Bản kinh cuối cùng (Tập 6) - Osho - Chương 3

Bản kinh cuối cùng (Tập 6) - Osho - Chương 3

Price:

Read more

THIENOSHO - Bản kinh cuối cùng - Tập 6
(Phỏng vấn với giới báo chí)
Chương 3

Tâm trí là cái hộp huyên thuyên. Bạn không thể dừng nó được. Chính nỗ lực để dừng nó lại cho nó thêm chất nuôi dưỡng để tiếp tục.
Hàng triệu người, trong nhiều thế kỉ đã từng cố gắng để dừng nó lại, và họ tất cả đều đã thất bại, bởi lí do đơn giản rằng ham muốn dừng nó cũng là một phần của nó. Điều đó không vượt ra ngoài nó.
Một mặt của tâm trí đang ham muốn, mặt kia của tâm trí trở thành im lặng. Điều này là không thể được. Cách duy nhất mà vài người đã có thể dừng nó lại mà không làm nỗ lực gì để dừng nó, là những người đã không đồng nhất bản thân họ với tâm trí. Thậm chí không có đến một ham muốn để dừng nó hay tiếp tục nó, bởi vì mọi ham muốn đều thuộc vào nó.
Người ta đơn giản quan sát nó. Để nó huyên thuyên. Bạn đơn giản trở thành người quan sát. Để cho lưu thông của các ý nghĩ chuyển động. Chẳng có gì phải lo nghĩ. Điều đó sẽ không hại ai. Những ý nghĩ này chỉ là bong bóng xà phòng. Đừng coi chúng là nghiêm chỉnh. Đừng trở nên căng thẳng trong khi quan sát chúng. Cứ thảnh thơi. Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện để hiểu nó.
Phật Gautam một hôm nói, trong khi họ đi ngang qua một vùng núi non - lúc đó là giữa trưa, mặt trời nóng và ông ấy đã già rồi - ông ấy nói với đệ tử của mình, Ananda, rằng "Ta rất khát. Ông nên quay lại. Bởi vì trong khi chúng ta ở đây chúng ta đã đi qua một dòng suối nhỏ nước từ trên núi, vài chiếc xe trâu đã đi qua dòng suối, làm cho nó ngầu bùn. Lá khô, mà có thể đã lắng trong lòng suối, đang nổi lên trên mặt nước. Nước này không đáng uống." Và đặc biệt đối với Phật Gautam, ông ấy không thể uống nước đó.
Ông ấy biết rằng, nếu ông ấy đi nữa, từ nơi ông ấy để Phật Gautam ở lại, thì năm dặm phía trước chỗ đó là một con sông lớn và ông ấy có thể tìm thấy nước trong vắt tốt. Ông ấy quay lại với bàn tay trống rỗng.
Phật rất nghiêm khắc. Ông ấy nói, "Ông quay lại và đem nước đó lại, bởi vì ta nhớ khi chúng ta đi qua, nó thuần khiết và trong vắt thế." Nhưng Ananda nói, "Thầy nên hiểu tôi. Đồng thời lúc đó vài chiếc xe trâu đã đi qua." Phật nói, "Ta hiểu, nhưng ông cứ ngồi bên bờ suối đi - lâu bao nhiêu cũng được. Ông cứ tới và ngồi ở đó. Đừng bước vào dòng suối, bởi vì việc ông bước vào dòng suối sẽ làm cho nó ngầu bùn trở lại. Ông đơn giản đợi, quan sát, không làm gì cả. Tất cả các lá khô đó sẽ bị cuốn đi. Bùn sẽ lắng xuống. Thế rồi ông múc đầy nước vào bình bát và quay lại."
Ananda muốn đi lên trước hướng tới dòng sông, nhưng ông ấy không thể không vâng theo Phật Gautam được. Miễn cưỡng, ông ấy quay lại - nhưng ông ấy rất ngạc nhiên. Vào lúc ông ấy tới đó, phép mầu đã xảy ra. Lá khô đã bị dòng suối cuốn đi, và bùn đã lắng đọng. Và nước lại sạch và thuần khiết như nó có thể.
Đem bình nước về, ông ấy cố gắng hình dung ra tại sao Phật Gautam cứ khăng khăng thế, bởi vì ông ấy chưa bao giờ làm cái gì mà không có chủ định đằng sau nó, nghĩa nào đó đằng sau nó. Và thế rồi ông ấy hiểu ra trên đường, rằng đấy là thông điệp cho ông ấy, rằng "Ananda, đừng bước vào dòng sông, vào dòng suối của tâm trí. Đó là điều ông đã làm cả đời mình. Cứ đợi trên bờ, và đơn giản quan sát."
Đấy là một trong những bí mật của cuộc sống nội tâm, rằng khi người quan sát của bạn trở nên ngày một mạnh hơn, ý nghĩ trở nên ngày một ít đi. Nó đích xác theo tỉ lệ. Khi có một trăm phần trăm ý nghĩ trong tâm trí, bạn có số không người quan sát. Khi bạn có mười phần trăm ý thức tham dự vào quan sát, mười phần trăm ý nghĩ của bạn sẽ biến mất - bởi vì chính cùng năng lượng tạo nên ý nghĩ, cái đó tạo nên người quan sát.
Khi bạn một trăm phần trăm là người quan sát, nhân chứng thuần khiết, tấm gương, mọi ý nghĩ biến mất. Bạn không thể dừng chúng lại được, nhưng bạn có thể xoay xở một tình huống, một phương cách mà theo đó chúng sẽ bị dừng lại. Chúng đơn giản biến mất.
Và biết trạng thái như vậy, khi bạn nhận biết và tỉnh táo, tràn đầy ý thức và quan sát và không có ý nghĩ nào ở đó, toàn thể tâm thức bạn, lần đầu tiên trong cuộc sống của bạn, tự nó quay trở lại. Trở nên nhận biết về sự nhận biết đi. Bạn trở nên ý thức về tâm thức.
Trong im lặng, khi tâm trí huyên thuyên không còn đó nữa, người ta nhận ra bản thân mình. Chừng nào tâm trí còn chưa im lặng, bạn không thể nhận ra bản thân mình được. Bạn sẽ vẫn còn tham dự với các ý nghĩ và những ý nghĩ đó hầu hết là vô nghĩa - kí ức, những mẩu mảnh kí ức, tưởng tượng, mơ mộng, mơ ngày, mọi thứ trộn lẫn. Nó là hỗn độn. Cho dù đôi khi bạn thấy vài ý nghĩ hay đang di chuyển, tất cả chúng đều là vay mượn. Bạn đã nghe nói về chúng, bạn đã đọc chúng, nhưng chúng không phải là của bạn. Và cái mà không phải là của bạn là không thật.
Điều này phải được ghi nhớ. Mọi thứ vay mượn đều không thật. Chỉ nhận biết riêng của bạn mới có thể cho bạn chân lí đích thực. Bạn có thể trích dẫn toàn bộ Kinh Thánh hay kinh Koran hay Dhammapada - chẳng thành vấn đề. Bạn đơn giản là con vẹt, và đôi khi thậm chí còn tệ hơn con vẹt.
Tôi đã nghe nói về một giám mục có con vẹt nuôi bị chết, và ông ấy thì cảm thấy nhớ nó lắm. Nó là một con vẹt tôn giáo thế. Nó hay nhắc lại cả bài thuyết giảng trên núi. Và đấy là niềm vui lớn cho bất kì ai tới và nghe con vẹt nói, cho nên ông ấy tới hiệu vật nuôi lớn nhất và muốn có một con vẹt tôn giáo, một con vẹt tâm linh nào đó. Ông chủ hiệu nói, "Ông nói cái gì vậy? Vẹt và tâm linh sao?"
