Read more
Osho - Thuyền rỗng
Chương 3. Cú và Uyên Sồ
Huệ Tử làm thừa tướng nước Lương. Có kẻ nói
với ông ta rằng Trang Tử định qua đó để cùng ông ấy tranh ngôi thừa tướng. Khi
Trang Tử tới nước Lương, Huệ Tử sợ, cho kẻ lùng xét trong nước ba ngày ba đêm nhưng
không bắt được Trang Tử. Sau đó Trang Tử thu xếp tới gặp Huệ Tử bảo: “Phương
Nam có con chim tên là Uyên Sồ, không bao giờ già, ông có biết không? Uyên Sồ từ
biển Nam bay qua biển Bắc, chỉ hạ cánh xuống cây thiêng liêng nếu không gặp hột
luyện không ăn, nếu không gặp suối ngọt thì không uống. Có con chim cú đang rỉa
xác chuột chù, thấy Uyên Sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn, bèn kêu to lên để
doạ Uyên Sồ đừng đáp xuống. Nay vì sợ cái ngôi thừa tướng của ông ở nước Lương,
nên ông kêu lên để doạ tôi sao?”
Tâm trí tôn giáo về cơ bản là
không tham vọng. Nếu có bất kì loại tham vọng nào, thế thì tính tôn giáo là
không thể có, bởi vì chỉ người cao siêu mới có thể trở thành tôn giáo. Tham vọng
kéo theo sự kém cỏi. Cố gắng hiểu điều này bởi vì nó là một trong những luật cơ
bản. Không hiểu nó thì bạn có thể đi vào đền, bạn có thể lên Himalayas, bạn có
thể cầu nguyện và bạn có thể thiền, nhưng mọi thứ sẽ là hão huyền. Bạn sẽ đơn
giản làm phí hoài cuộc sống của mình nếu bạn không hiểu liệu bản chất của tâm
trí bạn là tham vọng hay không tham vọng. Toàn bộ việc tìm kiếm của bạn sẽ là
vô ích, bởi vì tham vọng không bao giờ có thể dẫn tới điều thiêng liêng. Chỉ
không tham vọng mới có thể trở thành cánh cửa.
Tâm lí học hiện đại cũng đồng ý
với Trang Tử, với Lão Tử, với Phật, với tất cả những người đã chứng ngộ, rằng
kém cỏi tạo ra tham vọng. Do đó chính khách tới từ chất liệu tồi nhất trong
nhân loại. Tất cả các chính khách đều là sudras, tiện dân. Điều đó không thể
khác được, bởi vì bất kì khi nào tâm trí cảm thấy phức cảm tự ti thì nó đều cố
gắng để trở thành cao siêu - cái đối lập được sinh ra. Khi bạn cảm thấy xấu, bạn
cố gắng là đẹp. Nếu bạn đẹp rồi, thế thì không có nỗ lực.
Cho nên nhìn vào đàn bà xấu và
bạn sẽ nhận ra bản chất của chính khách. Đàn bà xấu bao giờ cũng cố gắng che giấu
cái xấu, bao giờ cũng cố gắng đẹp, ít nhất thì cũng trên khuôn mặt, khuôn mặt
tô vẽ, quần áo, đồ trang sức, tất cả đều thuộc vào cái xấu. Bằng cách nào đó
cái xấu phải bị vượt qua và bạn phải tạo ra cái đối lập để che giấu nó, để trốn
thoát khỏi nó. Người đàn bà thực sự đẹp sẽ không lo nghĩ, cô ấy sẽ thậm chí sẽ
không ý thức về cái đẹp của mình. Và chỉ một cái đẹp không ý thức thì mới là đẹp.
Khi bạn trở nên có ý thức, cái xấu đã đi vào.
Khi bạn cảm thấy rằng bạn kém cỏi,
khi bạn so sánh bản thân mình với người khác và thấy rằng họ cao siêu hơn bạn,
bạn sẽ làm gì? Bản ngã cảm thấy bị tổn thương - bạn tự ti. Bạn không thể chấp
nhận điều đó, cho nên bạn phải tự lừa dối mình và người khác.
Bạn lừa dối như thế nào? Có hai
cách. Một là phát điên. Thế thì bạn có thể tuyên bố rằng bạn là Alexander,
Hitler, Nixon. Thế thì sự việc thành dễ dàng bởi vì thế thì bạn chẳng bận tâm bởi
điều người khác nói nữa. Bạn cứ vào nhà thương điên khắp trên thế giới và tại
đó bạn sẽ thấy tất cả những nhân vật vĩ đại của lịch sử, vẫn còn sống!
Trong khi Pandit Jawaharlal
Nehru còn sống, ít nhất một tá người ở Ấn Độ tin rằng họ là Pandit Jawaharlal
Nehru. Có lần ông ấy vào nhà thương điên để khánh thành một khoa mới. Người
trông coi nhà thương điên đã thu xếp để cho vài người được ông ấy thả ra, bởi
vì bây giờ họ đã lành mạnh và bình thường. Người đầu tiên được đưa tới ông ấy
và được giới thiệu, thế là Nehru tự giới thiệu mình với người điên đó, người đã
trở nên bình thường hơn và nói, “Tôi là Pandit Jawaharlal Nehru, thủ tướng Ấn Độ.”
Người điên cười khanh khách và
nói, “Đừng lo. Ông hãy ở đây trong ba năm và ông sẽ trở thành bình thường như
tôi đã trở thành bình thường. Ba năm trước khi lần đầu tiên tôi tới nhà thương
điên này thì người tôi tưởng mình đang là - chính là Pandit Jawaharlal Nehru,
thủ tướng Ấn Độ. Nhưng họ đã chữa khỏi hoàn toàn cho tôi, cho nên ông đừng lo
nghĩ.”
Điều này đã xảy ra theo nhiều
cách. Lloyd George là thủ tướng nước Anh. Trong những ngày chiến tranh đó, vào
lúc sáu giờ tối thường có việc tắt đèn và không ai ra khỏi nhà mình. Mọi giao
thông đều ngừng lại, đèn không được phép bật, và mọi người đều phải ở một chỗ
trú ẩn nào đó. Lloyd George đang đi dạo buổi tối thông thường, và ông ấy quên
khuấy mất điều đó.
Bổng nhiên còi báo động cất
lên. Lúc đó là sáu giờ nhà ông ấy thì còn xa ít nhất một dặm đường đi bộ. Cho
nên ông ấy gõ cửa ngôi nhà gần nhất và nói với người ra mở cửa, “Xin cho tôi
nghỉ lại ở đây qua đêm, nếu không thì cảnh sát sẽ bắt tôi. Tôi là Lloyd George,
thủ tướng.”
Người này bỗng nhiên túm lấy
ông ấy và nói, “Vào đi. Đây là đúng chỗ cho ông đấy. Chúng tôi đã có ba Lloyd
George ở đây rồi!” Đó là nhà thương điên.
Llyod George cố gắng thuyết phục
người này rằng ông ấy là thủ tướng thật. Nhưng người này nói, “Tất cả họ đều biện
minh thế, cho nên đừng bận tâm kêu gào, hãy cứ vào đi nếu không thì tôi sẽ đánh
ông ấy.”
Thế là Llyod George phải im lặng
cả đêm nếu không thì ông ấy sẽ bị đánh thực sự. Làm sao ông ấy có thể thuyết phục
được họ? Đã có ba Llyod George và họ tất cả đều cố gắng chứng minh điều đó.
Một cách là phát điên - bạn bỗng
nhiên tuyên bố rằng mình là cao siêu, tối thượng nhất. Cách khác là đi làm
chính khách. Hoặc là phát điên hoặc làm chính khách. Qua chính trị bạn không thể
bỗng nhiên tuyên bố - bạn phải chứng minh rằng bạn thực sự là thủ tướng hay tổng
thống. Cho nên đấy là cách đi vòng lâu dài. Điên khùng là lối tắt để thành quan
trọng, chính trị là con đường dài. Nhưng chúng đạt tới cùng một mục tiêu.
