Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Thiền – Con Đường Của Nghịch Lý – Osho
Bài nói về Thiền
Tập 3
Chương 5. Thầy vọng lại bạn
Một sư hỏi, "Phật là gì?"
Đầu Tử (Thầy) trả lời, "Phật." Sư:
"Đạo là gì?"
Đầu Tử: "Đạo."
Sư: "Thiền là gì?'' Đầu Tử: "Thiền."
Chân lí không thể được
nói, nhưng người ta không thể im lặng về điều đó. Chân lí không thể được nói vì
lời là không thích hợp. Bạn không thể im lặng về nó nữa, vì im lặng cũng là
không thích hợp. Lời là ồn ào, đúng; chúng làm ra nhiều lộn xộn, nhiều ầm ĩ và
chẳng nói cái gì. Im lặng chỉ là thiếu vắng tiếng ồn. Nếu tiếng ồn khẳng định
không thể nói được bất kì cái gì, làm sao thiếu vắng có thể nói được bất kì cái
gì? Im lặng chỉ là thiếu vắng. Nếu ngay cả khẳng định là bất lực, làm sao phủ định
có thể có hiệu lực?
Điều thứ hai phải được
hiểu rất rõ, vì đã từng có nhiều trường phái và nhiều triết gia nghĩ rằng chân
lí không thể được nói; cho nên họ giữ im lặng. Nhưng bạn không thể nói nó ngay
cả qua im lặng. Im lặng có thể chỉ ra cái là không thích hợp, có vậy thôi.
Nhưng im lặng không thể là đủ. Và có nguy hiểm: im lặng có thể là dốt nát vô
cùng. Quá nhiều lời tạo ra nguy hiểm - con người trở thành con vẹt, bác học,
hay giáo sư. Im lặng có thể tạo ra một loại trò bịp. Có những người giữ im lặng,
và những người khác tưởng rằng họ phải đã đi tới biết vì họ im lặng.
Có lần một người tới
tôi - nhiều năm đã trôi qua từ đó - và anh ta nói, "Tôi đã tới Baba
Muktananda Paramhansa. Tôi đã hỏi vài câu hỏi nền tảng, và ông ấy giữ im lặng -
ông ấy là người vĩ đại, tôi biết."
Cùng ngày đó, tôi định
đi tới thị trấn khác, cho nên tôi bảo người này, "Bạn đi cùng tôi đi, và
trong ba ngày bạn im lặng cùng tôi. Và tôi sẽ giúp." Tôi cho anh ta quần
áo mầu cam; anh ta là sannyasin đầu tiên của tôi - một sannyasin hư huyễn, bịp
bợm. Và tôi bảo anh ta, "Trong ba ngày bạn sẽ là Baba Chuktananda
Paramhansa."
Anh ta nói, "Chưa
bao giờ nghe nói về cái tên này, Chuktananda."
Tôi bảo anh ta,
"Tôi cũng không nghe nói về nó. Tôi mới chỉ bịa ra nó chính khoảnh khắc
này. 'Chukta' ngụ ý người đã trả hết nợ của mình. Bạn là tự do, hoàn toàn tự
do. Thế giới của bạn đã đi tới chỗ kết thúc."
Và anh ta hỏi tôi,
"Thế thì tôi phải làm gì?"
Tôi bảo anh ta, "Bạn
chẳng có gì để làm chút nào. Bạn giữ im lặng, bạn đơn giản ngồi. Mọi điều được
cần tôi sẽ làm. Nếu ai đó hỏi bạn cái gì đó, bạn có thể làm bất kì cử chỉ nào,
hay bạn có thể nhắm mắt, hay bạn có thể nhìn lên hay nhìn xuống, bất kì cái gì
bạn cảm thấy. Nhưng không thốt ra một lời."
Và trong ba ngày toàn
thể thị trấn đã tôn thờ anh ta. Ban đêm anh ta được phép - khi mọi người đã về
- anh ta có thể nói với tôi. Anh ta ôm đùi tôi và anh ta nói, "Osho ơi, thầy
đang làm gì? Tôi cảm thấy bối rối thế khi mọi người chạm chân tôi," anh ấy
sẽ nói. "Và nhiều người thế! Cái gì đã đi sai? Làm sao thầy xoay xở được điều
đó?"
Một khi họ đi tới biết
rằng anh ta đã đạt tới và anh ta giữ im lặng - điều đó là đủ để thuyết phục mọi
người. Mọi người ngu xuẩn thế. Hoặc họ bị lừa bởi lời hoặc họ bị lừa bởi im lặng
- nhưng đằng nào họ cũng bị lừa.
Có một chuyện Thiền nổi
tiếng. Tôi muốn kể nó cho bạn.
Một sư tự gọi mình là
'Thầy Im lặng'. Ông ta thực tại là kẻ lừa gạt và không có việc hiểu thực. Để
bán trò bịp Thiền, ông ta có hai sư phục vụ giỏi nói để trả lời các câu hỏi cho
ông ta; nhưng bản thân ông ta không bao giờ thốt ra một lời, dường như để trưng
ra ‘im lặng Thiền’ bí hiểm.
Một hôm, trong khi vắng
mặt của hai người phục vụ, một sư hành hương tới ông ấy và hỏi: "Thưa Thầy,
Phật là gì?" Không biết phải làm gì để trả lời, trong hoang mang ông ta chỉ
có thể nhìn quanh mọi hướng một cách tuyệt vọng - đông và tây, đây và đó - tìm
cái loa bị thiếu của mình.
Thế rồi sư hành hương,
rõ ràng được thoả mãn, hỏi ông ta: "Pháp là gì, thưa thầy?" Ông ta
cũng không thể trả lời được câu hỏi này, cho nên ông ta đầu tiên nhìn lên trần
và thế rồi nhìn xuống sàn, cầu tới giúp đỡ của cõi trời và địa ngục.
Sư này lại hỏi:
"Thiền là gì?" Bây giờ Thầy Im lặng không thể làm được bất kì cái gì
ngoài nhắm mắt lại.
Chung cuộc sư này hỏi:
"Phúc lành là gì?" Trong thất vọng, Thầy Im lặng chìa tay một cách bất
lực cho người hỏi như dấu hiệu của đầu hàng.
Nhưng sư hành hương lại
rất hài lòng và được thoả mãn với cuộc phỏng vấn này. Ông ta rời khỏi ‘Thầy’ và
tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Trên đường người hành
hương gặp các sư phục vụ trên đường về nhà, và bắt đầu kể lại cho họ điều người
chứng ngộ Thầy Im lặng này là gì.
Ông ta nói: "Tôi
đã hỏi ông ấy Phật là gì. Ông ấy lập tức quay mặt sang đông và rồi sang tây, ngụ
ý rằng con người bao giờ cũng đi tìm Phật đây đó, nhưng thực tại Phật không được
tìm thấy cả ở đông hay ở tây.
Thế rồi tôi hỏi ông ấy
pháp là gì. Trong trả lời cho câu hỏi này ông ấy nhìn lên và xuống, ngụ ý rằng
chân lí của pháp là tính toàn bộ của sự bình đẳng, không có phân biệt giữa cao
và thấp, trong khi cả thuần khiết và không thuần khiết có thể được tìm thấy ở
chỗ đó.
Trong việc trả lời câu
hỏi của tôi về Thiền là gì, ông ấy nhắm mắt lại và chẳng nói gì. Đó là manh mối
cho câu nói nổi tiếng:
'Nếu người ta có thể nhắm
mắt và ngủ ngon ở nơi thâm sơn cùng cốc mây mù
người đó thực sự là sư
vĩ đại.'
Cuối cùng, trong việc
trả lời cho câu hỏi cuối cùng của tôi, 'Phúc lành là gì?' ông ấy giơ tay ra và
chìa cả hai bàn tay cho cho tôi. Điều này ngụ ý rằng ông ấy đã giang tay giúp đỡ
để hướng dẫn sinh linh hữu tình với phúc lành của ông ấy. Ồ, Thiền sư chứng ngộ
làm sao! Việc dạy của ông ấy sâu lắng làm sao!"
Khi các sư phục vụ trở
về, 'Thầy Im lặng' mắng mỏ họ: "Các ông đã ở đâu mọi lúc này? Khoảng thời
gian trước ta đã lúng túng tới chết, và gần như bị tiêu tan bởi một người hành
hương tò mò!"
Cùng điều này đã xảy ra
cho Baba Chuktananda Paramhansa. Mọi người sẽ hỏi, anh ta ngồi im lặng, anh ta
sẽ nhìn đây đó, hay nhìn lên nhìn xuống, hay sẽ nhắm mắt lại, và tôi sẽ giải
thích cho họ điều anh ta ngụ ý. Và trong ba ngày đó, dần dần, tôi trở thành người
phụ; Chuktananda đã trở thành quan trọng hơn, tôi đã chỉ là người thông dịch.
Và mọi người thấy an bình lớn trút xuống từ Chuktanana.
Mọi người ngu xuẩn! Hoặc
họ bắt đầu bám lấy lời, lấy chữ, hay, nếu bằng cách nào đó họ bỏ lời, chữ, họ bắt
đầu bám lấy cái đối lập.
Nhưng chân lí không ở
trong lời không ở trong im lặng. Chân lí là siêu việt. Chân lí là siêu việt
trên nhị nguyên. Im lặng là một phần của trò chơi nhị nguyên của tâm trí. Tâm
trí không chỉ là lời. Giữa hai lời có một kẽ hở nhỏ nơi tâm trí im lặng. Tâm
trí là cả hai - lời và im lặng đan chéo. Từng lời được theo sau bởi im lặng, và
từng im lặng được theo sau bởi lời.
Khi bạn suy nghĩ, một ý
nghĩ tới, thế rồi kẽ hở tới. Bằng không ý nghĩ này sẽ bị chờm lên bởi ý nghĩ
khác, sẽ có lẫn lộn lớn - kẽ hở được cần. Thế rồi ý nghĩ khác tới. Nó cũng giống
như khi bạn đứng trên đường quan sát giao thông. Xe này đi qua, thế rồi kẽ hở
đi qua! Bạn không thấy kẽ hở này vì bạn không nhìn vào kẽ hở này. Xe này đi
qua, thế rồi kẽ hở đi qua, và thế rồi xe khác. Nếu không có kẽ hở, sẽ có va chạm
giữa hai xe, sẽ có tai nạn. Kẽ hở bao giờ cũng có đó. Kẽ hở là một phần của
giao thông cũng như các xe.
