Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho
Bài nói về Thiền
Tập 1
Chương 9. Biểu tượng mệt mỏi của con người
Một sư tới một thầy
xin giúp đỡ khi làm việc trên một trong những câu hỏi kinh điển trong biện chứng
Thiền: 'Ý của Bồ đề đạt ma từ phương tây tới là gì?'
Thầy gợi ý rằng trước
khi bắt đầu vấn đề này sư phải cúi lạy thầy.
Khi sư cúi mình lạy,
thầy đạp anh ta một cú đau điếng.
Cú đạp bất ngờ đã giải
quyết điều không giải được tăm tối mà sư này đã từng chìm nghỉm trong một số thời
gian. Khi anh ta cảm thấy chân của thầy anh ta lập tức đạt tới chứng ngộ. Sau
đó anh ta nói với mọi người anh ta gặp, 'Từ khi ta nhận cú đạp đó của Mã Tổ, ta
đã không thể nào dừng được việc cười.'
Một chuyện ngụ ngôn cổ...
Có một câu chuyện về
một người đi qua núi để tìm tận cùng thế giới. Ông ta phải đã là một triết gia
lớn - triết gia nổi tiếng có những ý tưởng điên rồ thế. Không có nhu cầu đi vào
việc tìm kiếm lớn để tìm ra tận cùng thế giới, thế giới là đẹp như nó vậy.
Không có nhu cầu tìm chỗ bắt đầu và không có nhu cầu tìm chỗ tận cùng. Chỗ giữa
là đẹp hoàn hảo thế - sao không tận hưởng nó?
Nhưng người này là một
triết gia lớn. Ông ta không hài lòng ở đây. Các triết gia không bao giờ hài
lòng ở đây. Bây giờ không phải là thời gian của họ và ở đây không phải là không
gian của họ. Họ sống ở kia, họ sống ở đâu đó khác.
Ông ta rời bỏ gia
đình - con cái, vợ, bố mẹ - và đi trên việc tìm kiếm điên rồ này để tìm ra tận
cùng thế giới. Ông ta đi qua nhiều núi, nhiều biển. Đó là cuộc hành trình dài,
cũng tự nhiên, rất, rất dài và nhiều lần ông ta đã nghĩ ông ta đã đạt tới. Bất
kì khi nào ông ta bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, ông ta lại nghĩ ông ta đã đạt tới.
Bất kì khi nào ông ta cảm thấy kiệt sức ông ta lại tự lừa bản thân mình. Nhưng
sớm hay muộn, sau việc nghỉ ngơi lớn lao, ông ta sẽ bắt đầu thấy mọi thứ lần nữa
và ý tưởng này sẽ bắt đầu khăng khăng lần nữa: chỗ tận cùng vẫn chưa tới, nó vẫn
là ở giữa - vì ông ta có thể thấy xa hơn phía trước, đường chân trời vẫn có đó,
xa xôi như trước đây. Cho nên ông ta sẽ bắt đầu lại cuộc hành trình của mình.
Ông ta thấy đi thấy lại
rằng bất kì khi nào ông ta nghĩ rằng ông ta đã đạt tới, ông ta đã tự lừa bản
thân mình. Một khi ông ta đã biết là ông ta biết việc lừa dối, việc tự lừa dối,
cuộc hành trình trở nên gian truân hơn - vì ông ta đôi khi cảm thấy rằng bây giờ
ông ta đã đạt tới nhưng ông ta lại biết sâu bên dưới rằng nó lại sẽ là sự lừa dối.
Và do vậy ông ta phải tiếp tục.
Trên đường ông ta đã
đi qua nhiều đền chùa và nhiều thầy giáo - những người đã đạt tới, những người
nghĩ họ đã đạt tới. Và tất cả họ đều nói và tuyên bố rằng đây là tận cùng thế
giới. Ông ta đã đi đâu? Và ông ta cũng sẽ tin vào họ và ông ta sẽ ở lại với họ
trong một thời gian nhưng sớm hay muộn ông ta sẽ trở nên vỡ mộng. Bản thân họ
đã không đi tới chính tận cùng, những thầy giáo này. Và những đền chùa này đã
chỉ lại là những biểu tượng cho sự mệt mỏi của con người, của những giới hạn, của
những giới hạn con người - những giới hạn của tâm trí và lí trí và việc cảm.
Nhưng tận cùng không ở đây. Và ông ta phải bắt đầu lại cuộc hành hương của
mình.
Và chuyện kể rằng sau
nhiều, nhiều kiếp - thực sự sau hàng triệu và hàng triệu kiếp - chung cuộc ông
ta đi tới một cung điện có vẻ giống như chỗ tận cùng. Và lần này ông ta đã
không mệt mỏi và lần này ông ta đã không kiệt sức và lần này ông ta đã không tự
lừa bản thân mình theo bất kì cách nào. Hơn nữa đã không có đền chùa và không
có thầy giáo, ông ta đã tuyệt đối một mình. Và đường chân trời đột nhiên biến mất.
Không có mục đích xa hơn. Cho dù ông ta muốn tiếp tục cuộc hành trình, không có
chỗ nào mà đi. Ông ta đã đi vào trống rỗng vô hạn.
Tất nhiên có một tấm
biển viết: 'Đây là tận cùng thế giới'. Ai đó người đã ở đó trước phải đã viết
điều đó ra do từ bi dành cho những người có thể dám tới.
Người này đứng ngay bờ
mép thế giới - một tảng đá lớn bên ngoài mà không có gì ngoài hỗn độn, không có
gì ngoài hư không, trống rỗng vô cùng, số không. Tất nhiên ông ta trở nên rất
kinh hoàng. Ông ta đã không nghĩ về hỗn độn này - rằng nếu bạn đi tới tận cùng,
hay cùng vấn đề đó, tới chỗ bắt đầu, bạn sẽ đi tới hỗn độn. Ông ta đã không
nghĩ về điều đó; nó bất ngờ thế. Không có Thượng đế, không có Phật, không có niết
bàn, không có thiên đường - chỉ hỗn độn, hoàn toàn hỗn độn, trống rỗng. Bạn có
thể hình dung ông ấy đang đứng đó trên mỏm đá cuối cùng, run rẩy, rung lên như
chiếc lá trong gió lớn.
Ông ta không thể lấy
được bước khác. Ông ta trở nên kinh hoàng tới mức ông ta trốn trở lại thế giới
và đi vào trong thế giới. Ông ta thậm chí không nhìn vào phía bên kia của tấm
biển. Tấm biển có một thông điệp khác ở phía bên kia. Phía này nó viết: 'Đây là
tận cùng thế giới', và phía bên kia nó viết: 'Đây là bắt đầu thế giới'.
Nhưng ông ta đã kinh
hoàng thế ông ta quên mất rằng có thể có thông điệp ở phía bên kia tấm biển.
Ông ta trốn đi, ông ta trốn đi ngay lập tức. Ông ta không nhìn lại sau. Ông ta
quay về thế giới và vào trong thế giới và làm mất bản thân mình trong các chuyện
thế gian để cho ông ta không còn nhớ, để cho mỏm đá nguy hiểm đó không còn tới
trong mơ của ông ta.
Bản thân bạn có thể
là người đó đấy. Đây đích xác là cảm giác của tôi về mọi người. Bạn đã sống ở
đây suốt nhiều thời đại trong vĩnh hằng. Không thể có chuyện rằng đôi khi này
khác bạn có thể không bắt gặp trống rỗng này. Điều không thể được là không đi tới
tận cùng thế giới trong những khoảnh khắc nào đó. Nhưng bạn đã trốn chạy. Nó là
đáng sợ thế, nó là kinh hoàng thế, rùng rợn thế. Một bước thêm nữa và bạn chắc
đã trở thành người chứng ngộ - một bước thêm nữa, chỉ duy nhất một bước nữa.
Việc dạy của Thiền
không là gì ngoài việc dạy về cách lấy một bước đó, cách nhảy vào trong hư
không. Hư không đó là điều niết bàn là gì, hư không đó là điều Thượng đế là gì.
Hỗn độn đó không chỉ là hỗn độn - đó chỉ là một phía của tấm biển. Từ phía bên
kia của hỗn độn đó là tính sáng tạo mênh mông. Chính là chỉ từ hỗn độn mà các
sao được sinh ra. Chính là chỉ từ hỗn độn mà sự sáng tạo xảy ra. Hỗn độn là một
mặt của cùng một năng lượng. Hỗn độn là tính sáng tạo tiềm năng. Hư không là
phía bên kia của tính tất cả.
Thiền là người thấy
duy nhất về cuộc hành trình chỉ một bước này. Bạn có thể gọi nó là bước cuối
cùng hay bạn có thể gọi nó là bước đầu tiên, không thành vấn đề. Nó là cái đầu
tiên và nó là cái cuối cùng - alpha và omega. Toàn thể việc dạy của Thiền chỉ
bao gồm một điều: cách lấy cú nhảy vào trong hư không; cách đi tới chính tận
cùng của tâm trí của bạn - cái là tận cùng của thế gian; cách đứng đó trên tảng
đá đối diện với vực thẳm và không bị kinh hoàng; cách thu lấy dũng cảm và lấy
cú nhảy cuối cùng. Nó là chết. Nó là tự tử. Nhưng chỉ từ tự tử mới có trưởng
thành tâm linh và chỉ từ việc bị đóng đinh mới có phục sinh.
Nếu bạn hiểu rõ, thế
thì biểu tượng này, biểu tượng Ki tô giáo, về chữ thập có thể có nghĩa mênh
mông. Jesus ở trên cây chữ thập - và đó là mỏm đá. Vào khoảnh khắc cuối cùng
ông ấy cũng trở nên sợ như người này. Vào khoảnh khắc cuối cùng ông ấy nhìn lên
trời và nói, 'Ngài đang làm gì với con vậy? Ngài đã bỏ rơi con sao?' Con người
run rẩy, đau khổ lớn, đối diện với chết, đối diện với việc triệt tiêu.
Nhưng ông ấy thu lấy
dũng cảm, Ông ấy hiểu điều ông ấy định làm. Ông ấy đã cố trốn thoát khỏi thế giới,
ông ấy đã cố thoát vào trong tâm trí. Tâm trí của ông ấy bắt đầu vận hành -
'Ngài đang làm gì với con vậy?' Đó là lời phàn nàn chống lại Thượng đế. 'Ngài
đã bỏ rơi con sao?' Dường như là cái gì đó đang chống lại mong đợi của Jesus.