Ông ấy nói, "Vâng. Tôi có một con, và với nỗ lực lớn làm cho nó học cả bài thuyết giảng trên núi, và nó hay nhắc lại bài này hoàn hảo." Ông chủ hiệu nói, "Bây giờ tôi hiểu điều ông ngụ ý về tâm linh. Ông ngụ ý con vẹt có thể nhắc lại kinh sách. Tôi có cái gì đó cho ông mà ông sẽ thích đây."
Ông này đưa ông giám mục vào trong hiệu. Ông ta nói. "Nó là một con vẹt rất đặc biệt và tôi giữ nó riêng cho mình - nhưng ông lại đang cần ghê gớm và ông nhớ hoài con vẹt đã chết của ông, nên tôi lấy làm sung sướng đem nó cho ông.
Nhưng trước khi ông đem nó đi, để tôi giới thiệu cho ông về phẩm chất của nó. Cứ quan sát và ông sẽ thấy một sợi chỉ treo bên chân phải nó, sợi chỉ khác treo bên chân trái nó. Những sợi chỉ này rất mỏng. Không ai có thể thấy được chúng trừ phi người ta lại thật gần. Ông chỉ cần kéo sợi chỉ bên phải là nó sẽ nhắc lại bài thuyết giảng trên núi."
"Nhưng đôi khi ông có thể có khách thăm, mà lại không phải là người Ki tô giáo. Thế thì ông phải kéo chân trái. Thế thì nó sẽ nhắc lại phần hay, trong tiếng Phạn chính cống, về Srimad Bhagavat Gita."
Ông giám mục mê mẩn khi tìm ra con vẹt như vậy. Ông ta hỏi ông chủ hiệu, "Và nếu tôi kéo cả hai sơi chỉ cùng lúc thì sao?" Trước khi ông chủ tiệm kịp nói điều gì thì con vẹt đã nói "Đồ ngốc. Tôi sẽ thành trò cười cho thiên hạ. Đừng có bao giờ làm điều đó!"
Ngay cả vẹt cũng còn thông minh hơn ông giám mục của bạn, bác học của bạn, giáo sĩ của bạn. Ngay cả vẹt cũng nói, "Điều này tuyệt đối ngu xuẩn."
Nhưng trong hàng thế kỉ mọi người đã dùng tâm trí họ gần như con vẹt, và cứ tưởng rằng họ là tâm linh, rằng họ là tôn giáo. Bây giờ tất cả những điều đó có thể được máy tính làm còn hoàn hảo hơn, nhưng máy tính không tôn giáo, không tâm linh. Bạn cũng vậy, nếu chỉ bằng việc lặp lại các lời từ kinh sách. Đừng là cái máy hát lặp lại lời của Thầy mình!
Đấy là hạ thấp nhân loại. Và cũng tốt cho công ty làm máy ghi âm, là họ đã chọn một con chó làm biểu tượng của mình! Lời của Thầy mình. Nhưng hàng triệu người đang làm gì trên thế giới, rồi lặp lại Lời của Thầy? Các thầy của họ có thể khác nhau, nhưng chức năng của con chó thì là một.
Tâm trí có thể dừng lại, nhưng không phải bằng nỗ lực của bạn mà bằng việc chứng kiến vô nỗ lực của bạn. Đó là toàn thể ý nghĩa của thiền. Thảnh thơi. Không gò ép, và chỉ quan sát. Để tâm trí làm việc của nó.
Điều đó sẽ cần chút ít kiên nhẫn, nhưng điều đó bao giờ cũng xảy ra. Điều đó gần như một định luật khoa học, không ngoại lệ nào, rằng nếu bạn có thể xoay xở kiên nhẫn chút ít bạn sẽ đi tới điểm nơi người quan sát được nuôi dưỡng và tâm trí trở nên không được nuôi dưỡng, và ý nghĩ bắt đầu biến đi. Khi toàn bộ năng lượng của tâm thức của bạn đi vào trong quan sát, thì bạn sẽ thấy không có tâm trí chút nào. Và biết tới trạng thái vô trí là kinh nghiệm vĩ đại nhất trong cuộc sống mà con người có khả năng làm. Nó là cực lạc. Nó là siêu tâm thức. Nó là tự hiểu ra. Không cái gì cao hơn điều đó.
Câu hỏi: Bhairava, cái ta của tôi, Osho ơi, Thầy đang ở đây với mọi người. Thầy đang ở đây với mọi ngày. Sao tôi có thể nghĩ giống thế này? Sao tôi có thể tin cậy vào Thầy như thế này? Sao tôi có thể yêu thầy như thế này?
Điều đó rất đơn giản. Bạn có thể yêu tôi, bởi vì tôi không phải là nhà tiên tri. Tôi không phải là đấng cứu thế. Tôi không phải là người cứu rỗi. Tôi không phải là hoá thân của thượng đế. Bạn có thể tôn thờ những người đó. Bạn không thể yêu họ được. Và tôn thờ không phải là yêu.
Tình yêu cần rằng bạn hiểu một điều rõ ràng, rằng tôi ở trong bạn, rằng tôi không cao siêu, rằng bạn không kém cỏi.
Trong hàng nghìn năm, các nhà tiên tri và các đấng cứu thế và các người cứu rỗi đã từng bảo bạn họ là cao siêu, bạn là kém cỏi. Họ là thánh nhân, bạn là tội nhân - và khoảng cách lớn thế, yêu là không thể được. Và để chứng tỏ rằng họ là đặc biệt, đủ mọi loại bịa đặt, phẩm chất tưởng tượng đã được gắn cho những con người đó, hoặc bởi chính họ hoặc bởi tín đồ của họ.
Chẳng hạn, bạn không thể yêu được Mahavira, nhà tiên tri lớn lao nhất của Jaina giáo - bởi lẽ đơn giản vì ông ấy ở quá xa xôi. Bạn thậm chí không thể chạm được tới chân ông ấy. Chúng ở ngoài tầm với của bạn. Mahavira không vã mồ hôi. Điều này tuyệt đối ngu xuẩn, bởi vì nó là phi tự nhiên. Vã mồ hôi là tuyệt đối cần cho thân thể bạn như nước được cần tới, như thức ăn được cần tới, như không khí được cần tới. Và nếu Mahavira không vã mồ hôi, khả năng duy nhất là ở chỗ ông ấy có thân thể bằng nhựa.
Nhưng tại sao có nhấn mạnh này vào điều vô nghĩa? Bởi vì vã mồ hôi là hệ thống phòng thủ sinh lí của bạn. Nó giữ cho nhiệt độ của bạn đích xác một mức. Nhiệt độ bên ngoài có thể cứ thay đổi, nhưng nhiệt độ bên trong của bạn phải duy trì một mức để giữ cho bạn mạnh khoẻ.
Khoảng sống của bạn khi có liên quan tới nhiệt độ là không lớn lắm đâu: giữa chín mươi tám độ và một trăm mười độ F. Chỉ mười hai độ là khoảng sống của cuộc đời bạn. Nếu nó tụt xuống thấp hơn chín mươi tám, có nguy hiểm. Nếu nó lên cao quá một trăm mười, có nguy hiểm. Nhiệt độ của bạn phải được duy trì thường xuyên như nhau. Vã mồ hôi là phép mầu. Khi trời quá nóng, bạn vã mồ hôi. Đấy là nỗ lực của thân thể để dàn xếp với mặt trời, rằng mặt trời sẽ được tham gia vào việc làm bay hơi mồ hôi, và nhiệt của mặt trời sẽ không đi vào bên trong bạn. Nó sẽ bị ngăn cản bởi việc vã mồ hôi.