Đích xác cùng điều này
là hoàn cảnh với tâm trí. Lời, tiếng ồn, cái gọi là im lặng, là hai phần của
tâm trí.
Có một loại im lặng
khác không liên quan gì tới tâm trí. Im lặng đó không phải là thiếu vắng tiếng ồn,
nó là sự hiện diện của cái không thể biết - phẩm chất khác toàn bộ: không phải
là thiếu vắng tiếng ồn, nhưng là sự hiện diện của Thượng đế, hay sự hiện diện của
cái toàn thể. Im lặng đó không phải là im lặng chết; im lặng đó là rất sống động,
rung động, đầy niềm vui, trút phúc lạc ra khắp xung quanh, tràn ngập với yêu.
Và bạn có thể thấy sự khác biệt.
Khi một người đơn giản
im lặng theo nghĩa của không có lời, vắng lời, bạn sẽ thấy sự đờ đẫn. Bạn sẽ thấy
một loại ngủ bao quanh người đó. Bạn sẽ thấy một loại ngu si, lờ đờ. Loại người
này sẽ không thông minh. Bạn có thể thấy loại paramhansa này ở nhiều chỗ ở Ấn Độ.
Là một mahatma lừa bịp là dễ dàng thế. Bạn không phải làm gì mấy. Ngay cả bạn
có thể im lặng - ít nhất vào ban ngày - điều đó sẽ có tác dụng. Không thực hành
lớn nào, chỉ là thứ nhỏ bé.
Im lặng mà là vắng lời
là đờ đẫn; im lặng mà là hiện diện của Điều thiêng liêng, Thượng đế, chân lí, Đạo,
hay bất kì cái tên nào bạn thích, có phẩm chất khác toàn bộ cho nó. Nó nở hoa,
nó nở hoa trong cả nghìn lẻ một đoá hoa. Nó có hương thơm, nó trẻ trung, nó
tươi tắn; nó không đờ đẫn và chết. Nó không là im lặng của nghĩa địa. Nó là im
lặng nơi sự sống đang xảy ra, nhưng xảy ra rất im lặng.
Cho nên nhớ khác biệt
này: lời không thể nói được bất kì cái gì về chân lí, mà cái gọi là im lặng của
bạn cũng không thể nói được. Im lặng của bạn cũng là của bạn. Bình diện của im
lặng của bạn và bình diện của lời của bạn là không khác nhau - chúng thuộc vào
cùng bình diện.
Chân lí có thể được hiểu
chỉ khi bạn biến đổi, nâng bình diện hiện hữu của bạn, khi bạn đạt tới loại tâm
thức mới, nhận biết mới.
Chúng ta liên tục di
chuyển trên cùng bình diện. Lúc thì chúng ta chơi trò chơi lời nói, lúc thì
chúng ta bắt đầu chơi trò chơi im lặng. Lúc thì chúng ta chơi trò chơi của việc
là thế gian, lúc thì chúng ta bắt đầu chơi trò chơi của việc là thế giới khác.
Lúc thì chúng ta chơi trò chơi của bãi chợ, và lúc thì trò chơi của nhà thờ và
đền chùa - nhưng bình diện vẫn còn như vậy. Chúng ta không di chuyển một li. Tu
viện và bãi chợ của bạn cả hai thuộc về cùng một thế giới.
Bạn sống trên một bình
diện. Chừng nào bình diện này chưa đi tới độ cao cao hơn, bạn có thể làm bất kì
cái gì bạn thích nhưng không cái gì sẽ thay đổi. Người giận có thể cầu nguyện,
nhưng lời cầu nguyện của người đó sẽ là từ giận; người giận có thể yêu, nhưng
yêu của người đó sẽ đầy giận. Người giận có thể làm nhiều thứ, nhưng bất kì ở
đâu, bất kì cái gì người đó làm, giận sẽ hiện diện - có thể đôi khi là hiển
nhiên, đôi khi không hiển nhiên thế. Người bạo hành có thể cố là bất bạo hành.
Thế thì trong bất bạo hành của người đó sẽ có bạo hành, người đó sẽ bất bạo
hành một cách rất bạo hành. Người đó sẽ rất hung hăng về điều đó; người đó sẽ
trở nên bị ám ảnh với bất bạo hành.
Nhớ, vấn đề không phải
là thay đổi từ cực này sang cực khác trên cùng bình diện. Vấn đề là thay đổi từ
bình diện này sang bình diện khác.
Vài năm trước đây các
thầy dạy của khoa Triết học tại Cambridge đã quyết định cho làm bài sát hạch cuối
cùng bao gồm chỉ một câu hỏi bắt buộc, được viết như sau:
"Đây có là câu hỏi
không?"
Với sự ngạc nhiên của mọi
người, một ứng cử viên đứng dậy, đưa ra một tờ giấy và bước rất hạnh phúc sau
khi bài sát hạch bắt đầu.
Khi kết quả được công bố
người đó đã về nhất. Người đó đã viết: "Nếu đó là câu hỏi, đây là câu trả
lời."
Vâng, đó là câu trả lời
đích xác - trên cùng bình diện. Nhưng không câu hỏi nào là câu hỏi, không câu
trả lời nào là câu trả lời.
Đây là điều chúng ta
đang làm. Rất có tính quan sát đi.
Chính con người bị mắc
vào tính cực.
Vâng, chân lí không thể
được thốt ra qua lời, nhưng nó không thể được thốt ra qua im lặng nữa. Thế thì
người ta phải làm gì?
Thiền có cách tiếp cận
rất, rất đặc biệt về điều đó. Nó dùng lời theo cách vô nghĩa - nó dùng các lời
mà không có bất kì nghĩa nào. Nó dùng lời không như chúng phải được dùng. Nó
dùng lời theo cách ngớ ngẩn.
Ai đó hỏi: "Phật
là gì?" Và Đầu Tử nói: "Phật."
Bây giờ đây là lặp thừa;
bạn không nói bất kì cái gì. Người này đang hỏi "Phật là gì?" Và bạn
nói, "Phật là Phật." Bạn đã không thêm vào bất kì cái gì, bạn đã đơn
giản lặp lại.
Ngôn ngữ là để thêm vào
cái gì đó, định nghĩa cái gì đó, đề xuất cái gì đó, làm cái gì đó rõ ràng hơn,
giúp đỡ theo cách nào đó. Bạn đã không giúp đỡ! Bạn đã ném người hỏi về bản
thân người đó.
Người đó hỏi, "Phật
là gì?" và bạn nói, "Phật." Bạn đang làm gì? Bạn đã gây sốc cho
toàn thể quá trình tâm trí. Trong một khoảnh khắc người hỏi sẽ đâm ra lúng túng
- phải làm gì? Nếu bạn đã nói cái gì đó có nghĩa... thế thì suy nghĩ bắt đầu.
Thế thì người đó có thể nghĩ về nó. Khẳng định có nghĩa dẫn tới nhiều suy nghĩ.
Người đó có thể nghĩ về điều bạn đã nói. Nếu bạn đã giữ im lặng... người đó có
thể đoán. Suy nghĩ lại bắt đầu. Người đó sẽ đoán, "Ông ngụ ý gì bởi im lặng
của ông?" Thực ra, có nhiều khả năng cho việc phỏng đoán khi bạn im lặng
hơn là khi bạn nói cái gì đó. Khi bạn nói cái gì đó, ít nhất bạn cho người đó một
chiều hướng. Khi bạn không nói bất kì cái gì, mọi chiều hướng được giữ mở. Người
đó có thể chạy quanh mọi chỗ và nghĩ bất kì cái gì người đó muốn nghĩ - bạn cho
người đó tự do. Theo cách này, bạn giúp người đó nghĩ; theo cách khác, tâm trí
người đó bắt đầu thêu dệt chăng tơ.
Đầu Tử ngụ ý gì khi ông
ấy nói, "Phật"? Ông ấy đơn giản gây choáng cho bạn. Đó là dấu chấm hết.
Ông ấy không giúp bạn nghĩ bất kì cái gì thêm nữa, theo bất kì cách nào. Ông ấy
không cho bạn bất kì cơ hội nào để đi vào suy nghĩ. Chính cú choáng này...
trong một khoảnh khắc mọi thứ dừng lại. Trong việc dừng lại đó, cái nhìn là có
thể. Và việc dừng đó là có ý nghĩa lớn.
Nếu bạn hỏi các triết
gia họ sẽ nói, "Đây là việc lặp thừa, đây không phải là câu trả lời."
Nó không là câu trả lời. Nó là việc lặp thừa, nhưng nó không thể có tính giúp đỡ.
Nhưng kĩ thuật này phải
được hiểu. Đầu Tử đang làm gì? Đầu Tử đang tạo ra một kĩ thuật lớn. Và sau Đầu
Tử, các Thiền sư đã dùng nó cực kì nhiều; họ thậm chí làm nhiều cải tiến trên
nó.
Một Thầy khác được hỏi:
"Phật là gì?"
Và ông ấy nói, "Trông
kìa! Cây bách ngoài sân."
Bây giờ điều đó thậm
chí còn tốt hơn nhiều. Khi bạn nói, "Phật là Phật," có khả năng rằng
người này có thể liên tục nghĩ theo cùng cách như người đó đã nghĩ trước đây.
Hay người đó có thể nghĩ bạn không biết; hay người đó có thể nghĩ, "Vâng,
Phật là Phật." Người đó có thể không bị choáng.
Nhưng khi thầy hét lên:
"Trông đấy! Cây bách ngoài sân!" bây giờ nó hoàn toàn không liên
quan. Ông ấy cho bạn sự gián đoạn hoàn toàn với tâm trí của bạn. Ông ấy gây
choáng cho bạn ra khỏi giấc ngủ, cho dù một khoảnh khắc, nhưng đi ra khỏi giấc
ngủ của bạn cho dù một khoảnh khắc là đạt tới cái nhìn lớn. Và trong cái nhìn
đó cái gì đó xảy ra - bình diện của bạn được thay đổi. Bạn không đi trên cùng
bình diện, bạn nhảy vào bình diện khác. Độ cao là khác.
Các Thiền sư đã cải tiến
nhiều, dần dần. Đầu Tử là người sáng lập của kĩ thuật tinh tế về gây choáng cho
mọi người; không dùng ngôn ngữ theo cách thông thường, bình thường; chơi với
ngôn ngữ theo cách mà ngôn ngữ không cho bất kì thúc đẩy nào cho suy nghĩ. Và
không dùng im lặng, vì im lặng cho thúc đẩy để đoán. Dùng lời, nhưng theo cách
vô nghĩa tới mức chúng không mang bất kì nghĩa nào - một điều.
