạn kết thúc nó, thiền là cái gì đó bạn phải liên tục sống
trong mọi khoảnh khắc cuộc sống bạn. Bước đi, ngủ, ngồi, nói, nghe - nó phải là
một loại không khí. Người thảnh thơi vẫn còn trong nó. Người cứ vứt bỏ quá khứ
thì vẫn còn trong thiền. Đừng bao giờ hành động từ kết luận; những kết luận đó
là ước định của bạn, định kiến của bạn, ham muốn của bạn, sợ hãi của bạn, và tất
cả những cái còn lại của nó. Nói ngắn gọn, bạn có đó!
Bạn có nghĩa là quá khứ bạn. Bạn
có nghĩa là tất cả kinh nghiệm của bạn về quá khứ. Bạn đừng cho phép cái đã chết
thắng thế cái sống, đừng cho phép quá khứ ảnh hưởng tới hiện tại, đừng cho phép
cái chết chế ngự cuộc sống bạn - đó chính là thiền là gì. Nói ngắn gọn, trong
thiền, bạn không có đó. Cái chết không kiểm soát cái sống.
Thiền là một loại kinh nghiệm
đem cho bạn phẩm chất hoàn toàn khác để sống cuộc sống của mình. Thế thì bạn
không sống như người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ấn Độ hay người Đức; bạn
đơn giản sống như tâm thức. Khi bạn sống trong khoảnh khắc này và không có gì
can nhiễu tới, hành động là toàn bộ bởi vì không có phân tán - phân tán tới từ
quá khứ và tương lai.
Khi chú ý là toàn bộ, hành động
là toàn bộ. Nó không để lại cái gì. Nó liên tục giải phóng bạn, nó chưa bao giờ
tạo ra giam hãm bạn, nó chưa bao giờ bỏ tù bạn. Và đó là mục đích tối thượng của
Phật; đó là cái ông ấy gọi là niết bàn. ‘Niết bàn’ có nghĩa là tự do - hoàn
toàn, tuyệt đối, không cản trở. Bạn trở thành bầu trời rộng mở. Không có biên
giới cho nó, nó là vô hạn. Nó đơn giản có đấy... và thế thì chẳng có gì bao quanh
bạn, bên trong và bên ngoài. Cái không là sự vận hành của trạng thái thiền của
tâm thức. Và trong cái không đó là phúc lành. Bản thân cái không đó là phúc
lành.
Bây giờ đến lời kinh.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ
tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Nhớ lấy, cái ‘do đó’ ấy bao giờ
cũng là một chỉ dẫn rằng Phật đang nhìn vào trong cái không của Sariputra - vì
ông ấy luôn cảm thấy rằng năng lượng của ông ấy đang thảnh thơi, rằng năng lượng
của ông ấy không còn trong rối loạn nữa, rằng ông ấy không còn nghiền ngẫm mà lắng
nghe, rằng ông ấy không nghĩ mà chỉ có đó với Phật, hiện diện, cởi mở, sẵn có.
Cái ‘do đó’ ấy chỉ ra việc bầy tỏ của bản thể Sariputra. Phật đang thấy ngày
càng nhiều cánh hoa mở ra cho nên ông ấy có thể đi thêm một bước nữa, cho nên
ông ấy có thể đưa Sariputra đi sâu thêm một bước nữa. Sariputra đang có sẵn.
Cái ‘do đó’ này không phải là
logic, cái ‘do đó’ này là sự tồn tại. Nhìn vào trong Phật, Sariputra đang bầy tỏ
ra. Và nhìn vào trong Sariputra, Phật sẵn sàng đưa ông ấy tiến thêm chút nữa
sang cõi bên kia. Mỗi phát biểu lại càng sâu hơn và cao hơn.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ
tát,
qua việc tin cậy vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Từng lời một đều phải được thiền
về nó - không tập trung, chú ý, nhưng thiền; lắng nghe, nhìn vào, không suy tư,
không nghĩ tới. Những điều này còn cao hơn ý nghĩ, lớn hơn ý nghĩ. Ý nghĩa là đần
độn trong cõi này.
Trước hết ông ấy nói:
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Thiền không thể được đạt tới, bởi
vì thiền không thể có động cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn đạt tới qua động
cơ. Khi bạn đạt tới cái gì đó, bạn bao giờ cũng phải làm việc cho tương lai và
lập kế hoạch cho tương lai. Bạn không thể đạt tới được bất kì cái gì ngay bây
giờ - ngoại trừ thiền. Để tôi nhắc lại: Bạn không thể đạt tới được bất kì cái
gì ngay bây giờ - ngoại trừ thiền. Tại sao?
Nếu bạn muốn tiền bạc, bạn
không thể đạt được điều đó ngay bây giờ, bạn sẽ phải làm việc vất vả về nó; hợp
pháp, bất hợp pháp - nhưng bạn sẽ phải làm việc vì nó. Có những cách thức chậm
rãi, bạn có thể trở thành doanh nhân; và có những cách thức nhanh hơn, bạn có
thể trở thành chính khách - nhưng bạn sẽ phải điều gì đó.Dù chậm hay nhanh,
nhưng thời gian vẫn cần phải có. Thời gian là cái cần thiết. Không có thời gian
bạn không thể đạt tới tiền bạc. Nếu không có thời gian, làm sao bạn đạt tới
trong chính khoảnh khắc này? Cho dù bạn có muốn ăn cướp nhà hàng xóm, nếu bạn
muốn xoáy ví của người đang ngồi cạnh bạn, thì thế cũng vẫn cần có thời gian.
Thời gian là cái phải có. Nếu bạn muốn trở nên nổi tiếng, thời gian sẽ cần phải
có. Nếu bạn muốn trở thành có quyền lực chính trị, thời gian sẽ cần phải có.
Chỉ thiền mới thể được đạt tới
ngay bây giờ, chính khoảnh khắc này, ngay lúc này. Tại sao? - bởi vì đấy là bản
tính của bạn. Tại sao? - bởi vì nó đã có đấy rồi. Bạn còn chưa đòi tới nó, vậy
thôi; nhưng nó vẫn còn đấy, chưa được đòi hỏi tới. Bạn có thể đòi nó ngay bây
giờ. Nó không một khoảnh khắc nào bị mất đi cả.
... chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Và niết bàn không là gì ngoài
việc thiền đạt tới vòng tròn đầy đủ. Thượng đế chẳng là gì khác việc nụ của thiền
đã trở thành hoa. Đây không phải là việc đạt tới, đây là chính thực tại của bạn.
Bạn có thể cứ không chú ý tới chúng trong nhiều thời đại, quên lãng chúng trong
nhiều thời đại, nhưng bạn không thể làm mất chúng; chúng đang có đấy, ở ngay
bên trong bạn. Bất kì ngày nào bạn nhắm mắt lại và nhìn thì bạn sẽ bắt đầu cười.