Và nếu thế giới này trở thành một
thế giới bình thường, lành mạnh, thế thì hai kiểu người này phải được chữa trị:
người điên và chính khách. Cả hai đều ốm yếu. Một loại đã đi đường vòng dài, loại
kia lấy đường tắt. Và nhớ cho rõ rằng người điên thì còn ít hại hơn chính
khách, bởi vì anh ta đơn giản tuyên bố sự siêu đẳng của mình; anh ta không bận
tâm tới việc chứng minh nó; chính khách thì bận tâm tới việc chứng minh điều đó
- và việc chứng minh thì rất tốn kém.
Hitler đã cố gắng chứng minh điều
gì? Rằng ông ta là người siêu đẳng nhất, siêu nhân Aryan nhất. Chắc là sẽ tốt
hơn cho thế giới nếu ông ta phát điên, dùng lối tắt; thế thì sẽ không có thế
chiến thứ hai.
Chính khách thì nguy hiểm hơn bởi
vì họ là người điên có chứng minh. Họ là người điên đang làm việc, tìm kiếm, đạt
tới một mục tiêu, chỉ để che giấu cái kém cỏi trong họ. Bất kì khi nào ai đó cảm
thấy kém cỏi, người đó đều phải chứng minh hay đơn giản tự thôi miên mình trong
việc tin rằng mình không kém cỏi. Bạn không thể là tôn giáo được nếu bạn điên.
Không điên theo cách thánh Francis điên - cái điên đó tới qua niềm cực lạc, cái
điên này tới qua sự kém cỏi. Cái điên của một thánh Francis hay một Trang Tử tới
từ cái cao siêu, tới từ trái tim, tới từ ngọn nguồn nguyên thuỷ. Cái điên kia tới
từ bản ngã. Linh hồn bao giờ cũng cao siêu còn bản ngã bao giờ cũng kém cỏi.
Cho nên một người bản ngã thì
phải trở thành một chính khách bằng cách này cách khác - dù người đó chọn nghề
nghiệp gì, qua đó người đó sẽ là một chính khách.
Tôi ngụ ý gì khi tôi nói chính
trị? Tôi ngụ ý sự xung đột giữa các bản ngã, cuộc vật lộn để sống còn. Khi bản
ngã bạn và bản ngã tôi là trong xung đột thế thì chúng ta là chính khách. Khi
tôi không trong xung đột với bản ngã của bất kì ai, tôi là người tôn giáo. Khi
tôi không cố gắng là cao siêu, tôi là cao siêu. Nhưng cái cao siêu này không đối
lập với cái kém cỏi, nó là sự vắng bóng của cảm giác kém cỏi.
Sự phân biệt này phải được ghi
nhớ. Có hai kiểu cao siêu. Theo một kiểu thì bạn chỉ che giấu cái kém cỏi, che
đậy nó, bạn đang dùng một mặt nạ - đằng sau mặt nạ này cái kém cỏi vẫn còn đó.
Cái cao siêu của bạn chỉ là bề mặt, sâu bên dưới bạn vẫn còn kém cỏi, và bởi vì
bạn cứ có cảm giác về nó nên bạn phải mang mặt nạ này về cái cao siêu, về cái đẹp.
Bởi vì bạn nhận biết rằng bạn xấu nên bạn phải xoay xở để đẹp, bạn phải trưng bầy,
bạn phải phô bầy khuôn mặt giả. Đây là một kiểu cao siêu; nó không thực.
Có một kiểu cao siêu khác, và
cao siêu đó là việc thiếu vắng cái kém cỏi, không phải là đối lập nó. Bạn đơn
giản không so sánh. Khi bạn không so sánh, làm sao bạn kém cỏi được? Nhìn: nếu
bạn là người duy nhất trên trái đất này và không có ai khác, bạn có kém cỏi
không? Bạn sẽ so sánh bản thân mình với ai? Quan hệ với cái gì? Nếu bạn có một
mình thì bạn sẽ là gì, kém cỏi hay cao siêu? Bạn sẽ chẳng là cái nào cả. Bạn
không thể kém cỏi bởi vì chẳng có ai ở dưới bạn cả. Bạn sẽ không cao siêu không
kém cỏi - và tôi nói với bạn rằng điều này là cái cao siêu của linh hồn. Nó
không bao giờ so sánh. So sánh, và cái kém cỏi phát sinh. Đừng so sánh, và bạn
đơn giản hiện hữu - duy nhất.
Người tôn giáo là cao siêu theo
nghĩa là cái kém cỏi đã biến mất. Chính khách là cao siêu theo nghĩa người đó
đã vượt qua cái kém cỏi của mình. Nó vẫn còn ẩn ở đó, nó vẫn còn ở bên trong.
Người đó chỉ dùng cách ăn mặc, bộ mặt, cái mặt nạ của người cao siêu.
Khi bạn so sánh, bạn lỡ; thế
thì bạn bao giờ cũng nhìn vào người khác. Và không có hai người nào như nhau, họ
không thể thế được. Mọi cá nhân đều duy nhất và mọi cá nhân đều cao siêu, nhưng
tính cao siêu này lại không so sánh được. Bạn cao siêu bởi vì bạn không thể là
bất kì cái gì khác. Tính cao siêu là bản chất của bạn. Cái cây kia là cao siêu,
tảng đá kia cũng là cao siêu. Toàn bộ sự tồn tại là thiêng liêng, cho nên làm
sao cái gì có thể là kém cỏi được? Nó là Thượng đế, tuôn trào theo hàng triệu
cách. Đâu đó Thượng đế đã trở thành cái cây, đâu đó Thượng đế đã trở thành tảng
đá, đâu đó Thượng đế đã trở thành con chim, đâu đó Thượng đế đã trở thành bạn.
Và chỉ Thượng đế tồn tại, cho nên không thể có so sánh được. Thượng đế là cao
siêu, nhưng không cao siêu hơn bất kì cái gì - bởi vì chỉ Thượng đế hiện hữu,
và không thể có bất kì cái gì kém cỏi.
Người tôn giáo đi tới kinh nghiệm
tính duy nhất của mình, đi tới việc kinh nghiệm tính thiêng liêng của mình, và
qua kinh nghiệm của mình về tính thiêng liêng đi tới hiểu ra tính thiêng liêng
của tất cả. Điều này là không chính trị bởi vì bây giờ không có tham vọng, bạn
chẳng có gì để chứng minh, bạn đã được chứng minh rồi; bạn không có gì để tuyên
bố, bạn đã được tuyên bố rồi. Chính bản thể bạn là việc chứng minh. Bạn hiện hữu…
thế là đủ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Do đó, nhớ điều này như là một
luật cơ bản. Nếu trong tôn giáo bạn cũng cứ so sánh, bạn đang trong chính trị,
không trong tôn giáo. Đó là lí do tại sao tất cả các tôn giáo đã trở thành
chính trị. Họ dùng thuật ngữ tôn giáo, nhưng ẩn phía dưới là chính trị. Mô ha
mét giáo là gì? Hindu giáo là gì? Ki tô giáo là gì? Họ tất cả đều là các nhóm
chính trị, tổ chức chính trị, tiến hành chính trị nhân danh tôn giáo.
Khi bạn vào đền cầu nguyện, bạn
đơn giản cầu nguyện hay bạn so sánh? Nếu ai đó khác đang cầu nguyện ở đó, liệu
so sánh có nảy sinh trong tâm trí bạn không? Bạn có tự hỏi liệu người đó có cầu
nguyện tốt hơn bạn hay không, hay liệu bạn có cầu nguyện tốt hơn người đó hay
không? Thế thì đền đài không còn có đó nữa. Đền đài đã biến mất, nó đã trở
thành chính trị.
Trong tôn giáo so sánh là không
thể có; bạn đơn giản cầu nguyện, và lời cầu nguyện trở thành bản thể bên trong
của bạn. Nó không phải là cái gì đó bên ngoài để được so sánh. Lời cầu nguyện
không so sánh được này, việc thiền không so sánh được này, sẽ đưa bạn tới cái
cao siêu, bản chất của tất cả sự tồn tại.