Các Thiền sư liên tục cải
tiến về sau. Bạn hỏi một Thiền sư, "Phật là gì?" Ông ấy có thể đánh bạn!
Điều đó là tốt hơn nhiều ngay cả với ‘cây bách ngoài sân'. Ông ấy có thể nhảy
lên bạn, ông ấy có thể đem bạn vào vô nhận biết. Bạn đã không chờ đợi điều đó.
Ông ấy có thể tát bạn.
Những kĩ thuật này là
gì? Ý nghĩa của những điều này là gì? Họ có vẻ vũ phu, bạo hành, vô văn minh,
nguyên thuỷ thế. Họ không vậy đâu. Toàn thể nỗ lực là để cho bạn kẽ hở khỏi
tính cực - không cho phép bạn thoát vào bất kì cực nào của tâm trí bình thường
của bạn, đẩy bạn vào chỗ nào đó bên ngoài nó.
Khi Lâm Tế được hỏi điều
tinh tuý của giáo huấn Phật giáo là gì, ông ấy bước ngay xuống khỏi chỗ ngồi
và, tóm lấy cổ áo người hỏi, tát vào mặt anh ta, và để anh ta đi. Anh ta đứng đực
ra đó, ngẩn người ra.
Người đứng cạnh bình luận,
"Sao ông không cúi lạy?" Điều này đánh thức anh ta ra khỏi ngẩn ngơ;
và khi anh ta cúi lạy Thầy, anh ta có tỏ ngộ đầu tiên.
Cái gì đã xảy ra? Sự
trao đổi rất kì lạ. Anh ta đã hỏi thầy một câu hỏi: "Tinh tuý của giáo huấn
Phật giáo là gì?" và and ta nhận cái tát trước đám đông - chắc đó là các đệ
tử của Lâm Tế. Anh ta đã không chờ đợi điều đó. Nó đã là bất ngờ thế; đó là cái
đẹp của nó. Khi cái gì đó được trông đợi xảy ra, tâm trí bạn có thể tiếp tục
theo cách thường lệ.
Bây giờ nếu người này lại
đi tới Lâm Tế và hỏi cùng câu hỏi này lần nữa và bị tát, sẽ chẳng có gì trong
việc đó. Anh ta sẽ mong đợi điều đó. Thầy với phẩm chất của Lâm Tế hay Đầu Tử sẽ
không tát bạn lần nữa đâu; thầy sẽ tìm cách khác. Thầy có thể cúi lạy và chạm
chân bạn.
Thiền sư phải vẫn còn
là bất ngờ. Một khi bạn biết câu trả lời của thầy, chúng không còn là câu trả lời
nữa; một khi bạn biết trước cái gì đó, tâm trí bắt đầu thêu dệt các hình mẫu
quanh điều đó - nó đã biết rồi. Tâm trí chỉ có thể bị choáng và bị lôi ra khỏi
mơ màng của nó bởi cái gì đó tuyệt đối bất ngờ. Đây là kĩ thuật đó: cái bất ngờ.
Và cái bất ngờ giúp đỡ. Cái bất ngờ giữ cho bạn ở chỗ bạn đang vậy; cái bất ngờ
gây xóc cho bạn ra khỏi mơ màng của bạn.
Nhưng ngay cả việc tát
đã không giúp đỡ. Lâm Tế đã tát người này, anh ta đã bị ngẩn người ra; anh ta
phải đã trở nên sợ, anh ta phải đã bị rất choáng. Nhưng anh ta vẫn không ra khỏi
điều đó, anh ta vẫn bám lấy cùng bình diện này. Anh ta có thể đã nổi giận, hay
anh ta có thể đã nghĩ đánh trả. Và thế rồi ai đó từ đám đông - phải là một người
có hiểu biết lớn - ai đó trong đám đông đã nói, "Sao ông không cúi lạy?"
Bây giờ điều này thậm chí còn bất ngờ hơn. Ai đó đánh bạn, tát bạn, và bạn phải
cúi lạy người đó!
Nhưng người đã nói,
"Sao ông không lạy?" đang biểu lộ sáng suốt lớn. Người đó đang nói,
"Thầy đã từ bi thế với ông. Không có lí do gì cho thầy làm nhiều thế - bước
xuống, nắm lấy cổ áo ông và tát ông. Không có nhu cầu! Từ từ bi mà thầy đã làm
nhiều thế cho ông, và ông đang làm gì đứng đó như thằng ngu? Ít nhất ông có thể
cúi lạy, ít nhất ông phải cám ơn chứ!"
Điều này thậm chí còn bất
ngờ hơn - rằng ai đó đánh bạn và bạn phải cám ơn. Nhưng người này đã hiểu. Anh
ta phải đã nhìn vào Lâm Tế ở khoảnh khắc đó - con người từ bi đó, đôi mắt từ bi
đó, tình yêu đó - trong một khoảnh khắc đó anh ta phải đã thấy Phật đang đứng
trước anh ta, chính hiện thân của chứng ngộ. Anh ta phải đã có thoáng nhìn, cửa
sổ phải đã được mở ra, cái gì đó phải đã nhoáng lên. Vâng, anh ta đã hiểu:
"Người này đã không đánh mình vì giận, vì hung hăng. Thầy không phải là kẻ
thù của mình, thầy là bạn của mình. Chính là từ từ bi mà thầy đã đánh
mình." Một khi thoáng nhìn này bừng lên anh ta, anh ta cúi lạy. Trong
chính việc cúi lạy đó, anh ta đã có tỏ ngộ đầu tiên.
Thiền đã mang vào trong
thế giới những kĩ thuật chứng ngộ bất thần. Và cơ sở của tất cả chúng là: giữ
người kia trong khoảnh khắc bất ngờ; làm bất kì cái gì, nhưng mang khoảnh khắc
bất ngờ tới, trong đó người có liên quan không có câu trả lời trong quá khứ,
không việc đoán nào là có thể, với điều đó quá khứ là tuyệt đối vô nghĩa. Quá
khứ không thể cung cấp được bất kì câu trả lời nào, kí ức là bất lực - đó là
nghĩa khi tôi nói 'điều bất ngờ' - khi bạn không thể tìm ra trong kí ức của bạn
cái gì đó mà có thể trở thành câu trả lời cho 'tại sao?'
Tại sao Đầu Tử nói điều
này? Bạn đã hỏi: "Phật là gì?" Câu hỏi có ý nghĩa thế, một trong những
câu hỏi có ý nghĩa nhất. Anh ta đã hỏi tất cả ba câu hỏi có ý nghĩa mà có thể
được hỏi. Thứ nhất:
"Phật là gì?"
Đó là mục đích, chính mục
đích của cuộc sống: trở nên chứng ngộ, đi tới điểm tự do hoàn toàn, biết hoàn
toàn, sáng suốt, ý thức, bất tử. Anh ta đã hỏi mục đích:
"Phật là gì?"
Thứ hai, anh ta đã hỏi:
"Đạo là gì?"
Đạo ngụ ý con đường. Thứ
nhất, mục đích; thế rồi con đường tới mục đích. Và thế rồi thứ ba, anh ta hỏi:
"Thiền là
gì?"
Thiền ngụ ý phương
pháp. Phương pháp, con đường, mục đích - có vậy thôi. Ba câu hỏi này là những
câu hỏi liên quan duy nhất để được hỏi bởi người thông minh. Toàn thể tôn giáo
không là gì ngoài câu trả lời cho ba câu hỏi này: mục đích, con đường, phương
pháp.
Phương pháp mang bạn tới
con đường, con đường mang bạn tới mục đích. Phương pháp giúp giữ bạn đi trên
con đường, và con đường dẫn bạn tới mục đích. Đây là toàn thể khoa học của tôn
giáo.
Tôn giáo có thể được định
nghĩa trong ba phân loại: phương pháp luận, con đường và mục đích. Người hỏi
này đã hỏi những câu hỏi liên quan nhất mà có thể được hỏi, và ở đây các câu trả
lời tới mà tuyệt đối không liên quan.
"Phật là gì?"
Và Đầu Tử nói: "Phật!"
Ông ấy không trả lời
câu hỏi của bạn, ông ấy ném bạn trở lại bản thân bạn. Ông ấy nói rằng định
nghĩa một từ này bằng từ khác là rơi vào trong quay lui vô hạn. Cố hiểu điều
này đi.
Bạn không thể định
nghĩa cái không biết này bằng cái không biết khác... hay bạn có thể? Cái kia là
không biết chừng nấy... Chẳng hạn, nếu ông ấy nói, "Phật là chứng ngộ,"
nó chẳng giải quyết được bất kì cái gì. Người này sẽ hỏi, "Chứng ngộ là
gì?" Và ông ấy có thể định nghĩa nó bằng từ khác nào đó, nhưng không cái
gì được giải quyết. Người này sẽ hỏi, "Cái đó là gì?" Bạn có thể tiếp
tục từ A tới XYZ, chẳng cái gì được định nghĩa. Từng từ dẫn tới từ khác mà cũng
không được định nghĩa nhiều như từ thứ nhất. Đây là quay lui vô hạn.
Đó là chỗ chúng ta bị mắc
- trong quay lui vô hạn. Vì chúng ta không thể đi tới chính tận cùng của việc hỏi,
đó là lí do tại sao chúng ta không nhận biết về nó. Ai đó hỏi, "Yêu là
gì?" và bạn trả lời - không biết sự kiện rằng các thuật ngữ mà bạn dùng để
định nghĩa yêu bản thân chúng là không thể định nghĩa được. Cho nên vấn đề là
gì? Tôi hỏi bạn, "A sống ở đâu?" Bạn nói, "Ngay bên cạnh
B," và tôi bị phân vân như trước, vì tôi không biết B sống ở đâu. Cho nên
tôi hỏi bạn, "B sống ở đâu?" và bạn nói, "Ngay bên cạnh C - anh
ta là hàng xóm của C." Bạn đang trả lời tôi, nhưng tôi không biết C này sống
ở đâu! Cho nên bạn tiếp tục, nó là cái vòng luẩn quẩn. Bạn trả lời câu hỏi của
tôi bằng câu đố khác. Nó sẽ không giúp gì. Làm sao nó có thể giúp được? Tôi
không biết A, tôi không biết B, tôi không biết C. Thay vì giúp tôi bạn đang để
tôi vào trong đống lộn xộn.