Bạn không vã mồ hôi khi trời lạnh. Khi trời lạnh, bạn run. Điều đó giữ cho thân thể bạn ấm. Run giữ cho thân thể bạn ấm. Nhiệt độ của bạn không thể hạ thấp xuống.
Thậm chí bạn có thể bắt đầu va răng lập cập. Điều đó nữa cũng là nỗ lực để giữ cho thân thể bạn ấm, cho nên nhiệt độ của bạn vẫn còn như cũ và cái lạnh bị ngăn ở bên ngoài.
Điều hoàn toàn y học, khoa học là không thể nào có chuyện Mahavira không bao giờ vã mồ hôi. Nhưng đấy không phải là điều đặc biệt duy nhất về ông ấy. Các đệ tử của ông ấy trong hai mươi nhăm thế kỉ cứ lặp lại là ông ấy không đi tiểu. Ông ấy không đi ngoài. Tôi có thể hiểu việc có vẻ có chút ít kì quặc khi thấy Mahavira ngồi trên bệ xí, hay Krishna hay Rama hay Jesus Christ. Điều đó dường như không tự nhiên, gây bối rối.
Nhưng không ai đã ngăn chặn điều đó. Người Jainas đã ngăn cản hoàn toàn Mahavira. Ông ấy là người bị táo bón nhất trong toàn bộ lịch sử thế giới. Kỉ lục lớn nhất của một người Anh đã táo bón trong tám tháng liên tục. Điều đó chẳng là gì khi so sánh với Mahavira. Ông ấy đã táo bón tám mươi năm!
Nhưng tất cả những ý niệm phi lí đó đều bị áp đặt lên mọi nhà tiên tri và đấng cứu rỗi của bạn, bởi một lẽ đơn giản: để tạo ra khoảng cách giữa bạn và họ. Đấy là điều xấu hổ của nhân loại. Nó là điều sỉ nhục trực tiếp cho mọi con người. Nếu bạn có can đảm, bạn đã bác bỏ những người này từ lâu trước đây.
Jesus bước trên nước. Ông ấy làm cho người chết sống lại. Tất cả những điều này đều không thể có được. Tự nhiên không bao giờ cho phép bất kì ngoại lệ nào.
Nhưng các tín đồ lại muốn làm cho các nhà tiên tri của họ cao hơn các nhà tiên tri khác. Họ sẽ tạo ra những phẩm chất tưởng tượng nào đó, và sẽ làm cho điều đó thành tuyệt đối cần thiết đến mức chừng nào những phẩm chất này còn chưa có đó, người ta không thể là nhà tiên tri được.
Tôi đã nghe nói về một người Mĩ, một người rất giầu, đã tới Jerusalem. Jerusalem là rất đặc biệt. Nó là nơi thiêng liêng đối với người Do Thái. Nó là nơi thiêng liêng đối với người Ki tô giáo. Nó là một nơi thiêng liêng đối với người Mô ha mét giáo.
Ông ấy tới hồ Galilee nơi Jesus hay bước đi trên nước. Một thuyền nhân bảo ông ta, rằng ông ấy có thể đưa ông này tới mọi chỗ quanh hồ và chỉ cho ông này nơi "chúa của chúng ta đã thường bước đi trên nước." Ông này nói, "Điều thứ nhất phải trước nhất. Việc đó tốn bao nhiêu?" Người kia nói, "Không nhiều đâu. Chỉ mười đô la thôi." Thấy rằng ông này là người Mĩ, mười đô la chẳng là cái gì - mặc dầu đấy không phải là giá bình thường. Ông kia đã yêu cầu gấp mười lần hơn.
Người Mĩ này là kẻ keo kiệt thực sự. Ông ta nói, "Bây giờ tôi biết tại sao chúa Jesus Christ của chúng ta hay đi trên nước rồi! Mười đô la! Tôi đã thấy đủ về hồ Galilee. Thế là đủ rồi. Và tôi không biết cách đi trên nước, và tôi không muốn phí mười đô la. Nhưng mãi cho tới giờ tôi chưa hề hiểu tại sao ông ấy lại  thường bước trên hồ Galilee. Ông đã trả lời cho tôi."
Tất cả những người này, chúng ta đã cho phép, đã giúp đỡ, đã chấp nhận, đã thừa nhận rằng họ là những người đặc biệt. Và điều này đã là một trong những điều nguy hại nhất cho nhân loại. Bởi vì một khi bạn chấp nhận rằng bạn là người bình thường và họ là hoá thân của thượng đế - ai đó là đứa con duy nhất của thượng đế, ai đó là sứ giả đặc biệt của thượng đế. Nếu họ có thể thiền, nếu họ có thể hiểu chính mình, thì đấy là điều có thể hiểu nổi. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm được điều đó?
Khoảng cách giữa nhà tiên tri và bạn đã không cho phép bạn yêu những người đó, đã không cho phép bạn kính trọng bản thân mình. Nó đã phá huỷ tự kính trọng của bạn và nó đã giữ bạn trong khổ và phiền não, bởi vì kết luận tự nhiên, kết luận logic là chúng ta là những người bình thường và những điều này là không thể được với chúng ta. Chúng ta không thể  bước trên nước và chúng ta không thể làm cho người chết sống lại, cho nên chúng ta phải chấp nhận khổ của mình, đau khổ của mình, phiền não của mình.
Bạn có thể đã không nghĩ theo cách này, nhưng đây là cách tôi nhìn vào toàn bộ nhân loại khổ. Đây là bịa đặt của cái gọi là các nhà tiên tri và đấng cứu thế của bạn. Nếu như họ có chút ít kính trọng hơn tới con người bình thường, nếu như họ đã chấp nhận - điều vốn là sự thật - rằng họ là một phần trong các bạn, và họ đích xác giống bạn và bất kì cái gì họ đã đạt tới cũng đều là tiềm năng của bạn, bạn cũng có thể đạt tới nữa - thế giới này đã hoàn toàn khác. Thế thì có lẽ chúng ta sẽ không nhớ tới Phật Gautam. Chúng ta có lẽ sẽ không nhớ tới Krishna và Mohammed và Jesus. Bởi vì sẽ có biết bao nhiêu người cùng phẩm chất, cùng nhận biết đến mức không cần thừa nhận và ghi nhớ đặc biệt nào về họ. Tôi muốn điều đó một ngày nào đó xảy ra. Chúng ta nhớ Phật Gautam chỉ bởi vì trong hai mươi nhăm thế kỉ, chúng ta đã không có khả năng tạo ra được cùng một tâm thức, cùng một sự mãnh liệt của cuộc sống, lần nữa. Nếu hàng triệu người có thể làm được điều đó, Phật Gautam sẽ mất hút. Không cần phải phân chia lịch sử bằng Christ. Ông ấy trở thành cột mốc.
Trước Jesus Christ và sau Jesus Christ, đó là cách chúng ta phân chia lịch sử của mình. Nhưng không có nhu cầu, nếu như có nhiều, nhiều người có cùng phẩm chất của tình yêu, của từ bi, người đã kinh nghiệm về cùng cái đẹp và cùng tính bất tử.
Jesus Christ sẽ mất hút trong đám đông lớn của những người có ý thức. Tôi hi vọng một ngày nào đó sẽ tới, chúng ta sẽ không cần nhớ tới Phật Gautam, Mahavira, Krishna, Jesus Christ - và tất cả các nhà tiên tri khác, bởi vì điều đó sẽ trở thành một kinh nghiệm con người, đơn giản, bình thường. Đó là cách tiếp cận cơ bản của tôi.