Phật nói: Đừng tham vọng, bởi vì qua tham vọng
bạn bao giờ cũng sẽ vẫn còn kém cỏi. Hãy không tham vọng và đạt tới cái cao
siêu thực chất của bạn. Nó là cái thực chất. Nó không phải chứng minh, hay đạt
tới, bạn đã có nó rồi, bạn đã được nó. Nó đã có đó - nó bao giờ cũng cùng bạn
và nó bao giờ cũng sẽ còn lại với bạn. Chính bản thể của bạn là cao siêu nhưng
bạn không biết bản thể nào đang có đó. Bạn không biết bạn là ai. Do đó mới có
biết bao nỗ lực trong việc tìm kiếm căn cước bạn, trong việc truy tìm, trong việc
chứng minh rằng bạn là cao siêu hơn người khác. Bạn không biết mình là ai.
Một khi bạn biết, thế thì không
có vấn đề gì. Bạn đã là cao siêu rồi. Và cũng không chỉ bạn là cao siêu - mọi
thứ đều là cao siêu. Toàn bộ sự tồn tại là cao siêu không cái gì kém cỏi cả, bởi
vì Thượng đế là một, sự tồn tại là một. Kém cỏi và cao siêu không thể tồn tại.
Tâm trí không tham vọng nhận ra điều này.
---------------------------
Bây giờ ta hãy xem các lời của
Trang Tử. Sự kiện đẹp đẽ này thực sự đã xảy ra. Trang Tử đang trên đường tới
kinh đô và vị thừa tướng trở nên sợ hãi. Ông ấy phải đã nghe tin rằng Trang Tử
sắp tới qua cảnh sát bí mật, tay chân thân tín. Và chính khách thì bao giờ cũng
sợ hãi, bởi vì mọi người đều là kẻ thù của họ, thậm chí bạn bè cũng là kẻ thù,
và người ta phải tự bảo vệ cả với bạn bè bởi vì họ nữa cũng cố gắng kéo bạn xuống.
Nhớ lấy, không ai là bạn bè cả.
Trong chính trị, mọi người đều là kẻ thù. Tình bạn chỉ là mẽ ngoài. Trong tôn
giáo không có ai là kẻ thù cả. Trong tôn giáo không thể nào có kẻ thù được;
trong chính trị thì không thể nào có bạn bè được.
Thừa tướng trở nên sợ hãi bởi
vì Trang Tử sắp tới. Trang tử cao siêu đến mức thừa tướng cứ nghĩ rằng ông ấy
có thể cố gắng trở thành thừa tướng. Đó là tình huống không dễ chịu gì. Và tất
nhiên Trang Tử cao siêu thật, không cao siêu trong so sánh với bất kì ai khác,
ông ấy đơn giản cao siêu. Đó là thực chất.
Khi một người như Trang Tử đi,
ông ấy là vua; dù ông ấy đang sống như kẻ ăn xin hay không, điều đó không khác
biệt. Ông ấy là vua bất kì khi nào ông ấy di chuyển. Tư thế vua không phải là
cái gì đó bên ngoài của ông ấy, nó là cái gì đó bên trong.
Một nhà sư khất thực từ Ấn Độ
sang Mĩ vào đầu thế kỉ này; tên ông ấy là Ramateertha. Ông ấy quen gọi mình là
Hoàng đế. Tổng thống Mĩ tới gặp ông ấy, và nhìn một cách ngỡ ngàng. Ông ta chỉ
là một kẻ ăn xin! Tổng thống hỏi, “Tôi không thể hiểu nổi: tại sao ông tự gọi
mình là Hoàng đế? Ông trông như kẻ ăn xin. Ông thậm chí còn viết một cuốn sách
gọi là Sáu luật của Hoàng đế Ram. Sao vậy?”
Ramateertha cười to và nói,
“Ông nhìn vào bên trong tôi đây, vương quốc của tôi thuộc vào thế giới bên
trong. Nhìn vào tôi đây. Tôi là hoàng đế. Vương quốc của tôi không phải là thế
giới này.”
Bởi vì điều này, Jesus đã bị
đóng đinh trên cây thập tự. Ông ấy bao giờ cũng nói, “Ta là vua.” Ông ấy đã bị
hiểu lầm. Người đang là vua, Herod, trở nên cảnh giác. Phó vương, Pontius
Pilate, đã nghĩ rằng Jesus là nguy hiểm, bởi vì ông ấy đã nói về vương quốc và
nhà vua, và ông ấy đã tuyên bố, “Ta là vua của người Do thái.” Ông ấy đã bị hiểu
lầm. Ông ấy đang nói về một kiểu vương quốc khác không phải là thế giới này.
Khi ông ấy bị đóng đinh, lính
chế giễu ông ấy, ném đá và giầy vào ông ấy, và chỉ để nhạo báng ông ấy, họ đặt
một vương miện gai lên đầu ông ấy với những lời: vua của người Do thái. Và khi
họ ném đá và giầy vào ông ấy họ nói, “Nào, nói cho chúng tao đôi điều về vương
quốc đi, nói điều gì đó, mi là vua của người Do thái!”
Ông ấy đang nói về một vương quốc
nào đó khác, không phải thế giới này; rằng vương quốc đó không phải ở bên
ngoài, rằng vương quốc đó là ở bên trong. Nhưng bất kì khi nào một người như
Jesus bước đi, ông ấy cũng là hoàng đế. Ông ấy không thể đừng được việc đó. Ông
ấy không cạnh tranh với bất kì ai, ông ấy không khao khát bất kì vương miện nào
của thế giới này, nhưng bất kì nơi nào ông ấy tới, những người tham vọng đều trở
nên sợ hãi, các chính khách trở nên sợ hãi. Con người này là nguy hiểm, bởi vì
chính khuôn mặt, đôi mắt, cách ông ấy bước, chỉ ra rằng ông ấy là hoàng đế. Ông
ấy không cần phải chứng minh điều đó, ông ấy là việc chứng minh. Ông ấy không cần
thốt ra điều đó, không cần nói về nó.
Cho nên khi thừa tướng nghe
thám tử bí mật, người tâm phúc, nói rằng Trang Tử sắp tới, ông ta nghĩ ngay
Trang Tử phải tới kinh đô để đoạt ngôi vị ông ta; nếu không tại sao tới? Người
ta chỉ tới thủ đô vì điều đó. Người ta chưa bao giờ tới Delhi vì bất kì cái gì
khác. Người ta tới thủ đô bởi vì tham vọng, trong việc tìm kiếm bản ngã, căn cước.
Tại sao ông ta tới - một thầy đồ, một kẻ ăn xin? Nhu cầu tới kinh đô của ông ấy
là gì? Ông ấy phải tới để đoạt ngôi vị của ta, chiếc ghế của ta. Ông ấy phải tới
nhà vua để nói, “Thần mới là người đúng. Xin bệ hạ cho thần làm thừa tướng và
thần sẽ đưa mọi sự sai về chỗ phải. Thần sẽ giải quyết tất cả các vấn đề của bệ
hạ.”
Và con người này có niềm vinh
quang bao quanh mình, có sức thu phục. Thừa tướng trở nên sợ hãi. Thừa tướng
bao giờ cũng kém cỏi. Sâu bên dưới phức cảm tự ti có đó, giống như bệnh tật, giống
như con sâu gặm nhấm trái tim, bao giờ cũng sợ người cao siêu.
Huệ Tử làm thừa tướng nước Lương. Có kẻ nói
với ông ta rằng Trang Tử định qua đó để cùng ông ấy tranh ngôi thừa tướng.
Chính khách không thể nghĩ khác
được. Điều đầu tiên cần phải hiểu là ở chỗ người ta thường suy bụng ta ra bụng
người. Bạn ham muốn, tham vọng riêng của bạn cho bạn hình mẫu. Nếu bạn theo đuổi
tiền bạc, bạn nghĩ rằng mọi người đều theo đuổi tiền bạc cả. Nếu bạn là kẻ cắp,
bạn thường kiểm tra ví của mình: đấy là cách bạn chứng tỏ rằng mình là kẻ cắp.