Lúc ban đầu chỉ có một
câu hỏi: "A sống ở đâu?" Bây giờ có ba nghìn câu hỏi: "B sống ở
đâu? C sống ở đâu...?" Bạn đang làm tôi hoang mang, bạn đã không giúp đỡ.
Và khi Đầu Tử nói, "Phật là Phật." Ông ấy đang cố không làm hoang
mang bạn thêm nữa. Bạn đã bị hoang mang rồi. Ông ấy nói, "A là A."
Ông ấy ngụ ý cái gì? Chỉ dẫn của ông ấy là gì?
Ông ấy đang nói,
"Phật có thể được biết nhưng không thể được giải thích." Ông ấy đang
nói, "Ta không thể nói bất kì cái gì về Phật, nhưng ta có thể chỉ cho ông
cách là Phật. Phật là Phật. Khi ông đã trở thành Phật ông sẽ biết. Không có
cách khác để biết. Nếu ông không là Phật, bất kì cái gì ông biết sẽ không phải
là vấn đề - sẽ không bao giờ là vấn đề."
Cho nên việc lặp thừa
là cực kì có ý nghĩa. Nó có thể không có bất kì nghĩa nào, nhưng nó có ý nghĩa
lớn lao. Ý nghĩa này phải được thấy. Đầu Tử nói, " Phật là Phật." Ông
ấy không giúp bạn nghĩ thêm bất kì cái gì về Phật. Ông ấy đơn giản mang bạn tới
dấu chấm hết. Ông ấy nói, "Dừng! Không đi vào lời vì lời này dẫn tới lời
khác, và thế thì không có kết thúc cho nó." Lời giống như người Ấn Độ - họ
không tin vào kiểm soát sinh đẻ. Lời này liên tục cho sinh ra lời khác và lời
khác và lời khác, nó tiếp diễn mãi. Và bạn sẽ sớm trong đống lộn xộn, trong đám
đông những lời, tới mức bạn sẽ quên câu hỏi nguyên thuỷ của bạn là gì.
Bertrand Russell đã viết
trong tự tiểu sử của ông ấy: "Khi tôi còn trẻ và tôi vào đại học để học
triết học, tôi đã đi với ý tưởng rằng tôi sẽ nhận được ít nhất vài câu trả lời
cho câu hỏi cơ bản về cuộc sống." Ở tuổi chín mươi ông ấy nhớ rằng ông ấy
đã ở trong đại học, không chỉ như sinh viên mà như giáo sư và như triết gia lớn
- ông ấy đã là một trong những triết gia nổi tiếng nhất thế kỉ này - và chung
cuộc ông ấy nói:
"Duy nhất một điều
tôi có thể nói về triết học và đó là: nó không bao giờ trả lời một câu hỏi. Nó
đơn giản tạo ra những câu hỏi mới thay vì câu hỏi cũ - phức tạp hơn nhiều, bí ẩn
hơn nhiều."
Khi một người đi tới
triết học, người đó tới với những câu hỏi rất hồn nhiên. Triết học không trả lời.
Triết học đơn giản làm cho người đó tinh ranh hơn trong việc trả lời các câu hỏi.
Người đó trở nên nói giỏi hơn. Người đó hỏi theo cách logic hơn, có vậy thôi.
Triết học đã không giải
một câu hỏi riêng nào suốt nhiều thời đại. Đó là điều Đầu Tử ngụ ý khi ông ấy
nói: "Phật là Phật. Đừng đi vào trong triết lí!" - đó là điều ông ấy
đang nói. "Nếu ta trả lời ông rằng Phật là cái này hay cái kia, cuộc hành
trình bắt đầu - cuộc hành trình không đi tới kết thúc. Ông sẽ trở thành triết
gia lớn. Cho nên tốt hơn cả ông dừng ở bước thứ nhất! Đừng đi vào trong nó! Cái
này dẫn tới cái khác, và thế thì không có cách nào dừng lại. Và thế thì việc
quay về nhà lại là cuộc hành trình dài. Tốt hơn cả là không đi vào cuộc hành
trình này. Dừng lại ở đây bây giờ!" Đó là điều Đầu Tử ngụ ý khi ông ấy
nói, "Phật là Phật, Đạo là Đạo, Thiền là Thiền." Ông ấy đang nói,
"Dừng việc nói ra lời đi! Bỏ trò chơi ngôn ngữ này đi!" Nhưng ông ấy
không im lặng.
Ông ấy có thể đã im lặng
và đơn giản chỉ dẫn: "Bỏ trò chơi ngôn ngữ này đi; giữ im lặng." Điều
đó chắc sẽ không là vấn đề nữa - vì bạn có thể giữ im lặng và tâm trí tiếp diễn
bên trong, huyên thuyên. Thực ra, khi bạn ngồi im lặng nó huyên thuyên còn nhiều
hơn bao giờ, vì khi bạn đang nói cho mọi người bạn ném năng lượng ra, bạn liên
tục tẩy rửa. Nhưng khi bạn không nói cho bất kì ai, tâm trí liên tục tích luỹ
năng lượng, và liên tục chuyển động bên trong điên hơn.
Chỉ bằng việc ngồi im lặng,
không cái gì sẽ xảy ra. Cây là im lặng, đá là im lặng - chúng không biết chân
lí là gì. Một loại im lặng khác được cần tới - im lặng nảy sinh từ việc hiểu cái
vô tích sự của lời và phần phủ định của lời - im lặng. Khi ngôn ngữ và im lặng
cả hai đều bị bỏ đi, nảy sinh một loại im lặng mới toàn bộ, an bình - nhưng sống
động, rung động, đập rộn ràng cùng sự sống. Im lặng có điệu vũ trong nó, im lặng
giống bài ca nhiều hơn im lặng của nghĩa địa. Im lặng có giai điệu, im lặng có
âm nhạc bầu trời trong nó. Im lặng mà nói - không trong lời, nhưng nói tất cả
cùng một điều. Im lặng mà có tính sáng tạo, cái không chỉ là thiếu vắng tiếng ồn.
Cố hiểu điều đó đi.
Bạn có thể đi tới bác
sĩ. Ông ấy có thể khám cho bạn, ông ấy có thể kiểm tra toàn diện - kiểm kĩ lưỡng,
và ông ấy có thể nói bạn không ốm; nhưng điều đó không có nghĩa rằng bạn có khoẻ.
Bạn có thể không ốm, nhưng có khoẻ là điều khác toàn bộ. Không bị ốm là có tính
tiêu cực; nó đơn giản nói bạn không bị lao, bạn không bị ung thư, bạn không có
cái này và cái nọ, huyết áp của bạn là được, tim bạn đang vận hành tốt - mọi thứ
là được. Bạn không có bất kì bệnh nào. Nhưng không có bệnh nào không phải là có
khoẻ! Khoẻ là điều khác toàn bộ. Khoẻ là hiện tượng tích cực, sự hiện diện của
cái gì đó. Khoẻ là tích cực như bệnh.
Bệnh là sự hiện diện của
lao phổi hay ung thư. Khoẻ cũng là sự hiện diện - của kinh nghiệm mới về hạnh
phúc. Bạn đầy niềm vui tới mức bạn sẵn sàng bung ra, tới mức bạn sẵn sàng nở
bung hoa. Khoẻ không chỉ là thiếu vắng bệnh; nó là cái gì đó tích cực theo quyền
riêng của nó.
Im lặng thực cũng như vậy
- nó không chỉ là việc thiếu vắng tiếng ồn. Đó là lí do tại sao Đầu Tử đã không
thể là im lặng; ông ấy phải nói cái gì đó. Nhưng ông ấy đã phải nói nó theo
cách mà việc nói trở thành việc trưng ra.
Để tôi lặp lại điều đó:
Chân lí không thể được nói ra, nhưng có thể được trưng ra. Những lời này mà Đầu
Tử dùng là vô nghĩa; những lời được Đầu Tử dùng không được dùng như lời mà như
tiếng hét! Chỉ để đánh tâm trí người khác tới chỗ dừng. Chúng trưng ra cái gì
đó. Ông ấy đang nói, "Đừng hỏi câu hỏi. Để tôn giáo là việc truy tìm của
ông, không phải là câu hỏi. Để tôn giáo là kinh nghiệm của ông, không là việc
giải thích. Nếu ông thực sự muốn biết Phật là gì, ta ở đây! Trông đấy! Phật là
Phật. Ta ở đây. Nhìn vào trong ta, và nhìn vào trong bản thân ông - ông cũng là
Phật."
Ở Ấn Độ đã từng có ba
tín ngưỡng. Một là tín ngưỡng Hindu, tín ngưỡng cổ đại nhất. Tín ngưỡng Hindu
nói Thượng đế giáng xuống - đó là nghĩa của từ avatar - Thượng đế tới từ bên
trên. Cũng như Thượng đế giáng xuống Jesus khi ông ấy được đặt tên bởi John the
Baptist ở Sông Jordan; Thượng đế giáng xuống như chim bồ câu trắng, đi vào
Jesus. Ngài tới từ bên trên - đó là nghĩa của avatar - tới từ bên trên. Đây là
một tín ngưỡng, tín ngưỡng cổ đại nhất.
Tín ngưỡng thứ hai, gần
như cổ đại - hay, có thể, vài người thậm chí nghĩ còn cổ đại hơn - đó là Jaina
giáo. Tín ngưỡng đó có cái nhìn khác toàn bộ. Tôn giáo Jaia nói Thượng đế không
giáng xuống từ bên trên, Thượng đế vươn lên từ bên dưới; nó là sự trưởng thành.
Trong Jaina giáo không có khái niệm về về avatar. Không phải là nó tới từ trời,
nó trưởng thành ra từ đất như cây - teerthankar. Con người trở thành Thượng đế
bằng việc trưởng thành, tiến hoá; đi ngày càng cao hơn và cao hơn và cao hơn. Một
ngày nào đó con người trở thành Thượng đế khi con người đã đạt tới điều tối thượng.
Trong Hindu giáo, một
ngày nào đó Thượng đế trở thành người, khi Ngài đã đạt tới cái thấp nhất.
Phật giáo là tín ngưỡng
thứ ba, và với tôi, là cao siêu hơn nhiền so với hai tín ngưỡng kia. Nó có cách
tiếp cận thứ ba. Nó nói mọi người là Phật; Thượng đế không xuống không lên. Mọi
người đều đã là Phật, chỉ việc nhận ra là được cần. Phật đã có đó rồi! Các bạn
là chư Phật! Bạn có thể đã quên mất, điều đó là được, nhưng điều đó không làm bạn
thành phi Phật. Các bạn là các Thượng đế! Bản thân bạn có thể đã quên mất bạn
là ai, điều đó là thực, nhưng bởi việc quên bạn không trở thành ai đó khác - bạn
vẫn còn là cùng người.