Và bạn đã tìm kiếm phúc lạc này, mà tìm kiếm sai chỗ. Bạn đã tìm kiếm an toàn
này, đến từ cái không, nhưng bạn tìm kiếm trong tiền bạc, số dư ngân hàng, thế
này thế nọ. Và nó chẳng bao giờ xảy ra qua điều đó. Nó không thể xảy ra điều đó
được. Không có gì bên ngoài bạn có thể làm cho cuộc sống bạn được an toàn. Bên
ngoài là bất an; làm sao nó có thể làm cho cuộc sống bạn được an toàn? Chính phủ
không thể làm cho cuộc sống của bạn được an toàn, bởi vì bản thân chính phủ là
bất an - cách mạng có thể tới. Ngân hàng không thể nào làm cho cuộc sống của bạn
được an toàn vì ngân hàng có thể phá sản. Chỉ ngân hàng mới có thể phá sản, cái
gì khác còn phá sản được? Người đàn bà mà bạn yêu không thể làm cho cuộc sống bạn
được an toàn - cô ấy có thể đi yêu người khác. Người đàn ông bạn yêu không thể
làm cuộc sống bạn được an toàn - người ấy có thể chết.
Tất cả những điều này vẫn còn
đó. Cho nên bạn càng an toàn bên ngoài, bạn càng trở nên bất an hơn, bởi vì thế
thì bạn sợ ngân hàng vì nó có thể bị phá sản. Nếu bạn không có tài sản, bạn chẳng
bận tâm; cứ để cho nó phá sản ngày nào đó. Nhưng nếu bạn có tài khoản ngân hàng
bạn lo nghĩ. Thế thì bạn đạt tới thêm một điều bất an - khả năng này về việc
ngân hàng phá sản. Bây giờ bạn không thể ngủ được bởi vì bạn cứ nghĩ mãi về điều
gì sắp xảy ra.
Nếu bạn đặt tin cậy của mình
vào bất kì điều gì bên ngoài, điều đó tạo ra thêm bất ổn. Đó là lí do tại sao
người càng trở nên giầu có, lại càng bất an hơn. Nhưng mà tôi cũng không thiên
về nghèo đâu, nhớ lấy. Tôi không nói rằng người nghèo là an toàn; anh ta có cái
bất an của mình. Người giầu có cái bất an của người giầu; tất nhiên cái bất an
của người giầu thì phức tạp hơn còn cái bất an của người nghèo thì đơn giản -
nhưng bất an vẫn có đó. Và tôi không nói rằng nghèo là một cái gì đó rất đặc biệt,
hoặc rằng nghèo là một cái gì đó rất quan trọng và có ý nghĩa, hoặc rằng bạn có
thể khoe khoang khoác lác rằng bạn nghèo.
Nghèo chẳng có gì liên quan với
tâm linh cả. Mà giầu cũng chẳng có liên quan gì tới tâm linh cả. Đấy là những sự
kiện không có quan hệ. Người nghèo trông bề ngoài cũng như người giầu cả thôi.
Có thể người nghèo chỉ có một chiếc xe bò kéo còn người giầu thì có xe
Cadillac, nhưng điều đó cũng chẳng thành vấn đề. Xe bò kéo cũng chỉ là cái bên
ngoài như xe Cadillac; cả hai đều trông từ bên ngoài. Người giầu có thể có nhiều
tài khoản ngân hàng, còn kẻ nghèo có thể chỉ có ví tiền nhỏ hay có chút ít tiền
tiết kiệm, nhưng điều đó chẳng thành vấn đề - cả hai đều là nhìn từ ngoài.
An toàn là trên con đường nội
tâm, bởi vì tại đó bạn mới nhận ra rằng chẳng ai chết cả, rằng chẳng ai đau khổ
cả, rằng chẳng có gì có thể xảy ra, rằng có bầu trời thuần khiết. Mây tới rồi
đi, còn bầu trời tồn tại mãi. Cuộc sống tới rồi đi, hình dạng tới rồi đi, nhưng
cái không thì tồn tại mãi.
Cái không này đã có đó rồi. Đó
là lí do tại sao Phật nói điều đó có thể được đạt tới chỉ khi bạn hiểu rằng nó
là không đạt tới được. Nó có thể được đạt tới chỉ khi bạn hiểu sự kiện cơ sở: rằng
nó đã có đó, rằng nó đã là hoàn cảnh.
Cái trống rỗng đã có đó thì
không có cách nào để tiến hoá, phát triển. Nó tràn đầy ở đó. Do đó nó có thể được
đạt tới trong một khoảnh khắc. Phật gọi nó là ‘cái trống rỗng tràn đầy’, bởi vì
cái trống rỗng chỉ có thể tràn đầy nếu nó có đó. Nếu nó không tràn đầy, điều đó
có nghĩa là một cái gì đó khác hơn cái trống rỗng cũng đang có đó, và cái gì đó
khác này sẽ cản trở, ngăn cản, và cái gì khác đó sẽ tạo ra nhị nguyên, và cái
gì khác đó sẽ tạo ra cọ sát, và cái gì khác đó sẽ tạo ra căng thẳng, và cái gì
khác đó sẽ tạo ra lo âu - bạn không thể thoải mái với ‘cái gì khác đó’.
Cái trống rỗng có đó chỉ khi nó
tràn đầy, khi tất cả các chướng ngại đã bị loại bỏ, khi bạn không có bất kì cái
gì bên trong, khi không ai có đó để là người quan sát nó. Phật nói: cái trống rỗng
này thậm chí không phải là kinh nghiệm, bởi vì nếu bạn kinh nghiệm nó thì điều
đó có nghĩa là bạn vẫn có đó để kinh nghiệm nó. Nó là bạn, cho nên bạn không thể
kinh nghiệm nó. Bạn có thể kinh nghiệm chỉ cái không là bạn. Việc kinh nghiệm
có nghĩa là nhị nguyên - người quan sát và cái được quan sát, người biết và cái
được biết, chủ thể và khách thể, người thấy và vật được thấy. Nhưng chỉ có cái
trống rỗng, không ai thấy nó, không ai được thấy, không có gì như một vật,
không cái gì như chủ thể. Cái trống rỗng bất nhị này là tràn đầy. Nó hoàn toàn
tràn đầy. Tính đầy đặn của nó không thể làm mịn thêm, tính đầy đặn của nó không
thể được thêm vào. Không cái gì có thể lấy ra từ nó bởi vì không có gì cả, và
cũng chẳng cái gì có thể thêm vào nó; nó là hoàn toàn tràn đầy.
‘Trống rỗng tràn đầy’ không phải
là kinh nghiệm, bởi vì không có người kinh nghiệm trong nó. Do đó, Phật nói:
Tâm linh không phải là kinh nghiệm. Thượng đế không thể được kinh nghiệm. Những
người nói, “Tôi đã kinh nghiệm Thượng đế,” thì hoặc là không hiểu điều họ đang
nói là gì hoặc họ dùng ngôn ngữ rất, rất không thích hợp. Bạn không thể kinh
nghiệm Thượng đế được. Trong kinh nghiệm đó bạn không được tìm thấy. Kinh nghiệm
có đó, nhưng người kinh nghiệm không có đó - cho nên bạn không thể nào nói nó
là kinh nghiệm được. Cho nên bất kì khi nào ai đó hỏi Phật, “Thầy đã kinh nghiệm
Thượng đế chưa?” thì ông ấy tĩnh lặng, ông ấy không nói một lời nào. Ông ấy đổi
chủ đề ngay lập tức, ông ấy bắt đầu nói về cái gì đó khác.