Ham muốn bên trong của bạn là ngôn ngữ của hiểu biết của bạn. Chính khách bao
giờ cũng nghĩ dưới dạng âm mưu, mưu đồ: Ai đó định thoán đoạt mình, ai đó định
gạt bỏ mình… Bởi vì đó là điều họ đã làm, đó là điều họ đã từng làm trong mọi
kiếp sống, âm mưu. Chính khách là những kẻ mưu đồ. Đó là ngôn ngữ của họ. Và bạn
nhìn vào người khác qua tâm trí mình, bạn phóng chiếu lên người khác những điều
ẩn sâu bên trong bạn. Huệ Tử nghĩ, “Tên Trang Tử này đang âm mưu đoạt ngôi vị của
ta.”
Khi Trang Tử tới thăm ông ta,
thừa tướng đã sai người tới lùng xét bắt ông ấy. Nhưng mặc dầu đã lùng xét ba
ngày ba đêm vẫn không tìm được ông ấy. Điều này thật là tuyệt!
Cảnh sát chỉ có thể tìm ra kẻ cắp
- họ hiểu lẫn nhau. Tâm trí của cảnh sát và tâm trí của kẻ cắp là không khác
nhau - kẻ cắp đang phục vụ chính phủ là cảnh sát. Tâm trí họ, cách nghĩ của họ
là như nhau, chỉ có chủ của họ là khác. Kẻ cắp phục vụ cho riêng mình, cảnh sát
phục vụ cho nhà nước - nhưng cả hai đều là kẻ cắp. Đó là lí do tại sao cảnh sát
có thể bắt được kẻ cắp. Nếu bạn cử thánh nhân đi tìm kẻ cắp, ông ta sẽ không thể
tìm thấy được, bởi vì ông ta sẽ nhìn vào người khác qua tâm trí của mình.
Một giáo sĩ Do thái bước ngang
qua một thanh niên trong ngày lễ tôn giáo. Anh thanh niên này đang hút thuốc và
hút thuốc bị cấm trong ngày đó. Cho nên giáo sĩ dừng anh ta lại và hỏi, “Anh bạn
trẻ, anh có biết rằng hôm nay là ngày tôn giáo, và anh không nên hút thuốc
không?”
Chàng thanh niên nói, “Có chứ,
tôi biết là hôm nay là ngày tôn giáo. “ Anh ta vẫn hút thuốc - không chỉ có thế,
anh ta còn phả khói thuốc vào mặt giáo sĩ.
Giáo sĩ hỏi, “Anh không biết rằng
hút thuốc là bị cấm sao?”
Chàng thanh niên nói một cách
ngạo mạn, “Có chứ, tôi biết nó bị cấm đấy.” Và anh ta lại tiếp tục hút thuốc.
Giáo sĩ nhìn lên trời và nói,
“Thưa cha, chàng thanh niên này thật hay. Anh ta có thể phá luật, nhưng không
ai buộc anh ta nói dối được. Anh ta là người chân thật. Anh ta nói: Có chứ, tôi
biết hôm nay là ngày tôn giáo, và có chứ, tôi biết điều đó là bị cấm. Nhớ lấy,
tới ngày phán xử, rằng người thanh niên này không thể nào bị buộc để nói dối được.”
Đây là vị giáo sĩ tuyệt vời.
Đây là tâm trí của thánh nhân. Ông ấy không thể thấy cái sai, ông ấy bao giờ
cũng thấy cái đúng.
Cảnh sát không thể nào tìm thấy
Trang Tử được, điều đó là không thể được. Họ có thể đã tìm thấy ông ấy nếu ông ấy
là người tham vọng, nếu ông ấy có mưu đồ, nếu ông ấy đang nghĩ dưới dạng chính
trị - thế thì ông ấy có thể đã bị bắt. Cảnh sát phải đã nhìn vào nơi mà không
có ông ấy, và con đường của họ phải đã đan chéo nhau nhiều lần. Nhưng ông ấy là
kẻ ăn xin, người không tham vọng. Ông ấy không mưu đồ. Ông ấy không có tâm trí
mưu đồ, ông ấy giống như cơn gió thoảng. Cảnh sát tìm kiếm và tìm kiếm nhiều
ngày không thể tìm thấy ông ấy.
Bạn chỉ có thể tìm thấy cái mà
là bạn. Bạn bao giờ cũng tìm thấy bản thân mình trong người khác, bởi vì người
khác chỉ là tấm gương. Để bắt Trang Tử, một Lão Tử là cần thiết. Không ai khác
có thể bắt được ông ấy, vì ai có thể hiểu ông ấy? Một Phật là cần thiết; Phật sẽ
gợi ý nơi ông ấy đang ở. Nhưng cảnh sát sao? - không thể được! Chỉ nếu ông ấy
là kẻ cắp thì điều đó mới có thể. Nhìn vào cảnh sát mà xem, cách thức anh ta hiện
hữu, cách thức anh ta nói, ngôn ngữ bẩn thỉu anh ta dùng; điều đó thậm chí còn
tục tĩu hơn cả ngôn ngữ của kẻ cắp. Cảnh sát phải tục tĩu hơn kẻ cắp, nếu không
thì kẻ cắp sẽ thắng.
Có lần một người bị cảnh sát bắt
và quan toà hỏi, “Nói cho ta biết, khi nào anh bị bắt, cảnh sát đã nói gì với
anh?”
Người này nói, “Liệu tôi có thể
nhắc lại cùng những lời tục tĩu anh ta đã dùng tại toà được không? Các vị sẽ
không bực mình chứ? Điều đó có thể làm các vị choáng váng.”
Quan toà nói, “Bỏ ngôn ngữ tục
tĩu đi nhưng nói cho chúng tôi điều anh ta đã nói.”
Người này nghĩ rồi nói, “Thế
thì… cảnh sát chẳng nói gì cả.”
Cảnh sát quay lại với Huệ Tử và
báo cáo rằng họ không thể tìm thấy Trang Tử. Không có người như vậy.
Họ phải đã hoạ nên một bức
tranh, một cách nào đó để định căn cước ông ấy, một ý tưởng nào đó về cách tìm
ra ông ấy, bắt ông ấy, kiểu cách của ông ấy. Nhưng Trang Tử không có căn cước,
ông ấy không có khuôn mặt. Khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia ông ấy là một luồng,
chất lỏng. Khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia ông ấy phản xạ, đáp ứng với sự tồn
tại. Ông ấy không có chỗ lưu lại cố định, ông ấy vô gia cư, không có mặt. Ông ấy
không có tên. Ông ấy không là quá khứ, ông ấy bao giờ cũng là hiện tại, và tất
cả ảnh chụp đều thuộc về quá khứ.
Điều đó là đẹp và có nghĩa. Mặc
dầu nó có vẻ ngớ ngẩn, nhưng nó nói lên rằng bạn không thể chụp ảnh một người
như Phật. Không phải là bạn không thể chụp ảnh ông ấy - nhưng khoảnh khắc việc
chụp ảnh có đó, Phật đã đi rồi. Cho nên bức ảnh bao giờ cũng là về quá khứ và
không bao giờ về hiện tại cả. Bạn không thể bắt được khuôn mặt hiện tại của Phật.
Khoảnh khắc bạn bắt lấy nó, nó đã trôi qua. Khoảnh khắc bạn hiểu, nó đã qua rồi.
Một trong các tên của Phật là
Tathagata - Như Lai. Từ này thực sự là tuyệt vời; nó có nghĩa là, giống như gió
ông ấy tới và ông ấy đi. Vậy tới như gió và vậy đi. Bạn không thể chụp được ảnh
gió, cơn gió thoảng. Trước khi bạn bắt được nó, nó đã đi rồi, nó không còn nữa.
Trang Tử không thể được tìm thấy
bởi vì cảnh sát tìm quá khứ của ông ấy còn ông ấy lại sống trong hiện tại. Ông ấy
là bản thể, không phải tâm trí. Tâm trí có thể bị bắt giữ nhưng bản thể thì
không thể bị bắt. Không có lưới nào. Tâm trí có thể bị bắt rất dễ dàng, và bạn
tất cả đều bị bắt theo cách này hay cách khác. Bởi vì bạn có tâm trí, vợ, chồng
sẽ bắt lấy bạn; cửa hàng, kho báu, chức vụ, bất kì cái gì cũng sẽ bắt giữ bạn.