Bạn có thể yêu tôi. Đừng ngạc nhiên bởi điều đó. Tôi yêu bạn nữa. Còn nhiều hơn là bạn có thể yêu tôi. Bởi vì tôi không phải là siêu nhân. Tôi cũng vã mồ hôi khi trời nóng. Và trong đêm lạnh, tôi cũng không thể ngủ được mà không có chăn.
Không có khoảng cách giữa bạn và tôi. Có chút ít khác biệt đấy, nhưng không phải là khoảng cách. Tôi là nhận biết. Bạn phải là nhận biết. Khác biệt này có thể về thời gian, nhưng không về tình trạng. Trở nên nhận biết là trong tầm với của bạn. Chính trách nhiệm của bạn là trở nên nhận biết, cho nên ngay cả khác biệt đó cũng tan biến.
Mọi thầy trên thế giới nên mơ tới cái ngày, khi mà tất cả mọi đệ tử đều biến thành thầy và không cần bất kì phân biệt nào được thực hiện. Cho nên đừng ngạc nhiên. Xin chấp nhận tôi như một người bình thường, đích xác như bạn vậy. Tôi cũng dò dẫm trong bóng tối. Tôi cũng đã ở cùng chỗ mà bạn đang ở.
Nó là ngày hôm qua của tôi. Nó là ngày hôm nay của bạn - nhưng điều đó có thể thay đổi. Ngày mai bạn có thể ở cùng chỗ nơi tôi đang ở.
Đó là quyền tập ấm của chúng ta. Việc tự hiểu mình là quyền tập ấm duy nhất của chúng ta - điều không chính phủ nào có thể ngăn cản, điều không giam cầm nào có thể ngăn cản, không chủ nghĩa cộng sản nào có thể ngăn cản, không chủ nghĩa phát xít nào có thể ngăn cản. Mọi quyền của chúng ta có thể bị lấy đi, nhưng quyền cho việc tự hiểu mình là không thể bị huỷ diệt nổi - bởi vì điều đó không tương ứng với bất kì hiến pháp nào. Hiến pháp có thể bị thay đổi. Điều đó là tương ứng với chính bản chất của sự tồn tại, điều không thể bị thay đổi.
Câu hỏi: Thưa Osho, câu hỏi của tôi là về em tôi. Cô ấy bị tai nạn, và từ đó cô ấy không thể cử động, cô ấy không thể thấy, cô ấy không thể nghe, cô ấy không thể nói. Làm sao cô ấy biết được chân lí? Làm sao tâm thức cô ấy vận hành mà không (âm thanh không nghe rõ)? Tốt hơn cả là để cho cô ấy chết đi, để cho cô ấy có thể được sinh ra với (âm thanh không nghe rõ)?
Đây là một trong những câu hỏi nền tảng nhất, đã được nêu ra trên khắp thế giới dưới những dạng khác nhau. Bởi vì trong hàng thế kỉ chúng ta đã chấp nhận một ý niệm, rằng cái chết phải được tránh né. Rằng nó có cái gì đó độc ác. Rằng cuộc sống do thượng đế trao cho, còn cái chết tới từ quỉ.
Ngay cả nghề y của thế giới, mọi người tốt nghiệp y khoa đều phải lấy lời thề Hypocrites, rằng người đó sẽ không giúp cho bất kì ai chết đi theo bất kì cách nào. Người đó sẽ giúp theo đủ mọi cách để bảo vệ cuộc sống.
Điều đó là đúng trong thời của Hypocrites, bởi vì mười đứa trẻ sinh ra và chỉ một đứa sống sót trở thành người lớn. Chín đứa sẽ chết. Đó đã là tình huống.
Dân số toàn thế giới trong thời của Phật Gautam ít thế, bạn không thể hình dung ra nổi. Nó chỉ hai mươi triệu người. Bây giờ một mình Ấn Độ đã có chín trăm triệu người. Toàn thế giới bây giờ năm tỉ người. Từ hai chục triệu người, trong hai mươi nhăm thế kỉ, chúng ta đã đạt tới năm tỉ người. Và trái đất vẫn như cũ. Và y học đã phát triển cực kì. Điều thường được nói là bẩy mươi tuổi là nhiều nhất mà người ta có thể hi vọng sống.
Trong gần năm nghìn năm, các nhà khoa học đã tìm kiếm xương, bộ xương, để tìm ra đích xác người thường sống được bao nhiêu. Và họ đã đi tới một kết luận rất kì lạ, rằng mọi người không sống hơn bốn mươi tuổi - bởi vì chúng ta vẫn chưa tìm ra được một bộ xương khi người đó chết mà già hơn bốn mươi tuổi. Cho nên điều cũng đúng là mọi người tin rằng trong quá khứ, những ngày đó đẹp tới mức không người bố nào đã bao giờ thấy cái chết của con trai riêng của mình.
Điều đó là tự nhiên. Nếu mọi người bố đều chết đi ở tuổi bốn mươi, làm sao người đó thấy cái chết của con trai riêng của mình?
Nhưng trong điều này, chín đứa nhỏ kia không được tính tới, bởi vì chúng sống không quá hai tuổi. Bằng không thì mọi người bố sẽ thấy hàng tá con trai và con gái của mình chết đi. Một khi một đứa trẻ sống sót hơn hai tuổi, thế thì có khả năng cho nó sống ít nhất bốn mươi tuổi. Trong khi đó một cách tự nhiên bố nó sẽ chết.
Bây giờ ở phương tây có những người đã vượt qua một trăm tuổi. Có những người ở một số vùng của Liên Xô, nơi hàng nghìn người đã vượt qua độ tuổi một trăm năm mươi, và hàng trăm người đã vượt qua độ tuổi một tăm tám mươi. Và họ vẫn đang làm việc, họ không già. Tại Caucasus ở Nga, bạn có thể tìm thấy ông già một trăm tám mươi tuổi làm việc trên cánh đồng như bất kì thanh niên nào. Và các nhà khoa học nói rằng có khả năng, nếu có thức ăn đúng, luyện tập đúng và bầu không khí đúng có đấy, thân thể con người có khả năng sống ít nhất ba trăm năm.
Đó là một viễn tượng rất nguy hiểm, bởi vì thậm chí trong thời gian chín mươi hay một trăm năm, bạn đã phát ngán với cuộc sống thế. Bạn định làm gì cho ba trăm năm? Các thế hệ con cháu riêng của bạn sẽ không nhận ra bạn. Trong ba trăm năm biết bao nhiêu thế hệ của con cháu bạn - chúng sẽ không nghĩ tới mối quan hệ nào với bạn. Lỗ hổng sẽ quá lớn.
Và bạn định làm gì? Bạn đã sống, bạn đã yêu. Bạn đã thấy tất cả những điều mà cuộc sống hàm chứa, những thất bại, những thành công; đau đớn và vui thú; ngày và đêm. Bạn đã thấy tất cả các mùa vụ. Bây giờ chẳng có gì hơn nữa. Bây giờ nó lặp lại. Cùng bánh xe cứ chuyển.
Chúng ta phải nghĩ về toàn bộ vấn đề của cái chết lần nữa. Ý kiến riêng của tôi là ở chỗ nếu một người đi tới giai đoạn mà người đó thấy rằng việc sống với người đó là hoàn toàn vô ích, người đó đã sống đủ rồi, thế thì điều đó không nên là bất hợp pháp. Điều đó nên là tuyệt đối chấp nhận được. Thực ra, mọi bệnh viện đều nên có thu xếp đặc biệt, một khoa đặc biệt, dành cho những người tới chết ở đó - cho nên họ có thể chết trong an bình, trong im lặng, với mọi chăm sóc y tế. Việc chăm sóc y tế này không phải là để giữ họ sống, việc chăm sóc y tế này là để giúp cho họ chết thật đẹp đẽ, thật im lặng.