Bất kì khi nào điều đó được hỏi,
trong toàn bộ cuộc đời mình, ông ấy nhất mực im lặng. Nhiều người nghĩ rằng ông
ấy chưa kinh nghiệm Thượng đế; đó là lí do tại sao ông ấy tĩnh lặng. Nhưng ông ấy
là người duy nhất chẳng nói gì - phủ định hay khẳng định. Và đấy không phải bởi
vì ông ấy đã không kinh nghiệm. Ông ấy đã kinh nghiệm, nhưng điều đó không thể
được nói như một kinh nghiệm; đó là lí do tại sao ông ấy giữ tĩnh lặng. Đó là
lí do tại sao Jesus vẫn còn im lặng khi Pontius Pilate hỏi, “Chân lí là gì?”
J. Krishnamurti cứ nói mãi...
và ông ấy đưa ra phân biệt rất tinh tế giữa kinh nghiệm và việc kinh nghiệm, và
đó là phân biệt hay - ông ấy nói, “Đấy là việc kinh nghiệm, không phải là kinh
nghiệm.” Nó là quá trình, không phải là vật. Nó là sống động, không chết. Nó vẫn
tiếp diễn, không kết thúc. Bạn đi vào Thượng đế, và thế thì đấy là hiện tượng
đang tiếp diễn: nó cứ tiếp diễn mãi đến vĩnh viễn; bạn chẳng bao giờ ra khỏi
nó. Đấy là việc kinh nghiệm, quá trình sống - giống như dòng sông, giống như
hoa nở, và nở, nở mãi, và cứ tiếp tục nở. Và nó chẳng bao giờ đi tới chấm dứt cả.
Nói rằng một người đã kinh nghiệm
Thượng đế là ngu xuẩn, lừa dối và đần độn. Nói rằng một người đã đạt tới
moksha, niết bàn, chân lí, là không có nghĩa lắm, bởi vì có những điều mà không
thể phân loại được như sự thành đạt.
Cho nên Phật nói:
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình ...
Khi tâm trí đã tới điểm dừng lại
và không còn quan tâm tới việc đạt được cái gì nữa, nó đạt tới phật tính. Khi
tâm trí đã đi tới dấu chấm hết và không còn đi đâu nữa, nó bắt đầu đi vào
trong, nó bắt đầu rơi vào trong bản thể riêng của người ta, cái vực thăm thẳm
đó. Cái trống rỗng tràn đầy được đạt tới bởi không thành đạt. Cho nên bạn đừng
trở thành người thành đạt, đừng bắt đầu nghĩ dưới dạng thành đạt - rằng bạn đã
đạt được cái này cái nọ, rằng bạn đã đạt tới Thượng đế. Đấy chỉ là trò chơi;
tâm trí lại lừa phỉnh bạn. Tên của trò chơi thay đổi, nhưng trò chơi, trò chơi
tinh vi, thì vẫn thế.
... mà bồ tát đạt tới
... qua không thành đạt ...
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
Đây là phát biểu rất, rất có ý
nghĩa. Phật nói: người ta không nên dựa vào bất kì cái gì. Bây giờ điều này lại
ngược với tôn giáo cho phật tử thông thường, bởi vì tôn giáo cho phật tử thông
thường có ba điều qui y nền tảng: Buddham sharanam gachchhami, sangam sharanam
gachchhami, dhammam sharanam gachchhami. Khi đệ tử tới với Phật, người ấy cúi đầu,
buông xuôi cho ông ấy và nói, “Tôi qui y nơi Phật” - buddham sharanam
gachchhami.
“Tôi qui y vào cộng đồng của Phật”
– sangam sharanam gachchhami: “Tôi qui y vào luật do Phật dạy” - dhammam
sharanam gachchhami. Và Phật nói ở đây là người ta không nên dựa vào bất kì cái
gì - không có qui y, không đâu là chỗ trú ẩn cả.
Bản Tâm Kinh này đã được gọi là
linh hồn của Phật giáo, và nhà thờ Phật đã được gọi là thân thể. Ba điều qui y
này là dành cho tâm trí rất bình thường đang đi tìm chỗ trú ẩn nào đó, chỗ chống
đỡ nào đó, chỗ hỗ trợ nào đó. Những phát biểu này là dành cho linh hồn cao nhất
- người đã tới bậc thứ sáu, và đang đi lên giữa bậc thứ sáu và thứ bẩy, chỉ
thêm một chút thúc đẩy...
Do đó, này Sariputra...
Tương truyền rằng bài thuyết
pháp đầu tiên của Phật, vẫn được gọi là bài Kinh Chuyển pháp (quay bánh xe tôn
giáo), Dhamma Chakrapravatan Sutra - là bài thuyết pháp đầu tiên của ông ấy, tiến
hành gần Varanasi - đã tạo ra cái gọi là tôn giáo thông thường, dành cho quần
chúng bình thường. Trong bài thuyết pháp đó ông ấy tuyên bố, “Tới và qui y vào
Phật; tới và qui y vào luật mà Phật dạy; tới và qui y vào cộng đồng, vào cộng đồng
của Phật.”
Sau hai mươi năm ông ấy tuyên bố
hệ thống tôn giáo thứ hai này. Ông ấy mất hai mươi năm để đưa vài người tới khả
năng cao nhất. Điều này được biết tới như buổi thuyết giảng thứ hai quan trọng
nhất. Buổi thuyết giảng thứ nhất là tại Saranath, gần Varanasi, khi ông ấy bảo
với mọi người, “Tới đây và qui y vào ta. Ta đã chứng ngộ! Tới và qui y vào ta.
Ta đã đạt tới! Tới và cùng chia sẻ ta. Ta đã tới đích! Tới và theo ta.” Đó là
nói cho tâm trí bình thường; đấy là tự nhiên. Phật không thể tuyên bố Tâm Kinh;
quần chúng sẽ không thể nào hiểu nổi.
Thế rồi ông ấy làm việc trong
hai mươi năm cùng đệ tử. Bây giờ Sariputra đang tới rất gần. Bởi vì việc tới gần
đó, ông ấy nói:
Do đó, này Sariputra...
Bây giờ tôi có thể nói điều đó
cho bạn. Tôi có thể nói cho bạn rằng dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ... Chỉ một
điều mà người ta phải dựa vào, và đó là nhận biết, chăm chú. Chỉ một điều mà
người ta phải dựa vào, đó là cội nguồn nội tâm của riêng mình, bản thể mình. Mọi
thứ khác đều phải bị loại bỏ, tất cả các qui y.
Qua việc không dựa vào cái gì
ngoài sự hoàn hảo của thiền, điều người ta phải làm không phải là dựa vào bất
kì cái gì, thế gian hay cái khác, mà phải buông bỏ tất cả, để cho cái trống rỗng
kết quả được tự do chạy nhảy, không bị cản trở bởi bất kì thái độ ủng hộ hay phản
đối nào, chấm dứt dựa vào bất kì cái gì, không tìm kiếm chỗ trú ẩn hay hỗ trợ ở
đâu cả - đó mới là từ bỏ thực.