Có những cái lưới, hàng triệu cái lưới. Và bạn không thể được tự do chừng nào bạn
chưa tự do khỏi tâm trí. Bạn sẽ còn bị bắt đi bắt lại. Nếu bạn bỏ vợ này, người
đàn bà khác sẽ bắt bạn ngay lập tức. Bạn không thể trốn thoát được. Bạn có thể
thoát người đàn bà này, nhưng bạn không thể thoát phụ nữ. Bạn có thể thoát người
đàn ông này, nhưng bạn sẽ đi đâu? Ngay khi bạn rời khỏi người này người khác đã
bước vào cuộc sống của bạn. Bạn có thể bỏ thành phố này, nhưng bạn sẽ đi đâu?
Thành phố khác sẽ bắt bạn. Bạn có thể bỏ ham muốn này nhưng ham muốn khác sẽ trở
thành tù túng. Tâm trí bao giờ cũng trong tù túng, nó đã bị bắt. Khi bạn vứt bỏ
tâm trí thế thì cảnh sát không thể bắt bạn được.
Trang Tử này không có tâm trí.
Ông ấy là kẻ ăn xin vô trí, hay hoàng đế. Điều đó có cùng nghĩa. Ông ấy không
thể bị bắt.
Khi Trang Tử tới nước Lương, Huệ Tử sợ, cho
kẻ lùng xét trong nước ba ngày ba đêm nhưng không bắt được Trang Tử. Sau đó
Trang Tử thu xếp tới gặp Huệ Tử bảo:
Trong khi đó, vào ngày thứ ba
hay thứ tư Trang Tử thu xếp để tới gặp Huệ Tử và nói, “Kiểu người như ta, Trang
Tử, không thể bị bắt được. Người đó bao giờ cũng xuất hiện theo ý của mình. Đấy
là tự do của người đó. Ông không thể bắt được người đó, ông chỉ có thể mời người
đó. Người đó được tự do để xuất hiện hay không.”
Khi có tâm trí, bạn bao giờ
cũng bị bắt. Tâm trí bó buộc bạn, bạn là tù nhân của nó. Khi có vô trí, bạn tự
do: bạn có thể xuất hiện, bạn có thể biến mất theo ý của bạn. Đấy là tự do
riêng của bạn.
Nếu tôi đang nói cho các bạn, đấy
không phải bởi vì bạn đã hỏi câu hỏi, đấy là theo ý riêng của tôi. Nếu tôi làm
việc với bạn, đấy không phải là vì bạn, đấy là ý tôi. Khi có vô trí thì có tự
do. Tâm trí là cơ sở cho tất cả mọi cảnh nô lệ.
Trang Tử xuất hiện theo ý mình
và kể lại một chuyện ngụ ngôn hay. Lắng nghe từ cốt lõi sâu sắc nhất của trái
tim bạn đi.
“Phương Nam có con chim tên là Uyên Sồ, không
bao giờ già, ông có biết không?
Một chuyện huyền thoại Trung quốc,
nó thật hay và mang nhiều nghĩa. Huyền thoại không phải là chân lí, nhưng nó lại
chân lí hơn bất kì chân lí nào. Huyền thoại là ngụ ngôn, nó chỉ ra điều gì đó
mà không thể chỉ ra được theo cách khác. Chỉ thông qua ngụ ngôn, thông qua thơ
ca nó mới có thể được nói lên. Huyền thoại là thơ ca, nó không phải là mô tả.
Nó chỉ ra chân lí, thậm chí không phải là sự kiện thế giới bên ngoài; nó thuộc
về thế giới bên trong.
“Phương Nam có con chim tên là Uyên Sồ, không
bao giờ già, ông có biết không?
Với Trung quốc, Ấn Độ là phương
nam, và con chim đó sống ở đây. Tương truyền rằng khi Lão Tử biến mất, ông ấy
biến mất ở phương nam. Người ta không biết khi nào ông ấy chết… ông ấy chưa bao
giờ chết cả. Những người như vậy không bao giờ chết, họ đơn giản đi về phương
nam - họ biến mất vào trong Ấn Độ.
Tương truyền rằng Bồ đề đạt ma
tới từ phương nam. Ông ấy rời khỏi Ấn Độ, và đi tìm đệ tử để ông ấy truyền trao
kho báu của Phật. Sau chín năm chờ đợi, ông ấy đã có thể truyền trao nó và
tương truyền rằng thế rồi ông ấy biến mất lần nữa về phương nam. Ấn Độ là
phương nam của Trung quốc. Thực sự, Ấn Độ là ngọn nguồn của mọi huyền môn;
không huyền môn nào tồn tại trên toàn thế giới này không nảy sinh từ đây.
Khoa học nảy sinh từ tâm trí Hi
Lạp, huyền thoại nảy sinh từ tâm trí Ấn Độ. Và chỉ có hai cách nhìn vào thế giới:
một là khoa học, cách kia là tôn giáo. Nếu bạn nhìn vào thế giới qua khoa học,
đấy là nhìn qua phân tích, toán học, logic.
Athens, tâm trí Hi Lạp, cho thế
giới này khoa học, phương pháp Socrates về phân tích, logic và hoài nghi. Tôn
giáo là hình mẫu hoàn toàn khác của việc nhìn vào thế giới. Nó nhìn vào thế giới
qua thơ ca, qua huyền thoại, qua tình yêu. Tất nhiên, nó là lãng mạn. Nó không
thể cho bạn các sự kiện, nó sẽ chỉ cho bạn tưởng tượng. Nhưng tôi nói tưởng tượng
còn thực hơn bất kì sự kiện nào, bởi vì chúng cho bạn cái cốt lõi bên trong nhất,
chúng không bận tâm tới sự kiện bên ngoài. Do đó, Ấn Độ không có lịch sử. Nó chỉ
có huyền thoại, Puranas, không Itihas, không lịch sử.
Rama không phải là nhân vật lịch
sử. Ông ấy có thể đã có hay có thể đã không có, điều đó không thể chứng minh được.
Krishna là huyền thoại, không phải là sự kiện lịch sử. Có thể ông ấy đã hiện hữu,
có thể ông ấy không hiện hữu. Nhưng Ấn Độ không bận tâm liệu Krishna và Rama có
là nhân vật lịch sử hay không. Họ là có nghĩa, họ là thiên sử thi vĩ đại. Còn lịch
sử là vô nghĩa với Ấn Độ bởi vì lịch sử chứa chỉ những sự kiện trần trụi, nó
chưa bao giờ để lộ ra cốt lõi bên trong nhất. Chúng ta quan tâm tới cốt lõi bên
trong nhất, trung tâm của bánh xe. Bánh xe cứ quay, đó là lịch sử, nhưng trung
tâm của bánh xe, cái không bao giờ chuyển động, là huyền thoại.
Trang Tử nói:
“Phương Nam có con chim tên là Uyên Sồ, không
bao giờ già, ông có biết không?
Tất cả những gì có sinh ra đều
già đi. Lịch sử không thể tin vào con chim này được, bởi vì lịch sử có nghĩa là
sự bắt đầu và sự kết thúc, lịch sử có nghĩa là khoảng cách giữa sinh và tử. Và
khoảng cách giữa bất sinh và bất tử là huyền thoại.
Rama chẳng hề sinh và chẳng hề
diệt. Krishna chẳng hề sinh và chẳng hề diệt. Họ bao giờ cũng có đó. Huyền thoại
không bận tâm tới thời gian, nó quan tâm tới vĩnh hằng. Lịch sử thay đổi với thời
gian, huyền thoại bao giờ cũng có liên quan. Không, huyền thoại chẳng bao giờ
cũ cả. Báo chí là lịch sử, và báo hôm qua là đã cũ rồi. Rama không phải là một
phần của báo chí, ông ấy không phải là tin tức, và ông ấy sẽ không bao giờ cũ cả.