Ông ấy đã hiểu điều đó. Ông ấy đã là con người của thông minh vô cùng. Ông ấy
đã nhìn vào trong nó. Ông ấy phải đã cười vào cái ngu xuẩn riêng của mình. Ông ấy
đã nói gì với Thượng đế?
Và trong một khoảnh
khắc có biến đổi... Ông ấy đã thảnh thơi và ông ấy nói, 'Vương quốc của ngài tới.
Điều này sẽ được làm.' Ông ấy đã thảnh thơi. Đây là bước đó. Ông ấy đã chết và
đã được sinh ra mới mẻ - tâm thức mới, con người mới.
Khi bạn chết đi trong
tâm trí, bạn được sinh trong tâm thức. Khi bạn chết đi trong thân thể, bạn được
sinh ra trong thân thể vũ trụ. Khi bạn chết đi như bản ngã, bạn được sinh ra
như một Thượng đế, như Thượng đế. Khi bạn chết đi trong lãnh thổ nhỏ bé của bạn,
bạn đơn giản trở nên lan toả khắp sự tồn tại - bạn trở thành bản thân sự tồn tại.
Bây giờ bước này phải
được hiểu và tôi muốn nhắc lại: tận cùng của tâm trí là tận cùng của thế giới -
vì Thiền nói tâm trí là thế giới. Bình thường chúng ta trau dồi luyện tập tâm
trí, chúng ta làm mạnh tâm trí, chúng ta làm cho nó ngày càng có năng lực, khéo
léo, hiệu quả. Đó là điều chúng ta liên tục làm trong các trường học, cao đẳng
và đại học. Đó là điều chúng ta ngụ ý bởi giáo dục, bởi việc học.
Thiền là một loại phi
giáo dục. Thiền là một loại dỡ bỏ. Nó dạy bạn cách bỏ điều bạn đã học, cách trở
thành không khéo léo lần nữa, cách trở thành đứa trẻ lần nữa, cách bắt đầu tồn
tại mà không có tâm trí lần nữa, cách hiện hữu ở đây mà không có tâm trí nào.
Tâm trí mang tới mọi
loại khổ. Thứ nhất: tâm trí không bao giờ ở trong hiện tại, nó liên tục bỏ lỡ
hiện tại. Và chỉ hiện tại hiện hữu. Tâm trí bao giờ cũng trong quá khứ - bao giờ
và bao giờ cũng trong quá khứ. Hay bao giờ cũng trong tương lai - bao giờ và
bao giờ cũng trong tương lai. Tâm trí liên tục nhảy từ quá khứ tới tương lai, từ
tương lai tới quá khứ. Nó không bao giờ ở đây bây giờ. Tâm trí giống như con lắc
đồng hồ - nó liên tục chuyển từ cực này sang cực khác nhưng không bao giờ ở chỗ
giữa.
Thiền nói rằng người
ta phải thoát ra khỏi cái bẫy này của quá khứ và tương lai - vì cánh cửa mở vào
trong hiện tại, cánh cửa mở vào khoảnh khắc này, hoặc bây giờ hoặc không bao giờ.
Và cánh cửa là mở nhưng mắt chúng ta đang lưỡng lự. Chúng ta nhìn vào quá khứ,
chúng ta nhìn vào tương lai, và hiện tại là rất, rất nhỏ ở giữa hai điều này và
chúng ta liên tục bỏ lỡ nó.
Thiền nói rằng chừng
nào bạn chưa bỏ tâm trí bạn không bao giờ có thể ở trong hoà điệu với sự tồn tại,
bạn không thể đập cùng với nhịp đập của vũ trụ. Nếu bạn không bỏ tâm trí bạn
liên tục sống trong thế giới riêng tư của bịa đặt riêng của bạn; bạn không sống
trong thế giới thực, bạn vẫn còn khờ dại.
Đó là nghĩa của từ ‘kẻ
ngốc’. Kẻ ngốc ngụ ý sống trong thế giới riêng tư. Kẻ ngốc sống trong thế giới
riêng tư. Người đó có cách diễn đạt riêng tư. Người đó có cách thức riêng tư của
mình. Người đó giới hạn bản thân mình vào cách thức riêng của mình. Người đó
không bao giờ đi theo vũ trụ, sự tồn tại. Người đó liên tục phóng chiếu các ý
tưởng riêng của mình. Tâm trí là kẻ ngốc... dù láu lỉnh thế nào, nhớ lấy. Kẻ ngốc
có thể rất láu lỉnh, có thể là chuyên gia lớn, có thể tích luỹ nhiều tri thức,
có thể có nhiều, nhiều bằng cấp - Tiến sĩ và Tiến sĩ văn chương và vân vân -
nhưng kẻ ngốc vẫn còn là kẻ ngốc. Điều đó không tạo ra bất kì khác biệt nào. Kẻ
ngốc chỉ trở nên nguy hiểm hơn.
Thông minh không bao
giờ xuất phát từ tâm trí. Thông minh chỉ nảy sinh khi tâm trí đã bị loại bỏ.
Khi tâm trí đã bị gạt sang bên, thông minh nảy sinh. Tâm trí đang chặn dòng suối
thông minh như tảng đá. Tâm trí bao giờ cũng tầm thường, tâm trí bao giờ cũng
ngu xuẩn, không thông minh. Ở trong tâm trí là việc là không thông minh. Ở bên
ngoài tâm trí là việc là thông minh. Thông minh không phải là phẩm chất của tâm
trí chút nào.
Mọi cách thiền đều là
việc tìm thông minh này - cách bỏ việc học, cách bỏ tri thức, cách bỏ mọi quá
khứ được tích luỹ của bạn. Một khi nó được tích luỹ càng trở nên khó bỏ nó hơn,
và mọi ngày nó trở nên càng lớn hơn. Tải trọng liên tục tăng lên. Trọng lượng
trên lưng bạn liên tục tăng lên mọi khoảnh khắc. Không phải là tuổi tác giết chết
bạn, chính trọng lượng này giết bạn.
Người sống trong vô
trí là sống không có chết vì người đó chết đi mọi khoảnh khắc. Người đó không
bao giờ thu thập, người đó không bao giờ nhìn lại sau, người đó không bao giờ
nhìn lên trước - người đó chỉ ở đây, người đó chỉ hiện hữu với tiếng kêu này của
con chim cúc cu. Người đó chỉ ở đây. Con người của người đó là trong khoảnh khắc
này. Người đó tuôn chảy cùng khoảnh khắc. Người đó không lạnh lẽo, không bị giới
hạn bởi quá khứ. Thực ra, người đó không có tiểu sử và người đó không có mơ về
tương lai. Người đó sống khi nó tới.
Và Thiền nói rằng tâm
trí có thể hữu dụng trong thế giới nhưng không hữu dụng khi có liên quan tới điều
tối thượng. Tâm trí có thể hữu dụng với những thứ tầm thường nhưng là vô dụng với
điều tối thượng. Điều tối thượng không thể được nghĩ vì nó ở dưới và ở ngoài ý
nghĩ. Bạn là điều tối thượng đó, làm sao bạn có thể nghĩ về nó? Trước khi khả
năng suy nghĩ tới, bạn đã là cái đó rồi. Khả năng suy nghĩ là việc thêm về sau
cho nó. Đứa con được sinh ra - nó là điều tối thượng. Khả năng suy nghĩ sẽ tới
dần dần; nó sẽ tích luỹ tri thức, nó sẽ viết nhiều điều lên phiến đá con người
của nó. Và nó sẽ trở thành người biết - thế này và thế nọ - và nó sẽ bị đồng nhất
với việc là bác sĩ hay kĩ sư hay giáo sư. Nhưng khoảnh khắc nó được sinh ra nó
chỉ là nhận biết thuần khiết, chỉ là sự tươi mát, phiến đá sạch, không cái gì
được viết lên nó, thậm chí không chữ kí riêng của nó. Nó không có tên và nó
không có ý tưởng nó là ai.
Đó là hồn nhiên
nguyên thuỷ, và đó là điều tối thượng của chúng ta. Điều tối thượng của chúng
ta có trước khả năng suy nghĩ và sau khả năng suy nghĩ. Không phải là nó biến mất
khi khả năng suy nghĩ có đó, nhưng nó trở nên bị che mờ - cũng giống như mặt trời
bị bao quanh bởi quá nhiều mây, mây đen. Dường như mặt trời đã biến mất. Chúng
ta không bao giờ đánh mất điều tối thượng của chúng ta, chúng ta không thể đánh
mất được. Đó là điều tối thượng là gì - nó không thể bị mất. Nó là bản tính bên
trong nhất của chúng ta. Không có cách nào làm mất nó. Nhưng nó có thể bị che mờ.
Ngọn lửa có thể trở nên bị quá che mờ bởi khói; gần như có thể bị coi là mất
đi. Mặt trời có thể bị che mờ tới mức trời dường như đã trở thành đêm tối. Đó
là tình huống. Chúng ta hiện hữu trước khả năng suy nghĩ, chúng ta hiện hữu
trong khi khả năng suy nghĩ có đó, chúng ta sẽ hiện hữu ở đó khi khả năng suy
nghĩ đã biến mất - chúng ta bao giờ cũng ở đó. Nhưng khi khả năng suy nghĩ có
đó sẽ rất khó biết chúng ta là ai, tân thức này đích xác là cái gì. Khả năng
suy nghĩ là việc làm sao lãng. Khả năng suy nghĩ là việc gây rối.
Chỉ khi lần nữa khả
năng suy nghĩ không có đó thì chúng ta mới đi vào tiếp xúc với nó. Nếu người ta
nghĩ về nó người ta có thể nghĩ và nghĩ và nghĩ nhưng nó lẩn tránh ý nghĩ. Nó
liên tục trượt ra khỏi khả năng suy nghĩ. Và thế thì thấy rằng việc suy nghĩ
không dẫn tới bất kì đâu, việc suy nghĩ dừng lại theo cách riêng của nó. Nếu
người ta thực sự liên tục nghĩ tới chính tận cùng, trạng thái vô suy nghĩ xảy
ra một cách tự động. Việc kết thúc suy nghĩ này chung cuộc tới một cách tự
nhiên - đó là điều Thiền đề xuất.