Cái ta tách biệt của chúng ta
là một thực tại giả tạo có thể duy trì bản thân nó chỉ bởi việc tìm hỗ trợ hay ủng
hộ để nghiêng vào hay dựa vào. Trú ẩn vào tam bảo là hành động trung tâm của
tôn giáo cho phật tử - trú ẩn vào Phật, trú ẩn vào tăng đoàn, trú ẩn vào pháp.
Tại đây Phật bác bỏ điều đó. Điều này không mâu thuẫn. Ông ấy đơn giản nói cái
bạn có thể hiểu được. Trong khẳng định của tôi bạn sẽ tìm ra cả nghìn lẻ một
mâu thuẫn, bởi vì chúng đã được tạo ra hướng tới những người khác nhau. Bạn
càng trưởng thành hơn, tôi càng đưa ra những khẳng định khác - bởi vì khẳng định
của tôi là đáp ứng lại cho bạn.
Tôi không nói với bức tường.
Tôi đang nói với bạn, và tôi chỉ có thể cho cái mà bạn có thể hiểu được. Tâm thức
bạn càng cao hơn, tâm thức bạn càng sâu hơn, tôi sẽ nói những điều càng khác
hơn. Một cách tự nhiên, những phát biểu khác nhau này sẽ rất mâu thuẫn. Nếu người
ta cứ theo nhất quán logic, người ta sẽ chẳng tìm thấy gì cả. Bạn không thể tìm
ra bất kì nhất quán logic nào trong các phát biểu của Phật.
Đó là lí do tại sao, ngày Phật
chết, Phật giáo đã bị phân chia thành ba mươi sáu tông phái. Đúng ngày ông ấy
chết, và các đệ tử đã bị phân chia thành ba mươi sáu tông phái - điều gì đã xảy
ra? Bởi vì ông ấy đã đưa ra biết bao nhiêu phát biểu cho những người khác nhau
- bởi vì tâm thức và hiểu biết khác nhau của họ - tất cả họ đều bắt đầu cãi
nhau và đánh nhau. Họ nói, “Điều này Phật đã nói cho tôi!” Bạn cứ thử nghĩ mà
xem: năm đệ tử đầu, với họ ông ấy nói, “Ta đã chứng ngộ - bây giờ tới ta và ta
sẽ đưa các ông đến đó”... nếu những đệ tử đầu tiên này gặp Sariputra và
Sariputra nói, “Điều ấy đạt tới qua một loại không thành đạt; người tuyên bố rằng
mình đã thành đạt là sai, bởi vì điều đó không thể nào đạt được” - thì những đệ
tử đầu tiên này sẽ nói gì? Họ sẽ nói, “Các ông nói gì vậy? Chúng tôi là những đệ
tử lâu nhất, những người cao cấp nhất, và đây là phát biểu đầu tiên mà Phật đã
nói cho chúng tôi: ‘Ta đã đạt tới!’ Trong thực tế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ
theo ông ấy nếu ông ấy không tuyên bố điều đó. Bởi vì ông ấy đã tuyên bố điều
đó, cho nên chúng tôi theo ông ấy.
Động cơ chúng tôi thật rõ ràng:
rằng ông ấy đã đạt tới, chúng tôi cũng muốn đạt tới; đó là lí do tại sao chúng
tôi đã theo ông ấy. Và ông ấy đã nói với chúng tôi, ‘Ta là chỗ trú ẩn của các
ông. Tới đây và qui y vào ta. Để ta là chỗ trú ẩn của các ông.’ Và ông đang nói
về cái điều vô nghĩa gì vậy? Phật không thể nói điều này. Ông phải đã hiểu lầm
rồi. Cái gì đó bị sai, hay ông đã bịa ra chuyện đó?”
Bây giờ phát biểu này, Tâm Kinh
này, đã được nêu ra trong chỗ riêng tư. Nó đã được nói cho Sariputra, nó được đặc
biệt phát biểu cho Sariputra. Nó giống như một bức thư. Sariputra không thể tạo
ra bất kì bằng chứng nào, bởi vì trong ngày xưa ấy đã làm gì có máy ghi âm. Ông
ấy chỉ đơn giản nói, ông ấy có thể đưa ra lời thề: “Tôi không nói bất kì điều
gì không đúng. Phật đã nói cho tôi, ‘Chỉ dựa vào thiền của ông mà không vào cái
gì khác.’”
Tâm trí dựa vào cái gì đó khác
thì là cái ta giả tạo, bản ngã. Bản ngã không thể nào tồn tại mà không có cái đỡ,
nó muốn có cái chống đỡ. Cái gì đó phải đỡ cho nó. Một khi tất cả các cột chống
đã bị rút đi, bản ngã sập đổ xuống đất và biến mất. Nhưng chỉ khi bản ngã sập đổ
xuống đất tâm thức mới nảy sinh trong bạn, cái là vĩnh hằng, cái là vô thời
gian, bất tử.
Tại đây, Phật nói: “Không có chỗ
trú ẩn, Sariputra. Không có phương thuốc, Sariputra. Không có gì và không có
đâu mà đi cả. Ông đã ở đó rồi.”
Nếu bạn tới cái trống rỗng tràn
đầy này mà không được chuẩn bị, nó sẽ làm cho bạn run lẩy bẩy. Nếu bạn bị ai đó
ném vào nó... Chẳng hạn, đôi khi mọi người tới tôi với tình yêu và lòng kính trọng
sâu sắc; họ nói, “Osho ơi, tại sao thầy không đẩy tôi mạnh thêm chút nữa?” Nếu
bạn không sẵn sàng cho nó và bạn bị đẩy vào nó, thì cũng chẳng có ích gì. Điều
đó có thể cản trở tiến bộ của bạn trong nhiều kiếp sắp tới. Một khi bạn đã đi
vào trong cái không đó mà không được chuẩn bị, bạn sẽ bị choáng váng, hoảng sợ,
sợ hãi tới chết, đến mức, trong ít nhất vài kiếp sống, bạn chẳng bao giờ dám tới
bất kì ai nói về cái không, người nói về Thượng đế. Bạn sẽ tránh né. Sợ hãi đó
sẽ trở thành một hạt mầm trong bạn.
Không, bạn không thể nào bị
thúc đẩy mà không được chuẩn bị. Bạn có thể bị thúc đẩy chỉ dần dần theo cùng tỉ
lệ như bạn đã chuẩn bị.
Bạn đã bao giờ nghe lời phát biểu
nổi tiếng của Soren Kierkegaard, triết gia Đan mạch, người sáng lập ra thuyết
hiện sinh hiện đại chưa? Ông ấy nói, “Con người run rẩy, run rẩy thường xuyên.”
Tại sao? - bởi vì cái chết có đó. Tại sao? - bởi vì sợ hãi có đó, “Ngày nào đó
mình có thể không còn nữa.”
Ông ấy nói đúng về tâm trí bình
thường - mọi người đều run rẩy. Vấn đề bao giờ cũng là, “Hiện hữu hay không hiện
hữu.” Nó bao giờ cũng treo ở đó - cái chết. Bạn không thể quan niệm được sự biến
mất vào cái không - điều đó làm tổn thương, điều đó gây sợ hãi. Và nếu bạn nhìn
sâu vào bên trong mình, bạn sẽ thấy bản thân mình run rẩy với ý tưởng về việc
là không. Bạn muốn là có, bạn muốn còn lại, bạn muốn vẫn còn. Bạn muốn cứ còn
mãi. Đó là lí do tại sao mọi người chẳng biết gì về bản thể bên trong mà cứ tiếp
tục tin rằng linh hồn là bất tử - không phải bởi vì họ biết, nhưng bởi sợ hãi.