Gợi ý riêng của tôi là, mọi khoa chết trong bệnh viện nên có một thiền nhân, người có thể giúp cho mọi người trước khi họ chết, để học thiền sao cho họ có thể chết một cách có tính thiền. Cái chết của họ có thể trở thành một kinh nghiệm mênh mông. Có lẽ còn giá trị hơn toàn bộ cuộc sống của họ đã qua. Và họ không phạm phải tội lỗi nào.
Bạn có thể có thời gian để nghĩ ngợi. Có lẽ họ bực mình một cách dễ xúc động vào khoảnh khắc đó. Có lẽ điều gì đó đã xảy ra mà lại đem cho họ ý niệm, "Tốt hơn cả là kết thúc cuộc đời mình đi." Họ nên được cho thời gian, rằng "Bạn  vào  bệnh viện đi, nghỉ ngơi lấy một tháng, chuẩn bị cho cái chết của bạn. Chúng tôi sẽ giúp đỡ. Nhưng nếu trong một tháng này bạn thay đổi ý kiến, điều đó là tuỳ ở bạn. Bạn có thể đứng dậy, và đi ra! Không ai bó buộc bạn cả."
Và nhớ, không xúc động nào tồn tại lâu hơn vài phút. Bất kì ai tự tử, nếu người đó đợi thêm một phút nữa thôi, có thể đã không tự tử. Đấy là một điều tạm thời. Nhưng nếu ai đó trong cả tháng vẫn tiếp tục tận hưởng, hạnh phúc và thực sự trông đợi cái chết, như cuộc phiêu lưu, thế thì chính bổn phận của chúng ta là cho phép những người này vứt bỏ thân thể - một cách duyên dáng nhất có thể được.
Về câu hỏi này, tôi phải cho bạn giới thiệu ngần ấy để bạn có thể hiểu rằng chết không phải là cái gì đó độc ác, rằng nó là cái gì đó tự nhiên. Nhưng câu hỏi này là ở đâu đó, không phải là về người già. Câu hỏi này là về người em gái, người không thể cử động, người không thể thấy, người không thể nghe, người không thể nói. Mọi giác quan của cô ấy đều thiếu vắng. Bây giờ bạn gọi điều đó là sống sao? Điều này đơn giản là sống thực vật.
Và cô ấy phải chịu đựng không thể tả nổi. Điều đó chúng ta không thể thấy, bởi vì cô ấy không thể nói được. Cô ấy không có cánh cửa nào để trao đổi. Cô ấy tuyệt đối một mình, bị cắt khỏi mọi cuộc sống. Phỏng có ích gì cho việc sống đời sống thực vật của cô ấy trong bẩy mươi năm - hay có thể hơn nữa? Cô ấy sẽ là gánh nặng cho gia đình. Cô ấy sẽ là nỗi buồn cho gia đình. Và bản thân cô ấy sẽ trong địa ngục tuyệt đối, bởi vì cô ấy hoàn toàn bị cầm tù.
Nghĩ về bản thân bạn mà xem. Không thể có được trại tập trung nào lớn hơn: mắt bạn bị lấy đi, tai bạn bị tịt mít, mũi bạn tịt mít, bạn không thể nói được. Bạn sẽ trong cơn mê.
Có nhiều người. Tôi đã đích thân thấy một người đàn bà, người trong cơn mê trong chín tháng. Và các bác sĩ đều nói rằng cô ta không bao giờ có thể quay lại với ý thức được, bởi vì cô ta đã trong vô ý thức lâu đến mức hệ thần kinh nhỏ bé và rất tinh tế, cái giữ cho người ta có ý thức, đã gần như chết. Họ chỉ cho tôi xem ảnh tia X về bộ não cô ấy, và họ nói rằng tất cả các điểm tạo nên tự ý thức đều đã chết. Cô ấy sẽ vẫn còn vô ý thức. Có lẽ trong năm mươi năm, bởi vì cô ấy không quá ba mươi khi tôi thấy cô ấy. Và bây giờ cô ấy là điều nặng trĩu thường xuyên của gia đình, của chồng, của con. Họ không thể làm gì được, họ đơn giản bất lực. Các bác sĩ không thể làm gì được, họ bất lực. Nhưng luật pháp ngăn cấm rằng bạn không được giúp cho bất kì ai chết, bằng không bác sĩ sẽ là tội phạm. Họ sẽ bị coi là kẻ giết người.
Luật pháp là nguyên thuỷ. Luật pháp không hiểu từ bi. Người đàn bà đó cần cái chết nhân từ. Cô ấy thậm chí không thể yêu cầu được về cái chết của mình!
Cô em của sannyasin này thậm chí không thể yêu cầu được cái chết. Nhưng những người yêu cô ấy nên đòi hỏi chính phủ, dù bạn thuộc vào quốc gia nào, bạn nên đưa trường hợp của cô ấy ra toà - rằng giữ cho cô ấy sống là không từ bi. Đấy không phải là tình yêu. Đấy là ý niệm nguyên thuỷ tuyệt đối, không có sự hỗ trợ hiện đại nào cho nó. Và cả gia đình đều sẵn sàng, rằng cô ấy nên được thoát khỏi nhà tù này, để cho cô ấy có thể được lần sinh mới, một thân thể mới - có mắt, có tai, cô ấy có thể nói và cô ấy có thể bước. Cho nên cái chết của cô ấy sẽ không phải là thảm hoạ. Cái chết của cô ấy sẽ là phúc lành cho cô ấy.
Tôi đang đơn giản nói cho bạn về cách tiếp cận của tôi. Tôi không bảo bạn hành động tương ứng, bởi vì điều đó có thể là bất hợp pháp ở nước bạn. Bạn phải tiếp cận qua luật pháp tới chính phủ, và làm cho nó thành một vấn đề thảo luận quốc gia, rằng điều đó có thể không chỉ là cho em của bạn. Có thể có nhiều đứa trẻ khác nữa, đang chịu đựng theo cùng cách - vì không có lí do nào ngoại trừ bởi vì luật pháp không cho phép bất kì người ngành y nào được giúp cho ai đó vứt bỏ thân thể.
Đây là lúc mà chúng ta nên hiểu, và nghề y của chúng ta nên hiểu, và lời thề của Hypocrites không nên là lời thề cho sinh viên y nữa. Họ nên được cho lời thề là giúp đỡ cho con người nếu người đó có thể sống dư thừa, đẹp hơn - nhưng nếu người đó không thể sống được và bạn có thể đơn giản cứ giúp người đó chỉ để thở... Thở không phải là sống. Thế thì tốt hơn cả là: giúp người đó chết. Trong cả hai trường hợp, bạn đều từ bi. Hoặc bạn phục vụ cuộc sống hoặc bạn phục vụ cái chết - không thành vấn đề. Từ bi của bạn nên thấy rằng người đó đi vào chỗ tốt hơn, vào cuộc sống tốt hơn.
Và mọi quốc gia đều phải thông qua luật. Cũng như nhiều quốc gia bây giờ chấp nhận kiểm soát sinh đẻ. Đó là một đầu của cuộc sống. Bạn đang ngăn cản trẻ con khỏi sinh ra. Nếu bạn đã chấp nhân điều đó, ở đầu bên kia bạn nên cho phép người già, người muốn từ bỏ thế giới này, để cho họ ra đi một cách trịnh trọng. Họ có thể mời tất cả bạn bè của họ, cả gia đình họ. Họ có thể sống với cả gia đình trong một tháng, bởi vì bây giờ họ đang định ở nơi đây chỉ trong một tháng.