Cho nên trong Phật giáo
từ có ý nghĩa là: buddhanusmriti - việc nhớ lại Phật tính riêng của người ta.
Người ta không phải lên, không có chỗ trên mà đi lên. Và Phật giáo là rất khoa
học. Thực sự không có chỗ trên mà lên
- lên và xuống toàn là
các thuật ngữ tương đối - không có lên và không có xuống. Và không có xuống từ
nơi trưởng thành hướng lên. Chúng ta đã ở đó rồi! Chúng ta tồn tại ở mục đích;
chúng ta đã đạt tới rồi. Chúng ta chỉ liên tục nghĩ rằng chúng ta còn chưa đạt
tới và chúng ta phải đạt tới đâu đó. Cho nên chỉ việc nhận ra...
Do đó Thiền nhấn mạnh
vào việc thức tỉnh bạn bởi các cú choáng. Phật đang nghĩ rằng ông ấy không là
Phật - phải làm gì? Thay vì giải thích cho người đó, cho người đó triết lí lớn
và thượng đế học, tốt hơn cả là đánh đau người đó để người đó thức tỉnh! Trong
khoảnh khắc đó của thức tỉnh là tỏ ngộ.
Mọi người cảm thấy rất
phân vân vì làm sao tỏ ngộ được đạt tới nhanh thế. Nó được đạt tới nhanh thế vì
bạn đã ở trong nó rồi. Nó không phải là cái gì đó mới để được đạt tới trong thời
gian, với nỗ lực; không nỗ lực nào được cần. Dường như một người đã rơi vào giấc
ngủ và người đó đã quên mất tên mình - như tất cả các bạn đều quên trong giấc
ngủ của bạn. Thế rồi ai đó tới và kêu lên, "Ram! Anh đang làm gì ở đây? Dậy
đi - mặt trời mọc rồi!" Anh ta mở mắt ra, và anh ta lại là Ram. Và chỉ một
khoảnh khắc trước, anh ta đã ở dưới cả nghìn lẻ một giấc mơ - trôi nổi, di chuyển,
đi theo cả nghìn hướng, mơ những điều không thể được. Và đột nhiên một tiếng
kêu, "Ram! Dậy đi - mặt trời mọc rồi!" và Ram mở mắt ra.
Đích xác giống điều đó
là tỏ ngộ.
Vào thời xưa hoàng đế
nhà Đường, Đường Cao Tông, hỏi một hiền nhân, người đang thực hành Đạo trên
núi:
"Ông bao giờ cũng
sống trong núi sâu. Hạnh phúc gì có đó ở chỗ như vậy?"
Với điều này sơn nhân
đáp lại trong bài thơ "Có gì trên núi?
Trên núi nhiều mây trắng.
Nhưng đây là cái gì đó
ông phải tận hưởng bằng việc đi tới bản thân ông.
Ta không thể đem chúng
ra đây và trình chúng cho ông."
Có vài điều không thể
được trao cho bạn bởi bất kì người nào khác. Bạn phải đi tới đó. Tôi có thể nói
cho bạn về mây trắng trên Himalayas, những đỉnh nguyên sơ của Himalayas, những
hồ trong như pha lê của Himalayas, nhưng những điều đó sẽ chỉ là lời. Chúng có
thể khuấy động vài giấc mơ trong bạn, nhưng điều đó không có ý nghĩa gì. Bạn phải
đi tới những đỉnh núi đó, bạn phải ở dưới những đám mây trắng đó.
Tôi đã nghe nói về một
nhà thơ, nhà thơ lớn, đi ra bãi biển. Người yêu của ông ấy bị ốm trong bệnh viện
và ông ấy đã không ngủ cả đêm; ông ấy đã ngồi bên cạnh cô ấy. Đến sáng cô ấy
rơi vào giấc ngủ, và ông ấy đi ra bãi biển chỉ để có chút ít không khí trong
lành.
Lúc đó là buổi sáng đẹp.
Trời đã cực kì đẹp - mặt trời đang mọc, và mùi của bãi biển, và cái tươi mát của
buổi sáng, và sóng gầm thét. Và ông ấy đã trở nên xúc động tới mức ông ấy sẽ lấy
cái đẹp nào nó của buổi sáng này mang cho người yêu của ông ấy đang sắp chết
trong bệnh viện. "Cô ấy cũng sẽ hạnh phúc. Để điều này là món quà. Cô ấy sẽ
sớm ra đi. Cô ấy sắp sớm ra đi."
Ông ấy đã làm cái gì đó
ngu xuẩn, điều chỉ nhà thơ có thể làm. Ông ấy chạy về nhà, mang một cái hộp đẹp,
mở hộp trên bãi biển, đóng nó lại, khoá nó lại. Vâng, tia sáng mặt trời đã nhảy
múa trong cái hộp, và làn gió thoảng đi qua cái hộp, và cả mùi nữa, và tiếng
hót của chim cũng đã có đó trong không khí. Ông ấy đóng tất cả chúng trong hộp
và ông ấy chạy xô về bệnh viện. Ông ấy đã xúc động với chính ý tưởng rằng ông ấy
đã mang tới một mảnh của buổi sáng.
Ông ấy đánh thức người
yêu dậy, để cái hộp bên cạnh cô ấy, và chẳng có gì cả - không tia sáng mặt trời,
không hương thơm của bãi biển buổi sáng, không tiếng hót của chim, không không
khí tươi mát. Cái hộp là trống rỗng.
Mọi lời là như vậy...
trống rỗng. Từ 'Thượng đế' là trống rỗng như cái hộp đó. Từ 'Phật' là trống rỗng
như cái hộp đó. Đó là điều Đầu Tử đang nói khi ông ấy nói, "Phật là Phật."
Bãi biển là bãi biển - bạn phải đi tới đó. Núi là núi, bạn phải đi tới đó. Bạn
không thể mua được những thứ này ở chợ. Không ai khác có thể chuyển giao chúng
cho bạn. Nhiều nhất, Thầy có thể tạo ra cơn khát; nhiều nhất, các Thầy có thể tạo
ra mơ trong mắt bạn để cho bạn bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng không ai có thể
trao nó cho bạn.
Một chuyện ngụ ngôn Phật
giáo rất cổ đại - đây là từ Liên hoa kinh:
Con trai của một quí tộc
lang thang đi xa như một đứa trẻ và trở thành kẻ lông bông vô gia cư. Trong thời
gian đó anh ta quên mất rằng anh ta đã từng có gia đình, nhưng một hôm không
suy nghĩ gì anh ta tới cổng ngôi nhà của ông quí tộc bố mình. Anh ta đã không
có khái niệm mờ nhạt nhất rằng anh ta đã được sinh ra ở đó, nhưng đứng ở cổng
van xin lòng thương hại cho khổ cực của mình. Nhà quí tộc thấy anh ta từ bên
trong và nhận ra đứa con trai bị thất lạc từ lâu của mình cho dù sau ngần ấy
năm, nhưng khi ông ấy gọi anh ta vào, người ăn xin đáng thương kinh hoàng và sẽ
không vào.
Người ăn xin thậm chí cố
trốn chạy. Và nhà quí tộc - bố của anh ta rất sợ anh ta có thể bị lạc lần nữa.
"Làm sao thuyết phục được anh ta vào nhà? Làm sao thuyết phục anh ta rằng
đây là nhà của anh ta, con không cần sợ - rằng ta là bố của con?" Ông ấy
phải đã là người rất khôn ngoan.
Ông ấy sai người hầu ra
thuyết phục người ăn xin này, nói, "Chúng tôi cần một người phục vụ trong
nhà. Anh có muốn làm việc đó không?"
Người ăn xin sẵn sàng
cho việc đó. Công việc nhỏ nào đó được trao cho, anh ta được nhận lại như người
phục vụ khiêm tốn trong gia đình, và thế rồi từng chút một được cất nhắc, cho tới
khi chung cuộc anh ta lại lấy lại tên mình, khi ngôi nhà và của cải của nó và
kho báu tất cả trở thành của anh ta.
Đó là toàn thể chức
năng của Thầy - tạo ra cơn khát, ham muốn lớn, khao khát để biết chân lí, và thế
rồi để giúp bạn, từng bước một, hiểu rằng chân lí không ở đâu đó xa xăm khỏi bạn,
nó ngụ trong bạn. Nhưng bạn sẽ không sẵn sàng để nghe nó một cách trực tiếp thế.
Bạn sẽ kinh hoàng như người ăn xin này. Nếu người chủ ngôi này mà bảo thẳng anh
ta, "Anh là con ta," anh ta chắc đã trốn mất. Anh ta chắc đã nghĩ, "Có
bẫy nào đó trong điều đó." Làm sao anh ta có thể là con trai của người giầu
này? Anh ta là người ăn xin.
Thầy đã thực sự là rất
khôn ngoan. Dần dần, dần dần thầy thuyết phục. Trên đường trở thành Phật bạn phải
được thuyết phục rất, rất chậm chạp. Thầy khai tâm cho bạn, bạn trở thành
sannyasin, khất sĩ, thế này và thế nọ; thế rồi, dần dần, bạn bắt đầu có tỏ ngộ
nhỏ, thế rồi tỏ ngộ lớn hơn, thế rồi đại ngộ samadhi. Bạn liên tục được cất nhắc.
Một ngày nào đó, đột nhiên, bạn biết rằng mọi điều này đã chỉ là thủ đoạn. Điều
bạn chung cuộc trở thành, bạn bao giờ cũng đã là vậy rồi. Nhưng Thầy phải rất
thuyết phục, cám dỗ.
Thầy không cho bạn bất
kì cái gì. Không có gì để cho. Thầy đơn giản cho bạn cái gì đó mà bạn đã có rồi.
Thay vì nói rằng Thầy cho bạn cái gì đó, thực ra, thầy lấy đi nhiều thứ khỏi bạn.
Thầy lấy những thứ mà bạn không có và bạn nghĩ rằng bạn có, và thầy cho bạn những
thứ mà bạn có nhưng bạn nghĩ rằng bạn không có.
Toàn thể chức năng của
Thầy chỉ là để mang bạn về nhà - nơi bạn chưa bao giờ rời khỏi ngay chỗ đầu
tiên.