Bởi vì sự run rẩy đó mà họ phải tin rằng linh hồn là bất tử. Đó là một loại đáp
ứng mong muốn.
Cho nên bất kì kẻ ngốc nào đang
nói về tính bất tử của linh hồn cũng đều rất hấp dẫn đối với bạn. Bạn sẽ bị mắc
vào. Không phải là bạn đã hiểu điều người đó nói - bản thân người ấy có thể chẳng
hiểu - nhưng điều ấy sẽ rất hấp dẫn. Tại Ấn Độ mọi người tin vào tính bất tử của
linh hồn, và bạn không thể nào tìm ra nhiều người hèn nhát hơn ở bất kì đâu
khác. Trong hàng nghìn năm họ vẫn còn là nô lệ, nô lệ cho những quốc gia rất nhỏ.
Bất kì ai đã tới Ấn Độ, đều chinh phục Ấn Độ mà chẳng mấy khó khăn gì. Điều đó
quá đơn giản. Và đấy là những người tin vào tính bất tử của linh hồn. Trong thực
tế, một quốc gia tin vào tính bất tử của linh hồn thì không thể nào bị chinh phục
được, bởi vì không ai sẽ sợ chết. Làm sao bạn chinh phục được người không sợ chết?
Họ sẽ chết tất cả, nhưng họ sẽ không chịu bất kì khuất phục nào, họ không thể
chịu thua bất kì kẻ chinh phục nào.
Nhưng trong hàng nghìn năm, Ấn
Độ vẫn còn là nô lệ. Rất dễ dàng, nó cứ còn là nô lệ. Nước Anh là một nước rất
nhỏ - có vài quận ở Ấn Độ còn lớn hơn. Nước Anh có thể cai trị trên quốc gia to
lớn này một cách dễ dàng; chẳng khó khăn gì. Tại sao? ... Và những người này
tin rằng linh hồn là bất tử! Nhưng niềm tin không phải là kinh nghiệm của họ,
niềm tin là từ sợ hãi. Thế thì mọi sự được giải thích. Đây là những người hèn
nhát, sợ sệt, sợ chết - do đó họ níu bám lấy ý tưởng rằng linh hồn là bất tử.
Không phải là họ biết, không phải là họ đã kinh nghiệm; họ chưa bao giờ kinh
nghiệm bất kì điều gì giống thế, họ chỉ kinh nghiệm cái chết bao quanh. Vì cái
chết mà họ sợ đến thế. Cho nên một mặt họ tin vào cái bất tử của linh hồn; mặt
khác, bất kì ai cũng có thể hành hạ họ và họ sẵn sàng qui phục và chạm chân.
Chính là từ sợ mà con người tin
vào tính bất tử. Chính là từ sợ mà con người tin vào Thượng đế. Nó bắt nguồn từ
run rẩy. Soren Kierkegaard cũng đúng về tâm trí bình thường.
Một triết gia cực đoan khác,
Jean-Paul Sartre, nói: “Con người bị kết án là tự do.” Tại sao lại ‘bị kết án’?
Tại sao lại dùng cái từ xấu xí ‘bị kết án’ này? Tự do - đấy là một loại kết án
sao? Đúng đấy, với tâm trí thông thường nó là vậy, bởi vì tự do có nghĩa là
nguy hiểm. Tự do có nghĩa là bạn không thể nào dựa vào bất kì cái gì, bạn phải
dựa vào chính mình. Tự do có nghĩa là tất cả những cái chống đỡ đều đã bị lấy
đi mất, tất cả những hỗ trợ đều biến mất. Tự do về cơ bản có nghĩa là cái
không.
Bạn tự do chỉ khi bạn là cái
không. Nghe điều Sartre nói: “Con người, khi được tự do, trở nên khổ não.” Khổ
não sao? Đúng đấy, nếu bạn không sẵn sàng cho nó, nếu bạn không được chuẩn bị để
đi vào trong nó, thì nó là khổ não. Không ai muốn được tự do cả, bất kể điều mọi
người cứ nói. Không ai muốn tự do cả. Mọi người muốn là nô lệ, bởi vì trong cảnh
nô lệ thì trách nhiệm có thể được ném lên người nào đó khác.
Bạn không bao giờ chịu trách
nhiệm cả, bạn chỉ là một nô lệ: bạn có thể làm gì nào? Bạn chỉ làm cái được ra
lệnh. Nhưng khi bạn tự do, bạn sợ. Trách nhiệm nảy sinh. Mỗi hành động, và bạn
cảm thấy trách nhiệm: nếu bạn làm điều này, điều này có thể xảy ra; hay nếu bạn
làm việc khác, cái gì đó khác có thể xảy ra. Thế thì chọn lựa thuộc phần bạn,
và chọn lựa tạo ra run rẩy. Và Jean-Paul Sartre cũng đúng về tâm trí thông thường:
tự do tạo ra khổ não.
Ông ấy nói, “Con người bị kết
án là tự do,” bởi vì tự do tạo ra khiếp đảm. Nó là tự do khiếp đảm. Chẳng có gì
bảo đảm cho tôi trong đó tôi có thể trú ẩn được. Tôi phải tự mình tạo ra những
giá trị này. Tôi quyết định ý nghĩa của bản thân mình và vũ trụ mình, một mình,
không thể bào chữa được và không có cớ nào cả. Tôi là trình bầy công khai về tự
do, bạn là khác. Tự do của tôi là bày tỏ công khai về bản thể tôi, bạn cũng vậy.
Tính duy nhất của chúng ta bao gồm trong sự kiện là mỗi chúng ta làm điều này
theo cách của mình.
Nhưng Sartre nghĩ tự do tạo ra
khổ não, và tự do là một loại kết án, sự nguyền rủa. Và Kierkegaard nói, “Con
người là sự run rẩy thường xuyên.” Còn Phật lại muốn bạn đi vào trong tự do
này, vào trong cái không này. Một cách tự nhiên, bạn phải được chuẩn bị về nó.
Sariputra đã sẵn sàng bây giờ.
Do đó, này Sariputra,
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ
tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ,
cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Trong việc thiếu vắng của ý nghĩ bao phủ
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí... và ông ấy
không run rẩy trong cái không này.
Điều này có vẻ gần như không thể
có được cho tâm trí thông thường: làm sao bạn có thể còn không run rẩy khi bạn
đang biến mất? Khi bạn tan chảy vào trong cái không biết, làm sao bạn vẫn còn
không hoảng sợ? Làm sao bạn có thể đảm đương không chạy trốn? Làm sao bạn có thể
đảm đương không bắt đầu đi tìm những chống đỡ và ủng hộ để cho bạn có thể tạo
ra cảm giác về bản ngã, về cái ta?
Đó là lí do tại sao Phật đã phải
đợi hai mươi năm. Và thế nữa, ông ấy đã phát biểu chân lí này cho Sariputra
trong một đối thoại cá nhân, không trong buổi thuyết giáo công cộng. Và nếu mọi
người không tin vào Sariputra, họ cũng đúng - bởi vì Phật đã nói điều gì đó
khác với họ.