Ông ấy bao giờ cũng trong hiện tại, bao giờ cũng có nghĩa, có liên quan. Lịch sử
thường thay đổi, Rama vẫn còn ở trung tâm của bánh xe, không chuyển động.
Trang Tử nói:
“Phương Nam có con chim tên là Uyên Sồ, không
bao giờ già, ông có biết không?
Bạn đã bao giờ thấy bức tranh về
Rama hay Krishna vẽ về tuổi già của họ chưa? Họ bao giờ cũng trẻ trung, thậm
chí không có râu mép hay râu cằm. Bạn đã bao giờ thấy bức tranh Rama có râu
không? Trừ phi ông ấy bị khuyết tật hoóc môn bằng không thì chúng phải mọc ra
chứ; nếu ông ấy thực sự là đàn ông - và ông ấy quả thế - thế thì râu phải mọc
chứ. Nếu Rama thuộc vào lịch sử, thế thì râu phải có đó; nhưng chúng ta đã vẽ
ông ấy không râu, bởi vì khoảnh khắc râu mọc, bạn đã bắt đầu già đi. Chẳng
chóng thì chầy nó sẽ trở thành trắng. Cái chết tới gần và chúng ta không thể chịu
được việc nghĩ tới Rama chết, cho nên chúng ta đã xoá sạch hoàn toàn trên khuôn
mặt ông ấy mọi dấu hiệu của cái chết. Và điều này không chỉ thế với Rama; cả
hai mươi bốn tirthankaras của người Jaina cũng đều không râu cằm, không râu
mép. Phật và tất cả các avatars của người Hindu cũng không râu cằm, râu mép. Điều
đó chỉ ra sự trẻ trung vĩnh viễn của họ, cái vĩnh hằng, cái vô thời gian, cái
xa xăm.
“Uyên Sồ, không bao giờ già, ông có biết
không?”
Có thời gian - trong thời gian
mọi sự thay đổi - và có cái vĩnh hằng. Trong cái vĩnh hằng không có gì thay đổi
cả. Lịch sử thuộc về thời gian, huyền thoại thuộc về vĩnh hằng. Khoa học thuộc
về thời gian, tôn giáo thuộc về cái không thời gian, cái vĩnh viễn.
Trong bạn cũng vậy, cả hai đều
tồn tại - thời gian và vĩnh hằng. Trên bề mặt, bạn là bánh xe, thời gian: bạn
được sinh ra, bạn sẽ chết đi, nhưng đây chỉ là trên bề mặt. Bạn đang trẻ trung,
bạn sẽ già đi. Bạn đang mạnh khoẻ, bạn sẽ ốm yếu. Bây giờ bạn tràn đầy cuộc sống,
chẳng chóng thì chầy mọi thứ sẽ tàn tạ, cái chết sẽ thấm vào bạn. Nhưng điều
này chỉ là trên bề mặt, bánh xe của lịch sử. Sâu bên dưới ngay bây giờ trong bạn
cái vĩnh hằng tồn tại, cái vô thời gian tồn tại. Không có gì già đi cả - con
chim Uyên Sồ, phương nam, Ấn Độ, cái vĩnh viễn. Không cái gì già đi, không cái
gì thay đổi, mọi thứ đều không chuyển động. Phương nam đó ở bên trong bạn.
Đó là lí do tại sao tôi lại thường
nói rằng Ấn Độ không phải là một phần của địa lí, nó không phải là một phần của
lịch sử, nó là một phần của bản đồ bên trong. Nó không tồn tại ở Delhi, nó chưa
bao giờ tồn tại ở đó cả. Chính khách không thuộc vào nó; nó không thuộc vào
chính trị. Nó là cái bên trong. Nó tồn tại ở mọi nơi.
Bất kì khi nào một người đi sâu
xuống vào trong mình, người đó đạt tới Ấn Độ. Đó là lí do cho sự hấp dẫn vĩnh
viễn, cho từ lực, của Ấn Độ. Bất kì khi nào một người trở nên bứt rứt với cuộc
sống của mình, người đó đều hướng tới Ấn Độ. Đây chỉ là biểu tượng. Qua chuyển
động vật lí bạn sẽ không tìm thấy Ấn Độ. Chuyển động khác là cần tới, nơi bạn bắt
đầu đi từ bên ngoài vào bên trong, tới phương nam, tới mảnh đất của huyền thoại,
và bất tử, con chim Uyên Sồ không tuổi - con chim Uyên Sồ không bao giờ già.
Uyên Sồ từ biển Nam bay qua biển Bắc, chỉ hạ
cánh xuống cây thiêng liêng nếu không gặp hột luyện không ăn, nếu không gặp suối
ngọt thì không uống.
Linh hồn này, cái cốt lõi bên
trong nhất này của bản thể bạn, chưa bao giờ hạ xuống ngoại trừ trên những cái
cây thiêng liêng, con chim bên trong này, đây là bản thể bạn. Nó chỉ hạ xuống
trên những cây thiêng liêng nào đó.
…nếu không gặp hột luyện không ăn, nếu
không gặp suối ngọt thì không uống. Có con chim cú đang rỉa xác chuột chù, thấy
Uyên Sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn, bèn kêu to lên để doạ Uyên Sồ đừng đáp
xuống.
Trang Tử đang nói: Ta là con
chim Uyên Sồ, còn ông chỉ là con cú đang rỉa xác chuột chù. Và ông la lên rằng
ta tới để đoạt ngôi vị thừa tướng của ông. Ngôi vị của ông, quyền lực của ông chẳng
là gì đối với ta ngoài con chuột chết. Đấy không phải là thức ăn cho ta. Tham vọng
không phải là cách sống, nó chỉ dành cho những người đã chết. Ta đã nhìn vào
tham vọng, và ta đã thấy nó vô dụng.
Có lần một phụ nữ tới than vãn
và khóc lóc với một giáo sĩ, nhưng vị giáo sĩ này lại đang cầu nguyện. Thế là
cô ta nói với viên thư kí, “Xin ông hãy vào, và cho dù việc cầu nguyện của ông ấy
có phải bị ngắt đoạn, xin ông cứ ngắt ra. Chồng tôi đã bỏ tôi. Tôi muốn ông
giáo sĩ này tới cầu nguyện cho chồng tôi quay lại.”
Viên thư kí đi vào và ngắt đoạn
việc cầu nguyện. Viên giáo sĩ nói, “Bảo cô ấy, đừng lo, chồng cô ấy sẽ sớm trở
về thôi.”
Viên thư kí quay ra chỗ người
phụ nữ và nói, “Đừng lo, đừng buồn. Ông giáo sĩ nói rằng chồng cô sẽ sớm quay
trở lại. Cứ về nhà và thoải mái.”
Sung sướng, người phụ nữ này đi
về, nói, “Thượng đế sẽ thưởng cho ông giáo sĩ hàng triệu lần hơn, ông ấy tốt thế.”
Nhưng khi người phụ nữ này đi rồi,
viên thư kí trở nên buồn rầu, và bảo với ai đó đang đứng đó rằng điều này chẳng
ích gì. Chồng cô ấy không thể nào quay lại, người phụ nữ đáng thương, và cô ấy
lại bỏ đi sung sướng thế.
Người đứng bên nói, “Nhưng tại
sao? Ông không tin vào ông giáo sĩ và lời cầu nguyện của ông ấy sao?”
Viên thư kí nói, “Tất nhiên là
tôi tin vào ông giáo sĩ và tôi tin vào lời cầu nguyện của ông ấy. Nhưng ông ấy
chỉ thấy cầu xin của người phụ nữ này, còn tôi thì đã thấy khuôn mặt cô ấy. Chồng
cô ấy không bao giờ có thể quay lại.”
Người đã thấy khuôn mặt của
tham vọng, người đã thấy khuôn mặt của ham muốn, người đã thấy khuôn mặt của
thèm khát, sẽ không bao giờ quay lại với chúng nữa. Điều đó là không thể được,
khuôn mặt đó xấu thế.