Có một câu ngạn ngữ Thiền
nổi tiếng bạn phải đã nghe thấy. Nó nói rằng trước khi chúng ta học Thiền, núi
là núi và sông là sông. Tuy nhiên khi chúng ta học Thiền, núi không còn là núi
và sông không còn là sông. Nhưng thế rồi, khi việc học Thiền của chúng ta được
hoàn thành, núi lần nữa lại là núi, và sông lần nữa lại là sông.
Khi một Thiền sư giải
thích điều này cho một trong các thiền sinh của mình, thiền sinh kêu lên,
"Dạ, nếu điều đó là đúng, thế thì chẳng có khác biệt gì giữa người thường
và người chứng ngộ. Vì trước khi tôi đi vào trong Thiền, núi là núi và sông là
sông. Thế rồi tôi học Thiền và núi không còn là núi, và sông không còn là sông.
Và thế rồi khi việc học là hoàn tất và tôi đã về nhà, sông lại là sông và núi lại
là núi."
Câu hỏi này có liên
quan.
Đệ tử này hỏi,
"Thưa Thầy, nếu điều này là vậy, thế thì không có khác biệt giữa người thường
và người chứng ngộ."
Và Thầy nói,
"Không có khác biệt."
Không có khác biệt, ngoại
trừ một điều - rằng người chứng ngộ biết rằng không có khác biệt, còn người
không chứng ngộ nghĩ có khác biệt.
Ai đó hỏi Phật,
"Chứng ngộ là gì?"
Và Phật nói, "Nó tồn
tại chỉ trong tâm trí của người chưa chứng ngộ."
Câu nói tuyệt vời! Bạn
hiếm khi bắt gặp câu nói như viên kim cương Kohinoor như vậy: "Nó tồn tại
chỉ trong tâm trí của người chưa chứng ngộ." Họ tạo ra nó. Đầu tiên họ
nghĩ họ không chứng ngộ, do đó họ tạo ra lí tưởng về chứng ngộ.
Người chứng ngộ đơn giản
đã về tới nhà, và người đó biết núi là núi và sông là sông, và chúng bao giờ
cũng là núi và chúng bao giờ cũng là sông. Không một khoảnh khắc nào bất kì cái
gì đã thay đổi; mọi thứ đã là như nó phải là vậy; mọi thứ là hoàn hảo. Không thể
có bất kì hoàn hảo nào hơn như nó vậy. Sự tồn tại là hoàn toàn hoàn hảo! Bạn là
hoàn hảo, như bạn vậy. Không có gì để được thêm vào, không có gì để được cải tiến
lên. Nhưng nói điều này cho ai đó không tạo ra mấy nghĩa.
Dần dần, dần dần Thầy
phải thuyết phục.
Một sư hỏi, "Phật
là gì?" và
Đầu Tử (Thầy) trả lời,
"Phật."
Như cái búa! Thầy đang
nói, "Đừng hỏi câu hỏi vô nghĩa. Ông là Cái đó - tat-tvam-asi: Ngươi là
cái Cái đó." Nhưng thầy thậm chí không nói điều đó, vì một khi bạn dùng
"Ngươi là Cái đó - tat-tvam-asi," triết lí bắt đầu. Thế thì anh ta bắt
đầu nghĩ "Tôi là ai?" và "Cái đó là ai?" và "Làm sao
tôi là Cái đó?" và các câu hỏi Và không có tận cùng cho nó.
Đầu Tử đơn giản dừng
toàn thể sự việc ở đây đó.
Trong Thiền họ nói Thầy
giống như chiếc kiếm. Thầy chém. Thầy chém sâu tới mức trong một nhát chém thầy
chặt bạn thành hai mảnh.
Sư hỏi: "Đạo là
gì?" Và Đầu Tử nói: "Đạo."
Và sư hỏi: "Thiền
là gì?" Và Đầu Tử nói: "Thiền."
Hoặc sư này sẽ có tỏ ngộ
nhỏ qua Đầu Tử, hoặc anh ta sẽ hoàn toàn bị thất vọng rằng "Người này
điên!" Đầu Tử đang làm gì? Đầu Tử đơn giản vọng lại! Còn cái gì khác có thể
được làm? Bạn đi lên núi và bạn hát bài ca, và núi vọng lại nó.
Ở Matheran có một chỗ,
Điểm Vọng. Có lần tôi đã tới đó cùng vài người bạn. Bạn hét lên và núi hét lại.
Ai đó bắt đầu sủa như chó và núi bắt đầu sủa. Tôi bảo người đó, "Nếu bạn định
làm cái gì đó, sao không hát bài ca hay? Sao bạn sủa? Sao gây nhiều phiền phức
thế cho núi?" Anh ta bắt đầu hát bài ca, và núi bắt đầu hát bài ca.
Sự sống là điểm vọng.
Thầy vọng lại bạn, Thầy là gương. Thầy đơn giản chỉ ra cho bạn xem bạn là ai,
có vậy thôi. Thầy đơn giản cho bạn mặt của bạn. Thầy đơn giản phản xạ, vọng lại.
Đệ tử hỏi: "Phật
là gì" Và Thầy nói: "Phật."
Bạn đi lên núi và bạn hỏi,
"Cái gì là Phật?" và bạn sẽ nghe thấy "...Phật." Bạn sẽ
không nghe thấy toàn thể câu hỏi được lặp lại. Lí do? Hai từ đầu đó sẽ bị mất,
bị chờm lên. Khi bạn nói, "Cái gì là Phật?" núi lặp lại toàn thể câu
này, "Cái gì là Phật?" nhưng sẽ có kẽ hở - kẽ hở thời gian, kẽ hở hơi
chút thời gian. Vì kẽ hở thời gian đó, khi bạn có khả năng nghe thấy - khi bạn
đã hoàn thành câu hỏi của bạn và bạn có khả năng nghe thấy - bạn sẽ không nghe
thấy toàn thể câu hỏi được lặp lại: "Cái gì là Phật?" Bạn sẽ nghe thấy
"Phật."
Điều đó rất có ý nghĩa.
Thầy phản xạ, soi gương. Thầy đơn giản hoàn trả bạn lặp đi lặp lại. Thầy không
cải tiến bạn. Thầy không cho bạn cái phải, vì mọi cái phải đều tạo ra mặc cảm.
Thầy không cho bạn bất kì lí tưởng nào, vì mọi lí tưởng tạo ra căng thẳng, phiền
não. Thầy không bao giờ nói, "Cái này là xấu và cái kia là tốt." Thầy
không bao giờ tạo ra giá trị, vì mọi giá trị tạo ra chia chẻ. Thầy không bao giờ
dạy phán xét, thầy dạy bạn sống mà không phán xét, không kết án, không nói tốt
hay xấu. Để sự sống tuôn chảy như nó vậy.
Nghe chuyện ngụ ngôn
hay này và bạn sẽ hiểu phẩm chất tựa gương của Thầy. Đây là một trong những
chuyện Thiền nổi tiếng nhất về Thiền sư lớn Bạch Ẩn khi ông ấy ở ngôi đền
Shoinji.
Một cô gái trong giáo
dân trở nên mang thai. Người bố nghiêm khắc của cô ấy ép buộc cô ấy nói ra tên
của người yêu, và đến cuối, nghĩ rằng nếu cô ấy nói vậy cô ấy có thể thoát sự
trừng phạt, cô ấy nói cho bố mình: "Đó là Thiền sư Bạch Ẩn."
Người bố không nói
thêm, nhưng khi thời điểm tới và đứa con được sinh ra, ông ta lập tức mang nó
cho thiền sư và ném nó vào thiền sư. "Dường như đây là con ông." Và
ông ta xổ ra hàng tràng sỉ nhục và khinh bỉ vào điều ô nhục của chuyện này.
Thiền sư chỉ nói:
"Ồ, thế à?" và bế đứa bé vào lòng. Sau đó, trong cả ngày nắng lẫn đêm
mưa bão ông ấy đều đi xin sữa từ các nhà hàng xóm. Bất kì chỗ nào ông ấy đi ông
ấy đều mang theo đứa bé, được bọc trong ống tay áo của bộ áo choàng rách tả
tơi.
Bây giờ ông ấy, người
đã được coi là Phật sống, đã được tôn thờ như Thích Ca, quả thực đã sa ngã. Nhiều
đệ tử, những người đã lũ lượt kéo đến ông ấy, nay quay đi chống lại ông ấy và bỏ
ông ấy. Thầy vẫn chẳng nói một lời.
Trong khi đó người mẹ
thấy cô ta không thể chịu đựng được nỗi khổ của việc tách rời khỏi đứa con của
mình, và hơn nữa, bắt đầu sợ hậu quả trong kiếp sau về điều cô ấy đã làm. Cô ấy
thú nhận tên bố của đứa bé. Bố của cô ấy, khắt khe trong quan niệm về đức hạnh,
trở nên gần điên vì sợ. Ông ta chạy xô tới Bạch Ẩn và phủ phục mình xuống, nài
nỉ cầu xin tha thứ.
Thiền sư lần này cũng lại
chỉ nói: "Ồ, thế à?" và trả lại ông ta đứa bé.
Cả hai lần cùng một điều:
"Ồ, thế à?" Lần thứ nhất người bố ném đứa trẻ vào Bạch Ẩn và nói,
"Thứ này là con ông," Bạch Ẩn không nói có hay không, ông ấy không phản
đối. Ông ấy đơn giản chấp nhận. Ông ấy nói, "Ồ, thế à?" Và sau nhiều
tháng... và bạn có thể hiểu khó khăn của ông ấy: đứa trẻ nhỏ, và thị trấn đã
quay lưng lại ông ấy. Đi xin cho bản thân ông ấy đã trở thành khó khăn, và xin
cho đứa bé thậm chí còn khó khăn hơn, và ông ấy phải chăm nom đứa bé. Nhưng
không một khoảnh khắc nào ông ấy thốt ra bất kì cái gì chống lại điều đó. Đây
là chấp nhận - như vậy tathata - đây là tính như vậy. Bất kì cái gì sự sống
mang tới đều là được, tuyệt đối được.
Và khi người bố quay lại
và giằng lấy đứa bé, và nói, "Tôi xin lỗi", và hỏi xin tha thứ:
"Điều đó đã là sai và ông không phải là bố đứa bé - có ai đó khác là bố đứa
bé, tôi xin lỗi," Bạch Ẩn nói, "Ồ, thế à?" và trả lại đứa bé.
Không một lời bình luận.
Đây là phẩm chất tựa
gương. Không cái gì là tốt, không cái gì là xấu - mọi điều là thiêng liêng. Đây
là thông điệp của Phật. Thầy phản xạ trong từng hành động của thầy.