Nhớ điều này về tôi nữa! Nhớ điều
này: phát biểu của tôi là mâu thuẫn bởi vì chúng được đưa ra cho nhiều người
khác nhau, chúng được đưa ra cho các tâm thức khác nhau. Và bạn càng trưởng
thành hơn, tôi sẽ càng trở nên mâu thuẫn hơn; tôi sẽ càng phải bác bẻ lại điều
tôi đã nói trước đó - bởi vì điều đó sẽ không còn liên quan tới bạn nữa. Với
tâm thức trưởng thành của bạn tôi sẽ phải đáp ứng theo cách khác. Mỗi bước ngoặt
trong tâm thức của bạn sẽ là một bước ngoặt trong phát biểu của tôi. Và khi tôi
ra đi rồi, đừng tạo ra ba mươi sáu tông phái - bởi vì ba mươi sáu tông phái sẽ
không có tác dụng.
Cái không đem lại tự do. Tự do
khỏi cái ta là tự do tối thượng. Không có tự do nào cao hơn điều đó. Cái không
là tự do. Và nó không phải là khổ não, như Jean- Paul Sartre nói, và nó không
là run rẩy, như Kierkegaard nói. Nó là phúc lành, nó là phúc lạc tối thượng. Nó
không là run rẩy bởi vì không có ai để run rẩy cả.
Thiền chuẩn bị cho bạn về điều
đó, bởi vì khi bạn đi vào trong thiền, hàng ngày bạn thấy bản thân mình càng
ít. Và bạn càng ít thấy bản thân mình, theo cùng tỉ lệ bạn lại càng trưởng
thành phúc lạc của mình, phúc lành của mình, hạnh phúc của mình. Dần dần, bạn học
được toán học của thế giới nội tâm - rằng bạn càng có đấy, càng nhiều địa ngục;
bạn càng ít đấy, càng nhiều cõi trời. Cái ngày bạn không có đấy, đó là niết
bàn; ngôi nhà tối thượng đã đạt tới. Bạn đã tới vòng tròn đầy đủ, bạn đã trở lại
thành đứa trẻ. Không còn cái ta nào nữa.
Nhớ lấy, tự do không có nghĩa
là tự do của cái ta. Tự do nghĩa là: tự do khỏi cái ta. Với Sartre điều đó có
nghĩa ‘tự do của cái ta’. Đó là lí do tại sao điều đó có cảm giác kết án; cái
ta vẫn còn. Nó trở thành tự do, nhưng nó vẫn còn - và đó là lí do tại sao có sợ
hãi.
Nếu tự do là sao cho cái ta biến
mất đi trong nó, và chỉ có tự do mà không có ai tự do, thế thì ai có thể run rẩy,
và ai có thể cảm thấy khổ não, và ai có thể cảm thấy bị kết án? Và thế thì
không có vấn đề chọn lựa; tự do đó hành động theo ý riêng của nó. Người ta hành
động từ vô chọn lựa, và không có trách nhiệm nào còn lại - bởi vì không có ai
có thể cảm thấy có trách nhiệm gì. Cái không hành động. Vi vô vi - không hành động
hành động. Nó là đáp ứng giữa cái không bên trong và cái không bên ngoài, và
không có gì cản trở.
chính bởi sự không thành đạt của mình mà bồ
tát,
qua việc dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ...
một mình ... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Bây giờ không ý nghĩ bao phủ.
Và ý nghĩ bao phủ là rào chắn phân chia bạn với cái không bên ngoài. Đó là điều
tôi đã nói đêm qua cho Neelamber, Mark cũ, rằng tôi đã nói về hôm qua.
Tối hôm qua anh ấy đã đi vào
tính chất sannyas; anh ấy đã trở thành Neelamber. Neelamber có nghĩa là bầu trời
xanh. Cái gì phân chia bầu trời bên ngoài với bầu trời bên trong? Sự bao phủ ý
nghĩ của bạn. Đấy là những đám mây không cho phép cái trần trụi của bạn tiếp
xúc với bầu trời, sự trần trụi của bạn được bắc cầu với bầu trời. Ý nghĩ rằng bạn
là người Hindu, ý nghĩ rằng bạn là người Ki tô giáo, ý nghĩ rằng bạn là người cộng
sản hay phát xít, tạo ra chia rẽ. Ý nghĩ rằng bạn là đẹp hay xấu tạo ra chia rẽ.
Ý nghĩ rằng bạn là thông minh hay không thông minh tạo ra chia rẽ. Bất kì loại
ý nghĩ nào - và chia rẽ. Và bạn có hàng triệu ý nghĩ. Bạn sẽ phải bóc tách mình
ra giống như bạn bóc củ hành, hết lớp nọ tới lớp kia. Bạn bóc lớp vỏ này lớp
khác lại có đó; bóc nó ra, tầng khác lại có đó. Và một cách tự nhiên khi bạn
bóc hành thì nước mắt trào ra; nó gây cay mắt. Khi bạn bắt đầu phơi bầy bản thể
mình, điều đó còn đau đớn hơn. Không giống như cởi quần áo, điều đó giống như
việc bóc da bạn ra.
Nhưng nếu bạn cứ bóc mãi, rồi một
hôm bạn đi tới chỗ toàn bộ củ hành biến mất và chỉ cái không là còn lại trong
tay bạn. Cái không đó là phúc lạc. Phật nói: Bồ tát sống không có việc bao phủ
ý nghĩ. Ông ấy ở đây, nhưng ông ấy là không ai cả; ông ấy ở đây, nhưng ông ấy
không có ý tưởng nào; ông ấy ở đây, nhưng ông ấy không có ý nghĩ. Không phải là
ông ấy không thể dùng ý nghĩ... Tôi vẫn liên tục dùng ý nghĩ.
Tôi đang nói với bạn ngay bây
giờ, tôi phải dùng tâm trí và ý nghĩ - nhưng chúng không bao phủ tôi. Chúng là ở
bên cạnh. Bất kì khi nào tôi cần, tôi dùng chúng. Bất kì khi nào tôi không dùng
chúng, chúng không có đó - bầu trời bên trong của tôi và bầu trời bên ngoài là
một. Và thậm chí trong khi tôi đang dùng chúng, tôi vẫn biết rằng chúng không
thể phân chia tôi. Chúng là công cụ, bạn có thể dùng chúng, nhưng bạn không bị
chúng che phủ theo bất kì cách nào.
... cư ngụ không ý nghĩ bao phủ.
Phật nói có ba loại bao phủ ý
nghĩ. Loại thứ nhất là karma averna - hành động không hoàn tất. Những hành động
không toàn bộ bao phủ bản thể bạn. Từng hành động đều muốn được hoàn tất. Có
thôi thúc nội tại trong mọi việc để hoàn tất nó. Bất kì khi nào bạn cho phép
hành động nào đó treo quanh bạn chưa hoàn tất, nó đều bao phủ quanh bạn: karma
averna, nghiệp bao phủ quanh bạn.
Loại thứ hai là klesas averna.