Trang Tử đã thấy khuôn mặt của
tham vọng. Đó là lí do tại sao ông ấy nói: Quyền lực của ông, địa vị của ông,
cái ngôi vị thừa tướng của ông, chỉ là con chuột chết đối với ta. Đừng hét thất
thanh lên, và đừng mất tinh thần.
“Uyên Sồ từ biển Nam bay qua biển Bắc, chỉ
hạ cánh xuống cây thiêng liêng nếu không gặp hột luyện không ăn, nếu không gặp
suối ngọt thì không uống. Có con chim cú đang rỉa xác chuột chù, thấy Uyên Sồ
bay ngang, sợ nó giành miếng ăn, bèn kêu to lên để doạ Uyên Sồ đừng đáp xuống. Nay
vì sợ cái ngôi thừa tướng của ông ở nước Lương, nên ông kêu lên để doạ tôi
sao?”
Đây là sự kiện, nhưng chỉ khi bạn
biết nó… chỉ thế thì bạn mới có thể hiểu. Lắng nghe một Phật, hay một Jesus,
hay một Zarathustra, bạn bao giờ cũng được bảo: Vứt bỏ ham muốn và phúc lạc sẽ
là của bạn. Nhưng bạn không thể vứt bỏ nó được, bạn không thể hiểu làm sao phúc
lạc lại có thể xảy ra khi bạn loại bỏ ham muốn, bởi vì bạn đã nếm trải chỉ ham
muốn. Nó có thể là chất độc, nhưng nó đã từng là thức ăn duy nhất của bạn. Bạn
đã uống từ những nguồn có chất độc, và khi ai đó nói, “Vứt nó đi,” bạn sợ rằng
bạn sẽ chết khát. Bạn không biết rằng có dòng suối trong trẻo, thuần khiết và bạn
không biết rằng có những cây với quả hiếm. Bạn chỉ nhìn qua ham muốn của mình,
cho nên bạn không thể thấy những quả đó và những cây đó.
Khi mắt bạn tràn đầy với những
ham muốn, chúng chỉ thấy chuột chết. Ramakrishna hay nói: Có những người không
thể thấy được bất kì cái gì khác hơn những đối tượng của khao khát của họ. Con
cú này có thể đậu trên đỉnh cây cao, nhưng nó chỉ tìm chuột chết thôi. Bất kì
khi nào thấy chuột chết trên phố là cú trở nên kích động. Nó sẽ không bị kích động,
nó thậm chí không thấy nếu bạn ném cho nó một quả ngon. Nó sẽ không trở nên nhận
biết về điều đó. Thông tin chưa bao giờ đạt tới nó bởi vì ham muốn vận hành như
một nỗi ám ảnh. Vào mọi lúc, liên tục, cái đi vào bạn là những cái mà ham muốn
của bạn cho phép vào. Ham muốn của bạn giống hệt như người gác cổng đứng ở cửa
ra vào bản thể bạn. Chúng chỉ cho phép những cái hấp dẫn chúng đi vào.
Thay người gác cổng này đi; nếu
không bạn bao giờ cũng sẽ sống với chuột chết. Bạn sẽ vẫn còn là con cú, và đó
là khổ, bởi vì sâu bên trong bạn, Uyên Sồ vẫn còn ẩn kín và bạn hành xử như con
cú. Đó là sự bất mãn. Đó là lí do tại sao bạn chưa bao giờ có thể cảm thấy thoải
mái, đó là lí do tại sao bạn chưa bao giờ cảm thấy phúc lạc. Làm sao Uyên Sồ có
thể cảm thấy phúc lạc với chuột chết được? Nó bao giờ cũng xa lạ, và đây không
phải là thức ăn đúng cho nó.
Và điều này bạn đã cảm thấy nhiều
lần. Làm tình với người đàn bà hay đàn ông, bạn đã cảm thấy nhiều lần rằng điều
này không dành cho bạn. Con Uyên Sồ khẳng định mình nhưng con cú lại rất ầm ĩ.
Con Uyên Sồ không thể được nghe thấy, tiếng của nó rất tinh tế và im lặng,
không hùng hổ. Trong những khoảnh khắc an bình và thiền con Uyên Sồ nói, “Mình
làm gì thế này? Điều này không phải cho mình. Mình đang ăn gì vậy? Điều này
không phải cho mình. Mình đang uống gì vậy? Điều này không phải cho mình.”
Nhưng con cú lại rất ầm ĩ và bạn
đã tin vào con cú lâu đến mức bạn theo nó hệt như thói quen. Nó đã trở thành
thói quen chết. Bạn đơn giản theo nó, bởi vì nó là con đường dễ nhất. Đường mòn
có đó. Bạn không phải làm gì cả. Bạn đơn giản đi theo đường mòn, bạn cứ chạy
trong vòng tròn - cùng ham muốn ấy, cùng thèm khát ấy, cùng tham vọng ấy. Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên là bạn sống trong đau khổ, bạn sống trong ác mộng.
Để Trang Tử bên trong tự khẳng
định mình đi, để con Uyên Sồ bên trong tự khẳng định mình. Lắng nghe nó, nó là
tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng. Bạn sẽ phải bình thản lại, bạn sẽ phải cho con cú
này đi ngủ; chỉ thế thì bạn mới có khả năng lắng nghe. Con cú này là bản ngã,
là tâm trí, Uyên Sồ là linh hồn. Nó được sinh ra từ phương nam, từ biển cả, nó
không phải là một phần của đất liền. Nó không sinh ra từ bùn, nó sinh ra từ biển
cả bao la. Nó chưa bao giờ già, nó không bao giờ chết. Nó hạ cánh chỉ trên những
cây thiêng liêng, hiếm hoi, chỉ ăn hột luyện, chỉ uống suối ngọt. Những suối
này có đó, những cây thiêng liêng này có đó. Bạn đã lỡ chúng bởi vì con cú, và
con cú đã trở thành người lãnh đạo.
Tất cả thiền không là gì ngoài
nỗ lực làm con cú này im lặng đi để cho tiếng nói nhỏ bé tĩnh lặng có thể được
nghe thấy. Thế thì bạn sẽ thấy điều bạn đã từng làm - rỉa chuột chết.
Trang Tử là phải. Thừa tướng mất
tinh thần không cần thiết. Khi bạn, Uyên Sồ bên trong của bạn, tới sống cuộc sống
của nó, con cú, thừa tướng, ngay ban đầu sẽ rất mất tinh thần. Tâm trí bạn sẽ tạo
ra mọi kiểu chống đối thiền bởi vì tâm trí này sợ hãi, thừa tướng sợ hãi -
Trang Tử này, tính chất thiền này, đang tới để đoạt ngôi của ông ta.
Tâm trí bạn sẽ bắt giữ con chuột
chết, và sẽ rít lên, hoảng sợ, dường như ai đó định lấy đồ ăn đó của nó. Ban đầu
điều đó sẽ xảy ra - và bạn phải tỉnh táo và nhận biết về nó. Chỉ nhận biết của
bạn mới có ích dần dần.
Bất kì khi nào người ta bắt đầu
thiền, tâm trí trở nên nổi loạn. Nó bắt đầu mọi kiểu biện luận: Mình đang làm
gì thế này, sao mình lại mất thời gian thế? Phải dùng thời gian đi chứ! Mình có
thể đạt được nhiều lắm trong thời gian này. Ham muốn đó đã chờ đợi lâu thế mà vẫn
chưa được đáp ứng, thế bây giờ mình lại phí thời gian vào thiền. Quên nó đi. Những
người nói rằng thiền là có thể thì đang lừa mình. Những Phật này, những Trang Tử
này, chớ tin vào họ. Tin vào tâm trí, tâm trí nói. Nó tạo ra đủ mọi loại hoài
nghi về mọi người, nhưng nó chưa bao giờ tạo ra bất kì hoài nghi nào về bản
thân nó.
Tôi đã từng nghe: một người
đang nói với đứa con nhỏ của mình. Đứa bé đã viết một bức thư như một phần bài
tập về nhà và đem khoe với bố mình. Có nhiều lỗi chính tả trong đó như có ngần ấy
từ, thậm chí còn hơn. Thế là bố nó nói, “Chính tả của con thật là kinh khủng.