Sinh không ở trong tay bạn, nhưng ít nhất bạn có thể tự do chọn cái chết của mình.


Chút ít thêm nữa nhiều chính phủ trên thế giới sẽ chóng chấp nhận, rằng ở đầu kia chúng ta cũng nên cho phép mọi người đi nhanh hơn. Bởi vì thế giới này đã quá đông đúc rồi. Một mặt chúng ta ngăn cản mọi người tới. Mặt kia chúng ta nên để cho họ ra đi, cho nên vài người đi nhanh và thế giới sẽ bớt đông đúc đi và bớt nghèo khó đi.
Và vấn đề không chỉ là thế giới bớt nghèo khó và bớt đông đúc đi, nó cũng là vấn đề cho những người đó nữa. Bởi vì tôi đã thấy trong các bệnh viện và trong hầu hết các nước phương tây, đặc biệt ở Mĩ, hàng nghìn người đơn giản sống trong bệnh viện. Họ chín mươi hay một trăm tuổi. Họ không thể sống ở nhà được, bởi vì họ thậm chí không thể thở được theo cách riêng của mình. Và chúng ta vẫn giữ họ sống. Để làm gì?
Thở nhân tạo đang được trao cho họ. Tôi nghĩ đấy sẽ không là vui thú gì cho những người đó. Họ sẽ không bao giờ trở về nhà được. Họ sẽ chết trong bệnh viện.
Và tôi không thấy logic ở đâu cả, để giữ cho họ thở nhân tạo. Khi thân thể họ không sẵn sàng thở, xin để cho họ không thở. Đó là chuyện cá nhân của họ. Bạn đang can thiệp quá nhiều.
Bạn sẽ không để cho họ chết. Họ là người chết. Bạn buộc họ tiếp tục sống. Nhưng bạn không nhận biết về mục đích gì. Và khi bạn đang giữ cho hàng nghìn người sống, ai nên ở lại trong nấm mồ của họ, chiếm chỗ không cần thiết trong bệnh viện, chiếm thời gian của bác sĩ, của biết bao nhiêu máy móc và bao nhiêu chăm sóc - và mục đích là gì? Sau hai hay ba năm họ thậm chí sẽ dừng thở nhân tạo. Họ sẽ từ chối và bác bỏ.
Chẳng cái gì khác sẽ xảy ra cả. Nhưng trong ba năm bạn sẽ giữ họ một cách không cần thiết trong hành hạ. Và điều này được coi là phục vụ. Điều này được coi là từ bi. Điều này được coi là mang tính Ki tô giáo. Điều này đơn giản là độc ác.
Để cho những người đáng thương đó chết. Và có hàng nghìn người trên khắp thế giới đang sẵn sàng rời khỏi thân thể, bởi vì thân thể chỉ là nỗi đau cho họ. Với nhiều bệnh tật thế, với nhiều ốm đau thế, họ không còn khả năng làm gì cả. Họ không còn khả năng tận hưởng điều gì.
Tôi đã nghe nói, trong chiến tranh thế giới thứ hai một người bị trúng một viên đạn vào họng. Cho nên việc ăn uống của người này thành khó khăn. Người đó không thể ăn được. Các bác sĩ xoay xở để gắn một cái ống vào, nhưng người đó không thích điều này bởi vì không cảm thấy vị ngon. Cho nên cuối cùng họ quyết định, "Trước hết anh nhai thức ăn, rồi nhét nó vào trong ống này. Nếm đi, rồi cho nó vào trong ống thế là nó đi vào dạ dầy anh."
Người đó vẫn sống và làm cùng điều này! Người đó không thể làm điều gì khác được, bởi vì thân thể người đó rất tinh tế, rất mong manh. Người đó có thể chết bất kì lúc nào, nhưng người đó đã sống thực lâu. Và điều người đó làm dường như đơn giản xấu, nôn ra, là trước hết bạn bạn nhai thức ăn, rồi bạn nôn nó ra cái ống. Rồi đưa nó vào trong dạ dầy... Thế thì phỏng có ích gì?
Tôi đã hỏi về người này, vì bây giờ đã bốn mươi năm từ khi cái ống được gắn vào. Người đó liệu có khả năng tìm ra người đàn bà yêu người đó không? Và tôi đã được biết chẳng đàn bà nào muốn ở gần người đó cả. Người đó có kiếm được bạn nào không? Không. Bởi vì chỉ thấy người đó, với cái ống to tướng tống ra đủ mọi loại mùi hôi từ nó... Ai còn muốn làm bạn với người đó? Người đó không được phép vào tiệm ăn, bởi vì tiệm ăn bắt đầu bị mất khách - bởi vì thấy người đó làm mọi việc đó trong tiệm ăn, ai còn muốn ăn ở đó?
Tôi đã hỏi, liệu người đó trong bốn mươi năm trời này đã làm được điều gì sáng tạo không? Người đó có vẽ không? Người đó có làm thơ không? Không. Tất cả mọi điều người đó làm, là tồn tại - bởi vì người đó gần như chết, người đó chỉ sống như một bóng ma...
Điều đó không phải là từ bi. Và mọi người đều cảm thấy kinh tởm người đó. Và người đó không thể làm được điều gì khác, bởi vì người đó không có năng lượng. Người đó sống với năng lượng thấp đến mức nếu người đó được hỏi, "Anh có thích chết không?", tôi cho rằng người đó sẽ không từ chối. Nhưng ngay bây giờ đây là một thế giới rất kì cục. Nó cứ tiếp tục mãi những luật cũ rích, đã mất hết mọi thực tại, đã trở thành chỉ là cái bóng của quá khứ, hành hạ nhân loại một cách không cần thiết.
Người đó có được hỏi trước khi toàn bộ điều vô nghĩa này đã được làm cho người đó không? Không. Các bác sĩ đều làm bổn phận của họ. Họ phải hoàn thành lời nguyện của họ. Chính phủ đang hoàn thành nghĩa vụ của mình. Nó phải hoàn thành luật pháp. Nó không thể cho phép mọi người tự tử được. Đấy là một chính phủ rất kì lạ và một luật pháp rất kì lạ. Trên khắp thế giới, nếu bạn định tự tử, và bạn bị bắt quả tang trước khi bạn tự tử, thế thì chính phủ sẽ làm việc. Họ sẽ kết án tử hình bạn, bởi vì bạn đang định tự tử. Kì lạ thế! Bởi vì đó là điều người này đang làm cho bản thân mình! Bây giờ, sau hai, ba năm xử án và phiền nhiễu và đủ mọi loại biện luận, nhiều luật sư tham dự, nhiều quan toà tham dự - và cuối cùng bạn đi tới cùng quyết định. Anh chàng đáng thương kia đã làm điều đó mà không có mọi sự vô nghĩa này.
Gợi ý của tôi là em bạn nên được thoát ra khỏi thân thể này, bởi vì thân thể này không là gì khác hơn nhà tù của cô ấy. Nếu bạn yêu cô ấy, bạn phải nói lời tạm biệt với cô ấy. Với nước mắt, với nỗi buồn, nhưng dầu vậy bạn vẫn phải nói lời tạm biệt cô ấy. Và bạn phải thiền và cầu nguyện rằng cô ấy sẽ có được một thân thể tốt hơn. Nhưng yêu cầu chính phủ đi, tạo ra một phong trào quanh việc này, để cho không chỉ em bạn là được giúp đỡ. Có thể có nhiều đứa trẻ khác nữa. Và tôi nghĩ sannyasin này đã từ Nhật Bản tới, và tại Nhật Bản nhất định có nhiều đứa trẻ nữa, bởi vì vụ Hiroshima và Nagasaki, và về điều đó, chính phủ Mĩ phải chịu trách nhiệm.