Tham lam, ghét bỏ, ghen tị và những thứ đại loại như thế: chúng được gọi là
klesas, không thuần khiết; chúng bao phủ bạn. Bạn đã bao giờ quan sát nó chưa?
Người giận dữ gần như bao giờ cũng giận dữ - lúc ít, lúc nhiều, nhưng tất cả giận
dữ đều là một. Người ấy sẵn sàng nhảy vào bất kì cái gì. Người ấy sẵn sàng, với
bất kì lí do gì, lao vào một cách điên dại. Người ấy sôi sùng sục bên trong. Và
người ghen tị cũng thế: người ghen tị cứ đi tìm kiếm cái gì đó mà với nó người ấy
có thể ghen tị. Người vợ ghen tị cứ nhìn mãi vào trong túi chồng để xem mình có
thể tìm thấy cái gì đó, trong những bức thư của chồng, trong hồ sơ của chồng để
xem mình có tìm thấy cái gì đó không.
Khi Mulla Nasruddin về tới nhà
bao giờ cũng có lục đục nào đó, vì điều này điều khác. Vợ anh ấy là một người rất
hay lục lọi đến mức chị ta bao giờ cũng tìm thấy thứ này thứ khác. Số điện thoại
nào đó trong sổ của anh ta, và chị ta bắt đầu nghi ngờ. Một sợi tóc trên áo
choàng, và chị ta đi vào cuộc điều tra lớn - sợi tóc này từ đâu tới?
Một hôm chị ta chẳng thể tìm thấy
cái gì, thậm chí đến một sợi tóc. Mulla đã làm mọi việc ngày hôm đó; chị ta bắt
đầu khóc lóc.
Và Mulla nói, “Nào có vấn đề gì
vậy? Đến một sợi tóc em cũng chẳng thể nào tìm thấy trên áo anh...?” Chị vợ
nói, “Đấy là lí do tại sao em khóc. Bây giờ anh đã bắt đầu đi với bọn phụ nữ trọc
đầu!”
Rất khó, thực sự, để tìm ra phụ
nữ trọc đầu, nhưng đó là tâm trí của người ghen. Đó là sự bao phủ. Phật gọi
chúng là klesas, không thuần khiết; người bản ngã bao giờ cũng đi tìm cái gì đó
để hoặc khoe khoang khoác lác hoặc để cảm thấy bị tổn thương về nó. Người sở hữu
bao giờ cũng đi tìm cái gì đó để cho mình có thể trưng bầy sở hữu của mình, hay
trong việc tìm thấy cái gì đó tiêu cực để cho người ấy có thể tranh đấu với nó.
Mọi người cứ tiếp tục... và tôi
không nói về người khác, tôi đang nói về bạn đấy. Quan sát tâm trí mình - bạn cứ
tiếp tục tìm kiếm vì cái gì. Quan sát tâm trí mình trong hai mươi bốn giờ và bạn
sẽ nhận ra tất cả những sự bao phủ đó, avernas.
Có hoặc những hành động không
hoàn tất, hay không thuần khiết; hoặc loại thứ ba là ghaya avernas - những bao
phủ niềm tin, ý kiến, ý thức hệ, tri thức. Chúng không cho phép bạn biết, chúng
không cho bạn đủ không gian để thấy. Ba lớp bao phủ này cần phải bị loại bỏ.
Khi ba lớp bao phủ này bị loại
bỏ, thế thì người ta cư ngụ trong cái không. Từ ‘cư ngụ’ cũng cần được hiểu. Phật
nói: Ông ấy cư ngụ trong cái không. Đấy là nhà ông ấy, cái không là nhà ông ấy.
Ông ấy cư ngụ trong đó, nó là một chỗ cư ngụ. Ông ấy yêu nó, ông ấy hoàn toàn
hoà hợp với nó. Nó không phải là xa lạ, ông ấy không cảm thấy như người ngoài ở
đó. Và ông ấy không cảm thấy giống như ông ấy đang ở trong khách sạn và ngày
mai ông ấy sẽ phải rời bỏ nó. Nó là nơi cư ngụ của ông ấy. Khi việc bao phủ ý
nghĩ đã bị loại bỏ, cái không là nhà bạn. Bạn hoàn toàn hài hoà với nó.
Kierkegaard và Sartre chưa bao
giờ ở đó. Họ chỉ suy xét về nó. Họ chỉ nghĩ về nó, về nó sẽ là như thế nào. Đó
là lí do tại sao Kierkegaard cảm thấy run rẩy. Ông ấy đơn giản nghĩ, cũng như bạn
nghĩ...
Thử nghĩ xem nó sẽ thế nào khi
bạn chết, và bạn sẽ được đặt lên dàn thiêu, và bạn sẽ kết thúc mãi mãi. Và thế
thì bạn sẽ không thể nào thấy những cây xinh tươi này, những con người đẹp đẽ
này, và bạn sẽ không còn cười nữa, và bạn sẽ không yêu nữa, và bạn sẽ không thấy
các vì sao nữa. Mà thế giới này vẫn tiếp tục, còn bạn sẽ không ở đây chút nào.
Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run lẩy bẩy sao? Chẳng lẽ bạn không cảm thấy run rẩy
sao?
Tất cả sẽ tiếp tục - chim sẽ
hót và mặt trời sẽ lên và đại dương sẽ ầm ầm và chim ưng nào đó vẫn sẽ bay cao
mãi cao mãi, và hoa sẽ có đó cùng hương thơm, và hương nồng của đất ướt - tất cả
những điều đó sẽ có đó. Rồi bỗng nhiên một ngày nào đó bạn sẽ không có đó, và
thân thể bạn sẽ chết. Cái thân thể đẹp đẽ này mà bạn đã từng sống với nó và bạn
đã từng chăm sóc nó nhiều thế - nó sẽ ốm yếu và làm phiền nhiễu bạn - rồi một
ngày nào đó nó sẽ thành vô dụng đến mức mà mọi người đã từng yêu mến nó, cũng
cùng những người ấy thôi, sẽ đem nó lên dàn thiêu và đưa nó vào lửa. Quán tưởng
về điều đó. Suy xét, và run rẩy sẽ tới.
Kierkegaard phải đã suy xét về
nó. Ông ấy phải đã là người có thiên hướng rất sợ sệt. Có câu chuyện kể về ông ấy
rằng ông ấy là con một người giầu có. Người bố chết; ông ấy đã để lại đủ tiền
cho Kierkegaard, cho nên ông này chẳng bao giờ làm lụng, ông ấy tiếp tục suy
tư. Ông ấy có thể dễ dàng đảm đương việc đó - chẳng có gì phải làm cả. Ông ấy
có đủ tiền trong ngân hàng. Ngày đầu tiên hàng tháng ông ấy sẽ ra ngân hàng -
đó là toàn bộ công việc của ông ấy - để rút tiền. Và thế rồi ông ấy sẽ sống và
thiền. Thiền theo nghĩa của ông ấy là suy tư, nghiền ngẫm, suy nghĩ. Đó là điều
từ thiền theo tiếng Anh ngụ ý. Đấy không phải là việc dịch đúng cho chữ dhyana.
Khi mọi người tới tôi và tôi bảo
họ thiền, họ nói, “Về cái gì?” Từ tiếng Anh có nghĩa là thiền về cái gì đó, vật
nào đó. Từ Ấn Độ dhyana có nghĩa là sống trong nó, không phải là suy tư về cái
gì đó. Nó là trạng thái, không phải là hành động.