Phương pháp của Thiền
có tên là Công án. Nó là một phương pháp đặc biệt, đóng góp lớn nhất của Thiền
cho thế giới. Công án là phương pháp đặc biệt của Thiền giống như có các phương
pháp khác của các trường phái khác - chẳng hạn, vipassana, nhìn thấu, là phương
pháp của Phật điều ông ấy đã đóng góp cho thế giới - tính quan sát. Jalaluddin,
nhà huyền bí Sufi, đã đóng góp phương pháp khác - phương pháp của việc hấp thu,
của việc mất hút trong Thượng đế, của việc đánh mất cảm giác hiện hữu của người
ta. Có các phương pháp khác của người Sufi - jikra, nhớ lại tên của Thượng đế,
hay quay vòng, xoáy lốc. Cũng giống như các phương pháp này là các tư thế yoga
của Patanjali - đóng góp đặc biệt cho thế giới. Mọi tôn giáo lớn đều đã đóng
góp cái gì đó này khác.
Đóng góp đặc biệt của
Thiền là công án. Công án là câu đó và là câu đố rất chuyên biệt - câu đó mà
không thể giải được, câu đó mà không thể được giải bằng chính việc hình thành của
nó. Bạn liên tục suy nghĩ. Bạn phải nghĩ và nghiền ngẫm và suy ngẫm về nó.
Chẳng hạn, một công
án được cho đệ tử để đi và suy ngẫm về tiếng vỗ tay của một bàn tay. Bây giờ một
bàn tay không thể vỗ được - cho nên từ chính lúc nắt đầu giải pháp bị ngăn cấm,
bị bác bỏ. Một bàn tay không thể tạo ra tiếng vỗ tay được. Vỗ tay cần ít nhất
hai bàn tay. Vỗ tay nghĩa là việc vỗ của hai tay. Vỗ tay là xung đột, nó không
thể xảy ra được với một bàn tay.
Cho nên câu đố này là
không thể được. Nó không là câu đố bình thường. Không phải là nếu bạn nghĩ đủ
lâu bạn sẽ tìm ra lời giải, không. Bạn càng nghĩ sẽ càng thấy lời giải là không
thể được. Lời giảu không tồn tại. Nó đã bị phủ nhận từ chính lúc ban đầu. Công
án này phải được hình thành theo cách mà không có khả năng nào cho tâm trí bạn
nghĩ về nó. Và bạn phải nghĩ về nó.
Và đệ tử ngồi trong
suy ngẫm và liên tục nghĩ. Anh ta liên tục suy nghĩ và suy nghĩ và suy nghĩ.
Nhiều tháng trôi qua và anh ta bắt đầu phát rồ và dại - tiếng vỗ tay của một
bàn tay. Và anh ta đi tới Thầy với nhiều lời giải và Thầy sẽ đánh anh ta. Điều
đó nữa cũng là rất đặc biệt của Thiền. Từ bi là lớn tới mức nếu Thầy nghĩ rằng
việc đánh sẽ giúp đỡ, thầy sẽ đánh. Nếu thầy cảm thấy rằng đạp sẽ giúp đỡ, thầy
sẽ đạp. Nếu thầy cảm thấy rằng đệ tử này phải bị ném về vật lí ra ngoài cửa sổ,
thầy sẽ ném anh ta ra. Thầy sẽ làm bất kì cái gì mà thầy cảm thấy được cần. Và
thầy sẽ không làm điều đó được lập kế hoạch trước - thầy sẽ nhìn vào đệ tử và bất
kì cái gì xảy ra trong khoảnh khắc đó trong tâm thức của anh ta, thầy sẽ thấy
ngay lập tức. Hành vi của thầy sẽ là tuyệt đối không mong đợi được.
Thiền sư là không thể
dự đoán được. Nếu bạn đi tới một swami Hindu người đó là dự đoán được. Nếu bạn
hỏi một câu hỏi câu trả lời của ông ấy là dự đoán được. Ông ấy trích dẫn Vedas,
Upanishads, gần như con vẹt. Bạn có thể biết câu trả lời của ông ấy trước.
Không phải như vậy với Thiền sư. Nếu bạn đi tới một Thiền sư bạn không bao giờ
biết cái gì sẽ xảy ra. Không ai đã bao giờ biết. Ngay cả sau một nghìn năm họ
là tức khắc tới mức không cái gì có thể được nói về cách ông ấy sẽ phản ứng lại
câu hỏi của bạn, với câu trả lời của bạn. Đệ tử tới với nhiều lời giải. Những lời
giải đó chỉ làng nhàng - vì lời giải là không thể được. Cho nên cho dù không
nghe lời giải, điều đệ tử đã mang tới, đôi khi Thầy sẽ đánh anh ta.
Có lần chuyện xảy ra...
Một đệ tử tới. Mọi ngày trong ba tháng anh ta đã từng mang tới lời giải nào đó
cho một công án. Anh ta tới với ý tưởng rằng anh ta sẽ đập tường bằng tay mình.
Bây giờ đây không phải là lời giải. Lần nữa bạn đã mang hai vào - tất nhiên
không có hai bàn tay nhưng điều đó không phải là vấn đề. Thầy đánh anh ta.
Và cứ thế mãi... Mọi
ngày anh ta mang tới cái gì đó này khác. Anh ta hình dung và nghĩ rằng có thể
điều này sẽ có tác dụng. Sau khi ba tháng đã trôi qua anh ta tới và anh ta đã
không thốt ra một lời nào và Thầy tát anh ta. Anh ta nói, 'Đợi đã, thưa thầy,
tôi thậm chí còn chưa nói bất kì cái gì.' Thầy nói, 'Thế thì điều đó sẽ là quá
trễ. Nếu ông nói cái gì đó thế thì nó sẽ là quá trễ.'
Và hôm đó cái gì đó xảy
ra cho đệ tử này. Anh ta đã không nói bất kì cái gì. Mọi ngày anh ta đã từng
nói cái gì đó và tất nhiên anh ta bị đánh - cho nên điều đó là hợp lí. Anh ta
đã nghĩ trong đầu rằng bất kì cái gì anh ta nói đều đã là sai, đó là lí do tại
sao Thầy đánh anh ta. Bây giờ ngay cả lí do đó cũng bị bỏ đi. Anh ta đã không
nói bất kì cái gì và Thầy đánh anh ta. Bây giờ điều đó là tuyệt đối phi lí. Bây
giờ tâm trí không thể đối phó được điều đó.
Khi tâm trí không thể
đối phó được với cái gì đó, nó rơi rụng đi. Khi tâm trí chứng tỏ là bất lực về
cái gì đó, nó rơi rụng đi.
Công án là câu đó mà
không thể được giải - nhưng bạn phải nghĩ về nó. Trong nhiều giờ - sáu giờ, tám
giờ, mười giờ, mười hai giờ, đôi khi mười tám giờ - đệ tử đơn giản ngồi bị cuốn
hút, nhìn vào vấn đề từ mọi góc có thể, từ mọi khả năng; cố đi vào từ phía này
và phía nọ. Từ mọi hướng, qua mọi chiều, anh ta cố giải quyết vấn đề, tìm ra lời
giải nào đó. Anh ta đi tới Thầy, anh ta bị tống trở lại bản thân mình... Cái gì
sẽ xảy ra?
Dần dần mọi khả năng
sẽ bị vét cạn. Mọi điều anh ta có thể nghĩ anh ta đã nghĩ. Bây giờ dường như
không có khả năng nào, không đâu thêm nữa mà đi. Thế rồi một hôm anh ta đơn giản
nhìn vào câu đố này và không ý nghĩ nào nảy sinh. Đó là chính điểm - khi bạn
đang nhìn vào câu đó và không ý nghĩ nào nảy sinh. Và khi không ý nghĩ nào nảy
sinh bạn có thể nhìn vào trong câu đố này - rằng nó là ngớ ngẩn.
Vâng, trước đây bạn
cũng đã cảm thấy nhiều lần rằng nó là ngớ ngẩn - thực ra, bạn đã biết rằng nó
đã là ngớ ngẩn, rằng nó không thể được giải - nhưng điều đó cũng đã là từ tâm
trí, điều đó đã không là cái nhìn sâu của bạn. Điều đó đã là lời giải của tâm
trí của bạn - nó không thể được giải, sao bận tâm cách này? Bỏ nó đi. Quên mọi
thứ về nó đi. Nó không thể được giải. Nhưng điều này cũng là từ tâm trí. Một
ngày nào đó, khi tâm trí chẳng có gì thêm để nói, khi từ cạn kiệt cùng cực nó
đã dừng vận hành. Khi nó đã mất mọi tri thức chuyên gia, mọi sự hiệu quả của
nó, khi mọi thông minh của nó đã chứng tỏ vô tích sự, nó biến mất. Trong kẽ hở
đó... có cái nhìn sâu. Trong kẽ hở đó bạn thấy, và bạn thấy lần đầu tiên. Trong
kẽ hở đó suy nghĩ không có đó nhưng việc biết xảy ra - và đó là điểm biến đổi.
Khi suy nghĩ ngừng lại
và việc biết xảy ra, khi ý nghĩ biến mất và sự sáng tỏ tới và bạn có thể thấy
chân lí không phải là cái gì đó được nghĩ tới, chân lí phải được nhìn thấy...
Đó là lí do tại sao chúng ta gọi những người đạt tới chân lí là người thấy -
không là nhà tư tưởng. Họ đã thấy nó. Họ đã nhìn vào trong nó, họ đã không nghĩ
về nó - họ không phải là những triết gia lớn, họ không phải là nhà logic. Họ là
những người không tâm trí, họ là những người bên ngoài tâm trí. Họ nhìn trực tiếp.
Không ý nghĩ nào đứng giữa họ và thực tại. Cái đang đó, được hiển lộ như nó vậy,
trong tính như vậy của nó. Tâm trí họ không còn đó mà vận hành qua ý nghĩ.
Không còn gợn sóng thêm, nó là tấm gương thuần khiết. Nó đơn giản chiếu gương;
nó phản xạ cái đang đó.