Hai thành phố này, nước Mĩ đã huỷ diệt mà chẳng có lí do nào cả. Chiến tranh đã gần kết thúc. Nước Đức đã đầu hàng. Bây giờ không có khả năng nào cho Nhật Bản tiếp tục. Vấn đề chỉ là một tuần, hay nhiều nhất hai tuần và Nhật Bản sẽ phải đầu hàng. Cần gì phải phá huỷ hai thành phố dân sự này, nơi không tham chiến? Trẻ nhỏ, phụ nữ có thai, người già này? Mỗi thành phố chứa ít nhất cả trăm nghìn người. Hai trăm nghìn người đã bị tiêu diệt trong vòng năm phút. Những người sống sót đang tạo ra loại trẻ con này. Những người đã sống sót đang chứng tỏ là nguy hiểm hơn những người đã chết, bởi vì bây giờ họ mang theo tia phóng xạ trong chính thân thể họ. Đàn ông và đàn bà, họ sẽ tạo ra những đứa trẻ chậm lớn, còi cọc, điếc lác, câm, có thể mù - đủ mọi loại dị dạng. Và điều này sẽ tiếp tục hàng thế kỉ.
Nhưng Mĩ, và tổng thống Mĩ thời đó - có cái tên rất kì lạ: Truman! - đã làm một hành động vô nhân thế, chỉ bởi vì ông ta lo nghĩ chiến tranh sắp kết thúc và trước khi chiến tranh kết thúc ông ta muốn thực nghiệm điều sẽ là kết quả của vụ nổ hạt nhân lên con người. Những người Nhật Bản đáng thương này đã bị dùng làm vật thí nghiệm. Và chỉ do lo sợ rằng chiến tranh sắp kết thúc. Nếu chiến tranh kết thúc, thế thì chẳng có lí do gì để dùng những quả bom đó với con người - cho nên ông ta vội vã.
Và không chỉ con người bị ảnh hưởng: cây cối đã mang chất phóng xạ. Nếu bạn ăn quả của những cây đó, bạn sẽ bị mắc phóng xạ. Và không ai biết được cây nào mang phóng xạ. Cá, chim, con vật đã sống sót trong khu vực này, tất cả đều đầy phóng xạ. Và chúng đã di chuyển, bởi vì bạn không thể giữ cá ở một chỗ được. Bạn không thể cầm tù chúng được. Chúng đã di chuyển đi khắp xung quanh. Chúng sinh ra những thế hệ mới mang phóng xạ cho các thế hệ sắp tới. Và nếu bạn ăn cá đó, bạn trở thành nạn nhân. Bạn sẽ mang phóng xạ; con bạn sẽ trở thành nạn nhân.
Cho nên không chỉ Hiroshima và Nagasaki đã bị ảnh hưởng bởi hai quả bom nguyên tử này. Toàn thể nhân loại đã chịu nguy cơ này.
Và chẳng có lí do nào hết cả. Không có vấn đề về đánh bại họ. Họ đã sẵn sàng đầu hàng rồi - bởi vì họ chỉ đi theo người Đức. Và khi người lãnh đạo đã đầu hàng, người theo sau có thể đánh nhau được bao lâu nữa? Nhiều nhất là hai tuần; đó là ước lượng của tất cả các chuyên gia quân sự của thế giới.
Và Truman đã được cảnh báo, rằng điều đó là tuyệt đối không cần thiết, rằng Nhật Bản sắp sửa đầu hàng. Và bởi vì lời cảnh báo này mà ông ta vội vã thế, ông ta lập tức ra lệnh phá huỷ hai thành phố xinh đẹp đó, chỉ để thực nghiệm.
Và điều đó lại là vấn đề. Bây giờ Mĩ là cường quốc hạt nhất lớn nhất thế giới, và họ là quốc gia duy nhất có hệ thống bảo vệ. Không ai có thể bắn tên lửa hạt nhân vào đất nước họ được. Nước đó sẽ bị giáng trả ngay lập tức.
Nga vẫn còn đang ở nửa đường tạo ra hệ thống bảo vệ của nó. Điều đó cần thời gian, ít nhất là một năm, để bảo vệ mình hoàn toàn. Một năm này còn nguy hiểm hơn, vì Mĩ đang ở thế mạnh. Nếu Mĩ bỏ lỡ năm này, sẽ không có vấn đề đánh bại Nga nữa. Ngay bây giờ Nga có thể bị đánh bại, với mọi vũ khí hạt nhân của họ - bởi vì những vũ khí đó sẽ bị giáng trả lại và vũ khí Mĩ sẽ rơi xuống nước Nga còn họ lại không thể bị giáng trả. Chúng ta không nhận biết rằng chúng ta đang ngồi trên núi lửa.
Và các chính khách Mĩ - tôi đã ở đó năm năm, tôi đã quan sát kĩ - là những kẻ xấu xa nhất trên thế giới. Mọi lúc cứ giả bộ dân chủ, nhưng chẳng có dân chủ chút nào. Giấu đằng sau cái mặt nạ dân chủ, đấy đơn giản là chế độ phát xít. Và Ronald Reagan sẽ không ngần ngại, nếu ông ta thấy rằng trong vòng một năm Nga sẽ bằng về sức mạnh, thế thì điều này không nên để lỡ - bởi vì thời gian này có thể sẽ không có lần nữa.
Và những người như Ronald Reagan không phải là người thông minh mấy đâu. Họ cũng chẳng có từ bi nào. Và bạn không thể trông đợi nhiều từ một người như Ronald Reagan, người chỉ là một ngôi sao điện ảnh tại Hollywood - điều đó nữa cũng thuộc vào phim hạng ba, phim cao bồi. Và không thành công gì cho mấy. Và ông ta đã nuôi súc vật trong nhà mình. Khi ông ta trở thành tổng thống, các con vật cũng cùng với ông ấy vào Nhà Trắng. Đấy là một con vượn người. Cũng lạ là ông ta tìm ra tình bạn trong một con vượn người. Ông ta không thể tìm được tình bạn trong con người. Và tôi đã nghe câu chuyện rằng khi lần đầu tiên ông ta trở thành tổng thống, ông ta và con vượn người của mình đã đi dạo trên vịnh. Một người bắt gặp và nói, "Thưa ngài Tổng thống, tôi xin hỏi ngài một câu? Sao ngài mang con vượn người này đi cùng mình thế?” Và khi Ronald Reagan vừa định nói, ông này nói, "Tôi không hỏi ông, tôi đang hỏi ông Tổng thống!"
Ông ta đã nghĩ đây là con vượn người và con vượn người là tổng thống! Nhưng chính khách trên khắp thế giới đều như nhau cả. Charles Darwin trong cả đời mình đã cố gắng tìm ra móc xích bị thiếu giữa vượn người và con người, và tôi tự hỏi làm sao mà ông ấy lại bỏ lỡ! Ông ấy đáng phải nhìn vào các chính khách chứ! Chẳng phải đi đâu cả. Đó là móc xích bị thiếu. Không người thông minh nào muốn là chính khách. Và không chính khách nào có thể được trông đợi là người thông minh.