Đó là lí do tại sao đôi
khi bạn sẽ thấy Thầy rất mâu thuẫn. Bạn sẽ thấy tôi mâu thuẫn nhiều lần. Tôi
nói điều này cho người này, và tôi nói đích xác cái đối lập cho người khác. Và
đôi khi cả hai người đã mang tới cùng vấn đề! Vấn đề có thể có vẻ là một khi nó
được phát biểu trong cùng ngôn ngữ, nhưng nó không thể là một, vì người hỏi là
khác. Họ có quá khứ khác nhau, xu hướng khác nhau, khổ khác nhau, đau khác
nhau, lo khác nhau, bố mẹ khác nhau, xã hội khác nhau, ước định khác nhau. Câu
hỏi trên bề mặt có thể có vẻ đích xác là một, nhưng nó không thể là một. Không
có hai người nào có thể hỏi cùng câu hỏi, cho nên không có hai người nào mà
cùng câu trả lời sẽ là câu trả lời đúng. Điều đó sẽ là tuỳ.
Khi bạn đứng trước
gương nó phản xạ mặt bạn. Khi bạn đi ra xa, mặt biến mất. Ai đó khác tới, gương
phản xạ mặt đó. Một khi người đó chuyển đi, mặt đó mất đi; gương lại là trống rỗng.
Bạn không nói với gương, "Mày rất rất không nhất quán. Lúc thì mày hiện ra
mặt này, lúc thì mày hiện ra mặt khác." Ảnh chụp là nhất quán hơn! Điều đó
đúng. Ảnh chụp là rất rất nhất quán, nó vẫn còn là một thứ. Nhưng ảnh chụp là
chết. Nó có năng lực rất hạn chế. Một khi được phơi ra ánh sáng, nó được kết
thúc. Gương là vô hạn. Bạn có thể liên tục phơi nó ra cho hàng triệu người, và
nó vẫn còn đó, gương hoàn hảo, và liên tục phản xạ.
Thầy thực nhất định là
không nhất quán; chỉ thầy giáo là nhất quán. Chỉ những tâm trí rất tầm thường
là nhất quán. Khi tâm trí trở thành có tính càn khôn, nó là không nhất quán như
bản thân Thượng đế, nó là nghịch lí như bản thân Thượng đế. Do đó, tôi gọi Thiền
là Con đường của Nghịch lí.
Một sư hỏi Triệu Châu,
"Phật là gì?" "Người trong Điện."
Sư nói, "Người
trong Điện là tượng, cục bùn!" Triệu Châu nói. "Cái đó là vậy."
"Thế Phật là
gì?" sư lại hỏi. "Người trong Điện."
Bây giờ điều này là kì
lạ. Ông ấy đồng ý với anh ta rằng đó chỉ là tượng, cục bùn; ông ấy nói,
"Điều đó là đúng." Và khi người này lại hỏi, "Thế thì Phật là
gì?" ông ấy nói, "Người trong Điện."
Triệu Châu ngụ ý cái gì
bởi điều này? Ông ấy ngụ ý rằng chừng nào bạn chưa bỏ việc hỏi "Phật là
gì?" bạn đang đi tìm tượng. Chừng nào bạn còn liên tục hỏi "Phật là
gì?" bạn đang hỏi cái gì đó có tính đối thể. Đó là lí do tại sao ông ấy
nói, "Cái đó ở trong điện, cái đó là Phật." Nếu bạn liên tục hỏi
"Phật là gì?" bạn muốn câu trả lời có tính đối thể - và Phật là tính
chủ thể của bạn.
Cho nên ông ấy đồng ý với
người này, "Vâng, ông đúng. Thứ ở bên trong đền không phải là Phật thực.
Nó là tượng bùn." Một cách tự nhiên người này phải đã cảm thấy hi vọng
- "Bây giờ câu trả
lời khác nào đó sẽ tới." Anh ta hỏi, "Thế thì nói cho tôi Phật là
gì?" Bây giờ anh ta đã không trông đợi rằng ông ấy sẽ nói lại cùng điều
đó. Và ông ấy đã đồng ý rằng đó chỉ là tượng, tượng bùn. Ông ấy lại nói,
"Người trong điện." Tại sao? Vì nếu bạn liên tục hỏi về đối thể, bạn
đang hỏi về cái gì đó chết.
Thực tại là tính chủ thể.
Thượng đế là tính chủ thể. Nó là cốt lõi bên trong nhất của bạn, nó là lãnh thổ
của bạn. Bạn không thể hỏi câu hỏi như điều đó. Bạn phải đi vào bên trong để biết
"Phật là gì?" Và khi bạn bắt đầu đi vào bên trong bạn đang đi trên Đạo.
Và khi bạn bắt đầu đi trên Đạo, bạn bắt đầu dùng dhyan, thiền, Zen. Thiền là
phương pháp để đi vào trong; Đạo là con đường dẫn bạn tới cốt lõi bên trong nhất;
và cốt lõi bên trong nhất là Phật. Bạn là Phật.
Cho nên điều đầu tiên
là chấp nhận sự sống như nó vậy. Chấp nhận nó, ham muốn biến mất; chấp nhận nó
như nó vậy, căng thẳng biến mất, bất mãn biến mất; chấp nhận nó như nó vậy, người
ta bắt đầu cảm thấy rất vui mừng và chẳng vì lí do nào chút nào. Khi niềm vui
có lí do, nó sẽ không kéo dài lâu. Khi niềm vui không có lí do nào, nó sẽ có đó
mãi mãi.
Có hai cách con người
có thể hiện hữu. Con người có thể hoặc đi tới việc có nhiều đồ vật hơn - thế
thì người đó đi ngược lại Phật, ngược lại Đạo, ngược lại Thiền. Người quá quan
tâm tới việc có nhiều hơn là người trần tục. Và người nói bất kì cái gì hiện hữu
đều là tốt là người thảnh thơi; người không lo nghĩ về việc có nhiều tiền, nhiều
quyền, nhiều danh, nhiều kính trọng; người thảnh thơi trong tathata, như vậy,
đây này - người đó trở thành người tôn giáo. Người đó bắt đầu đi vào trong.
Nếu bạn đang nghĩ có
nhiều hơn, bạn sẽ đi ra ngoài. Khi bạn quan tâm tới việc có, bạn sẽ đi ra
ngoài; khi bạn không còn quan tâm tới việc có, bạn sẽ đi vào trong hiện hữu. Và
hiện hữu là Phật.
Chuyện xảy ra về một nữ
Thiền sư rất nổi tiếng, tên bà ấy là Rengetsu... Rất ít đàn bà đã đạt tới tối
thượng Thiền. Người này là một trong những người đàn bà hiếm hoi đó.
Bà ấy đang trên đường
hành hương, và bà ấy đi tới một làng vào lúc mặt trời lặn và xin chỗ ở qua đêm,
nhưng dân làng đóng sầm cửa lại. Họ rất chống lại Thiền. Thiền là cách mạng, nổi
dậy hoàn toàn tới mức rất khó chấp nhận nó. Bằng việc chấp nhận nó bạn sẽ được
biến đổi; bằng việc chấp nhận nó bạn sẽ trải qua lửa, bạn sẽ không bao giờ còn
là cùng người cũ nữa.
Cho nên người truyền thống
bao giờ cũng chống lại mọi điều là thực trong tôn giáo. Truyền thống là mọi điều
mà là không thực trong tôn giáo. Cho nên những người đó phải đã là những Phật tử
truyền thống trong thị trấn, và họ đã không cho phép người đàn bà này ở lại
trong thị trấn; họ tống bà ấy ra ngoài. Lúc đó là đêm lạnh, và người đàn bà già
không có chỗ trú ngụ... và đói. Bà ấy phải lấy cây anh đào trên cánh đồng thành
chỗ trú ngụ. Trời thực sự lạnh, và bà ấy không thể ngủ ngon được. Và nó còn
nguy hiểm nữa - thú hoang và mọi điều.
Vào nửa đêm bà ấy thức
dậy - vì trời quá lạnh - và thấy, dường như nó là vậy, trong bầu trời đêm mùa
xuân, hoa anh đào nở bung cười với trăng mờ. Chiến thắng với cái đẹp này, bà ấy
đứng dậy và bầy tỏ sự kính trọng theo hướng của làng này...
Đây là điều tathata là
gì.
Chiến thắng với cái đẹp
này, bà ấy đứng dậy và bầy tỏ sự kính trọng theo hướng của làng này:
Qua lòng tốt của họ
trong việc từ chối cho tôi chỗ trú ngụ tôi đã tìm thấy bản thân mình ở dưới việc
nở hoa ban đêm của trăng mờ này.
Bà ấy cảm thấy biết ơn.
Với lòng biết ơn lớn lao bà ấy cám ơn những người đã từ chối cho bà ấy trú ngụ,
bằng không bà ấy chắc đã ngủ dưới mái nhà bình thường, và bà ấy chắc đã bỏ lỡ
phúc lành này - những hoa anh đào này nở bung, và việc thì thào này cùng trăng
mờ, và im lặng này của đêm, im lặng hoàn toàn này của đêm. Bà ấy không giận, bà
ấy chấp nhận điều đó. Không chỉ chấp nhận điều đó, đón chào điều đó - bà ấy cảm
thấy biết ơn.
Một người trở thành Phật
vào khoảnh khắc người đó chấp nhận mọi điều sự sống mang tới với lòng biết ơn.
Người đó đang trên Đường, người đó đang trên Đạo; và người đó đang trở nên có
tính thiền.
Tâm trí là kĩ thuật để
đi ra. Đó là lí do tại sao bạn được huấn luyện trong các đại học và cao đẳng và
trường học về tâm trí. Tâm trí là kĩ thuật để đi ra, để có nhiều thứ hơn - để
có nhà to hơn, có nhiều của cải hơn, có quyền lực chính trị, có tiền. Tâm trí
là con đường đi ra và chinh phục thế giới.
Thiền chính là quá
trình đảo ngược. Nó không là gì ngoài vô trí. Đó là điều Thiền là gì. Bạn đi
vào, bạn dừng suy nghĩ, vì vấn đề là gì? Không có nhu cầu suy nghĩ. Để chinh phục
cái bên trong, việc suy nghĩ là không được cần tới. Để chinh phục cái bên
ngoài, việc suy nghĩ được cần. Suy nghĩ là công cụ cho cái bên ngoài.