Nếu người ta có cái
gì đó thêm để nghĩ tới thế thì đó không phải là tận cùng thực. Nếu bạn nghĩ rằng
vẫn có cái gì đó còn lại để nghĩ tới, đây không phải là tận cùng thực, tâm trí
sẽ không đi. Bạn không thể làm nó một cách có chủ định; bạn không thể nói, 'Được,
nếu không cái gì có thể được nghĩ mình sẽ để tâm trí sang bên và mình sẽ cố
nhìn.' Bạn sẽ không có khả năng làm điều đó. Sự mù có đó. Điều này được làm bởi
bản thân tâm trí và bất kì cái gì được làm bởi tâm trí sẽ làm mạnh thêm cho tâm
trí. Nếu bạn vẫn có cái gì đó để nghĩ, nếu bạn cảm thấy rằng tâm trí có thể
cung cấp câu trả lời nào đó, nếu ngay cả một sự tin cậy lay lắt vào tâm trí vẫn
còn lại, thế thì nó không phải là tận cùng thực.
Khi người ta đi tới tận
cùng thực, suy nghĩ dừng lại và việc thấy bắt đầu. Và trong việc thấy này là
cách mạng, là thay đổi triệt để, là chuyển hoá, sự hướng thượng.
Điều đó cũng như khi
bạn dùng máy khoan. Bạn có thể hỏi các thợ mộc của chúng ta - Asheesh,
Christos, Siddhesh. Thiền nhân nói nó giống như dùng máy khoan. Chừng nào bạn vẫn
có thể khoan nó, đấy là chưa là tận cùng. Khi không kháng cự nào còn lại, khi bạn
không còn có thể khoan thêm nữa - nó đi zzzzzzzzz - thế thì đây là tận cùng.
Tôi không phải là thợ mộc nhưng tôi biết điều này đích xác là cách nó đi vào
bên trong. Tôi chưa bao giờ dùng máy khoan nhưng điều này đích xác là cách nó
đi vào bên trong. Đột nhiên mọi kháng cự mất đi. Không cái gì còn lại thêm nữa
để khoan. Khả năng suy nghĩ trở thành bất lực.
Khi bạn không thể
khoan thêm được nữa, chỗ tận cùng được đạt tới; khi bạn không thể nghĩ thêm bất
kì cái gì được nữa, chỗ tận cùng được đạt tới. Thế thì không có lời, không ý
nghĩ, không hình ảnh, không cái gì, chỉ hư không. Bạn đã đi tới chỗ tận cùng của
tâm trí, hay gọi nó là chỗ tận cùng của thế giới. Bạn sẽ bắt gặp một bảng hiệu
nơi bạn sẽ thấy: 'Đây là tận cùng của thế giới' - nhưng đừng chạy trốn khỏi đó.
Có phía bên kia của nó nữa.
Và phía bên kia là
phía thực. Việc kết thúc của thế giới không phải là điều thực, việc bắt đầu của
Thượng đế là điều thực. Việc kết thúc của thế giới chỉ là kết thúc của bệnh; ở
phía bên kia nảy sinh mạnh khoẻ. Bạn là mạnh khoẻ lần đầu tiên, và là toàn thể,
và là linh thiêng.
Cho nên đừng trốn chạy.
Điều này gây kinh hoàng. Khi bạn không thể khoan được thêm nữa bằng tâm trí nó
là rất kinh hoàng, vì bạn đã từng bị đồng nhất với tâm trí tới mức bạn nghĩ bạn
là tâm trí. Và nếu tâm trí không làm việc thêm nữa và tâm trí không thể làm việc
thêm nữa, bạn cảm thấy rằng bạn bị mất - 'Mình đã phát điên hay cái gì?'
Vâng, nó gần như
điên. Tôi nói 'như điên' nhưng nó không tương tự với điên, nó không đích xác giống
như điên. Trong điên tâm trí tiếp tục. Thực ra, trong điên tâm trí vận hành nhiều
hơn - liên tục trong hai mươi bốn giờ nó vận hành. Nó chỉ bắt đầu vận hành rất
bất hợp lí. Nó đi kì quái. Nó không còn logic; nó không còn hợp lí, thậm chí
không còn biết điều; nó đi theo mọi hướng; nó trở nên mâu thuẫn; nó mất mọi tiếp
xúc với thực tại - nhưng tâm trí tiếp tục. Chỉ thấy ra vấn đề này: người điên ở
trong tâm trí nhiều hơn bạn ở. Và nếu bạn liên tục ở trong tâm trí quá nhiều, một
ngày nào đó bạn sẽ trở thành điên. Người điên chỉ ở trước bạn trong hàng đợi. Họ
đã dùng tâm trí của họ nhiều hơn bạn đã dùng. Họ đã dùng nó tới chính cực đoan
do đó họ đã đi tới nổi đoá. Họ là những người tâm trí lớn.
Khi tỏ ngộ xảy ra hay
khi việc khoan dừng lại và tâm trí không vận hành nữa bạn có thể cảm thấy trong
một khoảnh khắc rằng bạn đã phát điên, nhưng thực ra bây giờ không có khả năng
nào của việc phát điên vì chỉ tâm trí có thể đi tới điên. Trong một khoảnh khắc
ý tưởng về điên có thể tới với bạn - vì bạn đã sống với tâm trí lâu thế và đột
nhiên nó đã dừng lại. Bạn sẽ ở trong trống rỗng. Trống rỗng đó là rất, rất đáng
sợ. Nó giống như chết. Bạn đang biến mất, mất sự đồng nhất. Nó là rất tê liệt -
trong một khoảnh khắc.
Và đó là điểm mà Thầy
được cần để đẩy bạn. Nếu thầy cảm thấy thích đạp thầy sẽ đạp. Nếu thầy cảm thấy
thích đánh thầy sẽ đánh. Nếu thầy cảm thích thích hôn thầy sẽ hôn. Không ai biết.
Ngay cả Thầy cũng không biết cái gì được cần đích xác vào khoảnh khắc đó. Khoảnh
khắc đó quyết định. Và thế thì một cử chỉ nhỏ và bạn bị đẩy. Và bạn đã lấy bước
đầu tiên và cuối cùng. Một khi bạn đã lấy cú nhảy và thấy phía bên kia của hiện
tượng này và đã đọc tấm biển từ phía bên kia, đây bắt đầu Thượng đế. Thế thì bạn
thoải mái. Thế thì không có vấn đề gì.
Mọi vấn đề đã mất đi.
Thực ra, nguồn gốc của mọi vấn đề - bản thân tâm trí - bị mất đi. Thế thì người
ta bắt đầu sống cuộc sống không vấn đề. Thế thì người ta bắt đầu sống lần đầu
tiên.
Nhưng nếu bạn tìm thấy
Thượng đế hay Phật hay Christ hay bất kì cái gì thế thì đây không phải là tận
cùng đúng, nhớ lấy. Nếu bạn đi tới điểm này và đột nhiên bạn thấy Christ đứng
trước bạn biểu lộ từ bi và tình yêu lên bạn, thế thì đây không phải là tận cùng
đúng. Tâm trí bạn đang giở thủ đoạn cuối cùng. Hay nếu bạn thấy Krishna với chiếc
sáo đang hát bài hát hay... Đây là nỗ lực cuối cùng để quyến dũ bạn, làm sao
lãng bạn. Hay nếu bạn thấy Thượng đế đang ngồi trên ngai vàng với các thiên thần
khắp xung quanh, thế thì bạn đã bỏ lỡ. Đây chưa phải là tận cùng thực.
Đây lại là phóng chiếu
ý nghĩ. Điều này phải được hiểu vì Thiền rất kiên trì về điều đó. Nếu bạn có
cái gì đó để thấy, đối thể nào đó vẫn có đó, thế thì đây không phải là tận cùng
đúng. Thế thì cái gì đó vẫn có đó để được khoan tiếp vào.
Đó là lí do tại sao
Thiền sư lớn, Huệ Năng, đã nói, 'Nếu ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy ngay
lập tức. Nếu ông gặp tổ, Bồ đề đạt ma, trên đường, giết ông ấy ngay lập tức.'
Đừng có bất kì khoan
dung nào, tiếp tục khoan. Khoan Phật nữa. Chừng nào bạn chưa đi tới hư không,
tiếp tục khoan.
Ở đất nước này điều
này là rất khó vì đất nước này đã đi tới điểm này nhiều lần và thế rồi bị mắc kẹt
ở đó. Chính một mình Phật đã lấy bước cuối cùng và chung cuộc - bằng không mọi
người đi tới một bước trước cái cuối cùng. Thượng đế đứng đó và nó đẹp thế...
Nó là đẹp. Chính điều sung sướng là thấy Thượng đế mưa rào xuống khắp nơi hay
thấy kundalini đang dâng lên. Một kinh nghiệm đẹp, kinh nghiệm cực kì đẹp. Bạn
đã không biết bất kì cái gì như điều đó. Hay có ánh sáng bên trong bạn, ánh
sáng vô hạn; hàng nghìn mặt trời đã mọc lên đồng thời, nhiều ánh sáng thế, nhiều
ánh sáng chói mắt thế. Nó là không thể tin được. Hay, bạn thấy hoa sen, hoa sen
một nghìn cánh nở ra trong sahastrar của bạn, trong đầu bạn, hương thơm lớn
chưa bao giờ được biết liên tục mưa lên bạn. Bạn được mang tới thế giới khác.
Nhưng Thiền nói tiếp
tục khoan. Kundalini đã dâng lên, đây không phải là tận cùng. Bạn đang thấy ánh
sáng, đây không phải là tận cùng. Hoa đang nở ra, đây không phải là tận cùng.
Tiếp tục khoan. Đi tới hư không. Kinh nghiệm như vậy là rào chắn vì kinh nghiệm
là trò chơi tâm trí. Và tâm trí láu lỉnh tới mức nếu bạn đang tìm Thượng đế nó
sẽ cung cấp Thượng đế. Nhu cầu tạo ra cung cấp. Nếu bạn đi theo Krishna quá nhiều
tâm trí sẽ cung cấp Krishna. Tâm trí sẽ nói, 'Được, có nó đi. Krishna đứng ở
đây.' Đừng bị kết thúc bằng không bạn đã không đi tới chính tận cùng - bạn lại
bị lạc trong Krishna.
Và sớm hay muộn ngay
cả Krishna sẽ mất đi. Một khi tâm trí đã dừng lại, Krishna của bạn sẽ mất đi.