Tạo ra một phong trào trong nước bạn vì em gái của bạn đi, bởi vì ở Nhật Bản sẽ có nhiều trẻ con cùng tình huống. Và gây phản ứng nhiều về điều đó, chỉ thế thì bạn mới có khả năng được phép, rằng em bạn có thể có cái chết an bình. Và đừng lo nghĩ bởi vì bản thể bên trong nhất của bạn không bao giờ chết cả.
Câu hỏi: Thưa Osho, (câu hỏi này không nghe được)
Điều đó đang xảy ra đấy! Và điều đó là không thể nào tin được! Nó là kinh nghiệm huyền bí nhất. Khi điều đó xảy ra, bạn không thể tin được vào nó. Bạn biết nó có đó. Bạn phải tin vào nó. Nhưng nó không thể nào tin được thế, bạn chưa bao giờ trông đợi rằng nó sẽ xảy ra cho bạn. Nhưng lí do là bạn cảm thấy khó mà tin được vào nó thế, là ở chỗ bạn đã được bảo trong hàng thế kỉ rằng đó là điều khó nhất thế giới - mà nó lại không phải.
Bạn đã được bảo rằng phải mất nhiều kiếp sống cho điều đó xảy ra. Và đó là dối trá tuyệt đối. Nó có thể xảy ra trong một khoảnh khắc. Bởi vì bạn đã có nó rồi! Vấn đề chỉ là trở nên nhận biết về nó.
Chẳng cái gì để được đạt tới. Thành đạt cần thời gian. Chẳng cái gì cần được phát minh. Phát minh cần thời gian. Nó là cái gì đó đã ở đó rồi, bao giờ cũng ở đó, trong cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn. Bạn đã quên không đi tới đó thôi. Và bạn đang gõ lên cửa của người khác để tìm nó.
Và các tôn giáo của bạn đã bảo bạn, rằng nó là điều khó khăn nhất - bởi lẽ đơn giản vì các tu sĩ của bạn chẳng biết gì về nó cả. Họ là những người chuyên nghiệp. Đấy là nghề của họ, không phải kinh nghiệm của họ. Một cách tự nhiên khi bạn hỏi họ, cách duy nhất là an ủi bạn, thoả mãn bạn, rằng "Điều đó sẽ xảy ra, nhưng nó cần nỗ lực của nhiều năm." Bạn đã ở đây trên trái đất này trong nhiều, nhiều kiếp sống rồi. Họ còn muốn đợi thêm bao lâu nữa? Có cái gì đó về cơ bản sai trong toàn bộ cách tiếp cận của họ.
Họ không hướng bạn về bản thể riêng của mình. Đó là chỗ họ sai. Họ hướng bạn tới một thượng đế ở đâu đó xa xăm. Bạn đã nhìn vào các đồ vật, vào tiền bạc, vào quyền lực, vào con người. Đó là sai lầm của bạn rằng bạn nhìn ra, không nhìn vào. Và họ thì cứ làm cho cùng sai lầm đó lớn hơn nữa. Họ bảo bạn điều đó ở xa xôi, rằng điều đó vẫn ở ngoài bạn. Thượng đế đang ở trên trời, điều đơn giản là lời dối trá. Mọi điều được cần là bảo bạn rằng bạn đang trong ngôi đền của thượng đế, rằng không có ngôi đền nào khác cả. Rằng nếu bạn muốn đi bất kì đâu, đi vào bên trong. Đừng lẻn ra, lẻn vào!
Và đấy là điều đơn giản nhất trên thế giới. Tìm lại cái gì đó bạn đã có thì làm sao lại khó được? Câu hỏi cuối cùng?
Câu hỏi: Thưa Osho, (câu hỏi này không nghe được)
Bạn chỉ hỏi về mỗi một chuyện đùa thôi sao? Tôi không keo kiệt đến thế! Ít nhất tôi có thể kể hai chuyện đấy!
Chuyện kể rằng khi Jesus được sinh ra, ông ấy được sinh ra trong chuồng ngựa. Bởi vì tại Jerusalem có ngày hội lớn hàng năm, và Joseph cùng Mary - bố và mẹ của Jesus - đều là người rất nghèo. Họ đã cố gắng vất vả, nhưng mọi khách sạn và mọi nhà trọ và mọi chỗ có thể đều đã quá đông. Không còn chỗ để nghỉ. Họ đã phải nghỉ lại trên phố, nhưng vấn đề là ở chỗ Mary, mẹ Jesus, mang thai. Lúc đó đã là chín tháng rồi. Bà ấy có thể sinh bất kì lúc nào. Và chính đêm đó bà ấy đã sinh ra Jesus.
Một người tốt, thấy tình cảnh người phụ nữ này đang mang thai và đang tới gần hơn, vào bất kì lúc nào cô ấy cũng có thể sinh con - ông ta có một cái chuồng ngựa. Ông ta nói, "Các vị có thể ở chung với súc vật của tôi nếu các vị muốn. Đó là chỗ duy nhất, nơi tôi nhốt ngựa và lừa và bò."
Trong cái chuồng ngựa đó, giữa các con vật, Jesus đã được sinh ra. Và câu chuyện là ở chỗ ba người trí huệ nhất từ phương đông, những người đã chờ đợi việc ra đời của Jesus, bắt đầu đi tới chỗ Jesus được sinh ra. Câu chuyện này hay. Nó nói, một ngôi sao di chuyển phía trước họ để soi đường cho họ. Bằng không làm sao họ tìm ra được? Và ngôi sao dừng lại trên chuồng ngựa.
Ba người trí huệ này tới chuồng ngựa. Tất nhiên cánh cửa chuồng ngựa không dành cho con người, cho nên nó là cái cửa rất nhỏ. Ông già thứ nhất, khi ông ta bước qua cửa, đập trán vào cửa, và nói, "Jesus!"
Mary, nghe thấy điều này, bèn nói với Joseph, "Anh có nghe thấy không? Đây dường như là cái tên hay cho đứa bé." Đó là cách Jesus nhận được cái tên! Và câu chuyện thứ hai.
Trong một trường quốc tế cho trẻ nhỏ, một cô giáo Ki tô giáo cứ khăng khăng cho rằng Jesus Christ là người vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử. Và sau khi cô đã nói xong, đến cuối cô mới hỏi các trò, "Các con có thể cho cô biết ai là người vĩ đại nhất của lịch sử không?" Một cậu bé Mĩ đứng lên và nói, "Abraham Lincoln."
Cô giáo choáng váng. Hết cả một giờ cô cứ nói mãi về Jesus Christ mà đứa nhỏ này lại nói, "Abraham Lincoln." Nhưng cô nói, "Thế là tốt, nhưng chưa đủ tốt. Con ngồi xuống."
"Ai có câu trả lời khác không?"
Một trẻ Ấn Độ đứng dậy nói, "Mahatma Gandhi."
Cô nói, "Điều đó nữa cũng tốt, nhưng vẫn chưa đủ tốt."
Thế rồi một trẻ Do Thái giơ tay. Cô nói, "Được."
Cô có hơi ngần ngại, bởi vì nó là người Do Thái. Và đứa trẻ Do Thái nói, "Không có vấn đề gì về điều đó: Jesus Christ." Cô giáo không thể nào tin nổi.
Khi lớp tan cô giữ đứa trẻ Do Thái lại và hỏi nó, "Con có phải là người Do Thái không?”
Nó nói, "Có ạ."
"Thế thì sao con nói Jesus Christ là người vĩ đại nhất trên thế giới?"
Nó nói, "Kinh doanh là kinh doanh! Tại tâm điểm trái tim mình, con biết đấy là Moses!"
Được chứ?

Ads Belove Post