Cho nên ông ấy sẽ suy tư và suy
nghĩ, và nghiền ngẫm và triết lí. Nghe nói rằng ông ấy yêu một phụ nữ đẹp,
nhưng không thể quyết định được liệu có cưới vợ hay không. Chính hiện tượng yêu
trở thành run rẩy trong ông ấy. Trong ba năm ông ấy nghiền ngẫm về nó, và cuối
cùng ông ấy quyết địng không lấy vợ. Mà ông ấy thì đã yêu. Trong suốt cuộc đời,
ông ấy không thể nào quên được người phụ nữ này, toàn bộ cuộc đời ông ấy cảm thấy
khổ sở vì người phụ nữ này. Người phụ nữ này đã yêu, ông ấy đã yêu; thế mà ông ấy
vẫn quyết định không lấy vợ. Tại sao? - bởi vì chính ý tưởng yêu đã tạo ra run
rẩy trong ông ấy. Tình yêu là một loại cái chết. Nếu bạn thực sự yêu một người
thì bạn chết đi trong người đó, bạn biến mất trong người đó.
Khi bạn làm tình... Tôi phải
dùng từ ‘làm’ này – nó không đúng, nhưng không ngôn ngữ nào thực sự là đúng cả.
Cho nên nhớ lấy, tôi phải dùng từ với tất cả những giới hạn của nó. Tình yêu
không thể làm được. ‘Làm tình’ là cách diễn đạt sai: nó xảy ra. Nhưng khi nó xảy
ra, khi bạn đang trong không gian tình yêu với ai đó, thì sợ hãi tới bởi vì bạn
đang biến mất. Đó là lí do tại sao rất, rất nhiều người, hàng triệu người, chưa
bao giờ đạt tới cực thích - bởi vì cực thích là cái chết.
Và Kierkegaard đã yêu nhiều đến
mức ông ấy trở nên sợ rằng ông ấy có thể làm mất bản thân mình trong người phụ
nữ này. Sợ hãi đó quá nhiều. Ông ấy vứt bỏ ý tưởng ấy. Ông ấy từ chối, ông ấy
không lấy vợ. Ông ấy chịu đựng trong suốt cuộc đời - ông ấy đã chấp nhận điều
đó - nhưng bởi vì sợ... Ông ấy là người có thiên hướng sợ sệt. Ông ấy sống hoàn
toàn tốt, chẳng làm gì, chỉ triết lí.
Và có một chuyện tiếu lâm rất lạ
về ngày ông ấy chết. Ông ấy chết khi ông ấy từ ngân hàng về. Đó là ngày đầu
tháng; ông ấy từ ngân hàng về, đã rút tiền xong – nhưng đây là món tiền cuối
cùng. Ông ấy chết trên đường. Người ta cứ nghĩ rằng ông ấy chết vì sợ, bởi vì
bây giờ không còn lại tiền trong ngân hàng nữa. Ông ấy hoàn toàn mạnh khoẻ, ông
ấy không ốm, chẳng có lí do nào cho ông ấy chết bất thần đến thế. Nhưng trở về
từ ngân hàng - và viên quản lí ngân hàng đã nói, “Đây là món tiền cuối cùng; tiền
của ông đã hết” - ông ấy không thể về được tới nhà. Ông ấy chết trên đường.
Ông ấy không thể nào kinh nghiệm
được cái không mà Phật đang nói tới. Ông ấy chắc chỉ nghĩ về nó thôi - do đó mới
sợ. Và Jean-Paul Sartre cũng không ở trong không gian được gọi là thiền. Ông ấy
không phải là thiền nhân; ông ấy là nhà suy tưởng, người phương Tây hoàn toàn.
Ông ấy chẳng biết đến cách thức phương Đông đi vào. Do đó tự do có vẻ giống như
kết án, và tự do có vẻ như khổ não.
Chân lí lại chính là điều ngược
lại. Nếu bạn đi vào trong tự do, vào trong cái không, có phúc lạc. Nếu bạn đi
vào trong cái chết hoàn toàn mà được gọi là tình yêu đó, thì có satori,
samadhi. Phật nói: Ông ấy cư ngụ trong cái không đó, đấy là nhà của ông ấy. Đấy
không phải là khổ não, đấy không phải là run rẩy, đấy không phải là kết án. Ông
ấy cư ngụ ở đó. Đấy là nhà ông ấy.
ông ấy đã không bị làm cho run rẩy,
ông ấy đã vượt qua điều gây rối trí,
và cuối cùng ông ấy đạt tới niết bàn.
Phật không nói điều gì khác.
Ông ấy nói: Ông đi vào trong trạng thái này của cái không, thế thì niết bàn là
kết quả tự nhiên. Đến tận cùng, nó tới theo ý riêng của nó. Ông không cần lo
nghĩ về nó; ngay chỗ đầu tiên ông đã không thể làm được điều gì về nó cả. Ông
chỉ đi vào trong cái không này, và thế thì cái không bắt đầu trưởng thành, trưởng
thành mãi, trở nên ngày một bao la hơn, rồi một hôm nó trở thành toàn bộ sự tồn
tại của ông. Thế thì có niết bàn - ông đã dừng việc hiện hữu. Ông đã biến mất
trong vũ trụ.
Ai đó hỏi Phật, “Khi thầy qua đời
và thầy sẽ không bao giờ quay lại trong thân thể này nữa, điều gì sẽ xảy ra cho
thầy?”
Và ông ấy nói, “Ta sẽ tan biến trong
sự tồn tại. Nếu ông nếm trải sự tồn tại, ông sẽ nếm trải ta.”
Và đúng đấy, điều đó là đúng: nếu
bạn nếm trải sự tồn tại thì bạn sẽ nếm trải tất cả chư Phật - Krishna, Christ,
Phật, Mahavira, Zarathustra, Lão Tử, Kabir, Nanak - bạn sẽ nếm trải tất cả chư
Phật. Cái ngày bạn đi vào trong cái không đó, bạn sẽ được tất cả chư Phật đón
chào. Toàn bộ sự tồn tại đang xúc động với phật tính bởi vì biết bao nhiêu vị
Phật đã tan biến trong nó. Họ đã nâng lên chính mức của sự tồn tại.
Bạn thật may mắn, bởi vì trước
bạn biết bao nhiêu vị Phật đã đi vào sự tồn tại. Khi bạn đi vào đó, bạn sẽ
không thể nào không được đón chào. Tất cả những người xuất hiện như chư phật
trong ba thời đều tỉnh thức tới chứng ngộ chính đẳng, chính giác và hoàn hảo bởi
vì họ đã dựa vào sự hoàn hảo của trí huệ.
Chỗ trú ẩn duy nhất là hoàn hảo
của trí huệ, hoàn hảo của thiền. Trong quá khứ nó đã là như vậy, trong hiện tại
nó đang là như vậy, trong tương lai nó sẽ là như vậy. Bất kì ai trở thành vị Phật
đều trở thành Phật qua thiền. Trú ẩn vào thiền đi. Trú ẩn vào cái không đi.
Đủ cho hôm nay.