Nó có thể xảy ra giống thế này: bạn thấy Krishna với chiếc sáo đang hát và bạn
thấy những cô gái đẹp nhảy múa quanh Krishna, gopis - sớm hay muộn Krishna sẽ bị
quên đi và bạn sẽ rơi vào yêu với một gopi. Thế giới lại bắt đầu. Bạn quay về
nhà.
Tâm trí rất tinh ranh
và khi đó là vấn đề sống và chết cho nó - và đó là vấn đề sống và chết khi bạn
đang thiền - tâm trí sẽ cố mọi cách có thể để bảo vệ bản thân nó. Đó là vấn đề
sống còn. Cho nên đừng nghe theo tâm trí.
Huệ Năng nói, 'Ông đã
được bảo an trú vào Phật, vào pháp và vào tăng sangha nhưng ta nói với ông an
trú chỉ vào bản thân ông thôi. Nếu ông an trú vào Phật và thế rồi Phật xuất hiện
như hoa sen - đẹp thế, đẹp vô cùng thế, thiên đường thế, thiêng liêng thế' - Huệ
Năng nói, 'Giết ông ấy ngay lập tức.' Không đợi một phút vì ông ấy cuốn hút ông
thế ông có thể bị mất hút. Tiêu diệt ông ấy đi. Chỉ nói tạm biệt ông ấy. Nói,
'Cám ơn ông, nhưng ra khỏi con đường của tôi.' 'Không an trú vào Phật,' Huệ
Năng nói với người đi theo Phật. 'Không an trú vào pháp, vào dharma. Không an
trú vào tăng đoàn sangha, cộng đồng. Ta nói với ông, chỉ an trú vào ông, an trú
vào bản thân ông.'
Khi bạn bị bỏ lại một
mình, một mình toàn bộ, hoàn toàn một mình, bạn đã tới. Nếu cái gì đó khác có
đó như đối thể, thế thì bạn đã không tới. Thế thì nhị nguyên vẫn còn dai dẳng.
Nó đã tìm ra cách hiện hữu mới. Khi chỉ người ta hiện hữu, bạn đã tới - cho nên
an trú vào bản thân bạn.
Huệ Năng nói, 'Lời
khuyên của ta cho ông là, không có gì để làm, lấy nghỉ ngơi đi. Ngay cả kẻ man
rợ mắt xanh đó, Bồ đề đạt ma, mà có tới đây, ông ấy chỉ có thể dạy ông không
làm gì cả. Mặc quần áo, ăn thức ăn, và ị - có vậy thôi. Không chết, không sợ,
vì không có người nào để chết. Không luân hồi, không kinh sợ, vì không có người
nào để luân hồi. Nó bao giờ cũng ở đây. Không có đâu mà đi.'
Khi Huệ Năng chết ai
đó hỏi, 'Thưa thầy, thầy đi đâu?' Ông ấy mở mắt ra và nói, 'Loại câu hỏi ngu xuẩn
gì vậy? Người ta có thể đi đâu? Không có đâu mà đi. Người ta bao giờ cũng ở đây
- bây giờ.'
Bạn có quan sát phẩm
chất tâm thức này không? Bạn bao giờ cũng ở đây bây giờ, bạn không thể ở lúc
khác và chỗ kia. Làm sao bạn có thể ở lúc khác và chỗ kia? Khi ngày mai tới nó
bao giờ cũng tới như hôm nay, nó không bao giờ tới như ngày mai. Khi nó mất đi
nó là hôm qua, khi nó đã không tới nó là ngày mai, nhưng bất kì khi nào nó có
đó nó là hôm nay và bạn chỉ có thể ở trong hôm nay. Bạn không thể ở trong hôm
qua - nó không tồn tại. Bạn không thể ở trong ngày mai - nó còn chưa hiện hữu.
Bạn bao giờ cũng ở đây bây giờ. Bạn có quan sát hiện tượng này không? Bạn không
thể ở bất kì chỗ nào khác. Huệ Năng nói, 'Ta có thể đi đâu? Không có đâu mà đi
ngay chỗ đầu tiên và không ai đi bất kì chỗ nào. Ta là một với tất cả. Không có
chết để sợ, không có luân hồi để kinh sợ, không có niết bàn để thành đạt và
không có chứng ngộ của bất kì ai để đạt tới. Cố chỉ là bình thường như có thể,
không có gì để làm.'
Đây là cách tiếp cận
của Thiền: không cái gì có đó để được làm. Không có gì để làm. Người ta chỉ phải
hiện hữu. Có nghỉ ngơi và là bình thường và là tự nhiên. Ăn thức ăn của bạn, đi
ngủ, ị.
Thiền là con đường tự
nhiên, con đường tự nhiên. 'Là tự nhiên là con đường. Để tâm trí là tự do.
Không chủ định làm điều ác và không chủ định làm điều thiện. Không bám vào bất
kì cái gì. Đó là Đạo.'
Và điều đó là đủ.
'Không bám vào bất kì cái gì.' Điều này phải được nhớ ở bên ngoài, và ở bên
trong nữa. 'Không bám vào bất kì cái gì'. Đôi khi bạn bám vào tiền, đôi khi bạn
bám vào vợ, vào chồng, và đôi khi bạn bắt đầu bám ở bên trong vào Krishna và
Christ - nhưng bạn liên tục bám. 'Không bám vào bất kì cái gì' - chỉ thế thì bạn
có thể đi tới chính tận cùng của thế giới. Và tận cùng này là bắt đầu và hỗn độn
là sáng tạo.
Một Thiền sư khác,
Hsuan Chien, nói, 'Ở đây tại chỗ của ta không có chân lí để nói cho ông. Bổn phận
của ta là làm nhẹ bớt gánh nặng của trọng lượng chết trên lưng ông. Sứ mệnh của
ta là phá huỷ mọi thứ trói buộc và làm ông thành nô lệ. Và nghĩa vụ của ta là giết
chết mọi thứ và mọi người đứng giữa ông và bản thân ông.'
Thiền nhân thực sự là
có phẩm chất khác. Những phát biểu như thế bạn không thể tìm thấy ở bất kì chỗ
nào khác - những phát biểu nổi dậy thế, dữ dội thế, rạng ngời thế, sống động thế.
Hàng nghìn năm đã trôi qua, Huệ Năng vẫn còn là người nổi dậy. Bạn không thể
làm ra tín ngưỡng từ ông ấy. Thiền là tôn giáo duy nhất mà đã không trở thành
tín ngưỡng - nó không thể là tín ngưỡng. Nó không cho phép bất kì cái gì lắng đọng.
Nó thậm chí sẽ không cho phép ngay cả Phật ở bên trong. Nó thậm chí sẽ không
nói về chân lí. Nó nói, 'Không có chân lí để trao cho ông tại chỗ của ta. Chúng
ta lấy đi mọi thứ.' Và khi không cái gì còn lại cái đó là chân lí - khi bạn ở
trong sự trần trụi hoàn toàn, trong tính trần trụi hoàn toàn của bạn. Khi không
cái gì còn lại cùng bạn, chỉ con người thuần khiết của bạn, cái đó là chân lí.
Vâng, Hsuan Chien này
là đúng - 'Ở đây tại chỗ của ta không có chân lí để nói cho ông.' Và đó là điều
tôi đang làm ở đây nữa. Ở đây tại chỗ của tôi nữa tôi không trao cho bạn bất kì
chân lí nào, tôi chỉ đang lấy đi các dối trá khỏi bạn - dối trá bạn đã thu thập
suốt nhiều thế kỉ, những quan niệm giả, những khái niệm ngớ ngẩn. Tôi đang lấy
chúng đi dần dần. Tôi chỉ lấy đi mọi thứ từ bạn, tôi không cho bạn bất kì cái
gì. Khi bạn đã bỏ mọi thứ và bạn không bám vào bất kì cái gì, đột nhiên nó có
đó. Nó bao giờ cũng có đó; mắt bạn chỉ phải được để hở ra đầy đủ.
Thiền, trong việc phá
huỷ tâm trí bạn, phá huỷ cả bản ngã của bạn nữa - vì chúng chỉ là hai cái tên
cho cùng một thứ.
Lắng nghe câu chuyện
mà Suzuki viết về Thiền sư lớn, Ryokan.
Ryokan nói lời bóng
gió trong bài thơ của ông ấy về rừng tre bao quanh am của ông ấy, nhiều măng
tre phải đã mọc lên ở đó. Ông ấy rất thích lấy măng làm thức ăn, nhưng chủ yếu
vì việc mọc thẳng của chúng, vì sự hiện hữu của chúng làm tươi xanh suốt cả năm
tròn. Rễ của chúng ăn chắc vào trong đất, trong khi thân là hổng, biểu tượng
cho hư không.
Thiền nhân bao giờ
cũng thích tre. Tre là biểu tượng của họ. Và lí do sao? Nó xanh cả năm. Trong mọi
mùa nó đều xanh - mưa tới, hè tới, đông tới, nó vẫn xanh. Không cái gì làm thay
đổi nó. Nó sống một loại vĩnh hằng. Mầu xanh ngụ ý tính tươi mới của nó, trẻ
trung của nó, rạng ngời của nó, sống động của nó. Nó không thu thập trọng lượng
chết.
Thứ hai, nó có rễ rất
đầy đủ trong đất, nó rất được tiếp đất. Điều đó nữa là rất, rất có ý nghĩa để
nhớ. Con người cần rất được tiếp đất. Chúng ta ở trên đất và chúng là của đất
và chúng ta được làm ra từ đất. Chúng ta cần được tiếp đất vô cùng. Rất ít người
thực sự được tiếp đất; họ đã trở thành như cây bị nhổ bật rễ. Và, đặc biệt, cái
gọi là tôn giáo của bạn làm cho bạn rất bị bật rễ. Bạn bắt đầu sống trên cõi trời,
trên trời cao, và bạn quên đất. Thực ra, không chỉ bạn quên, bạn đã được dạy chống
lại nó. Bạn kết án nó. Làm sao bạn có thể được tiếp đất nếu bạn kết án đất?
Thiền là rất được tiếp
đất trong thế giới. Nó không chống lại thế giới, nó ở bên ngoài thế giới - nhớ
điều đó. Nó không dạy bạn bất kì tôn giáo phản thế giới nào, nó dạy bạn một tôn
giáo rất trần gian và vậy mà là tôn giáo rất phi trần gian. Nó nói: ở trong thế
giới nhưng không thuộc vào thế giới. Nó không nói với bạn: từ bỏ thế giới.