Cho nên Thiền, hay
dhyan, hay zen, không là gì ngoài tâm thức vô suy nghĩ. Không có nhu cầu! Nếu
không có ham muốn, ai bận tâm nghĩ? Nghĩ để làm gì? Bạn quan sát. Bất kì khi
nào bạn quá đầy ham muốn bạn nghĩ quá nhiều. Khi không có mấy ham muốn, suy
nghĩ biến mất theo cách riêng của nó. Mọi người hỏi tôi làm sao không nghĩ? Điều
đó không phải là vấn đề. Làm sao không ham muốn mới là vấn đề.
Ham muốn tạo ra suy
nghĩ, ham muốn mang tới ý tưởng, mơ mộng, và thế thì bạn phải xoay xở, và bạn
phải lập kế hoạch, và bạn phải làm việc thực hiện chúng, và bạn phải đi một
cách có phương pháp - thế thì suy nghĩ tới.
Chỉ tạo ra một ham muốn.
Một chiếc xe đi qua, và để có ham muốn trong bạn rằng "Mình muốn có chiếc
xe này." Và thế thì bạn sẽ thấy nhiều ý nghĩ tới: "Làm sao sở hữu nó?
Làm sao xoay được tiền? Phải làm gì? - làm kinh doanh sao? hay ăn cắp, hay cái
gì? Hay đi con đường Mĩ: cứ lấy nó rồi trả góp?" Thế thì người ta cần các
ý nghĩ, vì không suy nghĩ bạn sẽ không bao giờ có chiếc xe này.
Quan sát, bất kì khi
nào ham muốn nảy sinh, nó mang trong nó việc đánh thức nhiều ý nghĩ. Khi không
có ham muốn, đột nhiên, phỏng có ích gì mà nghĩ? Không có nhu cầu. Việc vẩn vơ
biến mất, tâm trí khuấy động không còn bị khuấy động.
Thế rồi, tâm trí có loại
chức năng khác; thế thì nó trở thành việc lặp lại đơn giản. Con chim bắt đầu
hót - bạn nghe thấy, nhưng bạn thậm chí không nói rằng điều này là đẹp. Không
có vấn đề gì trong việc nói nó. Nó là đẹp! Phỏng có ích gì mà nó nói? Thế rồi
chiếc máy bay bay qua và tiếng động, và bạn biết điều đó, và bạn nghe thấy nó -
và bạn nghe nó nhiều hơn bất kì người nào khác, vì người khác bị mê mải nhiều
thế trong ý nghĩ của họ. Máy bay bay qua, họ không thể nghe thấy. Tai họ bị nút
lại bởi ý nghĩ của họ; tâm trí của họ bị nút lại bằng ý nghĩ của họ. Mạch ý
nghĩ là quá nhiều, nó làm cho họ không nhạy cảm.
Nhưng khi một người
không có ý nghĩ, người đó hoàn toàn nhạy cảm. Người đó thấy cái đẹp, người đó
nhìn quanh, người đó nghe nhiều hơn, người đó ngửi nhiều hơn, người đó chạm nhiều
hơn, người đó yêu nhiều hơn. Mọi thứ là nhiều hơn! Nhìn vào nghịch lí này: khi
bạn muốn nhiều hơn, mọi thứ bao giờ cũng ít hơn, bao giờ cũng ít hơn bạn muốn.
Khi bạn không muốn bất kì cái gì, mọi thứ là quá nhiều! Quá nhiều không thể chịu
nổi! Một thứ nhỏ bé trở thành nhiều thế. Và bạn tận hưởng những thứ bình thường
thế - chẻ củi mang nước từ giếng, cầm tay người bạn, hay chỉ ngắm cây anh đào nở
hoa, tiếng thì thầm từ trăng mờ.
Sự sống là mênh mông,
và từng khoảnh khắc nó tới với cả nghìn lẻ một món quà cho bạn. Nhưng bạn bị mê
mải bận rộn nhiều thế với tâm trí ham muốn của bạn. Bạn đầy các ý nghĩ, bạn từ
chối tất cả những món quà đó. Thượng đế tới: bạn liên tục từ chối.
Đi vào trong ngụ ý hiểu
các cách thức của ham muốn. Khi bạn đã hiểu rằng ham muốn tạo ra rối loạn, bạn
dừng việc ham muốn. Khi ham muốn không có đó, suy nghĩ biến mất. Đây là Thiền.
Khi bạn ở trong Thiền bạn
đã bắt đầu đi trên đường - Con đường, Đạo. Và khi bạn ở trên đường, Phật tính
không còn xa xôi. Đôi khi nó có thể xảy ra trong một khoảnh khắc, vì điều đó tuỳ
vào sự mãnh liệt của bạn. Vấn đề của nó không phải là mười dặm, hay hai mươi dặm,
hay hai mươi nghìn dặm. Điều đó tuỳ vào sự mãnh liệt của bạn.
Những người có việc hiểu
mãnh liệt có thể đạt tới Phật tính trong riêng một bước. Chỉ chớp mắt. Điều đó
là tuỳ sự mãnh liệt của bạn toàn bộ thế nào, bạn khao khát thế nào, bạn sẵn
sàng mạo hiểm tất cả thế nào. Nếu bạn có thể mạo hiểm tất cả, thế thì trong một
khoảnh khắc... động thái thay đổi. Bạn không còn là người thường, bạn là Phật.
Nhưng nếu sự mãnh liệt
không là toàn bộ - chỉ bộ phận, chỉ hờ hững - thế thì bạn có thể mất nhiều thời
đại. Hàng nghìn kiếp sống bạn có thể đi mãi và đi mãi và Phật tính vẫn còn xa
xôi. Cho nên nhớ điều đó: nó tuỳ vào sự mãnh liệt mà con đường sẽ dài bao lâu.
Zen là thiền, Đạo là Đường,
và Phật tính là bản tính tối thượng của bạn. Nếu bạn có thể đi một cách toàn bộ
vào trong thiền, thế thì chính khoảnh khắc này - biến đổi.
Nghe lại trao đổi nhỏ này
lần nữa. Bây giờ bạn sẽ có khả năng đi vào trong nó sâu hơn.
Một sư hỏi, "Phật
là gì?"
Đầu Tử (Thầy) trả lời,
"Phật." Sư: "Đạo là gì?"
Đầu Tử: "Đạo."
Sư: "Thiền là gì?" Đầu Tử: "Thiền."
Thầy đơn giản phản xạ,
soi gương, ném đệ tử trở lại bản thân anh ta lặp đi lặp lại. Nếu đệ tử đã thực
sự là người tìm kiếm, không chỉ tò mò, anh ta chắc đã đạt tới.
Nhìn vào mắt Thầy là đủ.
Nghe tiếng vọng tới từ tim thầy là đủ. Ở trong tiếp xúc với lửa đó mà Phật tính
mang tới cho một người là đủ. Tới gần người đã đạt tới là đủ. Người đó giống
như ngọn lửa. Khi bạn tới gần, một khoảnh khắc của gần gũi tới... ngọn lửa nhảy
vào trong bạn và trở thành ngọn lửa của bạn. Thầy không mất bất kì cái gì, và bạn
thu được tất cả.
Điều đó giống như khi bạn
mang chiếc nến, chiếc nến chưa cháy, tới chiếc nến đã cháy. Quan sát điều xảy
ra. Đích xác điều đó xảy ra khi đệ tử tới với Thầy. Chỉ sự gần gũi, thân thiết.
Toàn thể nghệ thuật của tính đệ tử là về việc là thân thiết, tới gần hơn, bỏ
phòng thủ của bạn, bỏ áo giáp, bỏ ý chí và bản ngã của bạn, và tới ngày càng gần
hơn, gần hơn, gần hơn. Và đột nhiên... một khoảnh khắc bạn đã không sáng, khoảnh
khắc khác bạn được thắp sáng. Và nó bất thần thế, nó không phải là thứ dần dần.
Không phải là đầu tiên bạn được sáng lên một chút ít, thế rồi sáng thêm chút
ít, không. Nó bất thần thế. Đột nhiên, như bước nhảy lượng tử, bạn không còn là
người cũ... cái mới đã tới, tuyệt đối gián đoạn với cái cũ. Thực ra, không cái
gì nhiều hơn được cần.
Nếu bạn có thể tìm ra
Thầy, người bạn có thể yêu, nếu bạn có thể tìm ra Thầy, người bạn có thể cảm thấy
thân thiết, với người đó bạn có thể vô phòng thủ, với người đó bạn có thể mong
manh, với người đó bạn không có bất kì bí mật nào, bạn không muốn có bất kì bí
mật nào, với người đó bạn sẵn sàng chết, với người đó bạn sẵn sàng đi tới bất
kì chỗ nào người đó đi - bạn không quan tâm, bất kì chỗ nào người đó đi đều là
mục đích của bạn - nếu tin cậy đó có đó, điều đó là đủ. Mọi sự sẽ bắt đầu xảy
ra theo cách riêng của chúng, vì các bạn đã là chư Phật rồi; chỉ việc nhận ra
là được cần. Nếu bạn tới gần Thầy và tim thầy phản xạ bạn, bạn sẽ thấy rằng mặt
bạn là mặt của Phật, rằng trạng thái vô trí của bạn là Thiền, và rằng khi bạn
đang đi vào bên trong bạn là trong Đạo.
Và không có cách khác để
giải thích Phật là gì, Đạo là gì, Thiền là gì.
Vâng, nó không thể được
nói qua lời - lời là không thích hợp; nó không thể được nói qua im lặng - im lặng
là rất phủ định. Thiền chọn con đường giữa. Nó dùng lời theo cách chúng tạo ra
im lặng. Nó là phương cách lớn. Nghệ thuật lớn được cần để dùng lời theo cách
mà chúng tạo ra im lặng, theo cách mà tác động tối thượng mang tới im lặng,
không nhiều lời.
Đó là điều tôi liên tục
làm mọi sáng với bạn. Tôi liên tục ném ra cả nghìn lẻ một lời vào bạn. Nhưng nỗ
lực này không để cho bạn lời, nỗ lực này là chính điều ngược lại. Nỗ lực này là
để đập tan lời mà đã có đó trong tâm trí bạn. Tôi ném lời để đập tan lời của bạn.
Một khi chúng đã phủ định lẫn nhau, cả hai chúng sẽ sụp đổ - và sẽ có im lặng,
một loại im lặng mới toàn bộ bạn chưa bao giờ biết tới. Nó không phải là kẽ hở
giữa hai lời, không. Nó là sự hiện diện của Thượng đế, nó là Phật tính.
Xem tiếp Chương 6 – Quay về Mục Lục Tập 3 – Quay về Mục Lục Toàn Tập