Sao con không nhìn vào từ điển? Khi con cảm thấy hoài nghi, nhìn vào từ điển.”
Đứa trẻ nói, “Nhưng bố ơi, con
chẳng bao giờ cảm thấy hoài nghi cả.”
Đây là điều tâm trí bạn làm. Nó
nói với Phật, “Nhưng bố ơi, con chẳng bao giờ cảm thấy hoài nghi cả.”
Tâm trí không bao giờ hoài nghi
chính nó, đó mới là vấn đề. Nó hoài nghi mọi người - nó hoài nghi thậm chí cả
Phật. Nếu như Krishna gõ cửa nhà bạn, nó sẽ hoài nghi; nếu Jesus tới, nó sẽ
hoài nghi. Nó bao giờ cũng như vậy, bạn đã làm điều đó liên tục.
Bạn hoài nghi tôi nhưng bạn
chưa bao giờ hoài nghi bản thân mình, bởi vì một khi tâm trí bắt đầu hoài nghi
chính nó thì nó đã đi ra ngoài sự tồn tại. Một khi tự hoài nghi nảy sinh, cơ sở
đã tan vỡ, tâm trí đã mất niềm tin của nó. Một khi bạn bắt đầu hoài nghi tâm
trí, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ rơi vào vực thẳm của thiền.
Baal Shem, nhà huyền môn, sắp
chết. Con ông ấy, người có tên là Hertz, là người ngây ngất, rất buồn ngủ. Trước
khi chết, Baal Shem bảo anh ta rằng đêm nay sẽ là đêm cuối cùng của ông.
Nhưng Hertz nói, “Chẳng ai có
thể biết khi nào cái chết sẽ tới.” Anh ta hoài nghi. Baal Shem là bố anh ta, và
hàng nghìn người tin rằng ông ấy là vị cứu tinh, người sẽ đưa hàng triệu người
tới cứu rỗi. Nhưng đứa con lại hoài nghi, và đêm đó anh ta cảm thấy buồn ngủ.
Anh ta tỉnh lại lúc nửa đêm. Bố anh ta đã chết. Thế rồi anh ta bắt đầu kêu
khóc. Anh ta đã bỏ lỡ một cơ hội lớn, và bây giờ sẽ không còn cơ hội nào để thấy
người bố còn sống lần nữa. Nhưng anh ta chưa hề hoài nghi tâm trí mình, anh ta
hoài nghi Baal Shem.
Trong mất tinh thần và thất vọng,
anh ta bắt đầu khóc lóc. Anh ta nhắm mắt và lần đầu tiên trong đời mình, bởi vì
bố anh ta đã mất, anh ta bắt đầu nói với ông ấy. Bố anh ta hay gọi anh ta nhiều
lần: “Hertz, lại đây với bố.” Và anh ta sẽ nói, “Vâng, con sẽ tới, nhưng trước
hết con có việc khác quan trọng hơn phải làm.”
Đây là điều tâm trí bạn đang
nói. Tôi cứ gọi bạn: “Lại đây với tôi.” Bạn nói, “Ngay bây giờ có những việc
khác quan trọng hơn. Tôi sẽ tới ngay, thầy đợi chút.”
Nhưng cái chết đã phá vỡ chiếc
cầu. Cho nên Hertz khóc và bắt đầu nói với bố mình, và anh ta nói, “Con phải
làm gì bây giờ đây? Con bị lạc. Con đang trong bóng tối. Bây giờ làm sao con có
thể vứt bỏ tâm trí này cái đã lừa dối con? Con chưa hề hoài nghi nó, và con
hoài nghi bố. Bây giờ điều đó làm con rất buồn.”
Baal Shem xuất hiện bên trong
Hertz và nói, “Nhìn bố đây. Làm như bố làm.” Hertz nhìn, như trong mơ, một linh
ảnh, rằng Baal Shem đi tới đỉnh đồi và gieo mình xuống vực thẳm. Và ông ấy nói,
“Làm như thế đi.”
Hertz nói, “Con không hiểu.” Thực
sự, hoài nghi lại nảy sinh: người này đang nói gì vậy? Điều này sẽ là tự tử.
Baal Shem cười to, và nói, “Con
vẫn còn hoài nghi bố, không hoài nghi bản thân mình. Thế thì làm điều này.”
Trong linh ảnh của mình Hertz thấy một ngọn núi lớn, tất cả đều bốc cháy, giống
như núi lửa, lửa khắp nơi, đất đá nứt ra, và toàn bộ quả núi vỡ thành từng mảnh.
Baal Shem nói, “Hay làm điều này. Để tâm trí bị ném vào vực thẳm, để tâm trí bị
thiêu cháy hoàn toàn.”
Và câu chuyện này tiếp tục với
Hertz nói, “Con sẽ nghĩ về điều đó.”
Bất kì khi nào bạn nói, “Con sẽ
nghĩ về điều đó,” bạn bắt đầu hoài nghi. Hoài nghi nghĩ, không phải bạn. Và khi
không có hoài nghi, niềm tin hành động, không phải bạn. Hoài nghi nghĩ, niềm
tin hành động. Qua hoài nghi bạn có thể trở thành một triết gia vĩ đại; qua niềm
tin bạn sẽ trở thành Trang Tử, con Uyên Sồ chưa bao giờ già, không chết. Qua
hoài nghi bạn có thể thấm vào những bí ẩn của thời gian; qua niềm tin bạn sẽ đi
vào cánh cửa của cái vĩnh hằng.
Tôi đã từng nghe về hai người
có lần bị lạc trong rừng trong đêm rất tối. Đấy là một khu rừng nguy hiểm, toàn
những thú hoang, rất rậm rạp, với bóng tối bao quanh tất cả. Một người là triết
gia còn người kia là nhà huyền môn - người này là người của hoài nghi, người
kia là người của niềm tin. Bỗng nhiên, có một cơn giông tố, chớp rạch mây, và một
cú sét thật to.
Triết gia nhìn lên trời, nhà
huyền môn nhìn vào con đường. Trong khoảnh khắc chớp loé đó, con đường ở phía
trước anh ta, sáng lên. Triết gia nhìn vào tia chớp, và bắt đầu tự hỏi, “Điều
gì đã xảy ra?” và bỏ lỡ con đường.
Bạn bị lạc trong khu rừng còn rậm
rạp hơn khu rừng của câu chuyện này. Đêm còn tối hơn. Đôi khi một tia chớp loé
lên. Nhìn vào con đường đi.
Một Trang Tử đang chớp loé, một
Phật đang chớp loé, tôi đang chớp loé đây. Bạn đừng nhìn vào tôi, nhìn vào con
đường đi. Nếu bạn nhìn vào tôi, bạn đã lỡ, bởi vì tia chớp sẽ không tiếp tục.
Nó chỉ kéo dài một khoảnh khắc, và khoảnh khắc này là hiếm hoi khi cái vĩnh hằng
thấm vào thời gian; nó cũng hệt như chớp loé.
Nếu bạn nhìn vào tia chớp, nếu
bạn nhìn vào vị phật - và vị phật thì đẹp, khuôn mặt quyến rũ, đôi mắt có từ lực
- nếu bạn nhìn vào vị phật, bạn đã lỡ con đường.
Nhìn vào con đường, quên phật
đi. Nhìn vào con đường. Nhưng cái nhìn đó xảy ra chỉ khi không có hoài nghi,
khi có niềm tin; không suy nghĩ, không tâm trí.
Trang Tử phải không được nghĩ tới
nữa. Bạn đừng nghĩ về ông ấy. Chỉ để cho câu chuyện này thấm vào bạn và quên nó
đi. Qua câu chuyện này mà con đường sáng lên. Nhìn vào con đường, và làm điều
gì đó. Đi theo con đường, hành động. Suy nghĩ sẽ không đưa bạn đi, chỉ hành động
mới đưa bạn đi, bởi vì suy nghĩ diễn ra trong đầu. Nó không bao giờ có thể trở
thành toàn bộ; chỉ khi bạn hành động, nó mới toàn bộ.