Đó là quan điểm của
tôi nữa, do đó có tình yêu với Thiền. Chúng ta dao động trên cùng bước sóng.
Tre là rất tiếp đất.
Nó vươn lên cao trên trời. Nó vươn lên cao không thể tưởng được. Tre là cây mảnh
dẻ nhưng nó đánh bại nhiều cây. Nó vươn lên rất cao. Nó đi vào trong gió mà
không sợ hãi vì nó được bắt chắc vào đất. Nó hát cả nghìn lẻ một bài ca nhưng
nó không chống lại đất. Nó có cánh nhưng nó có rễ nữa.
Và điều thứ ba mà rất,
rất có ý nghĩa là: nó là trống rỗng bên trong. Và đó là cách con người nên vậy.
Được tiếp đất, mọi mầu xanh, trẻ trung, tươi mát, sống động, sống, đập rộn
ràng, luồng chảy năng lượng, nhảy múa, mở hội, và vậy mà bên trong trống rỗng -
chỉ trống rỗng như tre.
Ryokan phải đã yêu
tre vô cùng vì ông ấy hát về nó trong nhiều bài ca; ông ấy vẽ tre trong nhiều bức
hoạ.
Ryokan thích tính
cách này trong tre.
- tính cách này của trống
rỗng.
Một lần, tương truyền,
một chiếc măng non nhú lên xuyên qua sàn của buồng ông ấy. Ông ấy quan tâm tới
nó. Cuối cùng, thấy nó mọc quá cao so với tường bao quanh, ông ấy bắt đầu dỡ
mái cho nó.
Nghĩ mà xem. Tre bắt
đầu mọc trong am của ông ấy. Ông ấy đã không loại bỏ tre, ông ấy bắt đầu loại bỏ
cái mái vì tre cần trời, tre cần nhiều không gian hơn. Nhà không quan trọng như
tre - tre trống rỗng mọc trong nó, tre sống động mọc trong nó.
Nhưng thế rồi một điều
nữa đã xảy ra...
Ông ấy cố đốt mái nhà
bằng nến.
Suzuki nói:
Ông ấy có nghĩ đó là
cách dễ nhất để hoàn thành công việc này không? Có lẽ ông ấy đã không có ý định
như vậy trong tâm trí, ông ấy đơn giản muốn có chỗ cho cây non và thấy nến là sẵn
có nhất vào lúc ông ấy bắt đầu làm việc.
Không, đó không phải
là việc cảm của tôi. Đó là cách Thiền nhân làm việc. Nếu họ có thể phá huỷ cái
gì đó họ sẽ phá huỷ nó hoàn toàn. Nếu nó phải bị phá huỷ thì nó phải bị phá huỷ
hoàn toàn. Và họ lấy bước quyết liệt. Bây giờ đây đã là bước quyết liệt - đốt
mái. Suzuki nói:
Nhưng không may mái bắt
lửa mạnh hơn điều được dự định ban đầu và toàn thể cấu trúc, cùng với bản thân
tre bị thiêu rụi.
Bây giờ Suzuki nói
'không may'. Không, điều đó là không đúng. Ryokan biết điều đó không phải là
không may. Đó là điều được ngụ ý đích xác - mái phải ra đi cùng với toàn thể cấu
trúc, toàn thể cấu trúc phải ra đi.
Khi tre bắt đầu mọc
bên trong bạn, khi cái gì đó mới bắt đầu mọc bên trong bạn - gọi nó là thiền, gọi
nó là toạ thiền - khi nó bắt đầu mọc bên trong bạn, tâm trí là cấu trúc bao
quanh nó - vì lúc ban đầu bao giờ cũng là tâm trí mà bạn bắt đầu, không có cách
khác để bắt đầu. Nếu bạn đã đi tới tôi bạn đã tới tôi vì tâm trí. Nếu bạn đã bắt
đầu thiền, bạn đã bắt đầu vì tâm trí của bạn. Ngay cả bạn đang nghe tôi chống lại
tâm trí, bạn đang nghe từ tâm trí, cho nên mọi thứ sẽ ở trong cấu trúc của tâm
trí. Cái mái đó, cấu trúc đó, cái am đó, là tâm trí và tre mọc bên trong nó.
Ông ấy đốt mái.
Suzuki nói 'không may' lửa cháy quá mạnh vượt ra ngoài kiểm soát và nó không chỉ
thiêu cháy toàn thể cấu trúc, nó thiêu cháy cả bản thân tre. Một cách tự nhiên
Suzuki nghĩ rằng khi nó thiêu cháy bản thân tre thế thì việc đó là tai nạn.
Không, không phải vậy.
Đầu tiên, để bảo vệ
thiền của bạn, tôi sẽ phải thiêu cháy cấu trúc của tâm trí, cái chứa việc thiền
này, cái bạn đã bắt đầu là một phần của tâm trí bạn. Khi tâm trí bị thiêu cháy
việc thiền này cũng sẽ bị thiêu cháy theo. Tâm trí này và việc thiền này là
cùng nhau. Việc thiền này đã bắt nguồn từ tâm trí này; nó phải đi cùng tâm trí
này. Một loại thiền khác sẽ tới khi tâm trí và thiền này cả hai đã mất đi.
Vâng, đó là nghĩa của
câu chuyện hay này. Tôi không sẵn sàng đồng ý với Suzuki. Suzuki đã bỏ lỡ vấn đề.
Ông ấy đã trở nên quá quan tâm tới tre. Ông ấy đã lạc đường. Điều may là lửa bắt
cháy quá mạnh - thực ra, nó đã được ngụ ý là vậy. Khi một Thầy như Ryokan định
làm cái gì đó ông ấy biết ông ấy đang làm gì. Nó không thể chỉ là tai nạn. Thực
ra, trong cuộc đời của Thầy như Ryokan tai nạn không xảy ra. Mọi thứ được làm
trong nhận biết đầy đủ, trong tâm thức toàn bộ, tuyệt đối.
Đây là điều ông ấy ngụ
ý. Cấu trúc sẽ ra đi và cùng với cấu trúc tre sẽ ra đi. 'Tâm trí phải ra đi và
thiền mà bạn đã bắt đầu bằng tâm trí sẽ phải ra đi nữa.'
Và thế rồi một loại
thiền khác sẽ tới mà chẳng liên quan gì tới bạn - một cái gì đó gián đoạn toàn
bộ. Nó là sự gián đoạn, không còn liên tục với bạn. Và thế thì nó là từ Thượng
đế, thế thì nó là từ cái toàn thể - món quà. Nó không do bạn tạo ra, nó là việc
xảy ra.
Bây giờ câu chuyện
này.
Một sư tới một thầy xin
giúp đỡ khi làm việc trên một trong những câu hỏi kinh điển trong biện chứng
Thiền: 'Ý của Bồ đề đạt ma từ phương tây tới là gì?'
Đây là một công án
tôi đã giải thích cho bạn. Nó gần như là hỏi: Nghĩa của mặt trời bao giờ cũng mọc
ở phương Đông là gì? Hay: Nghĩa của trăng tròn là gì?
Ai đó đã hỏi
Picasso... người này đang quan sát việc vẽ của ông ấy. Ông ta quan sát toàn thể
cách thức và khi bức tranh được hoàn thành ông ta hỏi, 'Nghĩa của bức tranh của
ông là gì?' Và Picasso trở nên rất, rất bực, gần như phát rồ, và ông ấy hét
lên, 'Đi và hỏi hoa hồng ngoài vười xem nghĩa của hoa hồng là gì! Tại sao mọi
người tới tôi và hỏi nghĩa?
Nếu hoa hồng có thể
có đó mà không có nghĩa nào tại sao bức tranh của tôi không thể có đó mà không
có nghĩa nào?'
Tại sao có sự cần thiết
này, tại sao có ám ảnh thường xuyên này với nghĩa? Nghĩa là của tâm trí. Đây là
trò chơi tâm trí. Tâm trí bao giờ cũng hỏi, 'Nghĩa là gì?'
Và bây giờ hỏi những
câu hỏi như vậy... Bồ đề đạt ma đã từ Ấn Độ tới Trung Quốc. Ông ấy đã vào Trung
Quốc từ phía Tây. Ông ấy phải vào từ đâu đó. Bây giờ, các Thiền sư trao công án
này cho đệ tử của họ - 'Tại sao Bồ đề đạt ma đã vào từ phương Tây? Tại sao? Tại
sao ông ấy đã tới Trung Quốc ngay chỗ đầu tiên? Tại sao?' Bạn không hỏi mây, 'Tại
sao mày đã tới Trung Quốc?' Bạn không hỏi sao, 'Tại sao mày có đó?'
Những người như Bồ đề
đạt ma là thuần khiết thế họ không tồn tại qua nghĩa, họ đơn giản tồn tại mà
không có nghĩa nào. Họ không tồn tại vì bất kì chủ định nào. Họ không là người
kinh doanh, họ giống như hoa, họ là người hoa. Họ tồn tại mà không có nghĩa nào
- họ đơn giản tồn tại. Cái gì khác có đó để làm? Sự tồn tại của họ không phải
là thứ tiện dụng, đó là nghĩa - rằng không có nghĩa.
Bây giờ câu hỏi này
được cho, công án này được trao cho đệ tử này. Nghĩ về nó đi.
Một sư tới một thầy
xin giúp đỡ khi làm việc trên một trong những câu hỏi kinh điển trong biện chứng
Thiền: 'Ý của Bồ đề đạt ma từ phương tây tới là gì?'
Bây giờ Bồ đề đạt ma
này là một trong những người vô nghĩa nhất đã từng bước đi trên thế gian này. Bạn
không thể quan niệm được bất kì người nào vô nghĩa nhiều hơn Bồ đề đạt ma này.
Đôi khi thậm chí còn vượt quá cả Phật Gautam. Theo nhiều cách ông ấy chỉ là
không thể nào tin nổi - kì quặc. Khi ông ấy vào Trung Quốc Hoàng đế đã tới đón
ông ấy ở biên giới vì trong nhiều năm tin tức đã lan tới, tin đồn đã lan tới: Bồ
đề đạt ma sắp đến, Bồ đề đạt ma sắp đến, và ông ấy là hiện tượng hiếm hoi.
Hoàng đế cũng phải
quan tâm. Tên ông ta là Lương Vũ Đế. Ông ta tới đón ông ấy. Và khi ông ta tới
đón ông ấy, ông ta rất bối rối vì Bồ đề đạt ma đang tới với một chiếc giầy ở
chân và một chiếc giầy trên đầu.
Bây giờ điều này là
quá thể. Vâng, nhà vua đã nghe nói rằng người này là hơi chút kì dị nhưng ông
ta đã không nghĩ ông ấy là kì quái thế. Nghĩa là gì? Ý tưởng đầu tiên phải tới
với tâm trí ông ta - Bồ đề đạt ma đội một chiếc giầy trên đầu có thể mang nghĩa
gì? Nhưng chắc sẽ là quá bất lịch sự mà hỏi trước đám tụ tập lớn - mười nghìn
sư đã tụ tập từ khắp Trung Quốc để đón con người vĩ đại này. Ông ấy đã là người
kế thừa của việc truyền trao của Phật. Điều Phật đã trao cho Ma ha ca diếp đã tới
trong tay ông ấy. Ông ấy là người kế thừa, người kế tiếp của Phật.
Ngay cả những sư kia
bắt đầu cảm thấy rất bồn chồn - vì nhà vua sẽ nghĩ gì? Và người này sẽ phá huỷ
hoàn toàn danh tiếng của họ. Vô lễ thế và điên thế! Cái gì đó đã đi sai sao?
Nhà vua đã chuẩn bị bài nói để đọc nhưng thật khó mà đọc trước người này. Ông
ta đã chuẩn bị nó với uyên thâm lớn và người triều đình phải đã chuẩn bị nó, diễn
tập nó. Và nó là vô nghĩa. Người này đang đứng đó - đã thậm chí không ngồi -
ông ấy chỉ đứng với chiếc giầy đội trên đầu!
Chung cuộc nhà vua hỏi,
'Thưa ngài, có thể là bất lịch sự nhưng ta phải hỏi. Tại sai ngài đội chiếc giầy
này trên đầu?' Và Bồ đề đạt ma nói, 'Sao không? Giầy bị mệt quá và nó đã mang
ta lâu thế - sao ta phải không mang nó?'
Ông ấy nói cái gì?
Ông ấy đang nói, 'Đừng hỏi về nghĩa.'
Dần dần khi mọi người
trở nên quen với cách thức của ông ấy họ đã hiểu điều ông ấy định nói. Tương
truyền ông ấy đã nói với các đệ tử của mình, 'Điều đó chỉ để cho ông ta hương vị
của ta để cho ông ta đừng bao giờ hỏi về nghĩa. Mọi sự phải được giải quyết từ
chính lúc ban đầu. Ta phải làm cái gì đó vô nghĩa vì ta là người vô nghĩa - vô
nghĩa như hoa, vô nghĩa như mây.'
Nghĩ mà xem. Sự tồn tại
là vô nghĩa. Quan sát nó mà xem. Không có nghĩa trong sự tồn tại. Nghĩa do con
người tạo ra. Và vì bạn thường xuyên tìm nghĩa bạn bắt đầu cảm thấy vô nghĩa.
Nhớ lấy... vì bạn thường xuyên tìm nghĩa - 'Nghĩa của nó là gì?' - sớm hay muộn
bạn nhất định nhận ra rằng không có nghĩa. Thế thì thảm hoạ lớn! Thảm hoạ này
đang xảy ra ở phương Tây. Những nhà tư tưởng vĩ đại nhất ở phương Tây đang
trong rất phiền não ngày nay. Phiền não là: Nghĩa của sự sống là gì? Nó có vẻ
vô nghĩa. Và họ đã được huấn luyện rằng người ta có thể sống chỉ với nghĩa. Họ
nên lắng nghe Bồ đề đạt ma. Họ nên đi tới Thiền.
Thiền nói không có
nghĩa. Không cần tìm nó. Tận hưởng cái vô nghĩa vô cùng này đi. Không có chủ định.
Sự tồn tại không đi chỗ nào đó, nó không có hướng đích chút nào. Nó đơn giản ở
đây; nó là việc mở hội, nó là niềm vui, nó là chuyện cười. Đó là điều người
Hindus gọi là leela. Nó là chơi đùa. Từ của họ là đúng hoàn hảo. Leela nghĩa là
chơi đùa. Trong chơi bạn không hỏi nghĩa. Trong chơi không có nghĩa. Bản thân
việc chơi là niềm vui, chính niềm vui.
Kể từ đó nhiều công
án đã được tạo ra quanh Bồ đề đạt ma: Nghĩa của ông ấy là gì? Nghĩa của việc
ông ấy tới từ phương Tây là gì?
Thầy gợi ý rằng trước
khi bắt đầu vấn đề này sư phải cúi lạy thầy.
Đó là điều tôi muốn bạn
hiểu. Anh ta đã tới với một câu hỏi. Anh ta muốn có sự giúp đỡ nào đó. Anh ta
đã từng vật lộn với nó, có thể trong nhiều tháng hay nhiều năm. Bạn không thể
hiểu được sự kiên nhẫn trong Thiền. Đôi khi phải mất hai mươi năm. Một người
liên tục vật lộn với cùng câu hỏi, cùng câu hỏi hết ngày nọ tới ngày kia, hết
năm nọ tới năm kia. Mùa vụ tới và trôi qua và người đó chỉ quan tâm tới một điều.
Người đó mất mọi ý thức về thế giới. Toàn thể tâm thức của người đó trở nên được
hội tụ vào một vấn đề - và sâu bên dưới người đó biết nó là vô nghĩa. Nhưng người
đó phải làm việc với nó, người đó phải khoan xuyên qua nó - chừng nào người đó
còn chưa đi tới điểm không kháng cự.
Người này có thể đã
làm việc trong nhiều năm và người này không đi được tới bất kì chỗ nào. Người
này đã đi tới Thầy để hỏi xin giúp đỡ. Người này muốn có sự giúp đõ thấy được.
Người này phải làm gì? Vài gợi ý. Bản đồ nào đó. Hướng dẫn nào đó.
Và Thầy nói gì? Bây
giờ đây là cách các Thiền sư làm việc. Nó là hoàn toàn không liên quan. Người
này đang hỏi xin giúp đỡ và Thầy nói - Thầy gợi ý rằng trước khi bắt đầu vấn đề
này sư phải cúi lạy thầy.
Bây giờ tại sao yêu cầu
cúi lạy? Tại sao yêu cầu rằng đệ tử phải cúi đầu lên chân Thầy? Người ta không
bao giờ biết. Thầy phải đã nhìn vào trong đệ tử này, phải đã thấy nơi có vấn đề.
Vấn đề không phải ở trong vấn đề, vấn đề là đâu đó trong bản ngã. Sư này phải
đã mang bản ngã tinh vi. Thầy đã thấy nơi có vấn đề. Và anh ta đang vật lộn với
công án này. Anh ta có thể đã liên tục vật lộn qua thời gian dài và chẳng cái
gì xuất hiện vì vấn đề là ở chỗ nào đó khác. Anh ta đã là người bản ngã. Thực
ra, khi bạn đi tới Thầy tự nhiên bạn chạm chân thầy. Anh ta đã không chạm chân.
Khi bạn đi tới Thầy bạn tự nhiên cúi lạy. Anh ta đơn giản tới và hỏi xin được giúp
đỡ.
Giúp đỡ không thể được
cho một cách trực tiếp. Giúp đỡ có thể được cho chỉ khi bạn khiêm tốn. Bạn
không thể đòi hỏi giúp đỡ, bạn chỉ có thể xin - chỉ thế thì sự giúp đỡ mới được
cho. Bằng không sự giúp đỡ không thể được cho. Không phải là Thầy không muốn
cho điều đó - thầy muốn cho điều đó, nhưng bạn sẽ không sẵn sàng nhận chừng nào
bạn chưa đứng đó với bình bát của người xin ăn trong tim bạn, với thái độ phi bản
ngã.
Việc cúi lạy này
không là gì ngoài một cử chỉ. Việc học là có thể chỉ khi bạn bỏ bản ngã. Vâng,
có nhiều loại học. Bạn có thể vào đại học, không có nhu cầu bỏ bản ngã. Thực
ra, bạn càng là bản ngã hiểu biết, bạn sẽ càng có năng lực ở đó trong đại học -
vì bản ngã cạnh tranh, bản ngã là tham vọng, bản ngã là ghen tị, bản ngã tranh
đấu với những bản ngã khác. Bạn sẽ càng thành công hơn với bản ngã. Nếu bạn
khiêm tốn không có khả năng nào cho bạn tăng tiến vào các địa vị trong đại học,
không. Bạn phải có tính cạnh tranh tàn nhẫn, bạn phải hùng hổ bạo hành, bạn phải
rất bản ngã, bạn phải nghĩ rằng bạn là người trên đỉnh trên thế giới. Chỉ thế
thì huân chương vàng mới tới với bạn, ngoài ra thì không.
Khi bạn vào đại học bạn
vào cùng bản ngã, nhưng khi bạn đi tới Thầy đó là một loại học khác toàn bộ -
đó là việc dỡ bỏ. Ở đây bạn phải cúi lạy.
Trên bề mặt sẽ có vẻ
dường như người này đang hỏi một câu hỏi - để được giúp đỡ với vấn đề của người
đó. Trên bề mặt sẽ có vẻ dường như Thầy là bản ngã. Tại sao thầy yêu cầu việc
cúi lạy? Đây là rắc rối với tâm trí bản ngã. Nếu bạn đọc điều này bằng bản ngã
trong tâm trí bạn, bạn sẽ thấy rằng Thầy này dường như là bản ngã. Làm sao thầy
có thể giúp được? Người này đang trong bối rối. Thay vì nhìn vào trong bối rối
của anh ta, thay vì có từ bi hướng tới vấn đề của anh ta, thầy đòi hỏi anh ta
trước hết phải làm đầy đủ thủ tục. Đây là loại Thầy gì? Nhưng thế thì bạn đã bỏ
lỡ toàn thể vấn đề.
Những câu chuyện này
là sâu sắc tới mức chúng sẽ không trở thành sẵn có cho bạn nếu bạn nhìn qua bản
ngã. Thầy là tuyệt đối phi bản ngã đó là lí do tại sao thầy có khả năng nhìn và
chỉ ra đích xác vấn đề ở đâu. Thầy phải đã nhìn. Và điều đó không mất thời
gian.
Khi bạn tới tôi không
mất thời gian nào để tôi thấy vấn đề ở đâu. Đôi khi tôi có thể không nói điều
đó, đôi khi tôi có thể hỏi bạn... Vì thế giới đã thay đổi nhiều. Đòi hỏi ai đó
cúi lạy có thể ngăn cản người đó, có thể không là sự giúp đỡ. Thế giới đã thay
đổi. Nó đã là một loại thế giới khác toàn bộ nơi câu chuyện này phải đã xảy ra
- một chỗ khác. Bây giờ toàn thế giới được giáo dục, được giáo dục theo cách của
bản ngã.
Đôi khi tôi hỏi bạn vấn
đề của bạn là gì. Tôi thấy vấn đề của bạn và tôi hỏi bạn, 'Vấn đề của bạn là
gì? Tôi muốn bạn nói cái gì đó về nó.' Nếu tôi cảm thấy rằng bạn đang tới gần
hơn tôi cho bạn vài gợi ý thêm, tôi mang bạn lại gần hơn. Nhưng thay vì nói
'Đây là vấn đề của bạn', thay vì hướng bạn thẳng tới vấn đề của bạn, tôi thích
bạn làm lộ nó ra cho tôi. Điều đó giúp bạn vẫn còn bản ngã. Bạn cảm thấy bạn
đang giải thích cho tôi, bạn cảm thấy bạn đang nói nó cho tôi, bạn cảm thấy bản
ngã của bạn được thoả mãn. Tôi phải thuyết phục bản ngã của chúng ta trước hết.
Tất nhiên, chung cuộc tôi thuyết phục họ hướng tới tự tử nhưng đó là điều chung
cuộc. Điều đó không thể được làm ngay lúc bắt đầu. Ngay lúc bắt đầu tôi làm mọi
điều để hỗ trợ cho bản ngã của bạn. Khi ai đó mới tới tôi, tôi cho người đó chú
ý vô cùng. Bạn càng ở đây, tôi càng bắt đầu quên bạn.
Khi sư cúi mình lạy,
thầy đạp anh ta một cú đau điếng.
Bẽ mặt! Đầu tiên bạn
yêu cầu anh ta cúi lạy và thế rồi bạn đánh anh ta, bạn cho anh ta cú đạp, bạn đối
xử với anh ta dường như anh ta là quả bóng hay hòn đá trên đường.
Nhưng thầy đã đạp
đúng. Thầy đã đạp đích xác vào vấn đề. Cái gì đó đã xảy ra từ cú đạp đó. Cú đạp
đã có tác dụng gần như sốc điện.
Cú đạp bất ngờ đã giải
quyết điều không giải được tăm tối mà sư này đã từng chìm nghỉm trong một số thời
gian.
Cú đạp là bất ngờ thế.
Khi bạn đang cúi lạy một người trong khiêm tốn thế bạn không mong đợi rằng người
đó sẽ đạp bạn. Bạn đang khiêm tốn thế, làm sao bạn có thể mong đợi rằng thầy sẽ
đạp bạn? Vâng, bạn có thể mong đợi rằng nếu bạn đang đánh một người, người đó sẽ
đá bạn, nhưng khi bạn đang buông xuôi - thế rồi thầy sẽ đạp bạn sao? Điều đó là
bất ngờ thế và phi logic thế.
Nhưng đó là logic của
điều đó, chính logic. Vì nếu không bất ngờ tâm trí có thể làm cái gì đó. Tâm
trí không có năng lực xử trí cái bất ngờ, tâm trí đơn giản bị choáng. Nó không
thể giải thích được điều đó, đằng nào nó cũng không thể giải thích được điều
đó. Nó đơn giản trong cơn choáng. Nó không thể làm được bất kì cái gì về điều
đó. Điều đó bất ngờ thế, điều đó điên thế. Tâm trí dừng lại, có kẽ hở, khoảng hở
nảy sinh. Cú đạp đó mang tới kẽ hở.
Nhưng cú đạp này
không thể được cho bất kì người nào và mọi người. Người phải xứng đáng với nó.
Anh ta đã làm việc trong nhiều năm. Anh ta đã đi tới điểm mà hơi chút đẩy, chỉ
cái đạp, sẽ có tác dụng. Mọi do dự của anh biến mất trong khoảnh khắc đó. Đột
nhiên anh ta trở thành một. Mọi lẫn lộn của anh ta biến mất. Trong kẽ hở đó có
ánh sáng, trong kẽ hở đó có sự sáng tỏ. Với cú đạp bất thần đó, cái gì đó đi
vào như mũi tên, xuyên thấu tim anh ta.
Khi anh ta cảm thấy
chân của thầy, anh ta lập tức đạt tới chứng ngộ.
Thiền là tôn giáo duy
nhất trên thế giới dạy chứng ngộ bất thần. Nó nói rằng chứng ngộ không mất thời
gian, nó có thể xảy ra trong một khoảnh khắc. Nó thực sự xảy ra chỉ trong một
khoảnh khắc. Bạn có thể chuẩn bị cho nó trong nhiều năm nhưng bất kì khi nào nó
xảy ra, nó xảy ra trong một khoảnh khắc. Nó không xảy ra dần dần, không theo từng
phần. Nó không xảy ra kiểu lúc thì một mảnh thế rồi mảnh khác, thế rồi mảnh
khác... Bạn không trưởng thành chầm chậm hướng tới nó. Đó là cú nhảy. Từ đích
xác cho nó tới từ vật lí - nó là bước nhảy lượng tử. Bước nhảy bất thần thế.
Trong một khoảnh khắc bạn không còn như cũ; toàn thể tâm thức thay đổi.
Nhưng nhớ, điều đó cần
chuẩn bị lớn. Tôi không nói rằng nếu bạn tới tôi và tôi đạp đầu bạn điều đó sẽ
xảy ra. Trước khi tôi đạp đầu bạn, bạn sẽ phải khoan tới tận cùng. Khi chỉ chỗ
cuối cùng, chính cốt lõi cuối cùng còn lại, chỉ một hơi chút kháng cự, khi bạn ở
ngay trên bờ của nó, thế thì cú đạp có thể giúp. Thế thì chỉ một cú đạp và
rrrrrrrrr... nó diễn ra!
Sau đó anh ta nói với
mọi người anh ta gặp, 'Từ khi ta nhận cú đạp đó của Mã Tổ, ta đã không thể nào
dừng được việc cười.'
Vâng, khi bạn thấy, lần
đầu tiên tiếng cười lớn nảy sinh trong bạn - tiếng cười về toàn thể cái nực cười
về khổ của bạn, tiếng cười về toàn thể cái ngu xuẩn của vấn đề của bạn, tiếng
cười về toàn thể cái ngớ ngẩn của đau khổ của bạn. Không có nhu cầu; không có vấn
đề gì trong khổ. Bạn đã trong ác mộng của bịa đặt riêng của bạn. Bạn đã là tác
giả của nó và bạn đã là diễn viên trong nó và bạn đã là đạo diễn trong nó và bạn
đã là màn ảnh và bạn đã là máy chiếu và bạn đã là khán giả và bạn đã là tất cả
trong đó. Nó đã đơn giản có tác giả là bạn. Nó chỉ là ác mộng. Không có nhu cầu
ở trong nó một khoảng khắc nhưng bạn đã sống trong nó trong hàng triệu kiếp -
do đó có tiếng cười.
Đệ tử này là đúng khi
anh ta nói, 'kể từ đó ta đã không thể nào dừng được việc cười.' Vâng, nó là vậy.
Khổ của bạn đơn giản là ngu xuẩn. Nó là nực cười. Bạn bám vào nó đó là lí do tại
sao nó có đó. Và bạn liên tục kêu lên 'Tôi không muốn nó' và bạn liên tục bám
vào. Một ngày nào đó khi bạn thấy ra, khi cú đạp xảy ra cho bạn, khi mắt bạn mở
và bạn thấy, bạn sẽ không thể nào tin được điều đó, làm sao nó tiếp tục lâu thế.
Khi Phật đạt tới, ai
đó hỏi ông ấy, 'Thầy đã đạt tới cái gì?' Ông ấy cười. Ông ấy nói, 'Chẳng cái
gì, chẳng cái gì hết cả. Thực ra, ta đã mất cái gì đó; ta đã chẳng đạt tới cái
gì.' Người này nói, 'Nhưng chúng tôi bao giờ cũng nghĩ rằng người chứng ngộ đạt
tới cái gì đó.' Phật nói, 'Hoàn toàn sai, tuyệt đối sai. Ta đã mất cái gì đó -
ta đã mất khổ - và ta đã chẳng đạt tới cái gì - vì bất kì cái gì ông nghĩ ta đã
đạt tới bao giờ cũng đã có đó và bây giờ ta cười vào toàn thể cái nực cười này.
Tại sao ta đã bỏ lỡ nó? Nó đã ở trong ta, nó đã ở cùng ta. Tại sai ta đã bỏ lỡ
nó? Việc đó đã xảy ra thế nào ngay chỗ đầu tiên?'
Làm sao bạn đã bỏ lỡ
Thượng đế? Bạn là Thượng đế. Làm sao bạn liên tục tìm ngài?
Tôi đã nghe...
Khi một sư hỏi Huệ
Năng, 'Thưa thầy làm sao đạt tới phật tính?' Ông ấy đã cho ông ta một cú đánh
ra trò khi nói, 'Nếu ta không đánh ông thế gian sẽ cười ta.'
Ông ấy ngụ ý cái gì,
Huệ Năng này? Ông ấy nói, 'Chính nỗ lực rằng ông muốn đạt tới Phật tính là ngu
xuẩn vì ông là phật. Nếu ta không đánh ông thì mọi người sẽ cười ta - ít nhất
những người biết, họ sẽ cười. Ta không thể giúp được ông trở thành phật. Ông đã
là phật rồi.'
Bạn đã là cái mà bạn
đang tìm kiếm - do đó có tiếng cười.
Suy ngẫm về chuyện ngụ
ngôn nhỏ này. Nó cực kì có ý nghĩa. Và làm việc chăm chỉ, khoan mạnh vào trong
tâm trí, để cho một ngày nào đó bạn có thể xứng đáng với cú đạp.
Xem tiếp Chương 10 - Quay về Mục Lục Tập 1